Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 7

MÙA XUÂN NHO NHỎ

1. Tác giả: Thanh Hải


2. Hoàn cảnh sáng tác:
- Bài thơ ra đời tháng 11/1980, thời kì này đất nước đã thống nhất, đang
xây dựng cuộc sống mới với muôn vàn khó khăn thử thách.
- Đây cũng là một hoàn cảnh đặc biệt đối với nhà thơ Thanh Hải, ông đang
bị bệnh nặng phải điều trị tại bệnh viện trung ương thành phố Huế và một
tháng sau ông qua đời
- In trong tập “Thơ Việt Nam 1945-1985”
3. Bố cục: 4 đoạn
- Khổ 1: Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên đất trời
- Khổ 2,3: Cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân đất nước
- Khổ 4,5: Lời nguyện ước chân thành, tha thiết của nhà thơ
- Khổ 6: Lời ngợi ca quê hương đất nước qua làn điệu dân ca xứ Huế.
4. Mạch cảm xúc:
- Từ cảm xúc trực tiếp về mùa xuân thiên nhiên đất nước chuyển sang liên
tưởng đến mùa xuân của cuộc đời mỗi con người – mùa xuân nhỏ góp
vào mùa xuân lớn. Từ đó biểu hiện suy nghĩ về ước nguyện của nhà thơ
muốn hòa nhập, đóng góp cho cuộc đời chung.
- Bài thơ kết thúc bằng sự trở về với những cảm xúc thiết tha, tự hào về
quê hương đất nước qua làn điệu dân ca xứ Huế.
5. Ý nghĩa nhan đề:
- Là một sáng tạo độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ Thanh Hải.
“Mùa xuân” là một khái niệm trừu tượng chỉ thời gian được đặt bên cạnh
tính từ chỉ mức độ “nho nhỏ” làm hình ảnh mùa xuân trở nên cụ thể, hữu
hình, gợi một mùa xuân với vẻ đẹp riêng.
- Là một hình ảnh ẩn dụ đẹp: chỉ những gì đẹp đẽ, tinh túy nhất của mỗi
người.
- Thể hiện sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và cộng
đồng
- Thể hiện ước nguyện sống đẹp của tác giả là muốn làm một mùa xuân,
sống đóng góp, sống với tất cả sự tươi trẻ nhưng rất khiêm nhường, lặng
lẽ; muốn đóng góp mùa xuân nhỏ bé của mình cho mùa xuân lớn của
cuộc đời chung.
- Nhan đề góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm : Bài thơ thể hiện niềm yêu
mến tha thiết với cuộc sống, với đất nước và ước nguyện được đóng góp
chân thành của nhà thơ
6. Phân tích
Khổ 1:
Cảm xúc của nhà thơ Thanh Hải trước mùa xuân thiên nhiên đã được thể
hiện một cách khá rõ nét qua khổ thơ đầu bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. Thật vậy,
bức tranh thiên nhiên xứ Huế hiện lên thật đẹp đẽ qua cái nhìn say đắm của nhà thơ
Thanh Hải: “Mọc giữa dòng sông xanh/Một bông hoa tím biếc. Ngay ở câu thơ đầu
tiên, ta đã bắt gặp một cách viết khác lạ: động từ “mọc” được đảo lên đầu câu; đây
là dụng ý nghệ thuật của tác giả nhằm khắc sâu ấn tượng về sự trỗi dậy, vươn lên
của mùa xuân đồng thời thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của ông trước khung
cảnh mùa xuân tươi đẹp. Người đọc như tưởng tượng ra không gian mùa xuân rộng
mở tươi tắn với hình ảnh dòng sông xanh chảy hiền hòa; nổi bật trên nền xanh lơ
đó là hình ảnh bông hoa tím biếc đang từ từ vươn lên, tạo nên một nét chấm phá
nhẹ nhàng mà sống động, thể hiện vẻ đẹp tự nhiên, đặc trưng của thiên nhiên xứ
Huế. Thêm vào đó là âm thanh tiếng chim chiền chiện lảnh lót, trong trẻo tô điểm
thêm cho bức tranh xuân lộng lẫy, mở ra không gian cao rộng khoáng đạt:”Ơi con
chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời”. Tâm hồn nhà thơ như cùng những cảnh
sắc, âm thanh kia dường như hòa vào làm một, cảm xúc từ đó mà thốt ra thành lời.
