Còn tiềm lực quốc phòng

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 5

Còn tiềm lực quốc phòng, an ninh là: Khả năng về nhân lực, vật lực, tài chính,

tinh thần ở trong và ngoài


nước có thể huy động để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh (khái niệm).

Như vậy, tiềm lực quốc phòng, an ninh được thể hiện ở trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng
tập trung ở tiềm lực chính trị, tinh thần; tiềm lực kinh tế; tiềm lực khoa học, công nghệ; tiềm lực quân sự,
an ninh. Cho nên, muốn có tiềm lực quốc phòng an ninh mạnh, chúng ta phải tập trung vào xây dựng các
tiềm lực, cụ thể là:

a) Xây dựng tiềm lực quốc phòng-an ninh

- Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần.

+ Khái niệm: Tiềm lực chính trị, tinh thần của nền của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân: Là
khả năng về chính trị, tinh thần của xã hội có thể huy động tạo nên sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh.

Tiềm lực chính trị, tinh thần được biểu hiện ở năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lí điều hành của Nhà
nước; ý chí, quyết tâm của nhân dân, của các lực lượng vũ trang nhân dân sẵn sàng đáp ứng yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, tình huống.

+ Vị trí, vai trò của tiềm lực chính trị, tinh thần: Tiềm lực chính trị tinh thần là nhân tố cơ bản tạo nên sức
mạnh của quốc phòng, an ninh, có tác động to lớn đến hiệu quả xây dựng và sử dụng các tiềm lực khác, là
cơ sở, nền tảng của tiềm lực quân sự, an ninh.

+ Nội dung xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân:

Xây dựng tình yêu quê hương đất nước, niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của nhà nước, đối
với chế độ xã hội chủ nghĩa.

Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; nâng cao cảnh giác cách mạng; giữ vững ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội.

Thực hiện tốt giáo dục quốc phòng, an ninh.

+ Biểu hiện của tiềm lực chính trị, tinh thần:

-> Năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước.

-> Hệ thống chính sách đối nội, đối ngoại.

-> Ý chí quyết tâm của nhân dân và LLVT nhân dân trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.

+ Biện pháp thực hiện:

-> Phát huy mọi nguồn lực, thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội, chấp hành và thực hiện tốt các
chính sách, không ngừng cải thiện nâng cao

đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội

-> Xây dựng củng cố, tăng cường khối đại doàn kết toàn dân, chống lại thủ đoạn chia rẽ của kẻ thù, kiên
quyết chống tham nhũng, quan liêu và các tệ nạn xã hội khác, đẩy mạnh giáo dục quốc phòng cho mọi
tầng lớp nhân dân.
->Xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy tốt dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN, giữ vững
kỷ cương, phép nước, thường xuyên củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức chính trị trong sạch vững mạnh

Bài viết

Nói về vai trò to lớn của yếu tố chính trị - tinh thần, V.I.Lênin cho rằng: “Trong mọi cuộc chiến tranh rốt
cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường. Lòng tin vào
cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng, cần phải hy sinh đời mình cho những người anh em là yếu
tố để nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu được khó khăn chưa từng thấy”(1). Nắm vững và
vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định
sức mạnh chính trị - tinh thần của quân và dân ta là một trong những yếu tố cơ bản quyết định thắng lợi
của chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh
ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”(2). Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, khi so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch có sự chênh lệch lớn về nhiều mặt, mà
ưu thế thuộc về phía Hoa Kỳ, một số bạn bè quốc tế đã tỏ ý nghi ngại về khả năng Việt Nam có thể đánh
thắng đội quân xâm lược, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, thống nhất non sông. Nhưng với ý chí tự lực
“lấy sức ta mà giải phóng cho ta”; từ quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp, nhận rõ tính chính nghĩa và
ưu thế tuyệt đối về mặt chính trị - tinh thần thuộc về nhân dân ta, Đảng ta khẳng định ý chí, quyết tâm
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Theo đó, Đảng ta đã tiến hành đường lối đúng đắn, sáng tạo, đó là thực
hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở miền Nam. Đường lối đó thể hiện niềm tin tuyệt đối của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta vào thắng lợi, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng tiên đoán: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10
năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song
nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta
sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, “Nhân dân Việt Nam nhất định thắng! Giặc Mỹ
nhất định thua”(3).

Phân tích, đánh giá qua thực tiễn các trận thắng Ấp Bắc và Vạn Tường, Đảng ta khẳng định: chúng ta có
thể thắng Mỹ. Đây chính là cơ sở để xây dựng tinh thần dám đánh Mỹ của nhân dân ta, quân đội ta. Từ đó
tạo ra phong trào cách mạng sôi nổi, rộng khắp, với lý tưởng, lẽ sống “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến
chống quân thù”, tinh thần “cả nước ra quân, toàn dân đánh giặc”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh
thắng giặc Mỹ xâm lược” và ý chí “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” lại được phát huy cao độ. Từ đây, ý
chí quyết đánh Mỹ được thể hiện qua phong trào: “Tìm ngụy mà đánh, tìm Mỹ mà diệt” với quyết tâm “1
thắng 20”, “còn cái lai quần cũng đánh”.v.v. Đây chính là biểu trưng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng
Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh và là nét độc đáo của chiến tranh nhân dân Việt Nam, huy động được mọi
nguồn lực, sức mạnh chính trị - tinh thần của quân và dân ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Như vậy, cả lý luận và thực tiễn cách mạng nước ta cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, yếu tố chính trị - tinh thần là cơ sở, là cốt lõi để xây dựng và phát huy các yếu tố khác làm nên sức
mạnh thần kỳ của Việt Nam và tiếp tục đưa cách mạng Việt Nam vững bước trên con đường hội nhập,
phát triển trong hiện tại và tương lai.

