Download as odt, pdf, or txt
Download as odt, pdf, or txt
You are on page 1of 25

TRANH CHẤP ĐỀN PREAH VIHEAR

1. TÓM TẮT....................................................................................................................................... 2

1.1. Tóm tắt vụ việc...................................................................................................................... 2

1.1.1. Khái quát về sự ra đời của đền Preah Vihear................................................................. 2

1.1.2. Lịch sử tranh chấp đền.................................................................................................... 2

1.2. Lập luận của các bên:........................................................................................................... 3

1.2.1. Lập luận của Nguyên đơn (Campuchia)......................................................................... 4

1.2.2. Lập luận của Bị đơn (Thái Lan)..................................................................................... 9

1.3. Lập luận và phán quyết của tòa án.................................................................................... 12

1.3.1. Lập luận toà án............................................................................................................. 12

1.3.2. Phán quyết của Tòa án:................................................................................................. 14

2. QUAN ĐIỂM CỦA NHÓM........................................................................................................ 16

2.1. Quan điểm của học giả về vụ kiện...................................................................................... 16

2.1.1. Phía học giả của Campuchia:........................................................................................ 16

2.1.2. Phía học giả của Thái Lan............................................................................................ 17

2.2. Phán quyết của cơ quan tài phán về vụ việc có liên quan............................................... 17

2.2.1. Vụ tranh chấp giữa Hà Lan và Hoa Kỳ đối với đảo Palmas.........................................17

2.2.2. Lập luận của Max Huber.............................................................................................. 18

2.2.3. Lập luận của các bên.................................................................................................... 20

2.3. Phán quyết của tòa án......................................................................................................... 22

2.4. Quan điểm của nhóm:......................................................................................................... 24

2.5. Bài học kinh nghiệm............................................................................................................ 24

1
TÓM TẮT

Tóm tắt vụ việc

Khái quát về sự ra đời của đền Preah Vihear

Preah Vihear là ngôi đền thuộc khu vực núi Dangrek - Campuchia, gần với biên
giới Thái Lan. Ban đầu, ngôi đền Preah Vihear là nơi tu hành của một nhóm tu sĩ,
người ta vẫn tìm thấy dấu vết trong các vách hang động, nơi nhưng ẩn sĩ sinh sống, có
những đặc tính của người Khmer. Sự thành lập tu viện này liên quan tới việc Hoàng tử
Indra Ayudha, con trai vua Jayavarman II xây dựng một ngôi đền thờ Shiva vào đầu
thế kỷ 9. Hoàng tử đã chuyển một tấm bia Linga lớn ở đền Wat Phou đến đó. Tuy
nhiên, nguồn gốc của đền Preah Vihear có lẽ còn cổ hơn.

Phần nửa đền nằm bên vườn quốc gia Khao Phra Viharn của huyện Kantharalak
thuộc tỉnh Sisaket (Thái Lan), một nửa đền thuộc tỉnh Preah Vihear (Campuchia).
Ngôi đền được xây trên một mỏm đá thuộc lãnh thổ Campuchia (trước đây được cho là
lãnh thổ Thái Lan), tuy nhiên lối dẫn vào ngôi đền Preah Vihear nằm trên một vách đá
dựng đứng cheo leo và không thể tiếp cận từ phía Campuchia. Điều này đồng nghĩa
rằng để vào được bên trong đền, bắt buộc du khách phải đi từ phía cổng của vườn quốc
gia Khao Phra Viharn của Thái Lan.

Lịch sử tranh chấp đền

Năm 1861, Pháp chiếm Đông Dương và trở thành nước bảo hộ của Campuchia.
Đến năm 1904, Thái Lan (được gọi là Xiêm cho tới năm 1949) và Pháp đã cùng nhau
thành lập một Ủy ban chung để thực hiện việc phân định biên giới giữa hai nước. Cho
tới ngày 13 tháng 2 năm 1904, Pháp và Xiêm ký Hiệp định phân định biên giới, Điều 3
của Hiệp định quy định rằng việc phân chia các đường biên giới sẽ được thực hiện bởi
Ủy ban chung. Năm 1907, sau nghiên cứu, người Pháp đưa ra bản đồ mà trong đó xác
định vị trí chính xác của đền Preah Vihear và các vùng lân cận. Dựa theo tấm bản đồ
này, ngôi đền Preah Vihear thuộc địa phận của Quốc gia Campuchia.

2
Vào ngày 9 tháng 5 năm 1941, thông qua sự hòa giải của phát xít Nhật, Pháp và
Xiêm ký Hiệp định hòa bình. Hiệp định này áp đặt một đường biên giới mới với
Campuchia, theo đó ngôi đền Preah Vihear thuộc về Thái Lan.

Sau khi Nhật đầu hàng, Pháp và Xiêm ký Hiệp định mới vào ngày 17 tháng 11
năm 1946, bãi bỏ bản Hiệp định cũ đã được ký kết vào năm 1941, thiết lập lại hiện
trạng trước kia, công nhận ngôi đền thuộc chủ quyền Campuchia. Theo đó, điều 3 của
Hiệp định 1946 nêu ra sự thành lập Ủy ban hòa giải và quy định nhiệm vụ của Ủy ban
là kiểm tra lại những xác nhận của các điều khoản của Hiệp định 1904 và Hiệp định
1907 được duy trì theo điều 22 của Hiệp định 1937. Đến năm 1954, sau khi quân đội
Pháp rút khỏi Campuchia, Thái Lan liền chiếm giữ ngôi đền, Campuchia phản đối và
yêu cầu Tòa án quốc tế phân xử. Tòa án xem xét vụ việc không chỉ dựa trên những di
sản văn hóa, mà còn cân nhắc những biện pháp chuyên môn kỹ thuật phân định ranh
giới. Đến ngày 15 tháng 6 năm 1962, Tòa án quốc tế đã đưa ra phán quyết phần thắng
thuộc về Campuchia và yêu cầu Thái Lan trả lại mọi di vật (kể cả những bức tượng
thờ) đã đưa ra khỏi ngôi đền trước đó.

Ngôi đền được Chính quyền Campuchia mở cửa trong một thời gian ngắn cho du
khách ghé thăm vào năm 1982. Một năm sau đó (tức năm 1983), ngôi đền một lần nữa
bị chiếm đóng bởi quân Khmer Đỏ.

Mãi đến một khoảng thời gian sau đó, cuối năm 1998 đền được mở cửa lại và
Campuchia hoàn tất việc xây dựng đền vào năm 2003. Năm 2007, Campuchia đề nghị
UNESCO công nhận Di sản văn hóa cho đền Preah Vihear nhưng đề nghị này nhanh
chóng bị bác bỏ do vẫn còn tồn tại những bất đồng với Thái Lan và vì một phần Thái
Lan bác bỏ, phản đối đề nghị này của Campuchia.

Tháng 7 năm 2008, Campuchia thành công đưa đền Preah Vihear vào danh sách
di sản thế giới UNESCO, từ đó làm gia tăng mức độ căng thẳng mâu thuẫn trong khu
vực. Các vụ đụng độ biên giới giữa hai nước diễn ra trong suốt những năm 2008 và
2009, khiến nhiều người bị thương vong và phải di dời. Cho tới năm 2011, Campuchia
kiện Thái Lan ra ICJ lần thứ hai, cáo buộc Thái Lan vi phạm phán quyết năm 1962.
Cho tới tháng 11/2013, ICJ ra phán quyết bác bỏ cáo buộc của Campuchia, nhưng tái
khẳng định chủ quyền của Campuchia đối với khu vực xung quanh đền Preah Vihear.
Sau phán quyết, hai nước dần bình thường hóa quan hệ và hợp tác quản lý đền Preah
Vihear.
3
Lập luận của các bên:

Lập luận của Nguyên đơn (Campuchia)

Campuchia đưa ra những lập luận của mình dựa trên 3 điểm cốt lõi sau: Theo
điều ước phân chia lãnh thổ giữa Campuchia và Thái Lan, chủ quyền trên phần lãnh
thổ nơi có đền Preah Vihear nằm ở dãy Dangrek 102 o Kinh độ Đông và 14o25 Vĩ độ
Bắc thuộc về Campuchia; Campuchia chưa từng từ bỏ chủ quyền trên phần đất có đền
Preah Vihear và luôn tiếp tục thi hành quyền làm chủ của khu vực đó có hiệu quả;
Thái Lan không có hành động thể hiện của quyền tự nhiên của mình trên vùng đất có
đền Preah Vihear để thay thế chủ quyền được thiết lập bởi Campuchia

Chủ quyền thuộc về Campuchia

Từ năm 1863 đến năm 1953 - 1954, Campuchia dưới sự bảo hộ của Pháp và
được Pháp đại diện cho Campuchia trong những lần ngoại giao quốc tế theo nguyên
tắc bảo hộ, đã phân chia biên giới giữa Campuchia và Thái Lan1.

