CHUYÊN ĐỀ THƠ CA CHỐNG MỸ (1)

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 8

SƠ NÉT VỀ PHẦN THƠ CA CHỐNG MỸ ĐƯỢC HỌC Ở

SÁCH GIÁO KHOA

1/ ĐOẠN TRÍCH ĐẤT NƯỚC ( Trích trường ca Mặt đường khát


vọng - Nguyễn Khoa Điềm )
- Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại Thừa Thiên - Huế. Ông xuất thân trong
một gia đình trí thức cách mạng, giàu truyền thống văn chương. Sau khi tốt nghiệp
Trường đại học Sư phạm Hà Nội, ông về miền Nam tham gia chiến đấu chống đế quốc
Mĩ. Ông
là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ thơ trong những năm chống Mĩ. Thơ
Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, thế hiện tâm tư của người trí
thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.
- Trường ca Mặt đường khát vọng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến
khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974. Đây là bản trường ca viết về sự thức
tỉnh cùa tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của
đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước, đứng dậy xuống đường đấu tranh hoà nhịp
với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. bao gồm chín chương. Đất Nước là chương V
đứng ờ vị trí trụ cột trong kết cấu tác phẩm.
-Trường ca là thể loại tác phẩm văn học có sự kết hợp hài hoà hai yếu tố tự sự và
trữ tình. Tuy nhiên ở trường ca Mặt đường khát vụng, yếu tố tự sự không phải là cốt
truyện về cuộc đời một nhân vật mà là quá trình vận động biến chuyển về ý thức cùa
một lớp người, một thế hệ trong bối cảnh lịch sử trọng đại. Chính vì vậy Chương V -
Đất nước có vị trí đặc biệt, hội tụ chủ đề tư tưởng tác phẩm : sự thức tỉnh cùa thế hệ trẻ
các thành thị miền Nam, và rộng ra, sự tự nhận thức của tuổi trẻ Việt Nam là đi đến sự
lựa chọn quyết định đứng về phía nhân dân, Tố quốc, chia sẻ vận mệnh và trách nhiệm
với dân tộc trong cuộc đấu tranh thiêng liêng để giải phóng đất nước.
-Đọc đoạn thơ, ta thấy Nguyễn Khoa Điềm đã đặt ra và giải quyết triệt dể những suy tư
sâu thẳm : Đất Nước có tự bao giờ ? Đất Nước là gì ? Ai đã làm nên Đất Nước ? Những
suy tư này vừa gọi nhau liên tiếp xuất hiện vừa lồng vào nhau mà chất kết dính là tư
tưởng Đất Nước của nhân dân. Trang thơ đem đến một thông điệp có tính triết lí ở
chiều rộng của không gian địa lí và chiều dài của thời gian lịch sử, Đất Nước được cảm
nhận như sự thống nhất của các phương diện văn hoá, truyền thống, phong tục, cái hằng
ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Nắm được mạch
suy tư này, ta có thể chia bố cục đoạn trích thành hai phần :
- Phần một: (từ đầu đến ... Làm nên Đất Nước muôn đời): suy tư để nhận thức
Đất Nước có từ bao giờ và Đất Nước là gì ?
- Phần hai (phần còn lại) : suy tư để thấu hiếu Ai đã làm nên đất nước ?
Trang thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mở ra bằng sự thức nhận về một
điều đã là tất yếu: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Có thể hiểu ta là chủ thể trữ tình
trong trang thơ Đất Nước, nhưng cũng có thể hiểu ta là người kể chuyện trong Chương
V - Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng. Dù hiểu thế nào thì ta vẫn là người
đại diện, nhân xưng cho cả thế hệ trẻ nói lên ý thức tìm hiểu cội nguồn của đất nước. Ta
suy tư và thức nhận thật tự nhiên về một điều là hiển nhiên, là tất yếu: Đất Nước đã có
rồi. Dầu biết rằng Đất Nước đã có rồi, nhưng Đất nước có từ bao giờ vẫn là một ẩn số,
thôi thúc con người trong hiện tại tìm hiểu. Nguyễn Khoa Điềm đã giải mã bằng nhận
thức lắng sâu: Đất Nước có trong những cái "ngày xưa ngày xưa... ” mẹ thường hay kể.
Tham vọng tính tuổi của Đất Nước thật khó bởi cái "ngày xửa ngày xưa ’’(thời
gian nghệ thuật thường thấy trong truyện cổ tích) có tính phiếm chỉ, trừu tượng, không
xác định. Đó là thời gian huyền hồ, hư ảo, thời gian mang sắc màu huyền sử, huyền
