Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 14

1

GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI CUỘC THI


“Tìm hiểu về Đảng Cộng sản Việt Nam; Cuộc đời, sự nghiệp và tấm gương đạo
đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh”

Câu 1: Từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức mấy kỳ đại hội? Hãy
nêu rõ thời gian, địa điểm tổ chức. Nêu tên các đồng chí Tổng Bí thư (hoặc Bí thư thứ nhất) từ
khi Đảng ta được thành lập đến nay?
* Đại hội lần thứ I: Đại hội Đại biểu lần thứ I của Đảng diễn ra từ ngày 28 đến 31/3/1935, tại
một địa điểm ở phố Quan Công, Ma Cao (Trung Quốc). Đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng
Bí thư (tháng 7/1936, đồng chí Hà Huy Tập được cử làm Tổng Bí thư, đến tháng 3/1938, đồng chí
Nguyễn Văn Cừ được cử làm Tổng Bí thư và đến tháng 5/1941, đồng chí Trường Chinh được bầu làm
Tổng Bí thư).
* Đại hội lần thứ II: Đại hội Đại biểu lần thứ II của Đảng diễn ra từ ngày 11 đến 19/2/1951, tại
xã Vinh Quang (nay là xã Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Đồng chí Trường Chinh
được bầu làm Tổng Bí thư.
* Đại hội lần thứ III: Đại hội Đại biểu lần thứ III của Đảng diễn ra từ ngày 5 đến ngày 10/9/1960
tại thủ đô Hà Nội. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất.
* Đại hội lần thứ IV: Đại hội Đại biểu lần thứ IV của Đảng diễn ra từ ngày 14 đến ngày
20/12/1976 tại thủ đô Hà Nội. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.
* Đại hội lần thứ V: Đại hội Đại biểu lần thứ V của Đảng diễn ra từ ngày 27 đến 31/3/1982 tại
thủ đô Hà Nội. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư (ngày 14/7/1986, Ban Chấp hành
Trung ương họp phiên đặc biệt. Đồng chí Trường Chinh được bầu giữ chức Tổng Bí thư thay đồng
chí Lê Duần từ trần ngày 10/7/1986).
* Đại hội lần thứ VI: Đại hội Đại biểu lần thứ VI của Đảng diễn ra từ ngày 15 đến 18/12/1986 tại
thủ đô Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư.
* Đại hội lần thứ VII: Đại hội Đại biểu lần thứ VII của Đảng diễn ra tại thủ đô Hà Nội từ ngày
24 đến 27/6/1991. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư.
* Đại hội lần thứ VIII: Đại hội Đại biểu lần thứ VIII của Đảng diễn ra từ ngày 28/6 đến 1/7/1996
tại thủ đô Hà Nội. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư (tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII ngày 26/12/1997 bầu đồng chí Lê Khả Phiêu giữ chức vụ Tổng Bí
thư).
* Đại hội lần thứ IX: Đại hội Đại biểu lần thứ IX của Đảng diễn ra từ ngày 19 đến 22/4/2001 tại
thủ đô Hà Nội. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư.
* Đại hội lần thứ X: Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng diễn ra từ ngày 18 đến ngày
25/4/2006 tại thủ đô Hà Nội. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu lại làm Tổng Bí thư.
* Đại hội lần thứ XI: Đại hội Đại biểu lần thứ XI của Đảng diễn ra từ ngày 12 đến 19/1/2011 tại
Trung tâm Hội nghị quốc gia, thủ đô Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu giữ chức Tổng
Bí thư.
* Đại hội lần thứ XII: Đại hội Đại biểu lần thứ XII của Đảng diễn ra từ ngày 20 đến 28/1/2016
tại Trung tâm Hội nghị quốc gia, thủ đô Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu lại giữ chức
Tổng Bí thư.
* Đại hội lần thứ XIII: Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng diễn ra từ ngày 25/01
đến ngày 02/02/2021 tại rung tâm Hội nghị quốc gia, thủ đô Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng tiếp
tục được tín nhiệm bầu làm Tổng Bí thư
2

