Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

  
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
Chủ đề: Tại sao Việt Nam phải thực hiện các chính sách kích cầu trong
giai đoạn 2009? So sánh chính sách kích cầu của Việt Nam, Trung quốc và mỹ? tại sao việt
nam không thực hiện gói kích cầu 2

Giảng viên hướng dẫn: ths. TRÂNF MẠNH KIÊN


Sinh viên thực hiện: nguyễn thị khánh linh
Mssv: 030839230113
Lớp d05
MỞ
ĐẦU.................................................................................................................................................
.....1
1. CƠ SỞ LÝ
LUẬN................................................................................................................................1
1.1. Khái niệm kích
cầu......................................................................................................................1
1.2. Biện pháp kích
cầu......................................................................................................................1
1.3. Tại sao phải kích
cầu ?...............................................................................................................2
TẠI SAO VIỆT NAM PHẢI THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH KÍCH
CẦU..................................2
TRONG GIAI ĐOẠN
2009?...................................................................................................................2
2.1. S2.
uy thoái kinh tế thế giới và ảnh hưởng tới Việt Nam....................................................2
2.1.1. Kinh tế thế
giới..........................................................................................................................2
2.1.2. Kinh tế Việt
Nam.......................................................................................................................3
2.2. Chính sách kích cầu của Việt Nam trong giai đoạn 2009..............................................4
2.2.1. Giới thiệu chính sách kích cầu của Việt Nam trong giai đoạn 2009.......................4
2.2.2. Những tác động của chính sách kích cầu trong giai đoạn 2009..............................5
3. So sánh chính sách kích cầu của Việt Nam, Trung Quốc và Mỹ......................................6
3.1. Chính sách kích cầu của
Mỹ.....................................................................................................6
3.2. Chính sách kích cầu của Trung Quốc....................................................................................7
3.3. So sánh chính sách kích cầu của Việt Nam , Trung Quốc và Mỹ.................................7
4. Tại sao Việt Nam không thực hiện gói kích cầu
2 ?..................................................................................8
Kết Luận
Lời mở đầu
MỞ ĐẦU
Năm 2008 thế giới rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính khủng khiếp.
Cuộc Đại suy thoái từ 1929 đến 1933. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu với cuộc khủng
hoảng cho vay địa ốc ở Mỹ, nhưng lý do sâu xa
Đó là sự mất cân bằng quốc tế ở các vùng kinh tế trụ cột nêu trên.
Các vấn đề thế giới và nội bộ của hệ thống ngân hàng mỹ và châu Âu. Cuộc suy thoái
này đã khiến nền kinh tế của nhiều nước rơi vào tình trạng khó khăn và bị thiệt hại nặng
nề.
Vậy trước sự suy thoái của nền kinh tế thế giới, tại sao Việt Nam phải
hiện các
chính sách kích cầu trong giai đoạn 2009? Tại sao Việt Nam kh thực
hiện gói kích càu 2 ? Và chính sách kích cầu của Việt Nam so với Mỹ,
Trung Quốc và Nhật Bản có gì khác và giống nhau? Bài tiểu luận này sẽ
nghiên cứu về những vấn đề đó