Sử dụng Điều ước 13/2/2004 để giải quyết tranh chấp hiện tại: “Article 1. “The
frontier between Siam and Cambodia starts on the left shore of the Great Lake, from
the north of the river Stung Roluos; it follows the parallel from that point eastwards
until it meets the river Prek Kompong Tiam; then, turning northwards,it lies dong the
meridian from that meeting point to the mountain chain of the Phnom Dangrek. From
there it follows the watershed between the basin of the Nant Sen and the Mekong, on
the one hand, and the Nant Moun, on the other hand, and rejoins thePhnom Padang
chain the crest of which it follows eastwards to the Mekong. Upstream from this
point, the Mekong remains the frontier of the Kingdom of Siam, in
accordance with Article I of the Treaty of 3 October 1893." hay tạm dịch là “Biên giới
giữa nước Xiêm và Cao Miên bắt đầu từ bờ phía tả của Biển Hồ (Great Lake), tính từ
phía bắc của sông Stung Roluos; theo vĩ tuyến từ điểm đó về hướng đông cho đến khi
gặp sông Prek Kompong Tiam; sau đó, rẽ về hướng bắc, theo kinh tuyến từ điểm gặp
đó đến dãy núi Dangrek. Từ đó, theo đường phân chia lưu vực giữa lưu vực của sông
Nant Sen và sông Mekong, ở một phía, và sông Nant Moun, ở phía khác, và nối lại với
dãy núi Padang, mà nó theo sườn núi về hướng đông đến sông Mekong. Ngược dòng

1 Phân chia theo Điều ước 13/2/1904


4
từ điểm này, sông Mekong vẫn là biên giới của Vương quốc Xiêm, theo Điều I của
Điều ước ngày 3 tháng 10 năm 1893”

Điều 3 của Điều ước quy định rằng việc phân chia những đường biên giới sẽ
được thực hiện bởi một hội đồng ủy ban gồm người của các bên tranh chấp do các bên
tranh chấp chỉ định.

Công việc phân định ranh giới được tiếp tục tiến hành từ 1904 đến 1907. Liên
quan đến việc phân định ranh giới ở dãy Dangrek nơi có đền Preah Vihear, đường biên
giới cuối cùng được thông qua bởi ủy ban phân định ranh giới trong suốt 1907. Đền
Preah Vihear nằm ở phía Bắc của đường biên giới ở 102◦20 Kinh độ Đông và 14◦25
Vĩ độ Bắc. Đường biên giới này được tán thành chính thức bởi nghị định thư đính kèm
theo điều ước 23/3/1907 giữa Pháp và Xiêm. Phần lời nói đầu của nghị định thư: “For
the purpose of avoiding every possibility of difficulty in the delimitation - Để tránh
mọi khả năng gây ra khó khăn trong việc phân định biên giới.”. Trong phần I, Hiệp
ước miêu tả đường biên giới trong khu vực dãy Dangrek như sau: “From the point in
the Dang Rek above mentioned the frontier follows the watershed between the basin of
the Great Lake and the Mekong on one side and the basin of the Nam Mount on the
other till it reaches the Mekong below Pakmoun,at the mouth of the Huei Doue,in
conformity with the line agreed to by the preceding Commission of delimitation on
18/01/1907” (tạm dịch: Từ điểm trên dãy Dangrek đã đề cập ở trên, biên giới đi theo
đường phân chia lưu vực giữa lưu vực của Biển Hồ và sông Mekong ở một phía và lưu
vực của sông Nam Mount ở phía khác cho đến khi nó đến sông Mekong dưới Pak
Moun, ở cửa sông Huei Doue, phù hợp với đường biên giới được Ủy ban phân định
trước đó thống nhất vào ngày 18/01/1907) và ngoại trừ khoảng thời gian Nhật Bản
chiếm giữ Đông Nam Á2, đường biên giới giữa Campuchia và Thái Lan không có sự
thay đổi nào.

Ngoài ra, Hiệp định Thương mại, Hữu nghị và Hàng hải 3 ở Bangkok quy định:
“Các bên tranh chấp xác nhận và đảm bảo tôn trọng đường biên giới giữa lãnh thổ các
bên đã được thiết lập bởi những điều ước trước đó” 4. Tương tự là Hiệp định Thương

2 Trong suốt thế chiến thứ II


3 14/2/1925
4 Điều 2
5
mại, Hữu nghị và Hàng hải giữa Pháp và Thái Lan 5 đã xác nhận định nghĩa và sự phân
định biên giới6 từ những điều trước đó

Năm 1907 một nhóm công chức Pháp (3 người trong đó là thành viên của ủy ban
phân định biên giới đã ngừng hoạt động trước đó vài tháng) đã hoàn thành một bộ gồm
11 bản đồ và trao đổi với chính phủ Xiêm về những bản đồ này. Theo phụ lục 1 của
bản đồ, đền Preah Vihear nằm trên lãnh thổ Campuchia. Sau khi Nhật đầu hàng vô
điều kiện, ngày 27/06/1947, một ủy ban hòa giải đặc biệt 7, việc bắt đầu của ủy ban tùy
thuộc vào việc chuyển lãnh thổ liên quan đến đoạn 2 điều I của Settle Agreement 1946
và có thể được bắt đầu vào ngày 5/5/1947 và ủy ban đã thông qua một báo cáo ghi
nhận sự thỏa thuận của chính phủ Xiêm và Pháp về đường biên giới là hợp pháp,
không ủng hộ bất cứ một đòi hỏi nào về lãnh thổ của Thái Lan. Yêu cầu của Thái Lan
đệ trình lên ủy ban hòa giải không đề cập đến vấn đề đường biên giới ở dãy Dangrek
và đền Preah Vihear, đồng thời phần bản đồ được thêm vào theo yêu cầu của Thái Lan
đệ trình ngày 12/5/1947 lên ủy ban chỉ ra một cách rõ ràng rằng Preah Vihear năm bên
phía lãnh thổ Campuchia, không phải ở biên giới Thái Lan. Căn cứ theo những thỏa
thuận, những biên bản liên quan đến việc phân định biên giới và những bản đồ được
vẽ bởi thỏa thuận chung hay bởi bộ phận vẽ bản đồ của một trong các bên được chấp
nhận bởi bên kia, chủ quyền của phần lãnh thổ nơi có đền Preah Vihear thuộc về
Campuchia

Campuchia thi hành có hiệu quả năng lực lãnh thổ8

Từ Điều ước 1904, những nhà cầm quyền đã thường xuyên đến thăm đền Preah
Vihear trong những chuyến đi của họ, Những nhà quản lý tỉnh nơi có đền cũng sắp xếp
những chuyến đến thăm đền cho những nhân vật quan trọng của Pháp và các văn
phòng nước ngoài. Tháng 1/1930, Công sứ Pháp ở tỉnh Kampong Thom cùng với ông
Parmentier - người đứng đầu của bộ phận vẽ bản đồ kiêm quản lý những di tích lịch

5 Ngày 7/12/1937
6 Nguyên văn: It shall also annul, as from the same date, the other
treaties,conventions and agreements concluded between Siam and France, with the
exception,however, of the clauses relating to the definition and delimitation of the
frontiers, the guarantee in respect thereof, and the demilitarization of the Mekong frontier
7 Thành lập năm 1946 với nhiệm vụ “kiểm tra những tranh cãi về dân tộc, đại lý, kinh tế
của các bên thiên về việc xem lại những xác nhận của các điều khoản điều ước 13/2/1904
và điều ước 23/3/1907 được duy trì hiệu lực theo điều 22 điều ước 7/12/1937”
8 Territorial powers
6
sử Campuchia , đón tiếp hoàng tử Damrong - là một thành viên của hoàng gia Xiêm,
sau này trở thành bộ trưởng.

Ngay từ 1907, đền Preah Vihear đã được đề cập trong số những di tích lịch sử
của Campuchia bởi những đại diện của ban bảo tồn và khảo cổ học. Cũng vào năm
1907, di tích đền Preah Vihear được đặt dưới thẩm quyền của ban công cộng thuộc
ngành Khảo cổ học của Campuchia. Những sự kiện và sự thật được viện dẫn trên đã
chứng tỏ rằng Campuchia không bao giờ mất chủ quyền mà còn khẳng định chủ quyền
của mình trên phần đất có đền Preah Vihear và chưa bao giờ Campuchia chấp nhận
hành động nào của Thái Lan thực thi chủ quyền của mình.

Thái Lan không có một hành động nào để thể hiện của quyền tự nhiên của mình
trên vùng đất có đền Preah Vihear để thay thế chủ quyền được thiết lập bởi những
điều ước của Campuchia

Những tình trạng về mặt pháp lý và những sự kiện, thực tế liệt kê ở trên đã được
Thái Lan chấp thuận mà không có bất cứ một tranh cãi hay bảo lưu nào đến năm 1949.
Về mặt pháp lý, việc đền Preah Vihear thuộc Campuchia đã được xác định bởi hàng
loạt điều ước9 và đực xác nhận bởi chính phủ Thái Lan trước Ủy ban Hòa giải ở
Washington.

Về mặt bản đồ quốc gia, Bản đồ được vẽ bởi Cơ quan vẽ bản đồ của Xiêm 10, tờ
số 44 đã chỉ rõ rằng phía đền Preah Vihear nằm ở lãnh thổ quốc gia Campuchia. Cũng
như trước Ủy ban hòa giải Pháp - Xiêm năm 1947, chính phủ Thái Lan đã đưa ra bản
đồ Indo - China11 chỉ rõ địa phận của đền Preah Vihear là Campuchia.