Câu 2: Hãy nêu tóm tắt về thân thế và sự nghiệp cách mạng của đồng chí Tổng Bí thư đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Đồng chí Trần Phú (01-01-1904 - 06-9-1931), Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng CS Việt Nam.
Đồng chí Trần Phú sinh ngày 1/5/1904, quê ở xã Việt Yên, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ,
tỉnh Hà Tĩnh - Một vùng đất giàu truyền thống văn hóa, cách mạng. Thân sinh của đồng chí là cụ Trần
Văn Phổ và cụ Hoàng Thị Cát.
Mồ côi cha khi mới hơn 4 tuổi, Trần Phú sớm có ý thức tự lập, vượt khó để vươn lên trong học
tập theo tấm gương của cha, mẹ. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, Trần Phú đã dồn hết tâm
trí cho học tập, tham gia "Hội Tu tiến" để giúp đỡ bạn bè cùng chí hướng và nuôi dưỡng tinh thần yêu
nước. Sau khi đỗ đầu kỳ thi thành chung ở Huế vào năm 1922 Trần Phú được bổ nhiệm làm giáo viên
Trường tiểu học Cao Xuân Dục tại Vinh. Trong những năm làm giáo viên ở Vinh, Trần Phú nổi tiếng
là một giáo viên dạy giỏi, yêu trò, đoàn kết các Đồng nghiệp, khơi dậy trong thế hệ trẻ tinh thần yêu
nước, yêu quê hương và lòng căm thù giặc sâu sắc. Đồng chí đã tiếp nhận những tư tưởng yêu nước
và cách mạng của Nguyễn Ái Quốc qua sách báo truyền vào Việt Nam lục đó. Tại Vinh, Trần Phú đã
tham gia sáng lập Hội Phục Việt (sau đổi là Hội Hưng Nam), lãnh đạo phong trào làm đơn lấy chữ ký
đòi thực dân Pháp trả lại tự do cho Phan Bội Châu tổ chức lễ truy điệu Phan Chu Trinh, mở các lớp
dạy quốc ngữ cho quần chúng lao động.
Bước ngoặt trong cuộc đời cách mạng của Trần Phú là việc Đồng chí được cử sang Quảng Châu
bắt liên lạc với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tại đây Trần Phú đã gặp Nguyễn Ái Quốc, dự
lớp huấn luyện chính trị do Người giảng dạy. Trần Phú được Nguyễn Ái Quốc tin cậy, kết nạp vào
nhóm bí mật (Cộng sản Đoàn) với tên gọi Lý Quý, được giới thiệu sang học tại Trường đại học
Phương Đông ở Mátxcơva. Chính những năm học tập, nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, tham gia hoạt
động thực tiễn, đặc biệt trao đổi với các Đồng nghiệp của các Đảng anh em về những vấn đề dân tộc
và thuộc địa, Trần Phú đã có bước trưởng thành lớn đủ sức gánh vác những nhiệm vụ do Đảng phân
công.
Tháng 4-1930, Trần Phú được Quốc tế Cộng sản và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cử về nước hoạt
động với cương vị là cán bộ chủ chốt của Đảng và có những đóng góp to lớn cho cách mạng Việt
Nam.
Tháng 7-1930, Trần Phú được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Đồng chí đã
khẩn trương xúc tiến việc tổ chức các cuộc trao đổi với các Đồng chí lãnh đạo trên các lĩnh vực, các
vùng và nghiên cứu khảo sát thực tế tại Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Hòn Gai, Thái Bình để hoàn
thành bản Luận cương.
Luận cương chính trị do Trần Phú dự thảo và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng
10-1930 thông qua, là văn kiện quan trọng của Đảng, đã vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa và những luận điểm cơ bản trình bày trong Chính cương
vắn tắt và Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập
Đảng.
Với công lao và đóng góp to lớn đó, đồng chí Trần Phú đã được Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương tháng 10-1930 bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng.
Trên cương vị Tổng Bí thư đầu tiên, đồng chí Trần Phú đã có những đóng góp to lớn trong việc
xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đồng chí Trần Phú là người cộng sản mẫu mực, nêu
tấm gương kiên cường, bất khuất trước kẻ thù. Đồng chí bị địch bắt ở Sài Gòn ngày 18/4/1931. Thực
dân Pháp đã không từ một thủ đoạn dã man xảo quyệt nào hòng khuất phục đồng chí. Trước những
3

thủ đoạn của kẻ thù, kể cả việc dụ dỗ, mua chuộc, Trần Phú đã tiến công lại kẻ thù: "Tôi biết nhiều
người là để làm việc cho Đảng tôi, nước tôi, chứ không phải khai cho các ông bắt bớ". Sống trong nhà
tù đế quốc trong điều kiện hết sức nghiệt ngã, Trần Phú luôn luôn bình tĩnh, sáng suốt truyền niềm tin
tưởng vào thắng lợi của cách mạng đến các đồng chí cùng bị giam. Trần Phú cùng với các đồng chí
khác tổ chức nhiều cuộc đấu tranh vạch mặt chế độ lao tù dã man, vô nhân đạo của kẻ thù, tổ chức
những buổi huấn luyện chính trị ngay trong nhà tù của đế quốc Pháp.
Sự tra tấn và đày ải của kẻ thù đã cướp đi Tổng Bí thư Trần Phú vào ngày 6/9/1931. Trước lúc hy
sinh, Trần Phú nhắn gửi đồng chí, đồng bào lời nói bất hủ: "Hãy giữ vững chí khí chiến đấu".