1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm kích cầu
Kích cầu là biện pháp đẩy mạnh chi tiêu ròng của chính phủ (hay còn
gọi là tiêu
dùng công cộng) để làm tăng tổng cầu, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Chính sách kích cầu (pum priming) là khoản chi tiêu của chính phủ
được hoạch
định để kích thích tổng cầu và thông qua hiệu ứng nhân tử, cơ chế tăng
tốc để tạo ra mức
gia tăng lớn hơn nhiều của thu nhập quốc dân.
1.2. Biện pháp kích cầu
Biện pháp kích cầu cụ thể có thể là giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc
cả hai. Kích
cầu thường chỉ được dùng khi nền kinh tế lâm vào trị trệ hay suy thoái,
đang cần vực dậy.
Theo nhà kinh tế Laurence Summers, để biện pháp kích cầu có hiệu
quả thì việc
thực hiện nó phải đảm bảo: đúng lúc, trúng đích và vừa đủ.
Đúng lúc tức là phải thực hiện kích cầu ngay khi các doanh nghiệp chưa thu hẹp sản
xuất và các hộ gia đình chưa thu hẹp tiêu dùng. Nếu thực hiện sớm quá, kích cầu có
thể làm cho nền kinh tế trở nên nóng và tăng áp lực lạm phát. Nhưng nếu thực hiện
chậm quá, thì hiệu quả của kích cầu sẽ giảm. Việc thực hiện kích cầu đúng lúc càng
phải được chú ý nếu các quá trình chính trị và hành chính để cho một gói kích cầu được
phê duyệt và triển khai là phức tạp . Thường thì chính phủ phải đệ trình quốc hội kế
hoạch kích cầu và phải được cơ quan lập pháp tối cao này thông qua. Và, không phải
lúc nào công việc này cũng suôn sẻ.
Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với việc thực hiện kích cầu đúng lúc chính là sự thiếu
chính xác trong xác định thời điểm chuyên pha của chu kỳ kinh tế. Có trường hợp kinh
tế đã chuyển hẳn sang pha suy thoái một thời gian rồi mà công tác thu thập và phân
tích số liệu thống kê không đủ khả năng phán đoán ra.
Trúng đích tức là hướng tới những chủ thể kinh tế nào tiêu dùng nhanh hơn khoản tài
chính được hưởng nhờ kích cầu và do đó sớm gây ra tác động lan tỏa tới tổng cầu hơn;
đồng thời hướng tới những chủ thể kinh tế nào bị tác động bất lợi hơn cả bởi suy thoái
kinh tế. Thường thì đó là những chủ thể kinh tế có thu nhập thấp hơn. Người có thu
nhập cao thường ít giảm tiêu dùng hơn so với người có thu nhập thấp trong thời kỳ kinh
tế quốc dân khó khăn. Việc hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp để họ không phải giảm
tiêu dùng hay thậm chí còn tăng tiêu dùng sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa, kích thích doanh
nghiệp mở rộng sản xuất và thuê mướn thêm lao động.
Để kích cầu trúng đich, các nhà hoạch định chính sách thường dựa vào các mô hình
kinh tế lượng để mô phỏng hiệu quả của gói kích cầu qua các kịch bản khác nhau
tương ướng với các mục tiêu khác nhau, từ đó tìm ra mục tiêu hợp lý nhất.
Vừa đủ tức là gói kích cầu sẽ hết hiệu lực khi nền kinh tế đã trở nên tốt hơn. Nếu gói
kích cầu quá bé thì kích thích sẽ bị hụt hơi và tổng cầu có thể không bị kích thích nữa,
khiến cho gói kích cầu trở thành lãng phí. Ngược lại gói kích cầu lớn qua tạo ra tác
động kéo dài khiến cho nền kinh tế đã hồi phục mà vẫn trong trạng thái tiếp tục được
kích thích thì sẽ dẫn tới kinh tế mở rộng quá mức, lạm phát tăng lên. Điều này càng
được chú ý nếu ngân sách nhà nước và dự trữ ngoại hối nhà nước không dư dật.
- Giảm thuế và tăng chi tiêu
Trong hai loại biện pháp cụ thể là giảm thuế và tăng chi tiêu ngân sách nhà nước, biện
pháp thứ hai được cho rằng có hiệu suất kích thích tổng cầu cao hơn.

2 TẠI SAO VIỆT NAM PHẢI THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KÍCH CẦU TRONG GIAO ĐOẠN
2008

2.1SUY THOÁI KT THẾ GIỚI VÀ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆT NAM

2.1.1 KINH TẾ THẾ GIỚI

Bong bóng bất động sản của Hoa Kỳ bị vỡ dẫn tới khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ
cấp rồi phát triển thành một cuộc khủng hoảng tài chính mà hậu quả là tình trạng đói tín
dụng ảnh hưởng tới khu vực kinh tế thực. Vỡ bong bóng nhà ở cũng dẫn tới suy
giảm tiêu dùng cá nhân ở Hoa Kỳ. Sự bất trắc trong đời sống kinh tế và kinh doanh
càng làm cho tiêu dùng và sản xuất bị hạn chế. Ba nhân tố này gây ra suy thoái kinh tế
ở Hoa Kỳ từ năm 2008. Nhiều nước trên thế giới có các tổ chức tài chính đã tham gia
vào thị trường tín dụng nhà ở thứ cấp ở Hoa Kỳ. Khi các tổ chức tài chính này bị thua
lỗ, tình trạng rối loạn tài chính, thậm chí là khủng hoảng tài chính đã xảy ra ở nhiều
nước khiến cho các nước này rơi vào suy thoái kinh tế hoặc suy giảm tốc độ tăng
trưởng. Do Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản là những thị trường xuất khẩu quan trọng của
nhiều nước đang phát triển (nhất là khu vực Đông Á) nên suy thoái và suy giảm tăng
trưởng kinh tế từ thế giới phát triển đã làm giảm xuất khẩu của các nước đang phát
triển. Đồng thời, vì các nước phát triển là nguồn cung cấp các khoản vay ngân hàng,
các khoản vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp cho các nước đang phát triển, nên khi các
nước phát triển dừng cho vay, dừng giải ngân hay rút vốn về, nhiều nền kinh tế đang
phát triển đã bị tác động tiêu cực nghiêm trọng. Giảm sản xuất trên quy mô toàn cầu
dẫn tới giảm lượng cầu về năng lượng và nguyên liệu, khiến cho các nước xuất khẩu
dầu và nguyên liệu bị giảm đáng kể nguồn thu từ xuất khẩu các yếu tố này. Vì thế, suy
thoái và suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế lan sang cả các nước xuất khẩu dầu mỏ
ở Trung Đông, Nam Mỹ, Trung Á và Nga vốn được lợi suốt một thời gian khá dài từ giá
dầu tăng.