Trong khoảng thời gian từ 1904 đến 1905, chính phủ Thái Lan không hề phản
đối hay thể hiện bất kỳ sự phản kháng ngoại giao nào đối với quyền chủ quyền của
Campuchia tại khu vực Đền Preah Vihear. Ngược lại, chính phủ Thái Lan đã thừa
nhận quyền chủ quyền của Campuchia khi Hoàng tử Damrong đã đến thăm Đền và
được đón tiếp một cách chính thức bởi các nhà lãnh đạo tại đây. Vào ngày 14 tháng 1
năm 1954, trong một phiên trả lời chất vấn, Bộ trưởng Ngoại giao Hoàng thân

9 Điều ước 1907, 1925, 1937, 1946


10 Bản đồ có tỉ lệ 1:200000
11 Bản đồ Indo - China: Trong suốt thế chiến II, lãnh thổ Indo-China bao gồm Cambodia bị
chiếm giữ bởi Nhật Bản. Xung đột vũ trang xuất hiện ở biên giới Pháp, Indo, China và
Thái Lan Được hòa giải bởi chính quyền Nhật như lời nói đầu của “Peace Convention”
giữa Pháp và Thái Lan ký ở Tokyo 9/5/1941 và đưa ra bản đồ Indo - China
7
Naradhip đã tuyên bố rằng ông coi trọng độc lập của Campuchia hơn là việc sở hữu
những tỉnh đã được trả lại cho Campuchia vào năm 1946 và rằng Chính phủ Thái Lan
không theo đuổi chính sách mở rộng lãnh thổ.

Kể từ năm 1949, Thái Lan đã thực hiện những hành động xâm phạm chủ quyền
lãnh thổ của Campuchia, trái với các nghĩa vụ quốc tế của mình. Những hành động này
đã đối mặt với sự phản đối mạnh mẽ về ngoại giao. Công sứ Pháp tại Bangkok đã
chuyển giao kháng nghị đến Thái Lan vào ngày 9/2/1949, khẳng định rằng Preah
Vihear thuộc về lãnh thổ của người Khmer. Đến năm 1953, Campuchia không còn
nằm dưới sự bảo hộ của Pháp, và công sứ Campuchia tại Thái Lan đã tiếp quản vai trò
của Đại sứ quán Pháp. Vào ngày 22/1/1954, đã có sự kháng cự đối với việc rút quân
bảo vệ Campuchia khỏi khu vực theo lệnh của đại diện chính phủ Thái. Chính phủ
Thái đã hành động chiếm giữ đền trước khi Campuchia kịp triển khai quân đội tới bảo
vệ. Những nỗ lực hòa giải đã được thực hiện qua đàm phán ngoại giao giữa Khmer và
Thái từ 18/8 đến 3/9/1958, nhưng không thành công. Những sự kiện này cho thấy Thái
Lan đã từng công nhận chủ quyền của Campuchia đối với Đền Preah Vihear nhưng
sau đó đã cố gắng chiếm đoạt chủ quyền này thông qua các hành động xâm lược từ
năm 1949. Tuy nhiên, những hành động này đã không tạo ra quyền lợi mới và đã bị
Campuchia phản đối qua các kênh ngoại giao. Hơn nữa, hành động của Thái Lan đã vi
phạm Khoản 4, Điều 2 của Hiến chương Liên Hợp Quốc 12, cấm sử dụng vũ lực trong
quan hệ quốc tế chống lại lãnh thổ của bất kỳ quốc gia nào.

Cuối cùng, ngày 20/3/1962, Campuchia đã đệ đơn lên ICJ 13 yêu cầu phân xử
và tuyên bố:

1.Bản đồ của khu vực Dangrek ( phụ lục 1 theo bản ghi nhớ của Campuchia) đã
được vẽ và thông qua trên danh nghĩa của ủy ban chung về phân định biên giới được
thành lập theo Hiệp định 13/2/1904, được dựa trên quyết định của ủy ban này. Bởi
những lí do trên và những thỏa thuận sau đó cũng như hành vi của các bên, bản đồ trên
có giá trị ràng buộc như một hiệp định.

12 Tất cả các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc giúp đỡ đầy đủ cho Liên hợp quốc trong
mọi hành động mà nó áp dụng theo đúng Hiến chương này và tránh giúp đỡ bất cứ quốc
gia nào bị Liên hợp quốc áp dụng các hành động phòng ngừa hoặc cưỡng chế;
13 International Court of Justice - Tòa án Công lý Quốc tế
8
2. Đường biên giới giữa Campuchia và Thái Lan, tại khu vực tranh chấp gần đền
PV chính là đường biên giới được vẽ trên bản đồ của ủy ban chung về phân định biên
giới của Xiêm và Pháp ( Phụ lục I theo bản ghi nhớ của Campuchia).

3. Đền Preah Vihear nằm trên lãnh thổ thuộc chủ quyền của vương quốc
Campuchia

4. Vương quốc Thái Lan có nghĩa vụ rút hết các lực lượng quân đội đóng trên
lãnh thổ Campuchia kể từ năm 1954, gần khu vực đền Preah Vihear.

5. Các công trình điêu khắc, bia, đài kỷ niệm, mẫu vật sa thạch và gốm cổ, những
vật đã bị lấy khỏi đền hay khu vực đền bởi chính quyền Thái Lan từ năm 1954 phải
được vương quốc Thái Lan trả lại cho vương quốc Campuchia.

1.1.1. Lập luận của Bị đơn (Thái Lan)

Đối với luận điểm đầu tiên, Campuchia tuyên bố chủ quyền trên vùng đất tranh
chấp dựa trên Điều ước, tuy nhiên Thái Lan lại cho rằng Điều ước này có sai sót trong
việc định giới biên giới khu vực Dangrek. Điểm quan trọng ở đây là đã có một Ủy ban
đánh giá chung được thành lập để vẽ một bản đồ định giới biên giới giữa hai quốc gia.
Biên giới này sẽ được ấn định trong Điều ước. Công tác điều tra, nghiên cứu và lập
bản đồ được thực hiện bởi hai chuyên gia người Pháp là Keler và Oum. Nhiệm vụ của
Thái Lan là chứng minh qua nghiên cứu kỹ lưỡng về bản đồ và tài liệu của Ủy ban
rằng bản đồ có biên giới được định sẵn trên đó và sau đó trong Điều ước không phải
do hai chuyên gia người Pháp thực hiện và không được trình bày trước Ủy ban thẩm
định. Do đó, nó không thể là cơ sở vững chắc và thuyết phục để xác định các điều
khoản trong Điều ước.

Dựa trên việc xem xét kỹ lưỡng các điều khoản của Điều ước và quá trình hoạt
động của Ủy ban điều tra đối với Điều ước năm 1904 và 1907, rõ ràng là biên giới
được xác định trong Điều ước 1904 và biên giới trong "Phụ lục I" không giống nhau
và không được Ủy ban chấp thuận. Các hoạt động thực tế được tiến hành bởi Ủy ban
đánh giá hay các khuyết điểm trong hiệp định chỉ ra rằng quá trình điều tra chỉ là sự
theo dõi sự kiện cùng thời. Biên giới giữa Thái Lan và Campuchia trong vùng tranh
chấp được xác định trong Hiệp ước 1904 là dòng chảy nước và không bao giờ thay
đổi. Tại đây, dòng chảy nước rõ ràng là ranh giới vách đá bao quanh mũi đất nơi đền
Preah Vihear nằm, và do đó, ngôi đền này thuộc về lãnh thổ Thái Lan.
9
Bác bỏ luận điểm 1 của Campuchia

“Phụ lục I” không được vẽ bởi hai chuyên gia Keler và Oum

Thực tế rằng, không có tấm bản đồ nào của khu vực trong vùng Dangrek 14 đã
được hoàn thành bởi chuyên gia Oum hay Keler vào tháng 3/1907. Trong cuộc chuyển
nhượng giữa Pháp và Thái Lan15, Bộ trưởng Pháp đã khẳng định rằng không có tấm
bản đồ nào được vẽ cho hội đồng đã được hoàn thành, hơn nữa, chuyên gia Oum khảo
sát vùng Dangrek từ khu vực Tonle Repou đến đèo Kel, cho nên vì thế mà phần khảo
sát của chuyên gia Keler phải là vùng ranh giới dẫn đến đèo Kel từ phía Nam. Tấm
bản đồ chỉ ra rằng vùng này đơn giản hơn nhiều cho việc khảo sát hơn là vùng của
Oum. Trên thực tế, nó vẫn chưa được hoàn thành vào thời gian đó 16, điều này chỉ ra
rằng chuyên gia Oum, người phải khảo sát một vùng khó khăn hơn sẽ phải làm thế nào
để hoàn thành tấm bản đồ vào tháng 3. Đó là điều không thể

Với tấm bản đồ sử dụng trong Điều ước, phần chú thích ở cuối bản đồ bao gồm
các ký hiệu đánh dấu các con đường chưa được khám phá và các dòng sông chưa được
điều tra. Phần tham khảo trên bản đồ cũng chỉ rõ rằng một số con đường được ghi
nhận như là chưa được các chuyên gia khám phá. Tương tự, một số dòng sông cũng
chưa được tiếp cận. Điều này cho thấy rằng bản đồ không được vẽ chính xác theo các
vị trí thực tế. Nó được thực hiện bởi một người nào đó dựa trên thông tin mà Keler và
Oum đã thu thập, nhưng cũng bổ sung từ các nguồn khác, có thể là từ các bản đồ đã có
sẵn từ trước. Do đó, các định nghĩa về đường biên giới trong bản đồ này được đơn
phương thiết lập dựa trên các điều khoản trong Điều ước. Những gì có thể nói về các
bản đồ của Keler và Oum là vào thời điểm họ đã có mặt tại Paris, một số người tại đây
đã sử dụng các bản đồ của họ làm cơ sở cho "phụ lục I".

