Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 4

Cù Huy Cận (1919-2005), bút danh Huy Cận là một trong những đại biểu xuất sắc

nhất của phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là một nhà thơ có nhiều đóng góp to lớn cho
nền văn học Việt Nam xuyên suốt qua từng giai đoạn lịch sử của dân tộc. Trước cách
mạng tháng Tám 1945, ông đã góp mặt vào thơ ca đương thời một nỗi sầu nhân thế, một
cái tôi cô đơn, buồn bã trước dòng đời. Với sự pha trộn giữa chất cổ điển và hiện đại, ông
đã gửi gắm nỗi niềm ấy trong nhiều bài thơ, trong đó phải kể đến Tràng giang.
Tràng giang được gợi cảm hứng từ một buổi chiều cuối thu trước khung cảnh sống
Hồng đang mùa nước lớn. Bao trùm bài thơ dường như là một nỗi buồn mênh mang vô
tận của thi sĩ khi đứng trước thiên nhiên, đất nước và cuộc đời. Ngay từ nhan đề bài thơ
đã gợi ra chất cổ điển rất riêng của Huy Cận: nhà thơ dùng một từ Hán – Việt để đặt nhan
đề cho bài thơ của mình: “Tràng giang”. Không những vậy, thay vì dùng “Trường giang”
Huy Cận biến âm dùng Tràng giang, hai âm “ang” được đặt liên tiếp là âm mở vừa gợi
được cái dài rộng của không gian vừa gợi được cái mênh mang, bát ngát man mác xúc
cảm trong lòng độc giả.

Trong mạch cảm xúc như thế khổ một mở ra một không gian sông nước rộng lớn
mênh mang:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp


Con thuyền xuôi mái nước song song
Hình ảnh đầu tiên của bài thơ là hình ảnh những con sóng khẽ gợn, nối tiếp nhau
đến vô cùng, vô tận, tầng tầng lớp lớp không dứt, mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”.
Phải chăng nỗi buồn của dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ
tình? Từ láy “điệp điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm khắc khoải, nối tiếp nhau chẳng thể
nào dứt. Tưởng chừng như nhẹ nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và lan tỏa
trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài rộng, mênh mông là hình ảnh “con
thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi theo dòng nước, mặc nhiên lênh đênh,
phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang trống vắng, lẻ loi phó mặc dòng đời xô đẩy,
chảy trôi.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Hình ảnh đối lập “thuyền về- nước lại” được tả giả vận dụng tinh tế kết hợp cùng
thi liệu đầy mới mẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng” không chỉ làm cho câu thơ thêm
uyển chuyển linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính. Con thuyền thì nhỏ bé, hữu
hạn mà dòng sông thì rộng lớn vô hạn, cái hữu hạn đối với cái vô hạn dường như càng tô
đậm cảm giác nhỏ bé cô đơn. “Thuyền về” đối với “nước lại” như nhấn vào cảm giác
chia lìa đôi ngả. Phải chăng chính vì sự chia lìa đó mà dòng sông tràng giang lại càng
thêm u buồn, lặng lẽ? Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu
càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định, nhỏ bé. Cành củi khô ấy gợi đến hình ảnh
một lớp người như nhà thơ trong xã hội xưa, những trí thức tiểu tư sản có ý thức về cái
tôi nhưng lại bế tắc, mất phương hướng trước hiện thực xã hội bấy giờ. Hình ảnh này thể
hiện sức sáng tạo của Huy Cận khi ông đã mang vào thơ một hình ảnh rất đời, rất thực,
tạo ra một hình ảnh mới giàu sức gợi, đậm chất hiện đại phá vỡ tính ước lệ và cổ xưa của
thơ Đường. Như vậy khổ thơ thứ nhất đã gợi lên không gian mênh mông rộng dài của
sông nước và gợi thân phận nhỏ bé mất phương hướng giữa cuộc đời của nhatho huycan .

