Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 93

1|#hocvancosuongmai

TỔNG HỢP KIẾN THỨC TIẾNG VIỆT


Biên soạn: Yên Minh Huy_ Trợ giảng chuyên môn Học Văn Cô Sương Mai

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ KIẾN THỨC NGÔN NGỮ
1. Từ
1.1. Cấu trúc hình vị của từ
1.2. Nghĩa của từ
1.3. Sửa lỗi dùng từ
2. Cụm từ
2.1, Khái niệm và cấu trúc cụm từ
2.2, Các loại cụm từ
3. Giản yếu về câu
3.1, Các thành phần câu
3.2, Cách viết các loại câu
3.3, Sửa lỗi câu
4. Đoạn văn
CHƯƠNG II: BIỆN PHÁP TU TỪ
1. Biện pháp tu từ ngữ âm
2. Biện pháp tu từ ngữ nghĩa
3. Biện pháp tu từ cú pháp
CHƯƠNG III: PHONG CÁCH HỌC
1. Phương thức biểu đạt
2. Phong cách ngôn ngữ
3. Liên kết câu, liên kết đoạn
4. Ngữ cảnh
5. Sửa lỗi logic về câu, đoạn
CHƯƠNG IV: NGÔN NGỮ HỌC XÃ HỘI
1. Ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
2. Ngôn ngữ trang trọng và ngôn ngữ thông tục
3. Phương ngữ
3.1, Phương ngữ Tiếng Việt
3.2, Phương ngữ Tiếng Việt trong văn bản văn học
MỘT SỐ ĐỀ ĐỌC HIỂU LUYỆN TẬP
I. Dành cho chương trình cũ
Đề 1
Đề 2
Đề 3
Đề 4
Đề 5
II. Dành cho chương trình mới
Đề 1
Đề 2
Đề 3
Đề 4
Đề 5
HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI PHẦN LUYỆN TẬP CÁC CHƯƠNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang 1
2|#hocvancosuongmai

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ KIẾN THỨC NGÔN NGỮ CHUNG

I: TỪ
1.1, CẤU TRÚC CỦA TỪ
a, Hình vị và từ
Hình vị là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ có ý nghĩa. Chức năng của hình vị là tạo
thành từ. Trong Tiếng Việt, một từ đơn sẽ ứng với một âm, một hình vị, một chữ cái (Vì
Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn âm tiết)
Ví dụ: “con cái” có hai hình vị là “con” và “cái”
Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ có ý nghĩa. Khác với hình vị, từ có thể tham gia
trực tiếp để tạo thành câu (có chức năng ngữ pháp)
Ví dụ: “cô”, “thầy”, “đi”, “đứng”,...
b, Cấu trúc hình vị
Một hình vị (tương ứng với một từ đơn, một chữ cái) sẽ có hai thành phần là thành
phần đoạn tính và thành phần siêu đoạn tính.
b.1, Thành phần đoạn tính
Thành phần đoạn tính là thành phần gồm các đơn vị chiếm một đoạn nhất định khi
phát âm, có thể được phân cắt.
Khi xét về thành phần đoạn tính, một hình vị Tiếng Việt có cấu trúc như sau
Tiếng Phần vần

Âm đệm Âm chính Âm cuối

Ví dụ: Cấu trúc của từ “nghiêng”


Tiếng Phần vần

Âm đệm Âm chính Âm cuối

ngh iê ng

* Lưu ý:
Âm đệm trong Tiếng Việt chỉ bao gồm hai nguyên âm “o”, “u” và làm tròn môi khi
phát âm
• “o” đứng trước a, ă, e
• “u” đứng trước y, ê, â, ơ
Ví dụ: Cấu trúc của từ “hoang”
Tiếng Phần vần

Âm đệm Âm chính Âm cuối

h o a ng

Trong Tiếng Việt, một hình vị (ứng với một từ đơn, một chữ cái) có thể khuyết phần
Tiếng, phần âm đệm, âm cuối nhưng cần thiết phải có phần âm chính.