Yếu tố chính trị - tinh thần của nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc luôn là yếu tố giữ vai trò đặc
biệt quan trọng, tạo cơ sở, nền tảng để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh của đất nước trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Quá trình xây dựng yếu tố chính trị - tinh thần ở nước ta trong tình hình
mới chịu tác động của yếu tố thời đại sâu sắc. Trên thế giới, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và
phát triển vẫn là xu thế chủ đạo. Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực
hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, xây dựng yếu tố chính trị - tinh thần của nền quốc
phòng toàn dân nói riêng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, vẫn còn không ít khó khăn, thách thức không thể xem
nhẹ. Trên thế giới và khu vực, tình hình chính trị - an ninh tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó
lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn
giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng,... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều
nơi. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn biến phức
tạp, chứa đựng những yếu tố dễ gây mất ổn định.

Trong nước, nền kinh tế còn nhiều khó khăn, năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Bốn
nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, chiến lược “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ diễn biến phức tạp… Đây là
những thách thức lớn, gây cản trở quá trình xây dựng và phát huy yếu tố chính trị - tinh thần của nền quốc
phòng toàn dân.

Tình hình trên đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên coi trọng xây dựng, phát huy sức mạnh chính trị - tinh
thần, tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Vì vậy, là sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường em sẽ Học tập và nắm vững đường lối, chủ trương của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh.

- Tích cực tham gia các hoạt động tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quốc phòng, an ninh trong trường
học và cộng đồng.

. Tích cực tham gia các hoạt động quốc phòng, an ninh:

- Tham gia huấn luyện, diễn tập quân sự, dân quân tự vệ, dự bị động viên.

- Tham gia các hoạt động bảo vệ an ninh trật tự, phòng chống tội phạm, phòng chống cháy nổ.

- Tham gia các hoạt động xây dựng khu vực phòng thủ, phát triển kinh tế - xã hội.

. Nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên môn:

- Học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh.

- Tích cực tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới phục vụ quốc phòng, an
ninh.

Tích cực tham gia các hoạt động tình nguyện, xã hội:

- Tham gia các hoạt động tình nguyện, từ thiện, hỗ trợ các lực lượng vũ trang và nhân dân.

- Tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường, ứng phó với thiên tai, dịch bệnh.

- Xây dựng tiềm lực kinh tế.

- Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ.

- Xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh.


ĐỀ 1

Trong thời bình, Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện 3 chức năng cơ bản, đó là: đội quân
chiến đấu, đội quân công tác và đội quân sản xuất

. Một là, toàn quân cần tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng
về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Quán triệt, nắm chắc các nội dung, nguyên
tắc, giải pháp của các Chiến lược, bám sát tình hình thực tiễn, tham mưu cho Đảng, Nhà nước
về các chiến lược, sách lược, bảo đảm xử lý kịp thời, thắng lợi trong mọi tình huống về quân
sự, quốc phòng.

Các cơ quan chiến lược của Bộ Quốc phòng đảm bảo luôn có cơ cấu, tổ chức hợp lý; xây dựng,
đào tạo đội ngũ cán bộ tham mưu chiến lược có trình độ chuyên sâu về lý luận, kiến thức thực
tiễn phong phú.

Hai là, tiếp tục nâng cao chất lượng huấn luyện, năng lực tác chiến trong toàn quân. Đẩy mạnh
xây dựng khu vực phòng thủ, bảo đảm có thể đánh thắng ngay từ ngày đầu, trận đầu.

Ba là, tiếp tục xây dựng Đảng bộ quân đội và các tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, cả về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức. Không ngừng trau dồi, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn
diện và sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên.

Bốn là, làm tốt công tác dân vận trong toàn quân, vận động quần chúng, góp phần xây dựng thế
trận lòng dân vững chắc, giữ vững mối quan hệ máu thịt với nhân dân.

Năm là, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng cả
trên bình diện đa phương và song phương.

Phân tích đội quân công tác

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận
khéo thì việc gì cũng thành công” 1 , 70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân
Việt Nam luôn dựa vào dân, sát cánh cùng nhân dân thực hiện tốt chức năng “đội quân công
tác”, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quân - dân, xây dựng “thế
trận lòng dân” vững chắc trong các giai đoạn cách mạng của Đảng. Bởi vậy, trong mọi điều
kiện, hoàn cảnh, Quân đội luôn nhận được sự giúp đỡ của nhân dân để tạo nên nguồn sức mạnh
to lớn đánh thắng kẻ thù xâm lược; thực sự là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà
chiến đấu, xứng danh với tên gọi trìu mến, thân thương “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.