Câu 3: Đảng ta khởi xướng đường lối đổi mới đất nước từ Đại hội lần thứ mấy, năm nào?
Nội dung chủ yếu Nghị quyết của Đại hội đổi mới?
Đại hội VI của Đảng diễn ra từ ngày 15 đến 18/12/1986 tại Thủ đô Hà Nội
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đại hội khẳng định
quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học.
Khẳng định những thành tựu đạt được nhiệm kỳ vừa qua, Đại hội cũng nhận rõ, tình hình kinh tế -
xã hội đang có những khó khăn gay gắt; sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân
phối lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp; quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn…
Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội V của Đảng đề ra là về
cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Đại hội nghiêm túc kiểm điểm, phân tích sâu sắc những sai lầm và khuyết điểm, chỉ rõ nguyên
nhân, đề ra biện pháp khắc phục; Đại hội nhấn mạnh: trong những năm trước đó, việc nhìn nhận, đánh
giá tình hình cụ thể về các mặt kinh tế - xã hội của đất nước đã có nhiều thiếu sót. Do vậy, đã dẫn đến
nhiều sai lầm “trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo
xã hội chủ nghĩa (XHCN) và quản lý kinh tế”.
Đại hội thẳng thắn chỉ ra: “Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về
chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”, nhất là bệnh chủ quan
duy ý chí, lạc hậu về nhận thức lý luận.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình đất nước, tự phê bình về những sai lầm, khuyết điểm, đổi
mới tư duy lý luận trải qua nhiều tìm tòi, khảo nghiệm từ thực tiễn, Đại hội đề ra đường lối đổi mới.
(1) Trước hết là đổi mới cơ cấu kinh tế (cơ cấu công - nông nghiệp; cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp;
ngành công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp; công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng; cơ cấu kinh tế
huyện). (2) Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm: chương trình lương thực, thực phẩm; chương
trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu. (3) Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN,
sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế.
Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo XHCN dựa trên ba nguyên tắc: Nhất thiết phải
theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để
xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan
điểm của Lê-nin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ.
Trong công cuộc cải tạo XHCN, phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt xây dựng chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối XHCN.
Đại hội lần thứ VI xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của
chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề
cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường tiếp theo.
4

Đại hội nhấn mạnh phải tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được ba chương trình
mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Bước đầu tạo ra một cơ cấu
kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất. Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh
lớn cơ cấu đầu tư. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN, sử dụng và cải tạo đúng đắn các
thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học, kỹ thuật.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Về xây dựng Đảng, Đại hội xác định: Đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ,
đảng viên và nhân dân là nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng. Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn
các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Đổi mới phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt trong Đảng, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở, tăng cường đoàn kết nhất trí trong
Đảng.

Câu 4: Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng ta
phát động từ ngày tháng năm nào? Nội dung chủ yếu các chuyên đề hàng năm đã học tập, quán
triệt từ khi Đảng ta phát động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đến
nay?
Ngày 7/11/2006, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 06 - CT/TW, quyết định tổ chức cuộc vận động
"Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn dân từ ngày kỷ niệm
77 năm thành lập Đảng (3/2/2007) tới hết nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng.
1. Những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo Nghị quyết Đại hội IX, hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh gồm các nội dung chủ yếu sau: tư
tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; tư tưởng về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; tư tưởng về sức
mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây
dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; tư tưởng về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân; tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân; tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư; tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; tư tưởng về xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân.
2. Những nội dung chủ yếu của đạo đức Hồ Chí Minh
Về vị trí của đạo đức trong đời sống xã hội và của mỗi người
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng, muốn làm cách mạng
phải lấy đạo đức làm gốc.
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, như
ngọn nguồn của sông, suối.
Hồ Chí Minh quan niệm, đạo đức cách mạng là chỗ dựa giúp cho con người vững vàng trong
mọi thử thách.
Đối với Đảng, đội tiên phong của giai cấp công nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây
dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải "là đạo đức, là văn minh"
Về những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam, quan điểm đạo đức Hồ Chí Minh
đã bao quát những mối quan hệ cơ bản của con người trong xã hội, bao gồm:
Một là, với đất nước, dân tộc phải "Trung với nước, hiếu với dân".
5