“Phụ lục I” chưa bao giờ được trình ra trước Hội đồng.

Cuộc họp cuối cùng của Hội đồng thẩm định sau Hiệp ước năm 1904 đã diễn
ra17. Điều 8 của Điều ước đề cập đến việc chuyển giao quyền sở hữu một số khu vực
đất đai giữa Pháp và Xiêm. Sau khi được thành lập theo Hiệp ước 1904, Hội đồng này

14 Những khu vực được vẽ trong “Phụ lục I”


15 Ngày 27/3/1907
16 Keler có trợ lý là Liêutenant Dessemond, người được đề nghị hoàn thành tấm bản đồ và
mang đến Korat vào 15/2/1907
17 Tại Pak Moun vào ngày 19/1/1907
10
đã trở lại Băngkok đầu năm 1907 để đàm phán các thỏa thuận. Các cuộc thảo luận của
Hội đồng bao gồm việc xác định biên giới giữa Great Lake và khu vực Dangrek. Tuy
nhiên, theo thông điệp ngày 27/3/1907 từ Bộ trưởng Pháp tại Bangkok gửi Bộ trưởng
Ngoại giao tại Paris, bản đồ do hai chuyên gia Pháp thực hiện vẫn chưa hoàn thành, và
cuộc họp của Hội đồng bị hoãn lại. Sau Hiệp ước 1904, không còn cuộc họp nào khác
của Hội đồng được tổ chức.

Ông Col Bernard, chủ tịch của Hội đồng Pháp, ngay lập tức bắt đầu đàm phán
cho một hiệp ước mới, kết quả là việc phục hồi lại biên giới cũ giữa Great Lake và khu
vực Dangrek, biên giới này đã được thiết lập từ Hiệp ước 1904.

Thứ nhất, Hội đồng này đã giải tán vào tháng 3/1907 trong khi "Phụ lục I" được
in và phát hành vào mùa hè năm 1908 tại Paris. Thứ hai, ngày xuất bản của "Phụ lục I"
cũng được xác nhận bởi một số bằng chứng: Phụ lục số 14, bức thư 18 được gửi bởi Bộ
trưởng Xiêm ở Paris đến Băngkok với 11 tấm bản đồ, bao gồm cả “Phụ lục I” 19; bản
sao của “Phụ lục I” trong phòng bản đồ của Hội đồng Địa lý Hoàng Gia tại Luân Đôn
được đóng dấu tem nhận ngày 07/9/1908 và cuối cùng là năm sản xuất bản đồ đã được
chỉ ra là năm 190820. Do đó, không có tấm bản đồ nào về vùng Dangrek được tạo ra
trước bất kỳ cuộc họp nào của Hội đồng chung, trừ một lần duy nhất vào ngày
2/2/1906, khi Hội đồng đã họp để thảo luận việc chuẩn bị tạo ra một tấm bản đồ. Các
biên bản từ tất cả các cuộc hội nghị của hội đồng diễn ra sau ngày đó đều đã được
kiểm tra. Trong các cuộc họp đó, không có thảo luận nào về biên giới vùng Dangrek,
và cũng không có tấm bản đồ nào được tạo ra. Như vậy, rõ ràng là không có bản đồ
chính xác nào được vẽ ra, và do đó không thể có cơ sở vững chắc nào cho việc xác
định biên giới giữa hai quốc gia trong Điều ước.

Bác bỏ luận điểm thứ 3 của Campuchia

Chính phủ Thái Lan đã tuyên bố năng lực chủ quyền của mình trên các phương
diện, lĩnh vực để chống lại quan điểm của Campuchia về việc Thái Lan không có bất
cứ một hoạt động nào khẳng định chủ quyền của mình tại khu vực đền Preah Vihear về
y tế21, thu thuế22, khảo sát và điều tra dân số23, tu sửa đường xá24, an ninh25

18 Lá thư đã chỉ rõ bộ trưởng đã nhận được tấm bản đồ ở Paris và ngày đó là 29/8/1908
19 Tấm này đã chỉ ra toàn bộ vùng biên giới theo Hiệp ước 1904.
20 Trong cuốn Annales de Geographie
11
Từ các lập luận trên của mình, Chính phủ Thái Lan đệ trình: (1) Những cáo buộc
của Vương quốc Campuchia là không thể duy trì và nên bị từ chối; (2) Tòa xét xử và
tuyên bố đền Preah Vihear nằm trong lãnh thổ Thái Lan.

Lập luận và phán quyết của tòa án

Lập luận toà án

Tòa án dựa trên bản đồ này, do Pháp vẽ vào năm 1904, để xác định ranh giới
giữa Campuchia và Thái Lan. Bản đồ này thể hiện rõ ràng Preah Vihear nằm trong
lãnh thổ Campuchia. Trên thực tế, Chính quyền Thái Lan chưa bao giờ bày tỏ sự phản
đối, thắc mắc, hay nghi ngờ đối với bản đồ Annex 1 kể từ khi nó được công bố. Việc
Thái Lan tiếp tục sử dụng và xuất bản bản đồ Annex 1 thể hiện rõ ràng khu vực đền
Preah Vihear thuộc Campuchia cho thấy họ đã ngầm thừa nhận biên giới được vạch ra
trong bản đồ này. Đồng thời trong những cuộc đàm phán năm 1925 và năm 1937, Hiệp
ước giữa Pháp - Xiêm, Thái Lan hoàn toàn có thể nêu ra vấn đề tranh chấp và sự nhầm
lẫn này nhưng Thái Lan cũng không đưa ra bất kỳ ý kiến phản đối nào về vấn đề tranh
chấp biên giới hay sự nhầm lẫn giữa đường biên giới và đường phân nước. Điều này
củng cố lập luận rằng họ đã chấp nhận biên giới theo bản đồ Annex 1. Đồng thời, Tòa
còn cho rằng những lập luận được đưa ra của bên Thái Lan về sự nhầm lẫn này về cơ
bản là mâu thuẫn nhau. Thái Lan đã có những hành động thể hiện chủ quyền của mình
đối với khu vực đền Preah Vihear do Thái Lan tin rằng mình hoàn toàn có đầy đủ chủ
quyền hợp pháp với toàn bộ khu vực này. Đối với trường hợp Thái Lan thật sự có sự
nhầm lẫn về bản đồ Annex 1 khi cho rằng bản đồ này thực sự vẽ đường phân nước trên
thực tế, đồng thời vì hiểu lầm này Thái Lan đã vô tình chấp nhận bản đồ Annex 1 thì
Thái Lan cũng tin tưởng và chấp nhận rằng khu vực đền Preah Vihear nằm trong lãnh

21 Tuyên thệ của quan chức y tế đã mô tả hành trình điều tra vì sức khỏe giai đoạn 1908 -
1934
22 Tuyên thệ của cơ quan chức năng ngành thuế năm 1924 trong vai trò phụ tá cho thủ
trưởng ngành thuế năm 1924 hay Tuyên thệ của thủ trưởng thuế huyện Nam Om, miêu tả
số lượng những biến động giữa năm 1921 và 1928
23 Báo cáo ngày 19/10/1914 bởi quan chức thuế thứ hai được ủy quyền trong một cuộc điều
tra dân số về nhà ở và dân cư
24 Yêu cầu gửi Tháng 5/1940 về việc sửa đường bao gồm đường đến đền Preah Vihear của
dân địa phương hay Tuyên thệ của một nhà kinh doanh gỗ trong việc mô tả công việc săn
bắt voi trong rừng trong những năm 1920
25 Báo cáo 28/6/1924 từ Lãnh đạo huyện Nam Om đến lãnh đạo tỉnh Khukhan báo cáo về
hoạt động của công dân Pháp trong 6 ngày ở Preah Vihear
12
thổ Campuchia. Vậy nên hành động thể hiện của chủ quyền của Thái Lan tại đền được
coi là vi phạm chủ quyền khu vực đền Preah Vihear của Campuchia (dựa trên căn cứ
việc Thái Lan chấp nhận bản đồ Preah Vihear là do nhầm lẫn). Vì vậy Tòa kết luận
rằng Thái Lan không thể viện vào lý do Thái Lan chấp nhận bản đồ Annex 1 do sự
hiểu nhầm

Tòa án tuyên bố rằng không chấp nhận những lập luận của Thái Lan về mặt pháp
lý lẫn thực tế. Nếu chỉ có những viên chức cấp thấp trong chính quyền Xiêm xem xét
những bản đồ này, thì rõ ràng phía Thái Lan (Xiêm lúc bấy giờ) đã tự đặt mình vào
những nguy hiểm. Xét thực tế thì những bản đồ này đã được xem xét bởi Bộ trưởng bộ
ngoại giao Xiêm, Bộ trưởng bộ nội vụ Xiêm, thành viên của chính quyền Xiêm trong
Ủy Ban Chung, thành viên của Ủy ban Sao chép,... Không có một ai trong số những
người này là viên chức cấp thấp và hầu hết họ đều có kiến thức về khu vực Preah
Vihear cũng như khu vực dãy Dangrek.