Phép tu từ nhân hóa qua tiếng gọi thân thương, trìu mến “ơi” gợi trong đó biết bao
cảm xúc ngỡ ngàng, hứng thú; và cảm xúc ấy đã thực sự trào dâng qua câu hỏi tu
từ “Hót chi mà vang trời” – thứ âm thanh làm sống dậy cả một không gian cao
rộng, vực dậy cả tâm hồn người con xứ Huế đang phải đối mặt với những bóng đen
u ám của bệnh tật. Có lẽ, nhà thơ đã đón nhận mùa xuân bằng tất cả sự tài hoa của
ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn; ông lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim,
bằng trí tưởng tượng độc đáo:“Từng giọt long lanh rơi/Tôi đưa tay tôi hứng”. “Giọt
long lanh” ở đây gợi ra hai cách hiểu : là giọt mưa xuân long lanh dưới ánh sáng
mặt trời hoặc là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện. Âm thanh mượt mà,
trong vắt của tiếng chim cất lên thành từng nhịp giữa không gian cao rộng khiến
tác giả tưởng như nó đang đọng lại thành từng giọt; ở đây, nhà thơ đã sử dụng nghệ
thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: tiếng chim là âm thanh vốn được cảm nhận bằng
thính giác lại đọng thành từng giọt âm thanh trong vắt – cảm nhận bằng thị giác, nó
không tan biến vào không gian, và thậm chí nhà thơ còn đưa tay hứng những giọt
âm thanh trong trẻo đó – cảm nhận bằng xúc giác, như không muốn nó bị hòa vào
đất trời bao la. Cử chỉ “đưa tay hứng” đã thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhà
thơ trước vẻ đẹp thiên nhiên đất trời, đồng thời thể hiện sự say sưa ngây ngất của
ông trước vẻ đẹp của mùa xuân, của cuộc đời. Có thể thấy, bằng ngôn ngữ thơ giàu
hình ảnh, nhà thơ Thanh Hải đã cho người đọc thấy được tâm hồn lạc quan, yêu
đời và tình yêu thiên nhiên đất nước đến vô ngần của ông.

Khổ 2
Cảm xúc của nhà thơ Thanh Hải về mùa xuân đất nước đã được thể hiện một
cách rõ nét qua khổ thơ thứ hai bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. Thật vậy, ông đã vẽ
ra trước mắt người đọc một bức tranh mùa xuân rộn rã, nên thơ, tràn đầy sức sống :
“Mùa xuân người cầm súng/ Lộc giắt đầy trên lưng/Mùa xuân người ra đồng/Lộc
trải dài nương mạ.”. Không phải ngẫu nhiên mà trong khổ thơ lại xuất hiện hình
ảnh sóng đôi “người cầm súng” và “người ra đồng”, họ là những con người làm
nên lịch sử với hai nhiệm vụ cơ bản của đất nước ta trong suốt quá trình phát triển
lâu dài: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điệp ngữ “mùa xuân, người, lộc” giúp câu
thơ có nhịp điệu sôi động của ngày hội mùa xuân đồng thời nhấn mạnh sức sống
của con người cùng những hi vọng, cố gắng dựng xây quê hương đất nước ngày
một phát triển. Mùa xuân không chỉ chắp thêm đôi cánh sức mạnh cho con người
mà còn đem đến những “lộc” non tươi mới, căng tràn nhựa sống. “Lộc” không chỉ
mang nghĩa thực là nhành non chồi biếc của cỏ cây mùa xuân, nó còn mang ý
nghĩa ẩn dụ tượng trưng; đối với người chiến sĩ, “lộc” là cành lá ngụy trang nhằm
che mắt quân thù trong cuộc chiến bảo vệ đất nước đầy cam go, ác liệt; đối với
người nông dân, “lộc” lại là những mầm non trải dài trên những cánh đồng bát
ngát, báo hiệu cho một mùa bội thu. Mùa xuân theo bước chân người lính ra chiến
trường, theo người nông dân ra đồng ruộng; họ đã gieo lộc, gieo sức xuân đến khắp
nơi trên mọi miền Tổ quốc. Những đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là tuổi trẻ
đầy ước mơ, hoài bão, khát vọng trong tâm hồn mỗi con người; nó là thành quả
hôm nay và niềm tin, hi vọng ngày mai tươi sáng. Nhịp điệu khổ thơ càng lúc
càng dồn dập:”Tất cả như hối hả/Tất cả như xôn xao”. Điệp ngữ “tất cả như” cùng
các từ láy biểu cám “hối hả”, “xôn xao” đã tô đậm khí thế hào hùng, mạnh mẽ và
nhịp điệu khẩn trương, tất bật của con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Dường như ta đang nghe được tiếng lòng của tác giả như reo vui,
náo nức trước tinh thần, khí thể lao động tươi vui, rộn rã cùng sức xuân mãnh liệt
trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Có thể nói, bằng ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh,
nhà thơ Thanh Hải đã diễn tả thật rõ nét tình yêu cuộc sống và cảm xúc dạt dào
trước quê hương đất nước trong khổ thơ trên.