Hai là, với mọi người phải "Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình".
Ba là, với mình phải thực sự "Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư".
Bốn là, mở rộng quan hệ yêu thương con người đối với toàn nhân loại, người cách mạng phải có
"tinh thần quốc tế trong sáng".
Về những nguyên tắc xây dựng và thực hành đạo đức, theo Hồ Chí Minh, thể hiện ở ba điểm
sau:
Một là, nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Hai là, xây đi đôi với chống.
Ba là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
3. Những nội dung chủ yếu của phong cách Hồ Chí Minh
Về phong cách tư duy
Một là, phong cách tư duy khoa học, cách mạng và hiện đại.
Hai là, phong các tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo.
Ba là, phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình.
Về phong cách làm việc
Một là, phong cách làm việc khoa học.
Hai là, phong cách làm việc có kế hoạch.
Ba là, phong cách làm việc đúng giờ.
Bốn là, phong cách đổi mới, sáng tạo, không chấp nhận lối cũ, đường mòn.
Về phong cách lãnh đạo
Một là, tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Hai là, đi đúng đường lối quần chúng,“lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của
những người “không quan trọng”.
Ba là, phải tổ chức việc kiểm tra, kiểm soát cho tốt.
Bốn là, phong cách nêu gương.
Về phong cách diễn đạt
Một là, cách nói, cách viết giản dị, cụ thể, thiết thực.
Hai là, diễn đạt ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, trong sáng và sinh động, có lượng thông tin cao.
Ba là, sinh động, gần gũi với cách nghĩ của quần chúng, gắn với những hình ảnh, ví von, so
sánh cụ thể.
Bốn là, phong cách diễn đạt luôn luôn biến hóa, nhất quán mà đa dạng.
Về phong cách ứng xử
Một là, khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp.
Hai là, chân tình, nồng hậu, tự nhiên.
Ba là, linh hoạt, chủ động, biến hóa.
Bốn là, vui vẻ, hòa nhã, xóa nhòa mọi khoảng cách.
Về phong cách sinh hoạt
Một là, phong cách sống cần kiệm, liêm chính.
Hai là, phong cách sống hài hòa, nhuần nhuyễn giữa văn hóa Đông - Tây.
Ba là, tôn trọng quy luật tự nhiên, gắn bó với thiên nhiên.

Câu 5: Những thành tựu của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
1. Thắng lợi của đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc
6

a) Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945


b) Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm
tròn nghĩa vụ quốc tế
– Thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954)
– Thắng lợi của cuộc chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)
– Thắng lợi của quân và dân Việt Nam trong việc chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ
quốc ở biên giới Tây Nam và phía Bắc Tổ quốc
2. Thắng lợi của công cuộc đổi mới
Qua hơn 30 năm đổi mới, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trên đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ra khỏi khủng
hoảng kinh tế-xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung
bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị-xã hội ổn
định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa-xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và
đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở
rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được
nâng lên; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và
chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển
mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển
của lịch sử.
Nhìn khái quát, trong gần 90 năm, kể từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân
dân ta đã giành được những thắng lợi to lớn, nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành
một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô
lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo,
kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế
ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, khó khăn, thách thức còn nhiều. Trong lãnh đạo, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm,
khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm
quy luật khách quan. Nhưng vấn đề căn bản là Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết
điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.

Câu 6: Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà ái quốc chân chính, nhà cách mạng sáng
suốt, vị lãnh tụ thiên tài. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người gắn liền với lịch sử
vẻ vang của dân tộc Việt Nam.
Anh chị hãy trình bày tóm tắt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người qua các
giai đoạn lịch sử.
Từ lúc sinh ra đến 5 tuổi, Nguyễn Sinh Cung sống trong sự chăm sóc đầy tình thương yêu của gia
đình, đặc biệt là ông bà ngoại. Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung theo gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm
1901, sau khi thân mẫu qua đời, Người theo cha trở về Nghệ An, rồi lấy tên là Nguyễn Tất Thành, tích
cực học chữ Hán và còn theo cha đi một số nơi, học thêm nhiều điều. Năm 1906, Nguyễn Tất Thành
7

theo cha vào Huế, thời gian đầu học trường Pháp-Việt, sau học trường Quốc học Huế. Tháng 6-1909,
Nguyễn Tất Thành theo cha vào Bình Định, tháng 8-1910 vào Phan Thiết, Bình Thuận làm giáo viên
trường Dục Thanh. Tháng 2-1911, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn.
Giai đoạn 1911- 1920
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, ở một làng quê giàu truyền thống lịch sử, văn
hóa và cách mạng; chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, Người đã sớm hun đúc ý chí và khát vọng cháy
bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước. Ngày 5-6-1911 với tên gọi mới là Văn Ba, Người đã lên
tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng đi Mác xây (Pháp).
Từ năm 1912-1917, Nguyễn Tất Thành đi qua một số nước châu Phi, châu Mỹ. Giữa năm 1913,
Người đến nước Anh, tham gia nhiều hoạt động, cuối năm 1917 Người mới trở lại nước Pháp.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, tháng 6-1919 thay mặt Hội
những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi bản yêu sách gồm 8 điểm (ký tên Nguyễn Ái Quốc) tới
Hội nghị các nước đế quốc họp ở Véc-xây (Pháp), đòi chính phủ các nước họp Hội nghị phải thừa
nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Tháng 12-1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp. Tại đây Người đã bỏ
phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu
tiên của Việt Nam.
Giai đoạn 1921- 1930
Từ năm 1921 đến tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc tham gia nhiều hoạt động: thành lập Hội Liên
hiệp các dân tộc thuộc địa, dự Đại hội lần thứ I và lần thứ II của Đảng Cộng sản Pháp, sinh hoạt trong
Câu lạc bộ Phôbua, làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo Người cùng khổ...
Ngày 13-6-1923, Người rời nước Pháp đi Đức và đến thành phố Xanhpêtécbua (Liên Xô) ngày
30-6-1923.
Từ tháng 7-1923 đến tháng 10-1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong phong trào cộng
sản quốc tế, bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng thuộc địa. Người hoạt động trong Quốc tế
Nông dân; tham dự Đại hội II Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên; tiếp tục
viết nhiều sách báo tuyên truyền cách mạng, hoàn thành tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp; học
tập tại trường Đại học phương Đông; tham gia Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản và được chỉ định
là cán bộ Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản.
Tháng 11-1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 6-1925,
Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, trực tiếp mở các lớp huấn luyện cán bộ, ra Báo
Thanh niên (1925), tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin về
Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc
được tập hợp và in thành tác phẩm Đường Cách mệnh, được xuất bản vào năm 1927.
Hè năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Trung Quốc đi Liên Xô, sau đó đi Đức (tháng 11-1927) rồi bí mật
sang Pháp, đến nước Bỉ dự cuộc họp của Đại hội đồng liên đoàn chống đế quốc (tháng 12-1927), rồi
quay lại Đức, đi Thụy Sỹ, sang Italia. Tháng 7-1928, Nguyễn Ái Quốc tới Xiêm (Thái Lan), rồi trở lại
Trung Quốc vào cuối năm 1929.
Từ ngày 6-1 đến ngày 7-2-1930 tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc chủ
trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giai đoạn 1930-1945
8