1.1.2. Phán quyết của Tòa án:

Quá trình liên quan đến vụ tranh chấp về đền Preah Vihear giữa Campuchia và
Thái Lan bắt đầu vào ngày 6/10/1959 khi Campuchia đệ đơn kiện lên Tòa án Quốc tế;
chính phủ Thái Lan đã đưa ra hai lý do phản đối sơ bộ. Sau đó, vào ngày 26/5/1961,
tòa án đã phán quyết rằng họ có thẩm quyền xét xử vụ việc này. Trong phán quyết của
mình, tòa án đã xác định rằng tài liệu của sự tranh cãi là vấn đề chủ quyền đối với khu
vực đất nơi đền Preah Vihear đặt, nằm trên đường biên giới giữa Campuchia và Thái
Lan. Cuộc tranh chấp về vấn đề định đường biên giới này đã diễn ra trong khoảng thời
gian từ năm 1904 đến 1908 giữa Pháp và Thái Lan, và đặc biệt liên quan đến việc áp
dụng Hiệp định ngày 13/2/1904. Hiệp định này đã thiết lập các quy định chung về việc
phân định đường ranh giới chính xác dựa trên sự uỷ quyền của người Xiêm cho thuộc
địa Pháp ở khu vực này. Phần phía đông của dãy Dangrek, nơi mà đền Preah Vihear
tọa lạc, nằm ngay trên đường biên giới theo lưu vực sông có nước chảy. Để phục vụ
cho mục đích phân định ranh giới, vào ngày 2/12/1906, Ủy ban Hỗn hợp đã tiến hành
thăm dò dọc theo dãy núi Dangrek và thực hiện các cuộc khảo sát cần thiết. Các nhà
chức trách Pháp trong Ủy ban đã nghiên cứu kỹ lưỡng toàn bộ khu vực, đặc biệt là
phần gian đền chính trên dãy núi này.

Trong vụ tranh chấp về đền Preah Vihear giữa Campuchia và Thái Lan, Tòa án
Quốc tế đã bác bỏ lập luận của Thái Lan về sự nhầm lẫn giữa đường biên giới trên bản
13
đồ với đường phân nước thực tế. Thực tế là, chính quyền Thái Lan không hề bày tỏ sự
phản đối, thắc mắc hay nghi ngờ nào về bản đồ Phụ lục 1 từ khi nó được công bố cho
đến khi Thái Lan bắt đầu đàm phán với Campuchia vào năm 1958. Mặc dù đã có một
cuộc khảo sát vào năm 1934 và 1935 nhằm xác định sự khác biệt giữa đường biên giới
trên bản đồ và đường phân nước thực tế, Thái Lan vẫn tiếp tục sử dụng và xuất bản
bản đồ cho thấy khu vực đền Preah Vihear thuộc về Campuchia. Trong các cuộc đàm
phán năm 1925 và 1937, Thái Lan cũng không đưa ra bất kỳ phản đối nào về sự nhầm
lẫn này, cho thấy Thái Lan đã chấp nhận biên giới tại khu vực Preah Vihear như đã vẽ
trong bản đồ Phụ lục 1.

Liên quan đến lập luận của Thái Lan về sự nhầm lẫn giữa đường biên giới trên
bản đồ và đường phân nước, Tòa án cho rằng lập luận của Thái Lan mâu thuẫn. Thái
Lan đã thể hiện hành động chủ quyền đối với khu vực đền Preah Vihear, cho thấy họ
tin tưởng rằng mình có đầy đủ chủ quyền hợp pháp đối với toàn bộ khu vực này. Nếu
Thái Lan thực sự nhầm lẫn về bản đồ Phụ lục 1 và chấp nhận nó do sự nhầm lẫn, thì
điều này cũng cho thấy Thái Lan tin tưởng rằng khu vực đền Preah Vihear thuộc về
Campuchia.

Tòa còn bác bỏ lập luận của Thái Lan về trình độ nhân sự của Thái Lan. Những
bản đồ này đã được xem xét bởi các nhân vật quan trọng như Hoàng tử Devawongse -
Bộ trưởng Ngoại giao Xiêm, và Hoàng tử Damrong - Bộ trưởng Nội vụ Xiêm, không
chỉ là các viên chức cấp thấp. Hơn nữa, sự quan tâm đặc biệt của Hoàng tử Damrong
tới việc phân định biên giới cũng như kiến thức sâu sắc về công trình khảo cổ học chỉ
rõ rằng các nhân vật này hiểu rõ về khu vực và đền Preah Vihear.

Qua tất cả những cơ sở lập luận trên, Tòa kết luận rằng Thái Lan đã chấp thuận
phụ lục I của tấm bản đồ. Thậm chí có bất kể sự ngờ vực nào về vụ việc này, Thái Lan
cũng ko thể khẳng định rằng họ không chấp nhận tấm bản đồ vì Pháp và Cam phụ
thuộc vào sự chấp thuận của Thái Lan và Thái đc hưởng những lợi ích như vậy trong
vòng 50 năm khi hiệp định 1904 đã bàn bạc về họ. Ngoài ra, việc chấp thuận tấm bản
đồ phụ lục I buộc họ phải xem xét hiệp định hòa giải; vào thời điểm đó các Đảng phái
đã chấp nhận một sự giải thích/ cách hiểu về thỏa thuận quy định đường biên giới trên
bản đồ để chiếm ưu thế trong các điều khoản của hiệp ước và ko có lí do để xét thấy
các Đảng phái xem trọng đường lưu vực sông theo đúng nghĩa, so sánh với tầm quan
trọng hơn cả của quy định ranh giới cuối cùng, Tòa thấy rằng cách hiểu/ cách giải
14
thích đưa ra bây giờ là như nhau. Do đó, đường biên giới tại khu vực tranh chấp sẽ
được áp dụng theo sự phân định như bản đồ phụ lục I và không cần thiết phải xem xét
ranh giới đó liệu có tương thích với đường lưu vực sông theo quan điểm của Thái Lan
hay không

Bằng 9 phiếu thuận và 3 phiếu chống, tòa xác nhận rằng đền Preah Vihear nằm
trên lãnh thổ thuộc chủ quyền của Campuchia. Thái Lan phải có nghĩa vụ rút lực lượng
quân đội và cảnh sát, cũng như lính canh gác, hoặc những người canh giữ đã đóng
quân ở ngôi đền, hoặc ở vùng lân cận trên lãnh thổ Campuchia.

Bằng 7 phiếu thuận trên 5 phiếu chống , Tòa tuyên bố : Thái Lan phải có nghĩa
vụ hoàn trả lại cho Campuchia bất kì loại hiện vật nào trên danh nghĩa nằm trong bản
đệ trình lần thứ 5 của Campuchia tính từ ngày Thái lan kiểm soát ngôi đền năm 1954,
đã rút quân khỏi ngôi đền hoặc khu vực xung quanh ngồi đền bởi chính quyền Thái.

Phán quyết được ở in bằng Tiếng Anh và tiếng Pháp bởi những người có thẩm
quyền, tại Peace Palace, tòa án La Haye, ngày 15/6/1962, với 3 bản copy, một được
giữ tại Tòa và hai bản còn lại được giao cho Thái lan và Campuchia.

QUAN ĐIỂM CỦA NHÓM

Quan điểm của học giả về vụ kiện

Chiều 11-11-2013, Tòa án Quốc tế (ICJ) ra phán quyết, khu đất lân cận quanh
ngôi đền Preah Vihear theo bản đồ Phụ lục I (Campuchia đã trình lên ICJ) là thuộc chủ
quyền của Campuchia. Thái lan phải rút quân đội, cảnh sát, cũng như các lực lượng
canh giữ và bảo vệ khác khỏi khu vực này.

Phía học giả của Campuchia:

Trả lời phỏng vấn của báo giới sau phán quyết, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng
Ngoại giao Campuchia Hor Namhong cho biết, ông hài lòng với phán quyết của Tòa,
nhưng cần có thời gian và phải đối thoại với Thái lan để cùng nhau xác định diện tích
vùng lân cận này của ngôi đền, hoàn thành việc thực hiện phán quyết của ICJ, mặc dù
thừa nhận phán quyết của ICJ có thể chưa đáp ứng 100% mong muốn của Campuchia.

Theo người phát ngôn của Hội đồng Bộ trưởng Campuchia Phay Siphan, hai
nước Thái Lan và Campuchia cần có thiện chí chính trị để tuân thủ phán quyết mới,
tránh gây ra những cuộc đụng độ về quân sự.

15
Ngoài ra, TTXVN đưa tin, tối 11-11-2013, Thủ tướng Campuchia Hun Sen có
bài phát biểu trên Đài truyền hình quốc gia nước này, nhấn mạnh phán quyết của ICJ
có ý nghĩa lịch sử to lớn và đánh dấu bước tiến quan trọng về nỗ lực của Chính phủ
Campuchia giải quyết tranh chấp lãnh thổ với Thái lan một cách hòa bình dựa trên luật
pháp quốc tế. Thủ tướng Hun Sen khẳng định, Campuchia sẽ tuân thủ cam kết cùng
Thái lan ngăn chặn, kiềm chế các hoạt động có thể gây căng thẳng, tiếp tục đẩy mạnh
các hoạt động tăng cường mối quan hệ tốt đẹp nhằm xây dựng một khu vực biên giới
hòa bình, ổn định và hợp tác.