thoại. Song nhà thơ lại nhận thức được ở chính cái "ngày xưa ngày xưa ” đó Đất Nước
đã có từ rất lâu, rất xa, trong sâu thẳm của thời gian lịch sử.
Không dừng lại ở khát vọng đo đếm tuổi của đất nước, nhà thơ còn nỗ lực hình
dung về khởi đầu và quá trình trưởng thành của đất nước. Đất Nước bắt đầu với miếng
trầu bây giờ bà ân cho ta nhận thức: khởi thuỷ đất nước là văn hóa được kết tinh từ tâm
hồn Việt. Từ truyền thuyết, truyện cổ tích đến ca dao, tục ngữ, miếng trầu đã là một
hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương, lòng thuỷ
chung của tâm hồn dân tộc.
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc là nhận thức về tính
cách anh hùng của con người Việt Nam Từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ văn
hiện đại, cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường
đánh giặc cửu nước và giữ nước.
Đất Nước có từ rất xa nhưng lại hiện hữu trong những gì gần gũi, thân thiết nhất,
trong lời kể chuyện của mẹ, trong miếng trầu bà ăn trong phong tập quán, trong tình
nghĩa thủy chung, trong cái kèo cái cột, trong hạt gạo ta ăn hàng ngày... Nhà thơ không
đặt vấn đề tìm hiểu cội nguồn Đất Nựớc một cách trang trọng mà nhìn nhận từ những gì
bình dị nhất. Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm đã làm cho suy tư về cội nguồn đất
nước giàu chất triết luận mà vẫn tha thiết trữ tình.
Nhà thơ đã suy nguyên khái niệm Đất Nước bằng lối tư duy “chiết tự” để giải
thích, cắt nghĩa hai tiếng Đất Nước thiêng liêng bằng tinh thần luận lí chân xác. Nếu
tách ra làm những thành tố ngôn ngữ độc lập thì Đất và Nước chỉ có ý nghĩa là không
gian sinh tồn về mặt vật chất của con người cá thể. Nếu hợp thành một danh từ thì Đất
Nước lại có ý nghĩa tinh thần thiêng liêng, chỉ không gian sinh sống của cả một cộng
đồng người như anh em một nhà.
Nhà thơ đã trả lời câu hỏi Đất Nước là gì ? qua nhận thức theo cả hai phương diện:
không gian địa lí và thời gian lịch sử. Những nhận thức này lấy chất liệu văn hoá, văn
học dân gian làm phương tiện biểu hiện. Về không gian địa lý đất nước là núi sông,
rừng bể (hòn núi bạc, nước biển khơi...) ; là nơi sinh sống của mỗi người (nơi anh đến
trường, nơi em làm...) ; là nơi tình yêu lứa đôi nảy nở (nơi em đánh rơi chiếc khăn
trong nổi nhớ thầm); là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ
(Những ai đã khuất... Dặn dò con cháu chuyện mai sau). Về thời gian lịch sử, đất nước
có cả chiều sâu và bề dày được nhận thức từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu cơ, từ
truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng sáng tạo các
yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian để biểu hiện cho cách lí giải Đất Nước là gì ? Ông
đã tạo nên được những hình tượng nghệ thuật vừa gần gũi vừa mới mẻ về đất nước trên
cả bề rộng không gian địa lí và chiều dài thời gian lịch sử.
Theo Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước hoá thân, kết tinh trong cuộc sống của mỗi con
người. Trái lại sự sống của một người không chỉ là riêng của cá nhân mà còn thuộc về
đất nước. Bởi lẽ mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hoá tinh thần và
vật chất của dân tộc, của nhân dân. Vì Vậy mỗi cá nhân phải có trách nhiệm giữ gìn,
phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo. Khi đã hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng
của đất nước, nhà thơ gửi đến thế hệ trẻ thông điệp về trách nhiệm đối với đất nước. Lời
nhắn nhủ này mang tính chính luận nhưng không có ý nghĩa giáo huấn mà vẫn rất trữ
tình bởi chí như một lời tự dặn mình -chân thành, tha thiết. Đặt ra những câu hỏi này để
nhận thức, lí giải và thấu hiểu bằng những tri thức văn hoá dân tộc chứng tỏ nhà thơ là
người có niềm tự hào sâu sac và tỉnh yêu đất nước thiết tha
Ở phần hai, nhà thơ đã kể ra, đã liệt kê một loạt kì quan thiên nhiên trài dài trên lãnh
thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hoá đất nước. Đây là những
danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay cha ông ta đã
phú cho nó tính cách tâm hồn, lẽ sống của dân tộc. Cách nhìn của tác giả về những
thắng cảnh trên không gian địa lí lãnh thổ là một cách nhìn có chiều sâu và là một phát
hiện mới mẻ. Những ngọn núi, những dòng sông kia chỉ trở thành thắng cảnh khi gắn
liền với con người, được cảm thụ qua tâm hồn, qua lịch sử dân tộc. Bao thế hệ con
người Việt Nam đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu thương thủy chung để ta có
những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái như những biểu tượng văn hoá, vẻ đẹp lẽ
sống anh hùng để ta có những ao đầm, những ngọn núi như những di tích lịch sử về quá
trình dựng nước và giữ nước hào hùng.,.
Đoạn thơ có cấu trúc quy nạp, đi từ liệt kê các hiện tượng cụ thể đến khái quát
mang tính triết lí sâu sắc. Dường như nhà thơ không thể kể ra hết những danh lam thắng
cảnh, đồng thời cũng là những nét đẹp văn hoá dân tộc nên đã khẳng định: trên không
gian địa lí đất nước mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hoá được làm ra bởi sự hoá
thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn con người Việt Nam.
Nghĩ về bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ đã thức nhận được người làm nên
lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh bình
dị. Có sự gặp gỡ giữa Nguyễn Khoa Điềm với Nguyễn Đình Thi ở quan niệm: đất nước
anh hùng được làm nên bởi những con người bình thường mà phi thường, giản dị, mộc
mạc mà cao cả, kì vĩ.
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.
Chính những con người vô danh, bình dị đó đã giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ mai
sau mọi giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước: hạt lúa, ngọn lửa,
ngôn ngữ, phong tục, tập quán... Họ đã tạo dựng nền móng sự sống và họ luôn sẵn sàng
vùng lên chống ngoại xâm, đánh nội thù để giữ gìn sự sống đó và bảo vệ đất nước,..
Cỏ thể khẳng định câu thơ Đế Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân là tư tưởng, là cảm
hứng chủ đạo bao trùm lên cả đoạn trích và cà Chương V của trường ca Mặt đường khát
vọng. Đó là lời kết, là khái quát từ những gì đã được triển khai trong cả chiều dài của
trang thơ và trong cả chiều sâu của dòng cảm hứng trữ tình - chính luận. Nhân dân sáng
tạo ra mọi giá trị văn hoá như ca dao, thần thoại là sáng tạo ra đất nước. Nguyễn Khoa
Điềm đã lựa chọn ba câu ca dao để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền
thống nhân dân: giữ lòng yêu thương, quý trọng nghĩa tình và kiên cường, bất khuất.
Nhân dân đã làm ra văn hóa, làm ra đất nước bằng chính tính cách, lẽ sống tâm hồn
mình. Tuổi trẻ thế hệ Nguyễn Khoa Điềm nhận thức được nhân dân làm nên lịch sử,
làm ra văn hoá là sáng tạo đất nước để càng thêm tự hào và ngân lên khúc hát ngợi ca
dạt dào say mê. Làm ra đất nước là nhân dân. Suy tư và nhận thức này của Nguyễn
Khoa Điềm là tư tưởng nghệ thuật đã trở thành truyền thống trong văn học Việt Nam.
Từ Nguyễn Trãi, Nguyền Đình Chiểu, Phan Bội Châu đã từng nói lên nhận thức về vai
trò của nhân dân trong lịch sử. Đến các nhà thơ, nhà văn trong thời kì kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ đã nâng nhận thức này lên thành một tư tưởng có tầm cao mới
- Nội dung: Đoạn trích là sự cảm nhận, phát hiện về đất nước trong một cái nhìn
tổng hợp, toàn vẹn mang đậm tư tưởng nhân dân.
- Nghệ thuật: Thành công của Nguyễn Khoa Điềm ở trang thơ này còn là tạo ra
được một thế giới nghệ thuật với không khí, giọng điệu riêng gần gũi mà mĩ lệ; quen
thuộc như ca dao truyền thuyết... mà lại mới mẽ trong cách cảm nhận và tư duy hiện
đại, qua thể thơ tự do.
IV/ LUYỆN TẬP
Đề: Yếu tố văn hóa, văn học dân gian trong đoạn trích “Đất Nước” (Trích Trường ca
Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm)