Từ năm 1930 đến năm 1941, tuy hoạt động ở nước ngoài nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ đạo sát
sao phong trào cách mạng trong nước. Tháng 6-1931, Người bị nhà cầm quyền Anh bắt giam ở Hồng
Kông. Cuối năm 1932, Người được trả tự do, sau đó đến Liên Xô học tại trường Quốc tế Lênin.
Tháng 10-1938, Người rời Liên Xô đến Diên An (Trung Quốc) làm việc tại Bộ chỉ huy Bát lộ
quân, sau đó bắt liên lạc với tổ chức Đảng, chuẩn bị về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Ngày 28-1-1941, sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc trở về nước (tại cột mốc 108
thuộc xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng).
Từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương
Đảng Cộng sản Đông Dương tại Khuổi Nặm (Pắc Bó, Cao Bằng). Hội nghị đã xác định đường lối đấu
tranh giải phóng dân tộc, chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh, sáng lập Báo Việt Nam Độc lập, tổ
chức lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Tháng 8-1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội Việt
Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược sang Trung Quốc bắt liên lạc với Đồng minh, cùng phối
hợp hành động chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Người bị chính quyền địa phương
của Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Trong thời gian
bị giam giữ, Người viết cuốn Nhật ký trong tù. Tháng 9-1943, Người được thả tự do.
Tháng 9-1944, Hồ Chí Minh trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12-1944, Hồ Chí Minh chỉ thị thành
lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại đây theo đề nghị của
Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân đã họp quyết định tổng khởi nghĩa. Đại hội
Quốc dân đã bầu ra Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch.
Tháng 8-1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính
quyền thắng lợi.
Ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Giai đoạn 1945-1954
Những năm 1945-1946, Người cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ
chính quyền cách mạng non trẻ, đối phó với thù trong, giặc ngoài, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua
tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”; tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua
Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I (1946) đã bầu Người làm Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 2-3-1946, Chính phủ Liên hiệp kháng chiến được thành lập do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngày 3-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội giao nhiệm vụ thành lập Chính phủ mới
do Người làm Chủ tịch nước kiêm Thủ tướng Chính phủ (từ tháng 11-1946 - đến tháng 9-1955) và
kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam
đã giành thắng lợi vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà đỉnh cao là
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, đưa miền Bắc đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Giai đoạn 1954-1969
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Quân Pháp rút về nước, miền
Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, sau 2 năm sẽ tổ chức Tổng tuyển
9

cử thống nhất nước Việt Nam. Nhưng đế quốc Mỹ với ý đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, đã lợi dụng cơ
hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức, chỉ huy ngụy quyền, ngụy quân tay sai, viện trợ kinh tế quân sự,
biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài nước ta. Cả dân tộc ta lại bước vào cuộc
chiến đấu chống xâm lược mới. Trước bối cảnh đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp
tục lãnh đạo nhân dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
Tháng 10-1956, tại Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng lần thứ X (khóa II), Chủ tịch Hồ Chí
Minh được cử giữ chức Chủ tịch Đảng.
Tại Đại hội lần thứ III của Đảng (1960), Người được bầu lại làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đường lối đúng đắn, lãnh
đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và công cuộc cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc thắng lợi; đặt nền móng và không ngừng vun đắp tình hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với các
dân tộc trên thế giới, giữa Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) với các Đảng
Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời là tổn thất vô cùng lớn lao. Đồng bào và chiến sĩ
cả nước ta thương nhớ Người khôn xiết. Sự ra đi của Người để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn
Đảng, toàn dân tộc Việt Nam và tình đoàn kết thân ái với nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc
ta, nhân dân ta và vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên thế giới. Người đã trải qua một cuộc đời oanh liệt,
đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ. Cuộc đời và
sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là tấm gương sáng ngời cho lớp lớp thế hệ
người Việt Nam học tập và noi theo.
Tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ còn mãi với non sông đất nước, sống mãi
trong lòng mỗi chúng ta.