Tưởng như nỗi buồn đã dừng lại, nhường chỗ cho chút niềm vui ủi an. Nhưng
sang khổ thơ thứ hai, nỗi sầu càng lớn thêm nhiều chút, thấm sâu vào cảnh vật:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Biện pháp đảo ngữ đẩy từ “lơ thơ” lên đầu đã nhấn mạnh vào cảm giác thưa thớt,
nhỏ bé của những cồn cát. Cùng với đó là hai từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đứng ở đầu và
cuối câu thơ như gợi ra cái hiu quạnh, vắng vẻ, lẻ loi, cô đơn của cảnh vật. Những cồn cát
nhỏ ven sông trong cái gió đìu hiu của lau lách, hoang vu như làm dấy lên trong lòng
người nỗi cô đơn, buồn vắng. Không gian tĩnh lặng ấy càng được nhấn:

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều


Chợ thường gắn với hình ảnh tươi vui, bởi đó là nơi gặp gỡ, giao lưu của người
dân xưa, thế nên chợ vãn, chợ tàn ở đây gợi nên sự vắng vẻ, gợi nỗi buồn man mác. Từ
“đâu” đứng ở đầu câu thơ tạo ra nhiều cách hiểu: có thể là từ để hỏi như đâu đó tiếng chợ
chiều vọng đến, cũng lại có thể là từ phủ định, làm gì có, đâu có đâu tiếng chợ chiều. Đến
cả tiếng chợ vãn, chợ tan mà cũng như có như không thì bức tranh đó phải tĩnh lặng,
buồn vắng tới mức nào co chứ? Bút pháp lấy động tả tĩnh đã được tác giả sử dụng thật
điêu luyện, gợi ra cái vô hạn của không gian và sự nhỏ bé của sự vật, cái tĩnh lặng của
cảnh sắc với những âm thanh bé nhỏ của cuộc sống. Từ sự đối lập tương phản đó bức
tranh buổi chiều, cảnh ngày tàn hiện lên:

Nắng xuống trời lên sâu chót vót


Sông dài trời rộng bến cô liêu
Huy Cận đã có sự quan sát tinh tế và kĩ càng để nhận thấy nắng càng xuống, trời
càng lên cao, không gian như được mở ra hai chiều rộng dài đến bát ngát. Nếu thông
thường chúng ta dùng từ “chót vót” để tả độ cao thì ở đây ông dùng từ này để chỉ độ sâu.
Ng đọc như hình dung ra một chiều khác nữa của không gian sông nước và không gian
được đẩy tới tận cùng, tạo ra một chiều kích mới. Phải sâu đến độ nào để thi nhân phải
thốt lên “sâu chót vót” chứ? Cụm từ sáng tạo này càng khiến cho khung cảnh thêm rợn
ngợp, cái lẻ loi chống chếnh của con người càng được tô đậm thêm. Ở câu thơ sau, một
lần nữa các chiều kích của không gian được nhắc lại trong cái vô hạn của đất trời. Không
gian càng mở ra bao nhiêu thì cảm giác cô liêu càng được nhấn mạnh bấy nhiêu: cái điểm
dừng bé xíu của bến cô liêu như lạc giữa đất trời, lẻ loi đến cô độc. Như vậy khổ thơ thứ
hai trong cái nhìn bao quát toàn cảnh của thi nhân đã mở rộng không gian ra mọi chiều
kích, tới không giới hạn để rồi nhìn lại con người càng thêm bé nhỏ, trống vắng và cô
quạnh.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng


Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Bèo, một hình ảnh quen thuộc trong văn học cổ điển ám chỉ những kiếp người
lênh đênh, vô định, mặc cho dòng đời đẩy đưa, gợi cảm giác chia li, đã xuất hiện ngay
đầu thi phẩm. Hình ảnh “bèo dạt về đâu” chính là một lời tự hỏi, là sự đau đớn trước số
phận, trước thời cuộc khi chính bản thân ông cũng không thể tìm ra một lối đi đúng đắn
cho bản thân, dù muốn thay đổi thế sự nhưng chịu bất lực. Cụm “hàng nối hàng” ở đây ý
chỉ số phận bèo dạt như ông trong xã hội lúc bấy giờ không phải hiếm mà là cảnh ngộ
chung của một thế hệ, một tầng lớp những con người yêu nước, có lòng mà không có sức,
bế tắc và đau xót vô cùng. Đến câu thơ tiếp “Mênh mông không một chuyến đò ngang”
không chỉ là bộc lộ cảnh tượng hoang vắng, quạnh quẽ của dòng sông, bộc lộ nỗi cô đơn
trong lòng, mà còn chính là để nói lên thực trạng đất nước lúc bấy giờ. Giữa cảnh đất
nước tăm tối, ông muốn tìm một con thuyền, một ngọn lửa sáng để cùng nhau đấu tranh
giải phóng dân tộc, thì nhìn lại dòng sông lại im ắng “không một chuyến đò ngang, ko
một con người nào có thể dẫn dắt đưa lối, kéo những tiểu tư sản trí thức như Huy Cận ra
khỏi sự hoang mang, vô định. Sự thực ấy khiến người ta không khỏi xót xa cho một đất
nước, một dân tộc, và cả những con người lạc lõng. Bằng bút pháp tài tình, Huy Cận đã
đặc tả sự cô quạnh bằng cái không tồn tại: không cầu, không đò. Phải chăng đó chính là
không có sự kết nối của con người,là sự cô đơn, hoang vắng đến tột cùng? Trong sự
vắng lặng đó không gian vẫn tiếp tục được trải ra đến vô cùng của bờ xanh với bãi vàng.
Bức tranh xuất hiện những gam màu vốn không đen tối nhưng lại chẳng thể làm cảnh sắc
thêm tươi sáng, thêm sức sống. Trước một cảnh sắc như thế lòng người sao có thể vui
tươi, háo hức? Hay chính vì lòng người nhiều tâm tư trĩu nặng mà cái nhìn với cảnh cũng
tấm đẫm ưu tư?