Trang 2
3|#hocvancosuongmai

b.2, Thành phần siêu đoạn tính


Thành phần siêu đoạn tính bao gồm các đơn vị phân bổ toàn hình vị khi phát âm,
không thể chia cắt. Dấu thanh và trọng âm là hai đơn vị tiêu biểu của thành phần siêu đoạn
tính. Ở tài liệu này, ta chỉ tập trung vào phần dấu thanh.
Tiếng Việt có tất cả sáu thanh: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, ngang. Tuy nhiên, ở một số
vùng miền ở Việt Nam sẽ tồn tại ít hơn, nhưng trên mặt chữ viết vẫn sẽ thể hiện đủ sáu
thanh.
Căn cứ vào độ biến đổi cao thấp, người ta phân loại dấu thanh như sau:
Thanh bằng Thanh trắc

Là những thanh có sự ổn định khi phát âm, Là những thanh có sự biến đổi cao thấp
không có sự biến đổi cao thấp. khi phát âm
Thanh bằng bao gồm: thanh ngang và thanh Thanh trắc bao gồm: thanh sắc, thanh
huyền hỏi, thanh ngã, thanh nặng
Trong cấu trúc hình vị ở Tiếng Việt, thanh điệu sẽ phân bổ đều cả hình vị
THANH ĐIỆU

Tiếng Phần vần

Âm đệm Âm chính Âm cuối

h o a ng

Ví dụ cấu trúc từ “đường”


THANH HUYỀN

Tiếng Phần vần

Âm đệm Âm chính Âm cuối

đ ươ ng

c, Phân loại từ
c.1, Phân loại theo cấu trúc
c.1.1, Từ đơn
Là những từ được tạo nên từ một hình vị
Phân loại từ đơn:
+ Từ đơn đơn âm (chiếm đa số): Là những từ đơn chỉ có một âm tiết khi phát âm. Ví dụ: nhà,
biển, nước,...
+ Từ đơn đa âm: Là những từ đơn có nhiều hơn hai âm tiết (do vay mượn từ ngôn ngữ dân
tộc hoặc ngôn ngữ nước ngoài). Ví dụ: ra-đa, xà phòng,... Một số trường hợp, từ đơn đa âm là
sự kết hợp của các tiếng không có nghĩa gộp lại. Ví dụ: bồ kết, chôm chôm,...
* Bản chất của từ đơn đa âm vẫn có cấu tạo là một hình vị, nhưng đa âm tiết. Ví dụ từ
“chôm chôm” nhiều học sinh sẽ cho rằng là hai hình vị, nhưng về định nghĩa, hình vị là đơn

Trang 3
4|#hocvancosuongmai

vị nhỏ nhất mang ý nghĩa, mà từ “chôm” bản thân nó không có nghĩa khi đứng độc lập. Chỉ
có hai tiếng “chôm chôm” khi kết hợp mới cho ra một từ thể hiện tên một loại trái cây.
c.2.2, Từ láy
Là từ được cấu tạo bằng cách lặp lại toàn bộ hoặc một phần hình thức ngữ âm của
hình vị gốc.
Ví dụ: đẹp (hình vị gốc) -> đẹp đẽ (“đẽ” không phải là một hình vị độc lập vì nó không mang
ý nghĩa cụ thể).
* Phân loại:
Dựa vào thành phần được láy, ta sẽ có từ láy toàn bộ hoặc từ láy bộ phận (láy phần
Tiếng, láy phần Vần)
Dựa vào số lần láy, ta sẽ có từ láy đôi, láy ba và láy tư
Ví dụ:
- Láy đôi: mập mạp, mền mệt, lề mề
- Láy ba: sạch sành sanh
- Láy tư: xớn xa xớn xác, te tua tơi tả
c.2.3, Từ ghép
Là từ được cấu tạo bằng cách ghép hai hoặc hơn hai hình vị vào với nhau
Ví dụ: vui tính, hôm qua, ông bà,...
* Phân loại
- Từ ghép chính phụ: Là từ ghép có một hình vị chính làm trung tâm, các hình vị còn lại phụ
thuộc vào hình vị chính, giới hạn ý nghĩa của hình vị chính.
Ví dụ: “bánh mì”
Hai hình vị “bánh” và “mì” phụ thuộc vào nhau, nếu như tách một trong hai ra thì sẽ gặp
trường hợp mơ hồ về nghĩa. Trong đó “bánh” là hình vị chính, “mì” là hình vị bổ sung ý
nghĩa.
Từ ghép đẳng lập: Là từ ghép mà các hình vị có mối quan hệ đẳng lập, ngang hàng,
không phụ thuộc vào nhau.
Ví dụ: “no đói”, “sung sướng”, “nhỏ bé”,....