Khổ 3
Cảm xúc của nhà thơ Thanh Hải về mùa xuân đất nước đã được thể hiện một
cách chân thực qua khổ thơ thứ ba bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”. Thật vậy, xúc cảm
trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời khi vào xuân, tác giả đã có cái nhìn sâu sắc và
tự hào về lịch sử ngàn năm của dân tộc: “Đất nước bốn ngàn năm/Vất vả và gian
lao”. “Đất nước” được nhân hóa mang các trạng thái của con người “vất vả, gian
lao”, làm cho đất nước như một người mẹ tảo tần, vất vả, qua đó làm nổi bật sự
trường tồn của Tổ quốc Việt Nam. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm
vóc nước ta đã thấm biết bao xương máu, mồ hôi và cả nước mắt của bao thế hệ
qua những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Nhưng dù những
thử thách có khó khăn, gian khổ đến đâu cũng không thể khuất phục được dân tộc
Việt Nam ta:” Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”. Phép tu từ so sánh được
nhà thơ sử dụng vô cùng đặc sắc – “đất nước” được so sánh với “vì sao”; sao là
nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân
của sự vĩnh hằng trong vũ trụ; sao cũng là hình ảnh rạng người trên lá cờ Tổ quốc,
trên mũ các anh bộ đội. So sánh như vậy là nhà thơ nhằm nhấn mạnh, ngợi ca đất
nước Việt Nam trường tồn, tráng lệ đang hướng về một tương lai tươi sáng. Điệp
ngữ “đất nước” được lặp lại 2 lần cùng động từ “đi lên”, phó từ “cứ” thể hiện quyết
tâm cao độ, hiên ngang vượt lên phía trước, vượt qua mọi khó khăn. Qua những
biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ, nhà thơ Thanh Hải đã bộc lộ niềm tự hào về một
đất nước Việt Nam anh hùng và giàu đẹp. Đất nước ta sẽ mãi trường tồn, vĩnh cửu
cùng vũ trụ, không bao giờ mất đi và không một thế lực nào có thể ngăn cản được,
chắc chắn đất nước sẽ tỏa sáng như những vì sao trong hành trình đi đến tương lai
rực rỡ, đi đến bến bờ hạnh phúc. Đó là ý chí quyết tâm, niềm tin sắt đá và niềm tự
hào, lạc quan của nhà thơ cũng như của cả dân tộc. Có thể nói, bằng ngôn ngữ thơ
giàu hình ảnh, nhà thơ TH đã thể hiện sự lạc quan, tin tưởng và ngợi ca sức sống
của quê hương đất nước, của dân tộc khi xuân về.