Ông Hun Sen kêu gọi lực lượng vũ trang, nhân dân Campuchia và Thái lan bình
tĩnh, chờ đợi kết quả thỏa thuận giữa Chính phủ hai nước về việc thực hiện phán quyết
của ICJ để duy trì hòa bình, ổn định.26

Phía học giả của Thái Lan

Nhật báo Dân tộc của Thái lan dẫn lời Đại sứ nước này tại Hà Lan (nơi đặt trụ sở
của ICJ), ông Virachai cho biết, Campuchia chỉ giành được một phần nhỏ của vùng đất
tranh chấp quanh ngôi đền. “Chúng tôi vẫn đang tính toán số lượng chính xác”, ông
nói.

Thủ tướng Thái lan Yingluck Shinawatra tuyên bố "hài lòng" với phán quyết của
ICJ, cho rằng phán quyết này phần nào "có lợi" cho nước này, vì ICJ đã không xem
xét đề nghị của Campuchia về phân định chủ quyền vùng đất có diện tích 4,6 km2 bao
quanh ngôi đền, nằm giữa đường biên giới Thái Lan - Campuchia. Thay vào đó, ICJ
gợi ý Thái lan và Campuchia nên hợp tác thông qua các cơ chế song phương hiện hành
như Ủy ban hỗn hợp về phân định biên giới để giải quyết tranh chấp giữa hai nước.

Theo bà Yingluck, sau phán quyết trên, Thái Lan và Campuchia sẽ cùng trông
coi đền Preah Vihear và các khu vực phụ cận thông qua sự giúp đỡ của Tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO).27

Phán quyết của cơ quan tài phán về vụ việc có liên quan.

Vụ tranh chấp giữa Hà Lan và Hoa Kỳ đối với đảo Palmas


26 “Campuchia thắng trong tranh chấp quanh đền Preah Vihear.” VnExpress, 12 November
2013, https://vnexpress.net/campuchia-thang-trong-tranh-chap-quanh-den-preah-vihear-
2908797.html. Accessed 30 April 2024.
27 “ICJ phán quyết về vùng đất quanh đền Preah Vihear.” Wikipedia, https://nhandan.vn/icj-
phan-quyet-ve-vung-dat-quanh-den-preah-vihear-post188406.html. Accessed 30 April
2024.
16
Đảo Palmas (ngày nay còn được biết đến với tên gọi khác là đảo Pula Miangas,
là một bộ phận của lãnh thổ nước Cộng hòa Indonesia) là một hòn đảo nhỏ, ít có giá trị
về mặt kinh tế hoặc vị trí chiến lược. Vị trí đảo Palmas ở giữa đảo Mindanao của lãnh
thổ Philippines và một đảo phía cực Bắc có tên là Nanusa, là một đảo đã được phát
hiện bởi Công ty Đông Ấn (East Indies Company) của Hà Lan. Năm 1898, Tây Ban
Nha đã nhượng lại đảo Palmas cho Philippines (lúc này là thuộc địa của Hợp chúng
quốc Hoa Kỳ) bằng Công ước Paris năm 1898 28. Từ thời điểm đó, Hoa Kỳ đặt đảo
Palmas nằm bên trong đường biên giới của Philippines, thuộc địa của Hoa Kỳ. Đến
năm 1906, Hoa Kỳ nhận ra rằng Hà Lan cũng đã thiết lập chủ quyền đối với đảo
Palmas, tranh chấp phát sinh và hai bên đã đồng ý đưa vụ việc ra giải quyết tại PCA.
Vào ngày 23/01/1925, Chính phủ Hà Lan và Chính phủ Hoa Kỳ đã ký kết thỏa thuận
để chính thức hóa việc đưa vụ việc ra giải quyết tại PCA (The Special Agreement of
January 23rd, 1925)29. Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ việc chỉ bao gồm một Trọng
tài viên duy nhất là ông Max Huber, quốc tịch Thụy Sĩ, ông Michiels van Verduynen
là Tổng thư ký.

Lập luận của Max Huber

Trọng tài viên Max Huber, một luật sư người Thụy Sĩ, đã giải quyết theo hướng
có lợi cho Hà Lan và lập luận rằng Hà Lan đã thực hiện chủ quyền thực tế đối với đảo
Palmas. Lập luận của ông được đưa ra dựa trên các cơ sở mà các bên tranh chấp đưa ra
như sau: Phải là người phát hiện ra đầu tiên: Trong lần tranh luận đầu tiên giữa hai
bên, Hoa Kỳ lập luận rằng, Hoa Kỳ là nước có chủ quyền đối với đảo Palmas bởi lẽ
Tây Ban Nha đã nhượng lại chủ quyền đối với lãnh thổ của Philippines cho Hoa Kỳ
bằng Hiệp định Paris ngày 10/12/1898 (trong đó có đảo Palmas) vì Tây Ban Nha là
chủ thể đầu tiên phát hiện ra đảo Palmas. Như vậy, đảo Palmas là một phần của lãnh
thổ Philippines và Hoa Kỳ đã chiếm giữ Philippines sau chiến thắng trong cuộc chiến
tranh với Tây Ban Nha năm 1896. Như vậy, Hoa Kỳ đã thực hiện quyền chiếm hữu
của người phát hiện đầu tiên thông qua sự chuyển nhượng quyền sở hữu hợp pháp từ
Tây Ban Nha. Tuy nhiên, Trọng tài viên đã lưu ý rằng, Tây Ban Nha không thể chuyển
giao một cách hợp pháp vùng lãnh thổ mà họ không phải là người sở hữu hợp pháp và
28 Công ước Paris năm 1898 là Công ước ký giữa Hoa Kỳ và Tây Ban Nha để chấm dứt cuộc
chiến tranh Hoa Kỳ - Tây Ban Nha. Theo Công ước, Tây Ban Nha phải trao nhượng toàn
bộ thuộc địa Philippines cho Hoa Kỳ.
29 Xem toàn văn văn bản tại http://pca-cpa.org/showpage.asp?pag_id=1029.
17
như vậy Hiệp định Paris không thể chuyển giao đảo Palmas cho Hoa Kỳ một cách hợp
pháp nếu Tây Ban Nha không thực hiện quyền của người chiếm hữu nó trên thực tế.
Trọng tài viên đã kết luận rằng, Tây Ban Nha đã là người có quyền sở hữu đối với đảo
Palmas ngay khi Tây Ban Nha phát hiện ra đảo. Tuy nhiên, Trọng tài viên cũng lưu ý
rằng để duy trì chủ quyền của mình đối với vùng lãnh thổ đã phát hiện ra, quốc gia đó
phải duy trì liên tục trên thực tế quyền lực của mình đối với vùng lãnh thổ đó, thậm chí
chỉ bằng một hành động đơn giản như cắm quốc kỳ trên bãi biển của hòn đảo đó.
Trong trường hợp này, Tây Ban Nha đã không thực hiện chủ quyền của mình trên thực
tế đối với đảo Palmas sau khi Tây Ban Nha phát hiện ra đảo. Chính vì vậy, lập luận
của Hoa Kỳ đối với vụ kiện về việc Hoa Kỳ có chủ quyền đối với đảo Palmas vì là chủ
thể phát hiện ra đầu tiên đã dựa trên một cơ sở pháp lý tương đối yếu; Phải có sự tiếp
giáp: Hoa Kỳ cũng đưa ra lập luận rằng, đảo Palmas là một phần của lãnh thổ tiếp giáp
với đất liền của lãnh thổ Philippines là thuộc địa của Hoa Kỳ bởi lẽ nó gần lãnh thổ
của Philippines hơn là lãnh thổ của Indonesia, là lãnh thổ thuộc địa của Hà Lan. Trọng
tài viên đã lập luận rằng, không có bất kỳ quy định nào của pháp luật quốc tế là cơ sở
cho lập luận của Hoa Kỳ bởi lẽ vị trí của đảo không phải là cơ sở quyết định chủ
quyền của đảo thuộc về quốc gia nào. Trọng tài viên cũng cho rằng, nếu chỉ dựa vào vị
trí thì không đủ cơ sở pháp lý để tiến hành một vụ kiện đòi chủ quyền đối với một
vùng đất. Nếu cộng đồng quốc tế đi theo hướng lập luận của Hoa Kỳ nó sẽ dẫn đến
những kết quả giải quyết tùy tiện và không có cơ sở pháp lý; Phải thể hiện chủ quyền
một cách liên tục và công khai: Quan điểm đầu tiên mà Hà Lan đưa ra là Hà Lan là
chủ thể có chủ quyền đối với đảo Palmas bởi lẽ từ năm 1677 Hà Lan đã thực hiện
quyền chiếm hữu trên thực tế đối với đảo Palmas. Theo Hà Lan, đảo Palmas và các
đảo Nanusa, đảo Talauer, gọi chung là các đảo Talaud (Talaud Islands) trước đó thuộc
về Nhà nước Tabukan. Như vậy, Nhà nước địa phương Tabukan mới là chủ thể chiếm
hữu trực tiếp trên thực tế đảo Palmas chứ không phải Tây Ban Nha dù Tây Ban Nha đã
phát hiện ra đảo Palmas. Hà Lan cũng cho rằng, dựa vào Công ước Munster năm 1648,
năm 1677 Hà Lan đã đạt được thỏa thuận với Nhà nước Tabukan về việc Hà Lan sẽ
quản lý, kiểm soát đảo Palmas thông qua một Hiệp định giữa Công ty Đông Ấn với
Nhà nước Tabukan, theo một yêu cầu đặt ra đối với những người theo đạo Tin lành và
từ chối quyền kiểm soát của các quốc gia khác đối với hòn đảo. Như vậy, Hà Lan đã
chứng minh được rằng, Công ty Đông Ấn đã thực hiện quyền kiểm soát đối với đảo
Palmas từ thế kỷ XVII. Trong khi đó, Hoa Kỳ đã không thể đưa ra được các bằng
18
chứng chứng minh rằng Tây Ban Nha đã thực hiện chủ quyền đối với đảo Palmas
ngoài trừ những văn bản thể hiện việc Tây Ban Nha đã phát hiện ra hòn đảo. Ngoài ra,
cũng không có bất cứ bằng chứng nào chứng minh rằng đảo Palmas chịu sự quản lý
hành chính hoặc là một đơn vị hành chính của chính quyền Tây Ban Nha ở
Philippines.