Câu 7: Những nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Anh chị hãy nêu
và phân tích vì sao những vấn đề đó là cốt lõi?
1. Tư tưởng về vấn đề dân tộc, mối quan hệ dân tộc - giai cấp và cách mạng giải phóng dân
tộc. Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về thực chất, là vấn đề dân tộc thuộc địa trong thời
đại cách mạng vô sản và độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân
tộc. Ở đó, có sự kết hợp nhuần nhuyễn lập trường dân tộc với lập trường giai cấp vô sản trong bản
chất và tổng thể. Nhưng trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích giai cấp thống nhất với
lợi ích dân tộc, nhiệm vụ giải phóng giai cấp gắn liền với nhiệm vụ giải phóng dân tộc và do vậy, lợi
ích và nhiệm vụ giải phóng giai cấp phải gắn liền với lợi ích và nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Xét đến
cùng và trong toàn cục thì cách đặt vấn đề như vậy về dân tộc cũng là vì giai cấp công nhân. Từ giác
ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp vô sản là bước nhảy vọt căn bản về nhận thức mà Hồ Chí Minh là
người đầu tiên thực hiện trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhờ giác ngộ giai cấp mà Người hiểu sâu
hơn vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời càng sâu sắc hơn trong giác ngộ dân
tộc, xác định và kiên trì lý tưởng phục vụ lợi ích giai cấp công nhân và dân tộc. Với Người, cách
mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, phải do Đảng của
10

giai cấp công nhân lãnh đạo, phải xây dựng được khối đoàn kết toàn dân trên nền tảng của liên minh
công nông, phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và phải được thực hiện bằng con đường bạo lực
cách mạng.
2. Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong chủ nghĩa
yêu nước truyền thống Việt Nam, nhiều nhà tư tưởng đã không nhận thức được tính tất yếu và sự cần
thiết của việc thay đổi xã hội. Thế hệ các nhà yêu nước mà hai cụ Phan là tiêu biểu đã nhận thức được
điều đó, song cái ý thức hệ tư sản mà các cụ tiếp thu đã trở nên lạc hậu ở phương Tây. Hồ Chí Minh
không chỉ nhận thức được tính tất yếu và sự cần thiết của việc thay đổi xã hội, mà còn tiếp thu được
hệ tư tưởng vô sản làm nền tảng cho việc xây dựng một xã hội mới của dân, do dân, vì dân và mang
một nội dung nhân văn sâu sắc. Đó là xã hội xã hội chủ nghĩa, vì theo Người, chỉ có chủ nghĩa xã hội
mới đảm bảo vững chắc cho một nền độc lập thật sự và đưa lại hạnh phúc, tự do thật sự cho nhân dân.
Hồ Chí Minh còn nêu lên cách hiểu của mình về chủ nghĩa xã hội, về công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, một cách hiểu thật giản dị, phổ cập, nhưng lại rất sâu sắc và thiết thực: Chủ nghĩa xã hội
là làm sao cho dân giầu nước mạnh; chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay
đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều
được ấm no và hạnh phúc. Người còn nêu ra tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng đối
tượng xã hội, như "việc làm cho mọi người", "ốm đau có thuốc chữa", "già yếu thì được nghỉ", "ai
cũng được học hành", "những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ",...
Người khẳng định: Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu
sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân
tộc ta. Do vậy, không thể làm mau được mà phải làm dần dần. Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam,
từ những thập niên đầu thế kỷ XX cho đến nay, đã chứng tỏ sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội đó là hoàn toàn đúng đắn.
3. Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc. Từ nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn trong phong trào
giải phóng dân tộc và cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Tư tưởng về đại đoàn kết của Người đã được
phát huy cao độ trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ trong nội bộ Đảng đến toàn thể dân tộc.
Người chỉ rõ: Nếu chỉ đoàn kết trong Đảng thì chưa đủ, mà Đảng còn phải đoàn kết xung quanh mình
toàn thể dân tộc thì cách mạng mới thành công. Người chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân
mà cốt lõi là liên minh công - nông, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không phân biệt ai,
miễn là người Việt Nam yêu nước, chống đế quốc, tán thành xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Người viết: Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân..., phải đoàn kết tốt các đảng phái,
các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn
nhau, cùng tiến bộ..., phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc..., phải đoàn kết
chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hoà thuận ấm no,
xây dựng Tổ quốc. Hồ Chí Minh hiểu rõ đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế có quan hệ mật thiết,
gắn bó chặt chẽ với nhau.
4. Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa
Mác - Lênin và trên lập trường giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm xây dựng, củng
cố liên minh chiến đấu giữa phong trào công nhân chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc thuộc
địa nhằm phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Với
Người, “Quan sơn muôn dặm một nhà. Bốn phương vô sản đều là anh em”. Mở rộng khối đại đoàn
kết quốc tế trên cơ sở của tình hữu ái vô sản, có lý, có tình, Người đã thực hiện quan điểm thêm bầu
11