2.1.2 KINH TẾ VIỆT NAM

Đối với hệ thống tài chính – ngân hàng.

Mặc dù chưa chịu tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ vì hệ thống tài
chính ngân hàng Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn đầu của hội nhập; nhưng trong ngắn
hạn, do tác động trực tiếp của khủng hoảng tài chính, lợi nhuận của nhiều ngân hàng có
thể giảm, thậm chí một số ngân hàng nhỏ có thể thua lỗ; nợ xấu tăng lên; nên hệ thống
ngân hàng tài chính Việt Nam có nguy cơ bị ảnh hưởng trong một vài năm.

Đối với hoạt động xuất khẩu.

Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ giảm do cầu tiêu dùng tại thị trường Mỹ
đang trên đà “trượt dốc”, mặt khác cạnh tranh trong xuất khẩu vào thị trường Mỹ khốc
liệt hơn do một số nhà xuất khẩu giảm giá hàng xuất khẩu để tiêu thụ lượng hàng hoá
xuất khẩu bị tồn đọng. Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam hiện nay, chiếm
khoảng 20-21% kim ngạch xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường Mỹ
suy giảm sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của Việt Nam trong
năm 2008, năm 2009 và cả năm 2010 (nếu nền kinh tế Mỹ chưa có dấu hiệu phục hồi).

Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng còn tuỳ thuộc vào tính chất của từng mặt hàng. Bên
cạnh đó khủng hoảng tài chính Mỹ cũng tác động tiêu cực tới nhiều nền kinh tế khác
trên thế giới, đặc biệt là EU và Nhật Bản –hai thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt
Nam . Do tác động của khủng hoảng, người dân tại các thị trường này cũng phải cắt
giảm chi tiêu, theo đó nhu cầu nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sẽ
có xu hướng giảm. Quý IV/2008, kim ngạch xuất nhập khẩu vào 2 thị truờng này tháng
sau đều giảm so với tháng trước. Kim ngạch xuất nhập khẩu quý I/2009 có xu hướng
tăng nhẹ. Dự báo kim ngạch xuất khẩu cả năm 2009 chỉ tăng 3-5%.

Đối với vốn đầu tư của nước ngoài (kể cả trực tiếp lẫn gián tiếp).

Với tình hình khủng hoảng như hiện nay chi phí vốn trở nên đắt đỏ hơn và thị trường
xuất khẩu có khả năng bị thu hẹp nên dòng vốn chảy vào Việt Nam bị giảm sút là khôgn
tránh khỏi. Thêm vào đó, với hầu hết các dự án đầu tư nói chung và FDI nói riêng, phần
vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư, nên khi các tổ chức tài
chính, các ngân hàng gặp khó khăn, nhiều hợp đồng vay vốn sẽ không được ký kết
hoặc không thể giải ngân được. Với các dự án FDI đang triển khai có thể bị chững lại
do các nhà đầu tư phải cân đối lại khả năng nguồn vốn, đảm bảo tài chính an toàn trong
cuộc khủng hoảng này. Các dự án FDI mới được cấp phép sẽ gặp khó khăn nếu nhà
đầu tư bị tổn thương lớn từ khủng hoảng. Nếu như năm 2008 Việt Nam đã thu hút gần
63 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (vốn đăng ký), giải ngân 12 tỷ USD, thì năm
2009 tình hình thu hút FDI đã trở nên khó khăn hơn, nhiều dự án đăng ký vốn hàng
chục tỷ USD nhà đầu tư nước ngoài đã xin rút lui… Trong 5 tháng đầu năm 2009, vốn
FDI chỉ đạt 6,3 tỷ USD.