Trọng tài viên đã chấp nhận lập luận của Hà Lan và cho rằng, nếu Tây Ban Nha
cũng đã thực hiện chủ quyền đối với đảo Palmas thì tất yếu đã phải xảy ra xung đột
giữa Hà Lan và Tây Ban Nha về chủ quyền đối với đảo, nhưng thực tế không có bằng
chứng nào cho thấy đã có sự xung đột như thế xảy ra. Như vậy, cho đến khi vụ kiện
xảy ra, Hà Lan đã thực hiện chủ quyền của mình đối với đảo Palmas một cách liên tục
và công khai mà không có sự phản đối của bất kỳ quốc gia hay chủ thể nào khác, kể cả
của Tây Ban Nha

Lập luận của các bên


Lập luận về chủ quyền lịch sử của Hoa Kỳ đối với đảo Palmas
Trong các cuộc thảo luận đầu tiên giữa hai nước, Mỹ khẳng định Mỹ có chủ
quyền đối với đảo Palmas Tây Ban Nha đã nhượng lại chủ quyền đối với lãnh thổ đã
nhượng lại chủ quyền đối với lãnh thổ Philippines (bao gồm cả đảo Palmas) thông qua
Hiệp định Paris ngày 10/12/1898. Điều này là do Tây Ban Nha là nước đầu tiên phát
hiện ra đảo Palmas. Hoa Kỳ cho rằng Tây Ban Nha đã phát hiện ra Palmas vào thế kỷ
16, có thể là vào năm 1526, khi hòn đảo này được các nhà thám hiểm Tây Ban Nha
phát hiện.Sau khi hòn đảo được phát hiện và Hiệp ước Paris có hiệu lực giữa Hoa Kỳ
và Tây Ban Nha vào ngày 10 tháng 12 năm 1898,hiệp ước này được ký kết sau khi
Chiến tranh Tây Ban Nha - Mỹ kết thúc với chiến thắng của Mỹ và Tây Ban Nha nắm
quyền kiểm soát Philippines, bao gồm cả Palmas.
Hoa Kỳ lập luận rằng chủ quyền đối với một lãnh thổ không thể được thiết lập
chỉ bằng cách vẽ bản đồ; nó phải được thực hiện thông qua một thỏa thuận chính thức.
Họ viện dẫn Công ước Munster năm 1648 giữa Tây Ban Nha và Hà Lan làm cơ sở cho
yêu sách của họ đối với đảo Palmas, tuyên bố rằng hiệp ước đã giải quyết các tranh
chấp lãnh thổ và tuyên bố hòa bình. Hoa Kỳ khẳng định đảo Palmas là một phần lãnh
thổ Philippines vì lý do lịch sử và địa lý, nhấn mạnh việc họ chiếm đóng Philippines

19
sau chiến thắng trước Tây Ban Nha vào năm 1896 và chuyển giao quyền sở hữu từ
Tây Ban Nha.
Do đảo Palmas nằm gần Philippines hơn so với Indonesia, Hoa Kỳ cho rằng nó
nên được coi là một phần lãnh thổ tiếp giáp của Philippines, khi đó là thuộc địa của
Hoa Kỳ. Hoa Kỳ lập luận rằng đảo Palmas có mối liên hệ địa lý tự nhiên với
Philippines. Do đó, Hoa Kỳ cho rằng họ có quyền áp dụng quyền chủ quyền đối với
Philippines cũng bao gồm cả đảo Palmas, ngay cả khi họ không thực sự kiểm soát hòn
đảo này.30
Lập luận về chủ quyền lịch sử của Hà Lan đối với đảo Palmas
Hà Lan khẳng định đã thực hiện chủ quyền trên đảo Palmas từ trước khi tranh
chấp bắt đầu. Họ bác bỏ lập luận của Hoa Kỳ cho rằng Tây Ban Nha là quốc gia đầu
tiên khám phá ra đảo, và cho rằng Tây Ban Nha không bao giờ có chủ quyền hợp pháp
đối với đảo. Hà Lan lập luận rằng họ đã thực hiện quản lý nhà nước trên đảo Palmas
một cách hòa bình và liên tục, bao gồm cả việc thực thi pháp luật, thu thuế và bảo vệ
môi trường. Họ cho rằng những hành động này thể hiện chủ quyền rõ ràng của họ đối
với hòn đảo. Hà Lan bác bỏ lập luận của Hoa Kỳ dựa trên vị trí địa lý, cho rằng sự gần
gũi với Philippines không đủ để chứng minh chủ quyền. Họ cũng chỉ ra rằng Hoa Kỳ
không có bằng chứng về việc thực sự kiểm soát đảo Palmas.
Ngoài ra, cho đến năm 1906, không có tranh chấp nào được ghi nhận giữa Hoa
Kỳ, Tây Ban Nha và Hà Lan liên quan đến đảo Palmas. Vào ngày 31 tháng 3 năm
1906, sau khi đội trưởng Wood (Clarence Edward Wood - là một sĩ quan Hải quân
Hoa Kỳ) chỉ huy một nhóm thủy thủ đổ bộ lên đảo, Đại sứ Hoa Kỳ tại The Hague đã
đề nghị thỏa thuận sơ bộ với chính phủ Hà Lan về tình trạng của đảo. Phản hồi vào
ngày 17 tháng 10 năm 1906, Bộ Ngoại giao Hà Lan khẳng định rằng đảo Palmas (hay
còn gọi là đảo Miangas) thuộc lãnh thổ Hà Lan.
Hà Lan là chủ thể có chủ quyền đối với đảo Palmas bởi lẽ từ năm 1677 Hà Lan
đã thực hiện quyền chiếm hữu trên thực tế đối với đảo Palmas. Theo Hà Lan, đảo
Palmas và các đảo Nanusa, đảo Talauer, gọi chung là các đảo Talaud (Talaud Islands)

30 TS. Bành Quốc Tuấn - Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học quốc gia TP.
Hồ Chí Minh - Phán quyết kinh điển của Tòa trọng tài thường trực La Haye về giải quyết
tranh chấp biển đảo và bài học kinh nghiệm.

20
trước đó thuộc về Nhà nước Tabukan. Như vậy, Nhà nước địa phương Tabukan mới là
chủ thể chiếm hữu trực tiếp trên thực tế đảo Palmas chứ không phải Tây Ban Nha dù
Tây Ban Nha đã phát hiện ra đảo Palmas.
Dựa trên Công ước Munster (1648), Hà Lan đã ký Hiệp định với Nhà nước
Tabukan vào năm 1677, cho phép Công ty Đông Ấn Hà Lan quản lý và kiểm soát đảo
Palmas. Hiệp định này bao gồm việc cấm sự hiện diện của các quốc gia khác trên đảo
và bảo vệ quyền lợi của những người theo đạo Tin lành.
Kiểm soát liên tục: Hà Lan khẳng định Công ty Đông Ấn và sau đó là chính phủ
Hà Lan đã duy trì sự kiểm soát liên tục đối với đảo Palmas từ thế kỷ 17, bao gồm các
hoạt động hành chính, thu thuế và bảo vệ môi trường.
Hà Lan cho rằng Hoa Kỳ không có bằng chứng nào chứng minh việc Tây Ban
Nha thực sự cai trị đảo Palmas ngoài tuyên bố phát hiện. Họ bác bỏ lập luận của Hoa
Kỳ rằng đảo Palmas thuộc về Philippines.31

Phán quyết của tòa án

Trên cơ sở yêu sách của hai bên, các chứng cứ pháp lý mà các bên đưa ra cũng
như lập luận của các bên nhằm bảo vệ yêu sách của mình, cũng như căn cứ vào quy
định của pháp luật quốc tế, ngày 04/4/1928, Hội đồng Trọng tài đã đưa ra phán quyết
với nội dung như sau32:

Một quốc gia không thể chuyển giao một vùng lãnh thổ cho quốc gia khác khi
quốc gia đó không có quyền sở hữu hợp pháp đối với vùng lãnh thổ chuyển giao. Như
vậy, Tây Ban Nha không thể chuyển giao một cách hợp pháp đảo Palmas cho Hoa Kỳ
nếu Tây Ban Nha không phải là chủ thể sở hữu đảo Palmas thông qua việc thực hiện
quyền của người chiếm hữu nó trên thực tế. Tây Ban Nha đã là người có quyền sở hữu
đối với đảo Palmas ngay khi Tây Ban Nha phát hiện ra đảo. Tuy nhiên, Tây Ban Nha
đã không thực hiện chủ quyền của mình trên thực tế đối với đảo Palmas sau khi Tây
31 TS. Bành Quốc Tuấn - Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học quốc gia TP.
Hồ Chí Minh - Phán quyết kinh điển của Tòa trọng tài thường trực La Haye về giải quyết
tranh chấp biển đảo và bài học kinh nghiệm.