bạn, bớt kẻ thù. Theo Người, mở rộng khối đoàn kết là tìm thấy những người bạn quốc tế dân chủ và
tiến bộ của dân tộc. Có thể nói, tư tưởng về sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính của
dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân đã trở thành một trong những đặc
điểm mới của tư tưởng Hồ Chí Minh, bổ sung cho tư tưởng về độc lập dân tộc của Người và đưa tư
tưởng ấy lên ngang tầm thời đại.
5. Tư tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam. Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí
Minh đã xây dựng và rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính, bộ tham mưu sáng
suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Người khẳng định Đảng là nhân tố
quyết định hàng đầu để lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi công cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản
phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam, là Đảng của giai cấp công nhân cũng đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Đảng phải lấy
chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt” và phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới
của giai cấp vô sản. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người “đầy tớ” thật trung thành của nhân dân
và do vậy, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới về chính trị, tư tưởng và tổ chức để xứng
đáng là “Đảng của đạo đức và văn minh”.
6. Tư tưởng về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Theo Hồ Chí Minh, nếu vấn đề cơ bản
của một cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của một chính quyền là ở chỗ, nó
thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai. Chính vì vậy mà trên hành trình đi tìm một mô hình nhà
nước tiến bộ cho dân tộc sau khi giành được độc lập, Người đã khảo sát những mô hình nhà nước ở
các châu lục trên thế giới, vận dụng sáng tạo học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin và đi
đến quyết định lựa chọn mô hình nhà nước dân chủ nhân dân, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Trong nhà nước ấy, mọi lợi ích, quyền hạn, lực lượng đều ở nơi dân và có sự thống nhất giữa bản chất
giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc.
7. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu và
xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Người không những đã để lại những tác
phẩm lý luận về đạo đức, mà còn là hiện thân mẫu mực của những hành vi đạo đức. Tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, những giá trị của tư tưởng đạo
đức phương Đông và phương Tây, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin. Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở
Việt Nam. Nền đạo đức mới mang bản chất của giai cấp công nhân được gọi là đạo đức cách mạng.
Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi người cách mạng phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao
đẹp. Đức là gốc, nhưng đức và tài phải kết hợp, phải đi đôi với nhau. Điều đó cho thấy, theo Hồ Chí
Minh, đạo đức là vấn đề mang tính toàn diện ở mọi con người, biểu hiện tập trung thông qua ba mối
quan hệ: đối với mình, đối với người và đối với công việc. Người thường xuyên nhắc nhở chúng ta
cần nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
8. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Với Hồ Chí Minh, “Trên đời ngàn vạn điều cay đắng; Cay
đắng chi bằng mất tự do”. Từ nhận thức đó, Người quyết tâm ra đi tìm một hệ tư tưởng mới đủ sức
giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người nhằm đáp ứng nhu
cầu thực tiễn của xã hội Việt Nam. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ sự kế thừa một
cách sáng tạo những giá trị nhân văn truyền thống, những giá trị nhân văn trong lịch sử nhân loại, đặc
biệt là tinh thần khoa học, cách mạng của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản ở các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác – Lênin. Với lòng yêu thương vô hạn và sự cảm thông sâu sắc đối với mọi nỗi đau khổ của con
người, Người kiên quyết đấu tranh, tố cáo những tội ác gây ra cho con người và đặt niềm tin mãnh liệt
12

vào sức mạnh, phẩm giá, vào khát vọng vươn tới Chân, Thiện, Mỹ của con người. Theo Hồ Chí Minh,
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Trên cơ sở của niềm tin mãnh liệt vào con
người, Hồ Chí Minh nguyện phấn đấu suốt đời cho hạnh phúc của con người trong một xã hội công
bằng và coi chiến lược trồng người là chiến lược hàng đầu của cách mạng.
9. Tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh. Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người
mới sáng tạo và phát minh ra những phương tiện và công cụ cho sinh hoạt hàng ngày nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống của họ. Theo Người, văn hoá có vị trí, vai trò, tính chất và chức năng quan
trọng, to lớn trong đời sống xã hội; văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi, phải làm cho ai cũng có
lý tưởng độc lập, tự chủ và có ý thức đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ.
Người chỉ rõ ba lĩnh vực chính của văn hoá là văn hoá giáo dục, văn hoá văn nghệ và văn hoá đời
sống. Mỗi lĩnh vực của văn hoá lại có vị trí, chức năng và nhiệm vụ riêng, song việc cải tạo, sửa đổi
cái cũ và việc xây dựng, sáng tạo, phát minh cái mới luôn là những vấn đề bức thiết, vấn đề thời sự
của cuộc sống.