1.2, NGHĨA CỦA TỪ


1.2.1, Mối quan hệ giữa nghĩa của từ và chữ viết
Giáo trình “Tiếng Việt và Tiếng Việt thực hành” - Lã Thị Bắc Lý, Phạm Thị Hồng
Xuân, Nguyễn Thị Thu Nga định nghĩa nghĩa của từ là toàn bộ nội dung tinh thần của một từ
gợi ra khi chúng ta tiếp xúc với từ ấy. Đó có thể là nội dung về sự vật, hiện tượng, tính chất
khách quan, tình cảm, thái độ đánh giá về sự vật, hiện tượng.
Nghĩa của từ đôi khi được thể hiện trên mặt chữ viết dựa trên cấu trúc hình vị của từ ở
một số ngôn ngữ đa âm tiết:
Vd: “Philosophy” là sự kết hợp của hai hình vị: “philo-” mang nghĩa yêu mến, “sophy” mang
nghĩa sự thông thái. Khi kết hợp lại, ta có danh từ triết học.
Nghĩa của từ thường khó có thể được hình dung trong các ngôn ngữ đơn âm tiết, nhưng
ở chữ Hán, người ta vẫn có thể xác định được nghĩa của từ dựa trên sự kết hợp của các bộ, các
gốc từ tạo thành từ mới hoặc từ phái sinh. Ví dụ từ “林” (rừng) là sự kết hợp của gốc từ “木
”(cây) lặp lại hai lần
Chữ quốc ngữ của Việt Nam là hệ thống chữ viết biểu âm, cấu trúc hình vị không phức
tạp nên bản thân nó không biểu thị ý nghĩa. Để hiểu nghĩa của từ trong Tiếng Việt, người ta
không thể xác định lần đầu thông qua hệ thống kí hiệu của chữ quốc ngữ mà phải dựa theo
nghĩa tinh thần của từ và khả năng kết hợp của nó ở trong ngữ cảnh.
1.2.2, Phân loại nghĩa của từ
a. Nghĩa biểu vật

Trang 4
5|#hocvancosuongmai

Nghĩa biểu vật của từ là loại sự vật mà từ thể hiện. Khái niệm sự vật phải được hiểu
một cách khái quát, ví dụ từ “ghế” để chỉ toàn bộ cái ghế không kể hình dáng, chất liệu, công
dụng,...
Nghĩa biểu vật của từ mang tính khách quan, nên nó không biểu thị chính xác sự vật
thực tế. Vd: Từ “cây viết” giúp ta hình dung được một khái niệm chung chung chứ không biểu
thị cụ thể cây viết đó như thế nào.
b. Nghĩa biểu niệm
Nghĩa biểu niệm của từ là những hiểu biết về ý nghĩa biểu vật của từ.
Nghĩa biểu niệm của từ thường hay được nhìn thấy trong các từ điển
Vd: từ “bàn” có nghĩa là đồ thường làm bằng gỗ, có mặt phẳng và chân đỡ, dùng để bày đồ đạc
hay để làm việc, làm nơi ăn uống.
c. Nghĩa biểu thái
Nghĩa biểu thái của từ là nét nghĩa biểu thị tình cảm, cảm xúc, thái độ đánh giá của
người sử dụng từ.
Vd: Các từ “chết”, “hi sinh”, “qua đời”, “bỏ mạng” đều cùng một trường nghĩa nhưng lại mang
sắc thái cảm xúc khác nhau.
1.2.3, Tính đa nghĩa của từ
Căn cứ vào số lượng ngữ nghĩa được sử dụng của một từ, ta có thể chia từ thành 2
loại chính: từ đơn nghĩa và từ đa nghĩa; trong đó từ đa nghĩa chiếm một phần lớn trong hệ
thống từ vựng Tiếng Việt.
Từ đa nghĩa là những từ mang nhiều hơn một ý nghĩa. Các nghĩa của nó được biểu thị
thông qua sự kết hợp của từ đó với những từ xung quanh.
Vd: Từ “bàn” thông thường biểu thị một vật phẳng mà người ta dùng để đặt đồ lên trên,
nhưng trong tổ hợp từ “bàn bạc”, từ “bàn” lại mang nghĩa là hội ý với nhau để đưa ra quyết
định nào đó.
Nghĩa của từ có thể thay đổi khi:
- Thay đổi từ loại, chức năng ngữ pháp
- Thay đổi ngữ cảnh
- Thay đổi các cụm từ cố định.
Căn cứ vào các tầng nghĩa của từ, người ta phân chia như sau:
a. Nghĩa chính
Là nghĩa cơ bản, phổ biến của từ, ít phụ thuộc vào sự kết hợp và ngữ cảnh, và làm cơ
sở để giải thích cho các nghĩa khác. Vd: “Chân”: chi dưới của người, động vật.
b. Nghĩa phụ
Là nghĩa chuyển từ nghĩa chính sang dựa trên cơ sở một số nét chung nào đấy và đã
được cố định hoá trong hệ thống.
Vd:
Nhà: công trình kiến trúc dùng để ở
Nhưng song song đó, ta có “Nhà Nước”, “Nhà Nguyễn”,...
=> Từ “nhà” trong các kết hợp từ trên được biến đổi từ nghĩa chính.
c. Nghĩa tu từ
Là nghĩa chỉ tồn tại trong một số ngữ cảnh nhất định, được hình thành do người nói,
người viết sử dụng các phép tu từ.
Vd:
“Ngày ngày mặt trời(1) đi qua trên lăng,
Thấy một mặt trời(2) trong lăng rất đỏ.”
(Viễn Phương)
Ta có nét nghĩa của mặt trời(1) và mặt trời (2) không giống nhau. Trong đó, mặt
trời(2) dùng để thể hiện cho vị lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Trang 5
6|#hocvancosuongmai