32 Xem Arbitration Agreement between United State of America and The Netherlands, 4th
day of April, 1928 (Nguồn: http://pca-cpa.org/showpage.asp?pag_id=1029).

21
Ban Nha phát hiện ra đảo và vì vậy, Tây Ban Nha chưa thiết lập chủ quyền của mình
đối với đảo Palmas trên thực tế. Chính vì vậy, lập luận của Hoa Kỳ đối với vụ kiện về
việc Hoa Kỳ có chủ quyền đối với đảo Palmas trên cơ sở thừa hưởng quyền của chủ
thể phát hiện ra đầu tiên đảo Palmas của Tây Ban Nha là không có cơ sở.

Không có bất kỳ quy định nào của pháp luật quốc tế cho rằng vị trí của một hòn
đảo gần với đất liền của quốc gia nào thì hòn đảo thuộc chủ quyền của quốc gia đó.
Như vậy, lập luận của Hoa Kỳ cho rằng đảo Palmas thuộc chủ quyền của Philippines
chứ không phải Hà Lan bởi lẽ vị trí của đảo gần lãnh thổ Philippines hơn là lãnh thổ
của Hà Lan là không có cơ sở pháp lý.

Một quốc gia dù không phải là chủ thể đầu tiên phát hiện ra một vùng lãnh thổ
nhưng vẫn có cơ sở tuyên bố và thiết lập chủ quyền đối với vùng lãnh thổ đó nếu đã
thực hiện quyền chiếm hữu vùng lãnh thổ trên thực tế một cách công khai, liên tục mà
không gặp phải sự phản đối hoặc tranh chấp của bất kỳ quốc gia hay chủ thể nào khác.
Như vậy, Hà Lan dù không phải là chủ thể đầu tiên phát hiện ra đảo Palmas nhưng đã
thực hiện quyền kiểm soát đối với đảo Palmas một cách công khai, liên tục mà không
có sự phản đối của Tây Ban Nha hay bất kỳ quốc gia nào khác.

Trên các cơ sở này, phán quyết của PCA như sau: Hoa Kỳ không có đủ các
bằng chứng chứng minh rằng Tây Ban Nha là chủ thể đã thực hiện chủ quyền thực tế
đối với đảo Palmas mặc dù Tây Ban Nha là quốc gia phát hiện ra đảo Palmas. Trong
khi đó, Hà Lan có đủ các bằng chứng cho thấy Hà Lan là chủ thể đã thực hiện chủ
quyền trên thực tế đối với đảo Palmas và việc thực hiện chủ quyền này đã diễn ra một
cách liên tục, công khai mà không có sự phản đối của Tây Ban Nha hay chủ thể nào
khác. Vì vậy, Tây Ban Nha không phải là quốc gia có chủ quyền đối với đảo Palmas,
do vậy, việc Tây Ban Nha nhượng quyền sở hữu đảo Palmas cho Hoa Kỳ là không đủ
cơ sở để Hoa Kỳ thiết lập chủ quyền đối với hòn đảo. Phán quyết của PCA đã tuyên
đảo Palmas thuộc chủ quyền của Hà Lan. Sau khi Hà Lan trao trả độc lập cho
Indonesia thì chủ quyền đối với đảo Palmas cũng chuyển giao cho Indonesia. Vì vậy,
ngày nay đảo Palmas là một phần lãnh thổ của nước Cộng hòa Indonesia.33
33 Phán quyết kinh điển của Tòa trọng tài thường trực La Haye về giải quyết tranh chấp biển
đảo và bài học kinh nghiệm.” Wikipedia,
https://tcnn.vn/news/detail/33536/Phan_quyet_kinh_dien_cua_Toa_trong_tai_thuong_truc
_La_Haye_ve_giai_quyet_tranh_chap_bien_dao_va_bai_hocall.html. Accessed 30 April
22
Quan điểm của nhóm:

Phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế (ICJ) phán quyết ngôi về việc ngôi đền
cổ 900 năm tuổi Preah Vihear thuộc chủ quyền của Campuchia là hợp lý bởi những lý
do sau đây:

Thứ nhất, hai hiệp ước được ký kết giữa Campuchia và Thái Lan (1904 và 1907)
đã xác định ranh giới biên giới giữa hai nước, trong đó đền Preah Vihear nằm trên lãnh
thổ Campuchia. Việc Thái Lan không phản đối các hiệp ước này khi được ký kết và
thực thi được coi là sự đồng thuận ngầm về chủ quyền của Campuchia đối với đền
Preah Vihear.

Thứ hai, đền Preah Vihear được xây dựng trong thời kỳ hoàng kim của đế quốc
Angkor (thế kỷ 9-15), thuộc chủ quyền của Campuchia từ xa xưa. Theo nguyên tắc
"Uti possidetis de jure" (người đang chiếm hữu hợp pháp), Campuchia có cơ sở pháp
lý vững chắc để khẳng định chủ quyền đối với đền, bất kể tình trạng chính trị trong
quá khứ.

Thứ ba, đền Preah Vihear là di sản văn hóa Khmer cổ đại, mang giá trị lịch sử,
tâm linh và tôn giáo quan trọng đối với người dân Campuchia. Ngôi đền tượng trưng
cho bản sắc văn hóa và truyền thống lâu đời của Campuchia, cần được bảo vệ và gìn
giữ.

Bài học kinh nghiệm

Vụ tranh chấp giữa Thái Lan và Campuchia về đền Preah Vihear không chỉ là
một vấn đề cụ thể giữa hai quốc gia mà còn là một báo động cho cộng đồng ASEAN
và cả cộng đồng quốc tế về tầm quan trọng của việc tuân thủ các điều ước quốc tế và
giải quyết tranh chấp một cách hòa bình. Theo Điều 48 của Công ước Viên năm
196234, vì nhầm lẫn này xuất phát từ phía Thái Lan mà không có lý do chính đáng nên
những biện hộ của Thái Lan đã không được chấp nhận. Vụ tranh chấp này đã mang lại
cho Việt Nam và các quốc gia khác trong khu vực một số bài học quan trọng:

2024.
34 Nguyên văn: “Một quốc gia có thể viện dẫn sự nhầm lẫn trong một điều ước để vô hiệu sự
đồng ý chịu ràng buộc đối với điều ước đó nếu sự nhầm lẫn này liên quan đến một thực tế
hay một tình huống mà quốc gia đó cho rằng đã tồn tại tại thời điểm ký kết điều ước và là
cơ sở quan trọng mà quốc gia này dựa vào để đồng ý chịu ràng buộc.”
23
Cần xác định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, trong quan hệ giữa các quốc gia, việc
khẳng định và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ là hết sức quan trọng. Việt Nam, với địa hình
phức tạp bao gồm cả đất liền và biển đảo, cần có chính sách rõ ràng và kiên quyết
trong việc bảo vệ lãnh thổ.

Giữ vững mối quan hệ hữu nghị với các quốc gia láng giềng, điều này không chỉ
giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải
quyết các vấn đề phức tạp liên quan đến biên giới và lãnh thổ. Hợp tác và đối thoại là
chìa khóa để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ một cách hòa bình. Việt Nam nên tăng
cường hợp tác và đối thoại với các nước láng giềng để xây dựng lòng tin và giải quyết
các vấn đề chung.

Giải quyết các vấn đề biên giới lãnh thổ dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của
cấp cao và theo một cách hòa bình, điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đồng
thuận và thống nhất trong quản lý và định hướng chiến lược trong các vấn đề đối ngoại
và bảo vệ lãnh thổ. Vụ tranh chấp đền Preah Vihear cho thấy rằng giải quyết tranh
chấp lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình là cách thức hiệu quả nhất. Việt Nam nên ưu
tiên sử dụng các biện pháp ngoại giao và pháp lý để giải quyết tranh chấp với các nước
láng giềng, thay vì sử dụng vũ lực.
Tôn trọng chủ quyền của các quốc gia khác và tôn trọng luật pháp quốc tế, trong
mọi hoạt động và đàm phán, việc tôn trọng lẫn nhau là cơ sở để xây dựng mối quan hệ
bền vững và hòa bình, đặc biệt là trong việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông.
Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) là một tổ chức quốc tế uy tín và có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp lãnh thổ. Việt Nam nên tôn trọng các phán quyết của ICJ và các
quy tắc của luật pháp quốc tế trong việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ.

24
25

You might also like