Đối với lượng kiều hối vào Việt nam, mặcdù năm 2008 lượng kiều hối đạt 8 tỷ USD tăng
60% so với năm 2007, nhưng với đà suy thoái kinh tế thế giới như hiện nay, lượng kiều
hối năm 2009 giảm sút sẽ là điều chắc chắn.

Đối với hoạt động của TTCK

Khủng hoảng tài chính ngày càng ảnh hưởng rộng trên thị trường tài chính thế giới,
theo đó các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư nước ngoài sẽ gặp khó khăn hơn trong việc
huy động vốn, hoặc có xu hướng thận trọng hơn trong quyết định đầu tư khi các thị
trường lớn của họ đang gặp khó khăn. Việc họ cơ cấu lại danh mục đầu tư ở Việt Nam
là điều có thể thấy trước.

Có thể các nhà đầu tư ngoại sẽ rút vốn khỏi thị trường Việt Nam để ứng cứu cho công
ty mẹ tại các thị trường lớn, nhưng khả năng này là rất ít, một mặt vì lượng vốn đầu tư
của mỗi nhà đầu tư ở thị trường Việt Nam là không nhiều và hiện Việt Nam vẫn được
coi là địa điểm đầu tư an toàn có độ tin cậy cao. TTCK Việt Nam là một nơi có ưu thế
đầu tư khi tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam đang có chiều hướng tốt dần.

Trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài bán hết chứng khoán, rút hết vốn đầu tư ra
khỏi TTCK Việt Nam thì Việt Nam vẫn đủ dự trữ ngoại tệ để “bơm ra” ổn định thị trường.
Cán cân thương mại Việt Nam năm 2008 dự báo thâm hụt 18 tỷ USD (khoảng
30%GDP) năm 2009 dự báo thâm hụt thương mại sẽ dao động trong khoảng 12 tỷ -15
tỷ USD hay 12-15% GDP, giảm 20% so với năm 2008.

Mặt khác cũng cần thấy rằng khủng hoảng tài chính ảnh hưởng đến một số lĩnh vực của
Việt Nam như: xuất khẩu, nợ vay ngắn hạn của các ngân hàng, hoạt động của các tổ
chức tài chính, tín dụng… Do đó các doanh nghiệp đang niêm yết trên TTCK sẽ không
tránh khỏi tác động xấu, đặc biệt là doanh nghiệp xuất khẩu, theo đó giá cổ phiếu có thể
sụt giảm.

Một số vấn đề khác cần quan tâm là khủng hoảng tài chính tác động mạnh mẽ đến tâm
lý của các nhà đầu tư chứng khoán Việt Nam , TTCK lập tức bị tác động xấu vì những
lo ngại của các nhà đầu tư trong nước. Yếu tố tâm lý là khá quan trọng, vì vậy Việt Nam
cần có những giải pháp, đặc biệt là thông tin, tuyên truyền đầy đủ để củng cố niềm tin
cho các nhà đầu tư; hạn chế những lo ngại thái quá làm ảnh hưởng xấu đến TTCK.
Gần đây TTCK đã có những dấu hiệu khả quan hơn nhưng với diễn biến khó lường của
suy thoái kinh tế thế giới, tính ổn định của TTCK sẽ khó tránh khỏi gặp khó khăn.
Đối với thị trường BĐS

Thị trường BĐS có mối liên hệ mật thiết với thị trường vốn và tài chính. Hoạt động đầu
tư kinh doanh BĐS đòi hỏi một lượng vốn rất lớn. Hiện nay tiềm lực tài chính của hầu
hết các doanh nghiệp kinh doanh BĐS của Việt Nam khá hạn hẹp, phần lớn phụ thuộc
vào nguồn vốn bên ngoài mà chủ yếu là vốn vay của các ngân hàng và tổ chức tín
dụng. Đây là một khó khăn của doanh nghiệp kinh doanh BĐS trong điều kiện khủng
hoảng tài chính hiện nay.

Cuối năm 2007 tình trạng đầu cơ BĐS đã đẩy giá BĐS ở Việt Nam lên quá cao so với
giá trị thực. Thị trường đã lên cơn sốt ảo, cầu ảo tăng cao. Bước sang năm 2008 và
năm 2009 nền kinh tế Việt Nam vẫn gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh
tế, buộc người dân phải giảm chi tiêu, thị trường BĐS đóng băng, giá BĐS đã giảm đến
40%, các doanh nghiệp kinh doanh BĐS rơi vào khó khăn, không bán được sản phẩm
lại phải chịu lãi suất cao do chính sách thắt chặt tiền tệ làm lãi suất ngân hàng tăng
cao, nhất là vào cuối năm 2008.