Để thực hiện tốt chức năng “đội quân công tác”, các đơn vị Quân đội đã thường xuyên bám sát
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc điểm, tình hình và
các quy định của địa phương, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội làm cơ sở để xác định nội
dung, hình thức công tác Dân vận (CTDV), nhất là trên những địa bàn chiến lược, trọng điểm,
vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo, vùng dân tộc, tôn giáo. Thông qua thực tiễn bám nắm
cơ sở, cán bộ, chiến sĩ (CB,CS) Quân đội đã “cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân”, thực hiện
đúng phương châm “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, tạo được niềm tin trong nhân
dân, phát huy sức dân để hoàn thành nhiệm vụ. Với tinh thần tích cực, chủ động, 70 năm qua,
CTDV trong Quân đội đã có bước đổi mới toàn diện cả về nội dung, hình thức, cách làm, nên
đã đạt được những kết quả quan trọng 2 . Hoạt động của hệ thống “Chiến sĩ dân vận”, “Tổ
CTDV”; kết nghĩa; huấn luyện dã ngoại kết hợp làm CTDV; các chương trình phối hợp; cử cán
bộ tăng cường cơ sở các xã biên giới của Bộ đội Biên phòng và CTDV của các binh đoàn, đoàn
kinh tế - quốc phòng; Chương trình quân - dân y kết hợp… đã từng bước đi vào nền nếp, có
hiệu quả tốt. Trước yêu cầu phát triển của các vùng chiến lược, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc
phòng đã kịp thời quyết định thành lập và chỉ đạo tổ chức hoạt động của các đội công tác tăng
cường cơ sở trên các địa bàn trọng điểm: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Quân khu 4
(Đội công tác 123); thể hiện vai trò nòng cốt góp phần xây dựng cơ sở vững mạnh, giữ gìn an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.

Kết quả nổi bật trong thời gian qua là: CTDV của Quân đội đã góp phần tích cực tuyên truyền,
vận động nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, các cuộc vận động cách mạng, các phong trào và nhiệm vụ chính trị của địa
phương; tham gia xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng - an ninh, phát triển
kinh tế - xã hội; tích cực giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; phòng tránh,
khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Đồng thời đã chủ động tuyên
truyền, nâng cao ý thức cảnh giác của các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với mọi âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, biển,
đảo của Tổ quốc, tình đoàn kết các dân tộc, tình hữu nghị với các nước. Mặt khác, đã thực hiện
tốt Quy chế dân chủ cơ sở; công tác dân tộc, tôn giáo trên các địa bàn và chính sách dân tộc,
tôn giáo trong Quân đội, v.v. Qua đó, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường
tiềm lực chính trị - tinh thần, xây dựng “thế trận lòng dân”, hậu phương chiến lược vững chắc
trong thế phòng thủ chung của cả nước. Thông qua thực tiễn hoạt động, CTDV đã trở thành một
trong những phương thức chủ yếu để tăng cường mối quan hệ gắn kết chiến lược giữa Đảng,
nhân dân và Quân đội; là điều kiện để giáo dục, rèn luyện tư tưởng, bản lĩnh chính trị, đạo đức,
lối sống cho CB,CS Quân đội nhân dân Việt Nam.

Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng, ở một số đơn vị việc thực hiện chức năng “đội quân công
tác” chưa thực sự rõ nét; việc tham mưu, đề xuất phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương
tiến hành CTDV, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo, biên giới có lúc
chưa kịp thời; sự phối hợp giữa các tổ chức, ban, ngành, các lực lượng trong giải quyết các vụ
việc phức tạp hiệu quả chưa cao, chưa tạo sức mạnh tổng hợp trong tiến hành CTDV; phương
thức hoạt động của đội công tác chưa mang tính đột phá, có thời điểm còn thiếu tính chủ động,
chưa phù hợp với đối tượng và loại hình đơn vị, v.v.

Vì vậy là sinh viên em cần Học tập tốt, nâng cao kiến thức và kỹ năng chuyên môn: Điều này
sẽ giúp các bạn sinh viên trở thành những công dân có năng lực, có thể đóng góp hiệu quả cho
sự phát triển của đất nước trong tương lai.Tham gia các hoạt động tình nguyện, phục vụ cộng
đồng: Đây là cách để các bạn sinh viên rèn luyện tinh thần trách nhiệm, yêu thương và phục vụ
đất nước. Tích cực tham gia các hoạt động chính trị, xã hội: Như tham gia các cuộc bầu cử, các
hoạt động của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên... để thể hiện tiếng nói và trách nhiệm công
dân.Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc: Như học tập, nghiên cứu và quảng bá các giá
trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.Bảo vệ môi trường, sử dụng tài nguyên thiên nhiên
một cách bền vững: Đây là trách nhiệm của mỗi công dân để giữ gìn và phát triển đất
nước.Tích cực tham gia các hoạt động quốc phòng, an ninh: Như tham gia huấn luyện quân sự,
tham gia lực lượng dự bị động viên...

You might also like