2/ TÁC PHẨM SÓNG ( Xuân Quỳnh)

- Xuân Quỳnh tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh ngày 6 tháng 10
năm 1942 tại La Khê, thành phố Hà Đông, tỉnh Hà Tây trong một gia đình công
chức .Bà
mồ côi mẹ từ tấm bé, không ở gần cha, ở với bà nội. Năm 1955, Xuân Quỳnh là diễn
viên múa của Đoàn Văn công nhân dân Trung ương. Tại đây, Xuân Quỳnh bắt đầu làm
thơ. Từ năm 1962, 1963, Xuân Quỳnh học ở trường bồi dưỡng những nhà văn trẻ (khoá
I) của Hội Nhà văn (sau này là Trường Viết văn Nguyễn Du). Năm 1964, chuyển sang
làm báo Văn nghệ, làm biên tập ở Nhà xuất bản Tác phẩm mới và tiếp tục sáng tác. Tại
Đại hội các nhà văn Việt Nam lần thứ III, Xuân Quỳnh được bầu làm Uỷ viên Ban Chấp
hành Hội Nhà văn Việt Nam. Xuân Quỳnh mất đột ngột cùng chồng là nhà viết kịch
Lưu Quang Vũ vì tai nạn giao thông tại Hải Dương vào ngày 29 tháng 8 năm 1988. Bà
được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001.
Sóng được sáng tác tại biển Diêm Điền, Thái Bình, ngày 29 - 12 - 1967, in trong
Hoa dọc chiến hào năm 1968 với cảm hứng trữ tình tình yêu và cũng là cảm hứng nhân
văn. Bài thơ thể hiện những cung bậc, sắc màu tâm trạng của người phụ nữ đang yêu :
trăn trở, lo âu, thuỷ chung ; khát khao hoàn thiện mình trong tình yêu.Tình yêu là cái
đẹp, cái cao cả giúp con người hoàn thiện và sống chan hoà, có ích giữa cuộc đời. Bài
thơ có âm điệu được tạo nên bởi thể thơ năm chữ có vần gián cách kết hợp với những
câu thơ liền mạch, phần nhiều từng câu thơ không ngắt nhịp, các khổ thơ nối kết bằng
cách hiệp vần từ câu cuối khổ xuống câu đầu khổ tiếp theo. Âm điệu còn gợi ra ở
phương thức tổ chức ngôn từ, hình ảnh. Đó là lối tổ chức theo nguyên tắc tương xứng,
hô ứng, trùng điệp. Các cặp từ, các vế câu, cặp câu liền kề đối nhau luân phiên bằng -
trắc. Bài thơ có âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng, lúc thầm thì sâu
lắng, gợi âm hưởng những đợt sóng miên man vỗ bờ và lặng chìm đáy nước biển khơi.
Nhịp sóng là nhịp lòng tác giả, một điệu hồn đang xao động, chảy trôi triền miên và
chất chứa bao khao khát, rạo rực yêu đương.
Hình tượng sóng là hình tượng trung tâm, nổi bật xuyên suốt bài thơ vùa mang ý
nghĩa tả thực( miêu tả chân thực, sinh động, có tính cách, tâm trạng, có hồn) vừa mang
ý nghĩa biểu tượng ( tính cách, tâm trạng và khát vọng của nhân vật trữ tình em.) Sự
sống và vẻ đẹp của bài thơ cũng như mọi sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền
với hình tượng sóng. Cả bài thơ là con sóng tâm tình của người phụ nữ đang yêu được
khơi nguồn khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng vô hạn vô hồi. Ở đây
Xuân Quỳnh mượn hình ảnh sóng để suy nghĩ về tình yêu, những suy nghĩ tản mạn
không theo logic trí tuệ mà theo logic tình cảm, cảm xúc, yì vậy, bài thơ khêu gợi trí
tưởng tượng, tạo ra những liên tưởng bất ngờ thú vị và chính điều này tạo nên chất thơ
cho bài thơ
Trong bài thơ còn có một hình tượng nghệ thuật nữa, sóng đôi và đan quyện vào
hình tượng sóng, đó là hình tượng em. Kết cấu song trùng, tương đồng hoà hợp giữa hai
hình tượng trữ tình. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, hoá thân của cái tôi trữ tình nhà thơ.
Em là nhân vật trữ tình. Em và sóng vừa hoà nhập làm một, vừa phân đôi để soi chiếu
vào nhau và cộng hưởng nghệ thuật với nhau, nhằm biểu đạt một cách trọn vẹn thế giới
tâm tình của người phụ nữ đang yêu. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để