Giá BĐS giảm sẽ kéo theo tài sản ngân hàng cũng giảm theo, nợ xấu tăng lên làm cho
cơ cấu vốn của ngân hàng đầu tư thương mại rơi vào tình thế bất lợi. Gần đây, FDI đổ
vào Việt Nam tăng nhanh trong đó gần 50% đầu tư vào BĐS. Ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính sẽ là bất lợi cho việc giải ngân vốn FDI ở Việt Nam đặc biệt là FDI trong
lĩnh vực BĐS.

Khủng hoảng nợ dưới chuẩn ở Mỹ mà gốc rễ là từ khủng hoảng địa ốc hiện nay tuy
không làm ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường BĐS ở Việt Nam nhưng nó sẽ ảnh hưởng
gián tiếp qua các tác động đến thị trường tài chính tiền tệ, TTCK và các yếu tố tâm lý
của người dân. Tuy nhiên, việc cho vay BĐS của các ngân hàng ở Việt Nam là khác xa
so với ở Mỹ vì vậy khó xảy ra một cuộc khủng hoảng trên thị trường BĐS Việt Nam .
Theo báo cáo của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thì cho vay BĐS chiếm khoảng 9,5%
tổng số dư nợ của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. .
Thị trường hàng hoá và dịch vụ: Sức cầu giảm

Sức cầu giảm cả trong sản xuất và tiêu dùng. Trong tình hình kinh tế thế giới đang suy
thoái, tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam mặc dầu đã được cải thiện nhưng nói chung
vẫn còn khó khăn. Nhiều doanh nghiệp đã cắt giảm kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu
hẹp quy mô do chi phí sản xuất tăng đặc biệt là lãi vay ngân hàng. Năm 2008 các ngân
hàng tăng lãi suất để phục vụ mục tiêu thắt chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát, các doanh
nghiệp rất khó khăn khi phải vay ngân hàng với lãi suất cao.