Khổ 4
Lời ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ TH đã được thể hiện một
cách rõ nét qua khổ 4 bài thơ “Mxnn”. Thật vậy, khát vọng và mong muốn được
dâng hiến cho cuộc đời của nhà thơ được bày tỏ qua những hình ảnh đẹp, tự nhiên :
“d/c 4 câu luôn”. Nếu như ở khổ thơ mở đầu, đại từ “tôi” gắn liền với những cảm
nhận rất riêng của nhà thơ về mùa xuân thiên nhiên, đất trời thì ở khổ thơ này, đại
từ “ta” đã ngân lên khát vọng tha thiết, mở đầu cho một lời ca mới. Đại từ “ta” ở
đây không chỉ nói riêng nhà thơ mà còn đại diện cho biết bao cái “tôi” khác, cho
nhiều cuộc đời với nhiều lứa tuổi khác nhau cùng mang trong mình khát vọng được
cống hiến phần tốt đẹp dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước; đó
không chỉ là ước muốn của nhà thơ mà là ước nguyện chung của mọi người, là sự
thống nhất giữa cá nhân và tập thể, giữa cái riêng với cái chung, đồng thời tạo sắc
thái thiêng liêng, trang trọng của 1 lời nguyện ước. Điệp từ “ta” và điệp ngữ “ta
làm” vừa khiến âm điệu thơ nhẹ nhàng như một lời tâm tình thủ thỉ, thiết tha, vừa
nhấn mạnh ước nguyện tha thiết, cháy bỏng của nhà thơ TH muốn được hòa nhập
cái tôi cá nhân vào cái ta rộng lớn của cuộc đời, góp phần khẳng định tình cảm và
trách nhiệm của ông đối với đất nước . Những động từ “làm, nhập” biểu lộ sự hóa
thân diệu kì – hóa thân để sống đẹp, sống có ích cho cuộc đời chung. Trong cái lớn
lao của mùa xuân đất trời, nhà thơ không mơ ước cao xa vĩ đại mà chỉ xin nguyện
làm con chim hót, một cành hoa, một nốt trầm. Những hình ảnh liệt kê thật giản dị,
gần gũi với đời sống con người nhưng cũng rất hàm súc: ý nói muốn cống hiến cho
đời một cách tự nhiên như cách con chim cất tiếng hót làm cho đời thêm vui,cành
hoa tỏa sắc hương ngọt ngào cho đời thêm đẹp, và như một nốt trầm trong bản hòa
tấu muôn điệu, không véo von mà chỉ nhẹ nhàng, nền nã, mà âm vang lại làm xao
xuyến lòng người. Tất cả đều thể hiện khát vọng tha thiết của nhà thơ TH muốn
được cống hiến hết mình cho cuộc đời chung một cách vô tư, khiêm nhường, thầm
lặng. Một suy nghĩ thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao! Các hình ảnh “bông
hoa, tiếng chim” đã xuất hiện ở khổ thơ đầu được lặp lại tạo sự đối ứng nhịp
nhàng, mang ý nghĩa mới: đó là sự cống hiến âm thầm, lặng lẽ tài năng nhỏ bé của
mình vào cái lớn lao chung. Có thể nói, bằng những lời thơ bình dị mà hàm súc,
nhà thơ TH đã thể hiện một cách xúc động ước nguyện sống đẹp của mình trong
khổ thơ trên.
Khổ 5
Lời ước nguyện chân thành, tha thiết của nhà thơ TH đã được thể hiện một
cách rõ nét qua khổ 5 bài thơ “Mxnn”. Thật vậy, lẽ sống của ông được thể hiện
trong những vần thơ sâu lắng: “2 câu đầu”. Ngay ở câu thơ đầu tiên là một hình
ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo “mùa xuân nho nhỏ” – chỉ khát vọng, lẽ sống cao đẹp và ý
thức khiêm nhường của nhà thơ TH. Ông tâm niệm sống 1 cuộc đời đẹp như những
mùa xuân, tâm hồn mãi tràn trề sức trẻ để đóng góp tài năng, trí tuệ, sức lực của
mình cho đất nước. Nhà thơ đã ý thức đúng đắn được mối quan hệ giữa cá nhân và
cộng đồng, biết hướng cuộc đời riêng vào cuộc đời chung; đây là ý nghĩ cao đẹp
của nhà thơ TH và cũng đồng thời là lí tưởng sống của con người, nó đã trở thành
khát vọng sống của ông, của mọi người, của cả một thời đại. Cặp từ láy “nho
nhỏ”,“lặng lẽ” cùng với động từ “dâng” đã diễn tả lối sống khiêm nhường, chân
thành mà giản dị, khiêm nhường, không đòi hỏi bất kì sự đền đáp nào của tác giả.