hiểu tận đáy lòng mình và nhờ con sóng biển mà biểu hiện những trạng thái tâm hồn
mình trong tình yêu. Với hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã tìm được cách thể hiện xác
đáng vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.
Bài thơ có một kết cấu nghệ thuật độc đáo, hấp dẫn và thú vị. Đó là kết cấu theo
phát triển song song và đan xẹn vào nhau của hai hình tượng thơ. Sóng vừa là nhân vật
trữ tình của bài thơ vừa là khát vọng tình yêu của cái tôi trữ tình Xuân Quỳnh gởi gắm
trong thơ. Nhân vật trữ tình em chính là cái tôi trữ tình của nhà thơ và cũng là tiếng yêu
ngân vang trong hồn của những người phụ nữ đang yêu.
Bài thơ đã xây dựng hình ảnh thơ rất độc đáo .Nhà thơ đã khám phá những nét
tương phản mà biện chứng đồng nhất ở sóng. Cùng với việc xây dựng hình ảnh “sóng”,
nhà thơ đã bổ sung thêm hình ảnh “bờ”. Sự bổ sung hình ảnh này là một sự khám phá
về bản chất, phẩm chất của sóng để sáng tạo ra hình ảnh “Con sóng nhớ bờ". “Con
sóng nhớ bờ” của Xuân Quỳnh cũng thao thức. Một thành công khác nữa là sự sáng tạo
độc đáo hình ảnh “biển lớn tình yêu ” ở khổ thơ cuối cùng của Xuân Quỳnh.
- Bài thơ làm theo thể ngũ ngôn. Mỗi khổ bốn dòng thơ. Thề thơ này tạo được
nhịp điệu khỏe khoắn, tươi tắn cho thơ và góp phần làm nên chất tươi trè của hồn thơ
Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh rất linh hoạt trong ngắt nhịp, phổi âm, luân phiên bằng - trắc
để khắc hoạ nhịp sóng khi khoan thai, dịu êm khi dồn dập, dữ dội.
- Bài thơ có chín khổ, tám khổ cấu tạo bình thường, riêng khổ thứ năm thêm hai
dòng, tạo sự thay đổi đột ngột làm sáng lên chủ đề bài thơ : Khát vọng tình yêu chung
thuỷ, duy nhất và nỗi nhớ đến kiệt cùng tâm linh.
- Xuân Quỳnh đã sử dụng nhịp điệu của thế thơ năm chữ để biểu hiện nhịp điệu
cùa sóng, của nỗi khát vọng tình yêu mãi mãi bồi hồi trong ngực trẻ. Ngay từ khổ đầu,
tiết tấu biến hoá biểu đạt sít sao nội dung cảm xúc. Nhịp chủ yếu là cả dòng thơ là một
“chỗ đậu hơi”, nhưng cũng có dòng thơ tạo biến tấu. Nhịp điệu thơ còn được tạo ra nhờ
vào lối hiệp vần - vần gián cách. Và hiệp vần giữa câu cuối khổ trước với câu đầu khổ
sau : “Bồi hồi trong ngực trẻ ” hiệp với “Trước muôn trùng sóng bể". Giọng điệu thơ
tuỳ cảm xúc tâm tình mà biến đổi, khiến bài thơ nhiều âm sắc giai điệu, bộc lộ thật đẹp
những cung bậc tâm trạng của nhà thơ. Có giọng kể, có giọng chân thành mà suy tư, có
giọng tha thiết lắng sâu, có giọng thủ thỉ tâm tình, đậm màu tự sự.Trong bài thơ, có
những khổ thơ có hai dòng thơ tương xứng, đắp đổi, trùng điệp với nhau.
Nói tóm lại bài thơ Sóng là vẻ đẹp tâm hồn giàu yêu thương của Xuân Quỳnh và của
phụ nữ Việt Nam : yêu hết lòng, tin tưởng thuỷ chung muôn đời với người mình yêu.
Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có sự khám phá mới mẻ và biểu hiện độc đáo
thuộc tính, quy luật và phẩm chất của người phụ nữ trong tình yêu. Bài thơ cũng thể
hiện thế giới tâm tình xúc cảm của hình tượng tác giả - người phụ nữ có tâm hồn chân
thành, sâu sắc, có tình yêu rạo rực, sôi nổi, nhạy cảm với cái hĩru hạn của cuộc đời, cái
mong manh của tình yêu nên khao khát một tình yêu vĩnh hàng.
LUYỆN TẬP
1 Yếu tố văn hóa, văn học dân gian trong đoạn trích “Đất Nước” (Trích Trường ca Mặt
đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm)

2/ Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Anh/chị cảm nhận
được gì về tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua bài thơ.

You might also like