Bước sang năm 2009 với chính sách tiền tệ nới lỏng, lãi suất ngân hàng đã giảm đáng
kể, Chính phủ lại có chủ trương bù lãi suất 4% cho doanh nghiệp đối với những khoản
vay ngắn hạn, điều đó phần nào đã giúp doanh nghiệp khôi phục sản xuất kinh doanh
giảm chi phí vốn, giảm giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, khó khăn lớn hiện nay đối với
doanh nghiệp lại là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chừng nào kinh tế thế giới chưa phục
hồi thì thị trường tiêu thụ (XK) vẫn còn khó khăn. Trong lúc đó thị trường nội địa sức
cầu đang hạn chế vì sức mua chưa tương xứng.
Các hoạt động dịch vụ sẽ bị thu hẹp, đặc biệt là lượng khách du lịch sẽ giảm, cho đến
nay ngành du lịch đã tổ chức nhiều chương trình khuyến mãi nhưng tình hình chung là
chưa sáng sủa.
2.2.1 GIỚI THIỆU CHÍNH SÁCH KÍCH CẦU CỦA VIỆT NAM 2009
TTRONG NĂM 2009, CHÍNH PHỦ VN đã thực hiện biện pháp kích cầu thông qua chính
sách hỗ trợ lãi suất 4% đối với các doanh nghiệp, các chương trình miễn, giảm và giãn
thuế, bảo lãnh cho các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại ..
Ngày 12/5.2009, bộ Kế hoạch và Đầu tư đã công bố về gói kích cầu có trị giá 143000
tỷ đồng (tương đương 8tyr usd) của Chính phủ , sau đó tăng lên 160 nghìn tỷ đồng (9 tỷ
usd). Theo đó gói kích cầu tương đương 8 tỷ usd được chia thành 8 phần có giá trị khác
nhau. Cụ thể các phần của gói kích cầu này bao gồm:
- hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng khoảng 17000 tỷ đồng
- tạm thu hồi vốn đầu tự xây dựng cơ bản ứng trước khoảng 3400 tỷ đồng.
- ứng trước ngân sách nhà nước dể thực hiện một số dự an cấp bách khoảng 37200 tỷ
đồng.
- chuyển vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang 2009 khoảng 30200 tỷ đồng
- phát hành thêm trái phiếu chính phủ khoảng 20000 tỷ đồng
-thực hiện chính sách giảm thuế khoảng 28000 tỷ đồng
- tăng thêm dư nợ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp khoảng 17000 tỷ đồng
- các khoản chi phí kích cầu khác nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh
xã hội khoảng 7200 tỷ đồng.
2.2.2 tác động của chính sách kích cầu đến việt nam
2.2.2.1 tác động tích cực
Một, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng ( từ 3,14 trong quý I tăng lên 6,9% vào quý vi năm
2009 , ước tính cả năm là 5,32%)
Hai, nhờ tác động của các gói kích cầu, trong từng ngành , từng lĩnh vuvjw đều có
chuyển biến rõ nét. GDP khu vực công nghiệp và xây dựng năm 2009 tăng 5,4 ; khu
vực dịch vụ tăng 6,5 % so với thời kì trước khủng hoảng.
Ba, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2009 đạt khoange 68,8 tỷ USD , giảm
14,7%so với 2008. Trong đó khối dn có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,87tyr USD ,
chiếm 36,1%tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước , giảm 10,8% xo với 2008, khối doanh
nghiệp 100% vốn trong nước đạt khoảng 43,96 tỷ USD , chiếm tỷ trọng 63,9%, giảm
16,8 % so với 2008 . tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 2009 đạt khoảng 56,6 tỷ USD
bằng 87,6% so với kế hoạch .xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn giữ
vị trí quan trọng . doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia xuất khẩu hầu hết
các mặt hàng , đặc biệt là nhóm hàng công nghiệp chế biến.
Bốn, các cân đối và chỉ số kinh tế vĩ mô, như thu chi ngân sách, tiền tệ , tín dụng, cán
cân thanh toán quốc tế tương đối ổn định. Chỉ số Lmj phát( chỉ số giá tiêu dùng) ở mức
thấps. Lạm phát giảm từ 19,9% xuống còn 6,5% chỉ sau một năm . chỉ số giá t4 2009 so
với t12 2008 chỉ tăng 1,68% cùng với lãi suất giảm và hôc troẹ lãi suất 4 năm vừa tạo
thêm thuận lợi giúp cho doanh nghiệp giảm bớt khó khăn, phục hồi sản xuất , vừa hỗ
trợ cho việc phát triển ổn định và an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng.
Năm, trực tiếp góp phần gia tăng các hoạt động đầu tự phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế
và xã hội, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo nền tảng và động lực cho sự phát triển
cả hiện tại cũng như tương lai.
Sáu, nhiều doanh nghiệp nhận được sự giúp đỡ kịp thời của “gói kích cầu’’ đã có thêm
cơ hội giữ vững và mở rộng sản xuất , từ đó góp phầngiamr bớt áp lực thất nghiếp và
đảm bảo ổn định xã hội , tiếp tục hướng vào xoá đói giảm nghèo , đặc biệt là đồng bào
=dân tộc, các vùng miền núi, vùng sau , vùng xa; hỗ trợ nhân dân đón tết,…
Tóm lại, không thể phủ nhận rằng gói kích cầu thứ nhất đã có những tác động tích cực
đến nền kinh tế vn 2009, góp phần đưa việt nam sớm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế.
2.2.2 TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC
Một, mục tiêu và định hướng không rõ ràng, kh có phân định giữa khái niệm kích cầu và
kích cung . những chính sách đưa ra đều được đặt dưới cái tên kích cầu trong khi tác
động thực tế của nó chưa chắc làm tổng cầu của nền kinh tế .
Hai, gói hỗ trợ lãi suất có một số hạn chế như: chính sách kh đến đc những đối tượng
cần hỗ trợ, có thể hỗ trợ nhầm lẫn đối tượng ,…
Ba, mức hỗ trợ lãi suất tiền vay 4%/năm là khá lớn , đối tượng thụ hưởng thuộc nhiều
lĩnh vực, ngành kinh tế , nếu kéo dài sẽ phát sinh tâm lý ỷ lại vào sự hỗ trợ của nhà
nước, giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. tạo bất bình đẳng , cạnh tranh
không lành mạnh giữa các doanh nghiệp do mất khả năng tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ lãi
suất của các doanh nghiệp không đồng đều.
Bốn, gói kích cầu kh đáp ứng hoàn toàn yêu cầu : kịp thời, đúng đối tượng và vừa đủ
Năm, chính sách kích cầu không trực tiếp giúp giải quyết khó khăn lớn nhất của các
doanh nghiệp là thiếu nhu cầu thị trường
Sáu, số tiền cung ứng và lưu thông tạo ra tiềm ẩn rủi ro lạm phát cao. Với việc triển khai
nhiều cơ chế hỗ trợ cùng với chính sách nới lỏng tiền tệ dẫn đến khối lượng tiền cung
ứng vào nền kinh tế tăng ở mức cao, gây sức ép tăng lạm phát là rất lớn.
3. So sánh chính sách kích cầu của Việt Nam, Trung Quốc và Mỹ
3.1 CHÍNH SÁCH KÍCH CẦU CỦa mỹ
Gói kích cầu Anh- Mỹ ra đời sau gói cứu trợ ngân hàng. Nguyên nhân xuất phát từ cuộc khủng
hoảng tài
chính toàn cầu bắt nguồn ở khu vực các nước phát triển. Đặc điểm của gói kích cầu này có mục
tiêu nhằm
vào nhu cầu tiêu dùng nội địa, chú trọng miễn giảm nhiều loại thuế như: thuế thu nhập cá nhân,
thuế giá
trị gia tăng,…
-Gói lần 1 (Bush 2/2008)
Nền kinh tế Mỹ đã có những dấu hiệu suy thoái từ cuối năm 2007 và nhiều dự đoán cho rằng năm
2008 là
một năm vô cùng khó khăn với Mỹ, và trên thực tế đã diễn ra như vậy. Đầu năm 2008 khi phải
đối mặt
với nền kinh tế có chiều hướng đi xuống, Chính phủ Bush đã đưa ra gói kích cầu trị giá 152 tỷ
USD.
Nội dung gói kích cầu 1:
+Hoàn thuế cho các cá nhân người nộp thuế ở mức thu nhập thấp( khoảng 300 USD/người).
+Trợ cấp cho trẻ em dưới 17 tuổi( 300USD/ trẻ em).
+Ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp.
+Ưu đãi cho phép khấu hao nhanh đối với doanh nghiệp.
+Hỗ trợ người gặp khó khăn trong cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn.
-Gói lần 2 (Obama- 2009
Ngay từ khi chưa nhậm chức,Tổng thống đắc cử Obama đã đưa ra đề xuất gói kích cầu để giúp
nền kinh
tế Mỹ thoát khỏi khủng hoảng, và gói kích cầu trị giá gần 825 tỷ USD đó đã được Quốc hội Mỹ
phê
duyệt.
Nội dung gói kích cầu 2:
+Hỗ trợ các doanh nghiệp để tạo thêm 2,5 triệu công ăn việc làm thông qua một số biện pháp như
cho các
doanh nghiệp nợ thuế khoảng 3000 USD đối với mỗi lao động thuê mới; xoá bỏ thuế đối với lãi
trên vốn
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME)
+Đầu tư vào công trình công cộng( công nghệ cao, y tế, đường xá, các tiện ích công cộng,…)
+Hỗ trợ các gia đình khó khăn, nâng cao bảo hiểm thất nghiệp.
+Hỗ trợ các chủ sở hữu nhà gặp khó khăn
+Quỹ dự trữ chống khủng hoảng tài chính.
2.Chính sách kích cầu của Trung Quốc
Mô hình kích cuả Trung Quốc được thực hiện như một chương trình tái thiết hệ thống cơ sở hạ
tầng
khổng lồ. Chính phủ Trung Quốc đã thông qua kế hoạch chi tiết để kích thích nền kinh tế trị giá
586 tỷ
USD trong vòng 2 năm.
Nội dung gói kích cầu:
+ Xây dựng các chương trình hỗ trợ đối với nông dân.
+Cải thiện hệ thống phúc lợi XH.
+Tăng chi tiêu của chính phủ: chi cho khu vực Tứ Xuyên bị động đất tàn phá; đầu tư vào giao
thông vận
tải
Tăng chi tiêu vào đào tạo dạy nghề.
+Tăng hoàn thuế xuất khẩu đối với một loại mặt hàng.
+Khuyến khích các ngân hàng tăng cường cho vay đối với khối doanh nghiệp nhỏ và vừa.
3.So sánh chính sách kích cầu của Việt Nam, Trung Quốc và Mỹ
Thực tế, gói kích cầu kinh tế của Mỹ chỉ được thực hiện khi họ đã hoàn thành xong
gói cứu trợ đối với ngân hàng. Còn với mô hình kích cầu của nước Việt Nam và Trung
Quốc lại hoàn toàn khác.
Hai nước này hoàn toàn không sử dụng gói cứu trợ ngân hàng mà thực hiện gói kích cầu
tăng trưởng kinh tế. Do vấn đề khủng hoảng kinh tế không gây ảnh hưởng đến các ngân
hàng tại Việt Nam và Trung Quốc nên hai quốc gia này không gặp phải tình trạng thua lỗ
và các khoản nợ xấu. Cuộc khủng hoảng ở Mỹ đã đe dọa tới sự ổn định của hệ thống tài
chính , góp phần làm bất ổn kinh tế nên Mỹ phải tập trung giải quyết vấn đề này trước.
Đối với mô hình kích cầu của Trung Quốc, họ muốn phát triển kinh tế dựa vào
nguồn lực nội địa, việc này sẽ tránh được nguy cơ nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi thị
trường thế giới.
Trong khi đó, mô hình kích cầu của Việt Nam lại bị ảnh hưởng nhiều bởi các gói
tổng cầu nước ngoài, thực chất thì nhu cầu tiêu dùng nội địa là không khả quan, do đó
Chính phủ đã lựa chọn yếu tố duy trì hoạt động thì chính sách hỗ trợ, giảm lãi suất ngân hàng là
tối ưu nhất. Điều này cũng giảm thiểu được nguy cơ phá sản và thất nghiệp của
người lao động.
Thông qua việc so sánh chính sách kích cầu của Việt Nam, Trung Quốc và Mỹ đã
cho chúng ta thấy được tầm quan của các gói kích cầu mà nhà nước lựa chọn. Đối với các
nước lớn Như Mỹ và Trung Quốc đã sử dụng lối kích cầu mạo hiểm, tinh vi hơn. Còn với
Việt Nam, vẫn giữ lối kích cầu truyền thống để bảo toàn cho nền kinh tế đất nước. Nếu
không lựa chọn đúng thì việc thúc đẩy kinh tế sẽ vô cùng khó khăn.