1.3, SỬA LỖI DÙNG TỪ


1.3.1, Yêu cầu về dùng từ
Trước hết, dùng từ phải đúng với hình thức âm thanh của từ. Mỗi hình thức ngữ âm của
từ sẽ biểu thị những ý nghĩa khác nhau. Ví dụ, người ta sử dụng từ “giành giật” thay vì “dành
giật”; bởi vì “giành” mang ý nghĩa là lấy lại thứ gì đó từ một người, nơi khác, còn “dành” lại
mang nghĩa giữ lại cái gì đó để sử dụng sau này.
Khi dùng từ, ta cũng cần chú ý đến khả năng kết hợp của các từ trong ngữ cảnh. Nghĩa
của từ được quy định vào ngữ cảnh, và không phải từ nào cũng sẽ phù hợp khi đặt trong một
kết hợp hoàn chỉnh. Ví dụ, ta không thể dùng kết hợp “tối ưu nhất” vì “tối ưu” đã bao hàm cả
nghĩa “nhất” ở trong đó. Hay ta chỉ có thể dùng “hơi lùn” chứ không có “hơi lùn tịt” vì “lùn
tịt” nghĩa là rất lùn, không thể kết hợp với từ “hơi”.
Ngoài ra, khi dùng từ, ta cũng cần chú ý đến hình thức cấu tạo của từ. Một số từ ghép
khi đảo vị trí các hình vị sẽ không gây ra sự đổi nghĩa, nhưng một số từ lại có sự thay đổi về
nghĩa. Ví dụ, “thông tư” (một văn bản hành chính) sẽ khác với “tư thông” (mối quan hệ bất
chính).
Khi dùng từ, người ta còn chú ý đến ngữ nghĩa của từ trong ngữ cảnh. Có một học sinh
viết như sau: “Chúng em sẽ thực thi tốt bài tập được giao”. Ở đây, “thực thi” chỉ việc làm theo
đúng trình tự phép tắc nhất định, và không phù hợp trong ngữ cảnh trên. Thay vào đó, học sinh
nên dùng các từ như “thực hành”, “làm”,...
Bên cạnh đó, việc dùng từ cũng phải cần đảm bảo phong cách ngôn ngữ, phải hệ thống
và logic. Khi viết văn bản hành chính, ngôn ngữ phải phù hợp với phong cách hành chính. Khi
sáng tác văn học, ngôn ngữ cũng phải phù hợp với phong cách văn học. Khi dùng từ, cần phải
đảm bảo sự thống nhất với chủ đề, thể loại văn bản.
1.3.2, Sửa lỗi dùng từ
Dùng từ không đúng hình Học sinh hay nhầm lẫn các từ gần giống như khi phát âm như:
thức ngữ âm của từ + "giành", "dành"
+ "chuyền", "truyền"
+ "giấu", "dấu"
Vd: “chuyền nước”, “bóng truyền” -> Sửa lại: “truyền nước”,
“bóng chuyền”
Dùng từ không hợp với Trường hợp 1: Kết hợp từ không đúng
kết hợp từ. Vd: đa phần, (thành tố Hán Việt không thể đi với thành tố thuần
Việt) -> Sửa lại: đa số,
Trường hợp 2: Không viết đúng cụm từ cố định.
Vd: Vắng cô thì chợ vẫn đông.
Dùng từ thiếu thống Vd: Một học sinh viết thư điện tử cho giáo viên như sau:
nhất, không phù hợp với "Thưa cô, hôm nay bọn em làm đơn này muốn nói về những
phong cách ngôn ngữ lùm xùm ở trong lớp".
đang sử dụng. -> Hai từ in nghiêng mang đậm tính khẩu ngữ, không phù hợp
với văn bản hành chính, trang trọng (đặc biệt khi học sinh gửi
mail cho giáo viên để trình bày một vấn đề hành chính nào đó)
Dùng thừa từ hoặc lặp từ Trường hợp lặp từ được công nhận là khi học sinh sử dụng
phép lặp từ như một phép liên kết.
Vd: Cô Sương Mai là một giáo viên nhiệt huyết. Cô Sương Mai
cũng là một người truyền cảm hứng.
Nhưng, lặp từ sẽ trở thành lỗi nếu như làm cho diễn đạt trở nên
dư thừa
Vd: "xấp xỉ gần", "tái tạo lại", "tối ưu nhất", "khuyết nhược
điểm".