Từ sự dẫn đường đó, khổ thơ thứ tư bộc lộ rõ hơn tâm tình tác giả:

Lớp lớp mây cao đùn núi bác


Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòn quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Hai câu đầu của khổ thơ mang đậm ý vị của Đường thi, nhuốm màu sắc cổ điển.
Đó là cảnh buổi chiều, cảnh hoàng hôn với cánh chim và mây - những thi liệu vô cùng
quen thuộc trong thơ ca. Cảnh sắc hùng vĩ nên thơ hiện ra qua những lớp mây cao cùng
những ngọn núi lấp lánh ánh bạc phía chân trời, cùng với cánh chim chiều nghiêng bóng
vội vã tìm về tổ ấm. Trong cái nghiêng của cánh chim dường như chở nặng cả bầu trời,
bóng chiều tà rơi dần xuống. Câu thơ vừa quen thuộc vừa mới mẻ cho thấy cái tinh tế
riêng của thi sĩ. Cánh chim nhỏ bé nghiêng bóng cũng nhấn mạnh sự tương phản giữa
những thực thể nhỏ bé tồn tại trong bức tranh thiên nhiên với không gian rộng lớn mang
tầm vũ trụ. Sự tương phản ấy một lần nữa bộc lộ cái tôi nhỏ nhoi, cô độc của tác giả.

Hai câu thơ sau mượn ý thơ của Thôi Hiệu - một nhà thơ nổi tiếng đời Đường
trong bài Hoàng hạc lâu:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn


Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Màu khói trong ý thơ xưa gợi không khí sum họp khiến người tha hương khát
khao tình quê. Nếu Thôi Hiệu cần một màu khói để gợi nỗi nhớ nhà thì nay trong thơ
Huy Cận không cần màu khói ấy, nỗi nhớ nhà, tình yêu quê hương đất nước vẫn thường
trực và trào sôi. Từ láy "dợn dợn" diễn tả những con sóng vời theo con nước lan tỏa ra
tích tắc cho thấy nỗi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi.
Có lẽ chính tình yêu thầm kín mà da diết dành cho quê hương đất nước ẩn chứa trong tâm
chàng thi sĩ đa sầu ấy đã giúp ông viết nên một tứ thơ hay và xúc động đến vậy. Bài thơ
khép lại ở đây với nỗi nhớ quê, với tình yêu nước sâu lắng.

Tràng giang là một thi phẩm đặc sắc của Huy Cận nói riêng và phong trào thơ mới
nói chung. Nó không chỉ tiêu biểu cho phong cách thơ, hồn thơ Huy Cận mà dường như
nó còn thể hiện tâm tư của một lớp người lúc bấy giờ. Những con người nhỏ bé, bế tắc
mất phương hướng trước dòng sông cuộc đời nhưng chưa bao giờ tâm hồn lìa bỏ khỏi
quê hương, tình yêu quê hương đất nước vẫn chảy trong họ những một dòng sông mãnh
liệt và bền vững để chống đỡ với những sóng gió của dòng sông cuộc đời. Vẻ đẹp của
“Tràng giang” có lẽ còn ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất cổ điển và chất hiện đại
làm nên một thi phẩm độc đáo.

You might also like