4. TẠI SAO VIỆT NAM KHÔNG THỰC HIỆN GÓI KÍCH CẦU 2
Thực tế cho thấy dưới tác động mạnh của khủng hoảng, quá trình suy
giảm tăng trưởng không kéo dài và không quá nghiêm trọng, sự phục hồi đến
nhanh, ngay từ trước khi các gói kích cầu được triển khai trên thực tế.
Nhờ gói kích cầu thứ nhất, nút thắt về vốn của các doanh nghiệp đã
được gỡ bỏ giúp cho nền kinh tế được phục hồi trở lại. Lý do mà Việt
Nam không tiếp tục thực hiện gói kích cầu 2 là vì gói kích cầu 1 đã đem
lại rất nhiều lợi ích cho sự phát triển của nền kinh tế nước ta.
Ngay từ trước khi gói kích cầu thứ nhất được triển khai, nền kinh tế của nước ta đã có tốc
độ phục hồi nhanh chóng. Số liệu thống kê trung bình tính đến 9 tháng đầu năm GDP
tăng 4,6%, trong đó lớn hơn 5% là con số dự đoán tăng trưởng GDP trong cả năm của cả
nước
Chính vì thế, sau khi thực hiện gói kích cầu 1 nền kinh tế nước ta tiếp tục
mạnh, việc sử dụng gói kích cầu 2 là không cần thiết mà thay vào đó là
những chính sách thiết thực khác như khôi phục bình thường môi
trường kinh doanh thị trường, củng cố việc thực hiện mục tiêu tốc độ
tăng trưởng kinh tế, chuyển hướng nền kinh tế sang ưu tiên tái cơ cấu