Trang 6
7|#hocvancosuongmai

-> "xấp xỉ" đã có nghĩa là gần bằng, nên thêm chữ "gần" vào
sẽ làm cho diễn đạt bị dư thừa.
Dùng từ sáo rỗng Vd: Đó là nhà văn tuyệt vời nhất. Tác phẩm của anh là kiệt tác
số một.
Ở ví dụ trên, người viết sử dụng nhiều từ mang tính công thức,
sáo rỗng và thiếu tính chất khách quan.
Dùng từ chưa đúng nghĩa Vd: Người đàn ông ấy sẽ tái giá sau khi vợ cũ mất được ba
năm.
Từ “tái giá” được sử dụng chưa đúng, chưa khớp với ngữ cảnh.
Vì “tái giá” là hành động người phụ nữ lấy chồng thêm một lần
nữa; còn đối với người đàn ông, ta có động từ “tục huyền” chỉ
việc anh ta lấy thêm vợ mới.

LUYỆN TẬP
Bài 1: Hãy phân tích cấu trúc hình vị của những từ sau
a. Khoáng
b. Hoa
c. Khập Khiễng
d. Toàn
e. Uyên Ương
Bài 2: Xếp các từ sau đây vào bảng
lang thang mỏng manh hộp bút chùa chiền ăn tái tạo gió
ra-đi-ô phiêu bạt ảnh hưởng lung linh to to bệnh cháu
chắt

Từ đơn Từ láy Từ ghép

Bài 3: Phân tích nghĩa của những từ in đậm


a. Ngày hôm qua, chúng tôi bàn nhau về cách để tổ chức sinh nhật cho Hà.
b. Hôm qua tôi ngủ ngon lắm.
c. Lan ngồi ở mũi thuyền, cất lên câu hò nghe sao mã não lòng.
d. Áo trắng em đến trường, cùng đàn chim ca rộn ràng. Từng làn gió vờn tóc em, kỷ niệm
buồn vui ngập tràn.
Bài 4: Phân tích lỗi và chữa lỗi ở những câu sau.
a. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh phát động sinh viên tham gia chiến dịch
hiến máu nhân đạo, chuyền máu cứu người.
b. Hai nhóm học sinh bị triệu hồi tại phòng giám thị sau khi tham gia một trận cãi vã ở sân
trường.
c. Đó là một phương án khả dĩ có thể chấp nhận được.
d. Luật pháp quy định trẻ em chưa vị thành viên không được đi xe gắn máy phân khối một
trăm.