Câu 8: Trong các nhà lãnh đạo cách mạng trên thế giới, có thể nói, Hồ Chí Minh là
một trong những nhà tư tưởng, những lãnh tụ cách mạng quan tâm nhiều đến vấn đề
đạo đức và có nhiều cống hiến về tư tưởng đạo đức cách mạng. Không những thế, bản
thân Người còn là một tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng.
Anh chị hãy trình bày những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Quan niệm chung của Chủ tich Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm
cơ bản sau đây:
Một là, trung với nước, hiếu với dân. Theo Hồ Chí Minh, đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao
trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ quan niệm cũ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong
đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung
mới, cao rộng hơn là “trung với nước, hiếu với dân”. Người khẳng định: “Trung với nước, hiếu với
dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói của Bác vừa là lời
kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi người Việt Nam, không phải chỉ
trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc mà còn lâu dài mãi về sau.
Hai là, yêu thương con người. Quan niệm này cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về lòng yêu
thương con người rất toàn diện và độc đáo. Bởi vậy, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con
người là một trong những phẩm chất cao đẹp nhất. Người luôn luôn dành tình yêu thương rộng lớn
cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột. Bác đã viết: “Tôi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [3]. Ở Hồ Chí Minh, tình yêu thương
đồng bào, đồng chí của Người rất bao la, rộng lớn và toàn diện, không phân biệt vùng, miền, trẻ, già,
trai, gái...hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người. Tình yêu
thương của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện tấm lòng bao dung cao cả của một người Cha, đặc
biệt, đối với những người phạm sai lầm, khuyết điểm. Người căn dặn: mỗi con người đều có thiện và
ác ở trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và
phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ
hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần
thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời. Chính vì vậy, trong
13

Di chúc để lại cho muôn đời sau, Người căn dặn Đảng: phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau,
mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con người.
Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Khổng Tử đã từng nêu lên những khái niệm về cần,
kiệm, liêm, chính, ông cho rằng cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính do “thiên phú”. Tuy nhiên,
khi vận dụng những khái niệm này của đạo đức cũ Người lại cho rằng cần, kiệm, liêm, chính không
phải do thiên phú mà do sự rèn luyện bền bỉ mà nên, Người đã khằng định: đạo đức cách mạng không
phải tự trên trời sa xuống mà do sự rèn luyện bền bỉ mà nên. Theo Người, cần, kiệm, lêm, chính là tứ
đức không thể thiếu được đối với mỗi con người giống như trời có bốn mùa, đất có bốn phương.
Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất
cao, với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm; Kiệm tức là tiết
kệm sức lao động, thì giờ, tiền của của dân, của nước, của bản thân mình, phải tiết kiệm từ cái to đến
cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô
trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù; Liêm tức là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công
và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc nào của Nhà nước, của nhân dân, phải trong sạch,
không tham lam, không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người
tâng bốc mình, vì vậy mà quang minh, chính đại, không bao giờ hủ hóa; Chính nghĩa là không tà,
thẳng thắn, đứng đắn, đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự
kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình, đối với người thì không nịnh hót
người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà,
không dối trá, lừa lọc, đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà; Chí công vô
tư là đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc, khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến
mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, phải “lo cho thiên hạ trước, vui sau thiên hạ”.
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Hồ Chí Minh đã
nêu lên bằng một mệnh đề “bốn phương vô sản đều là anh em”, là tinh thần đoàn kết với các dân tộc
bị áp bức, với nhân dân lao động các nước mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động
cách mạng thực tiễn của bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc, là tinh thần đoàn
kết của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới vì hòa bình, công lý và tiến
bộ xã hội, vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc và chủ ngĩa xã hội, là tinh thần hợp tác và hữu nghị.

Câu 9: Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập, tự
do của dân tộc; cống hiến trọn đời mình cho Tổ quốc, Bác Hồ đã đem về cho dân tộc bao
nhiêu mùa xuân của hạnh phúc, yêu thương và khát vọng, Hồ Chí Minh - Người không
chỉ là vị lãnh tụ kiệt xuất, nhà cách mạng lỗi lạc mà còn là biểu tượng toàn vẹn của đạo
đức cách mạng.
Anh chị hãy cho biết biểu tượng toàn vẹn của đạo đức cách mạng đó là gì?
Thứ nhất, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân loại.
Thứ hai, đạo đức Hồ chí Minh là tấm gương của ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi
thử thách, khó khăn để đạt mục đích cách mạng.
Thứ ba, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, kính
trọng nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân.
Thứ tư, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương của một con người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân
hậu hết mực vì con người.
14

Thứ năm, đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng
trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường.

You might also like