KẾT LUẬN
Năm 2009, trước tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu, kinh tế Việt Nam cũng phải đối
mặt với nhiều thách thức nặng nề. Chính phủ Việt Nam đã xây dựng những chính sách
đúng đắn, bài bản đó là thực hiện kế hoạch kích thích kinh tế trị giá 8 tỷ USD. Việc thực
hiện kế hoạch kích cầu này đã có tác động tích cực đến Việt Nam và vực dậy nền kinh
tế đang rơi vào suy thoái trở lại. Qua phân tích, so sánh các gói kích thích kinh tế của
Việt Nam, mỹ , Trung Quốc, Việt Nam rút ra được bài học là chỉ nên tung ra các gói kích
thích khi thực sự cần thiết và phải có định hướng. Kế hoạch kích cầu nhắm vào các
nhóm dễ bị tổn thương hơn (người lao động thu nhập thấp, người nghèo) và nhà nước
cần tiến hành giám sát, kiểm tra chặt chẽ kế hoạch kích cầu. Triển khai các phương án
kích cầu nhằm tránh cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp,... Sau khi thực
hiện gói kích cầu 1, đặt ra câu hỏi: “ Sự cần thiết của việc thực hiện gói kích cầu thứ 2
không?”. Qua phân tích cũng chỉ ra được sự không cần thiết phải thực hiên gói kích cầu thứ 2.
Nếu tiếp tục sử dụng gói kích cầu sẽ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng

You might also like