II: CỤM TỪ
2.1, Khái niệm cụm từ

Trang 7
8|#hocvancosuongmai

Cụm từ (hay còn gọi là “ngữ”) là một tổ hợp từ theo quan hệ ngữ pháp nhất định. Trong
đó, có một từ (hoặc một số từ) đóng vai trò là thành tố trung tâm, những từ khác có chức năng
bổ sung nghĩa cho thành tố trung tâm.
Phân biệt từ, cụm từ và câu
Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ có ý nghĩa và giữ vai trò ngữ pháp nhất định trong
câu. Từ có thể bao gồm một hình vị hoặc tổ hợp hình vị tạo thành.
Ngữ là tổ hợp các từ theo quan hệ ngữ pháp nhất định, tuy nhiên vẫn chưa đủ khả năng
để thành lập một câu hoàn chỉnh.
Câu là đơn vị nói nhỏ nhất có chức năng thông báo. Câu truyền tải một thông tin cụ thể
và có một khung cú pháp nhất định.
Ví dụ về cụm từ:
• Người mẹ chăm chỉ, cần cù đó
• Những học sinh chăm học
• Các cô các bác hàng xóm láng giềng
2.2, Cấu trúc của cụm từ
Cấu trúc của cụm từ bao gồm thành tố trung tâm và các phần phụ (phần phụ trước, phần
phụ sau)
a. Thành tố trung tâm
Thành tố trung tâm do một từ đảm nhận, mang ý nghĩa (thành tố trung tâm luôn là thực
từ). Ba từ loại có thể làm thành tố trung tâm là danh từ, tính từ, động từ. Ngoài ra, thành tố
trung tâm nhận vai trò liên kết với các thành phần khác trong câu.
Ví dụ:
- Đang học Văn
(phụ từ tiếp diễn) (động từ trung tâm) (danh từ bổ nghĩa: học cái gì?)
- Làm việc nhà nhanh chóng
(động từ trung tâm) (danh từ bổ ngữ) (trạng từ bổ ngữ)
b. Thành phần phụ
Thành phần phụ nhận nhiệm vụ bổ nghĩa cho thành tố trung tâm. Thành phần phụ có
thể là từ, cụm từ hoặc một cụm chủ vị
Ví dụ:
- Đang học Lý => Thành phần phụ là một từ
- Cái cặp của những học sinh lớp 11 kia => Thành phần phụ là một ngữ chính phụ
- Cô gái dễ thương và thân thiện đó => Thành phần phụ là một ngữ đẳng lập
- Đang lắng nghe thầy Toán giảng bài => Thành phần phụ là một cụm chủ-vị
Thành phần phụ có thể ở trước hoặc ở sau thành tố trung tâm. Đôi khi, thành phần phụ
sẽ kết nối với thành tố trung tâm bằng quan hệ từ
Ví dụ: Đang học Văn bằng máy tính
2.3, Phân loại cụm từ
a. Cụm từ tự do
Cụm từ tự do là những cụm từ mà phần phụ trước và phần phụ sau có thể được thay đổi
để tạo ra những cụm từ có nghĩa khác nhau. Nghĩa của cụm từ tự do thường có thể suy ra bằng
cách phân tích nét ngữ nghĩa của thành tố trung tâm và sự giới hạn nghĩa do các thành phần
phụ tạo nên.
Trong cụm từ tự do, ta tiếp tục chia thành ba loại cụm từ nhỏ hơn:
- Cụm từ chủ-vị: Là cụm từ nhưng có đầy đủ kết cấu chủ-vị
- Cụm từ chính phụ: Là cụm từ gồm một thành tố chính và những thành phần phụ
- Cụm từ đẳng lập: Là cụm từ có hai thành tố trở lên, kết nối nhau bằng mối quan hệ ngữ pháp
đẳng lập
b. Cụm từ cố định