Đối với ông, nó không phải mong muốn nhất thời mà là cả một cuộc đời “2 câu
sau”. Điệp ngữ “dù là” và phép đối lập giữa 2 hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi” –
biểu tượng cho tuổi trẻ và “khi tóc bạc” – biểu tượng cho tuổi già như tiếng lòng tự
dặn đinh ninh: dẫu có ở giai đoạn nào của cuộc đời, khi tuổi hai mươi tràn đầy sức
trẻ hay khi về già, ốm đau bệnh tật thì vẫn phải sống có ích cho đất nước, cho cuộc
đời chung. Lời thơ ngân vang mạnh mẽ như một lời thề, lời thách thức mọi khó
khăn, bệnh tật của tuổi già, khẳng định khát vọng thiết tha mong muốn được cống
hiến bất chất thời gian, tuổi tác. Về hoàn cảnh sáng tác của bài thơ, ông sáng tác
tác phẩm “Mxnn” khi đang nằm trên giường bệnh, 1 tháng trước khi ông trở về với
cát bụi nhưng không gợi chút băn khoăn nào về bệnh tật. Ông đã từng trải qua 2
cuộc kháng chiến, đã cống hiến trọn cuộc đời và sự nghiệp của mình cho cách
mạng mà vẫn lặng lẽ cháy bỏng một khát khao được dâng hiến. Ôi, thật đáng khâm
phục! Có thể nói, bằng những hình ảnh thơ giản dị mà hàm súc, nhà thơ TH đã thể
hiện thật xúc động ước nguyện tha thiết được sống đẹp của mình trong khổ thơ
trên.
Khổ cuối
Lời ngợi ca quê hương đất nước chân thành, thiết tha qua làn điệu dân ca xứ
Huế của nhà thơ TH đã được thể hiện một cách rõ nét qua khổ thơ cuối bài thơ
“mxnn”. Thật vậy, ngay ở câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã xin hát về quê hương như 1
lời tạ từ: “Mùa xuân…. Nam bình”. Câu ca của người con xứ Huế thân yêu đã vút
lên tha thiết, vang vọng như trải dài vô tận, chan chứa tình yêu thương. Đó là điệu
Nam ai buồn man mác cùng điệu Nam bình dịu dàng, trìu mến. Nhà thơ cũng hát tạ
từ “Nước non …tình” và “Nhịp phách..”. Lời thơ ngân vang, bộc lộ niềm tin yêu
tha thiết, mãnh liệt vào cuộc đời, đất nước của tác giả qua những giá trị truyền
thống bền vững. Khúc dân ca ấy cứ ngân lên ngọt ngào trong lòng người đọc như 1
bản hòa tấu bất tận, nhấn mạnh cuộc sống tươi đẹp đầy sắc xuân của quê hương,
qua đó khẳng định lối sống nghĩa tình của ông cha ta. Điệp ngữ “nước non ngàn
dặm” đã khẳng định sự bao la, rộng lớn của quê hương đất nước với đất rộng sông
dài cùng vẻ đẹp thấm đượm nghĩa tình của mảnh đất quê hương; qua đó bộc lộ
niềm tự hào của nhà thơ TH về đất nước VN thân yêu và tình người nơi đây. Cặp
vần bằng “bình, mình, tình” đã tạo ra âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng như những câu
hò xứ Huế cứ ngân dài, ngân mãi rồi lắng đọng lại trong lòng chúng ta, ru hồn
người đọc trên con đò trôi êm ả rồi khép lại trong âm hưởng rộn ràng, xao động
của “nhịp phách tiền đất Huế”. Ngoài ra, người đọc còn có thể thấy rằng lòng yêu
đời, yêu cuộc sống đã trỗi dậy thật mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ khi cánh cửa
cuộc đời đang dần dần khép lại. Những vần thơ sâu sắc trên là khúc ca yêu đời, yêu
cuộc sống luôn vang vọng trong tâm hồn của tác giả. Nó cũng như một khúc hát
tâm tình thủ thỉ cuối cùng mà ông dành tặng cho cuộc sống trước khi phải rời xa
nơi trần gian; chính điều đó khiến ta thêm yêu quý, trân trọng tiếng hát và tấm lòng
nhà thơ . Có thể nói, âm hưởng ngọt ngào của làn điệu dân ca xứ Huế khép lại bài
thơ đã để lại dư vang tha thiết trong lòng người đọc về tình yêu cuộc sống, về sự
cống hiến chân thành của nhà thơ TH.

You might also like