Trang 8
9|#hocvancosuongmai

Cụm từ cố định là những cụm từ có cấu trúc được quy định chặt chẽ, cố định. Nghĩa
của cụm từ cố định là nghĩa chung chứ không phải nghĩa của các thành phần kết hợp lại.
Trong cụm từ cố định, ta tiếp tục chia thành ba loại chủ yếu:
- Thành ngữ: Là những ngữ cố định có kết cấu chặt chẽ, cố định và có ý nghĩa hoàn chỉnh
Ví dụ: tiền mất tật mang, ruột để ngoài da,...
- Quán ngữ: Là những ngữ cố định có kết cấu sẵn để sử dụng trong lời nói.
Ví dụ: nói tóm lại, trời đất ơi, vậy luôn đó hả,...
- Ngữ định danh: Một số cụm từ mang tính chất định danh được sử dụng một cách cố định
Ví dụ: con gái rượu, mũi dọc dừa, tuần trăng mật,...
2.4, Một số cụm từ tự do
a. Cụm danh từ
Cụm danh từ là cụm từ có thành tố trung tâm là một danh từ. Trong quan hệ ngữ pháp
của câu, cụm danh từ có chức năng như một danh từ. Cụm danh từ có thể làm chủ ngữ, bổ ngữ,
định ngữ, phụ chú ngữ,...
Cấu tạo của cụm danh từ bao gồm:
Phần phụ trước Phần trung tâm Phần phụ sau
Danh từ
(đơn vị + sự vật)
Lượng từ Số từ Từ chỉ xuất Từ miêu tả Chỉ từ

Ví dụ: Phân tích cụm từ “Toàn bộ mười quyển tập nằm trên bàn kia”
Phần phụ trước Phần trung tâm Phần phụ sau
Danh từ
(đơn vị + sự vật)
Lượng từ Số từ Từ chỉ xuất Từ miêu tả Chỉ từ

Toàn bộ mười quyển tập nằm trên bàn kia

Ví dụ: Phân tích cụm từ: “Bảy cái cậu học sinh nghịch ngợm”
Phần phụ trước Phần trung tâm Phần phụ sau
Danh từ
(đơn vị + sự vật)
Lượng từ Số từ Từ chỉ xuất Từ miêu tả Chỉ từ

Bảy cái cậu học sinh nghịch ngợm

b. Cụm động từ
Cụm động từ là cụm từ có thành tố trung tâm là một động từ. Trong câu, cụm động từ
đóng vai trò như một động từ. Cụm động từ có thể làm chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ,...
• Động từ độc lập: Là những động từ có thể đứng độc lập và thực hiện các chức năng ngữ
pháp trong câu. Người ta có thể chia động từ độc lập thành nội động từ và ngoại động
từ.
• Động từ phụ thuộc: Là những động từ không thể đứng độc lập mà phải có trợ từ đi kèm.
Ví dụ: Trong ngữ “nên học bài”, động từ “nên” nếu đứng độc lập sẽ không mang ý
nghĩa cụ thể, nên nó phụ thuộc vào động từ ở phần phụ sau là “học”.
Nếu như có một chuỗi động từ đi cùng nhau, thông thường động từ đầu tiên sẽ là thành
tố trung tâm. Ví dụ: Trong ngữ “đi học”, động từ “đi” là thành tố trung tâm.
Cấu tạo của cụm động từ

Trang 9
10 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Phần phụ trước Thành tố trung tâm Phần phụ sau

- Phần phụ trước là các phụ từ: - Động từ độc lập hoặc - Phần phụ sau là các phụ
+ Phụ từ chỉ thời gian: sẽ, đã, sắp,... không độc lập từ:
+ Phụ từ chỉ mức độ: hơi, rất,... - Nhóm động từ đẳng + Phụ từ chỉ sự cộng tác:
+ Phụ từ chỉ sự đồng nhất: đều, lập cùng, với,...
luôn,... + Phụ từ chỉ tiếp diễn: mãi,
+ Phụ từ mang tính khẳng định hoài, nữa,...
hoặc phủ định: không, có,... + Phụ từ chỉ phương
+ Phụ từ chỉ tần suất: thường, hướng: vào, tới, đến,...
hay,... + Phụ từ hoàn thành:
+ Phụ từ mệnh lệnh: nên, đừng,... xong,...
- Phần phụ trước là các thực từ + Phụ từ chỉ mệnh lệnh:
(không phổ biến) nhanh, đi,...
- Phần phụ sau là thực từ

c. Cụm tính từ
Cụm tính từ là cụm từ có thành tố trung tâm là tính từ. Cụm tính từ đóng vai trò như
một tính từ ở trong câu (Có thể làm chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, phụ chú ngữ, định ngữ,...)
Thành tố trung tâm có thể là tính từ có thang độ hoặc tính từ không có thang độ.
• Tính từ có thang độ là những tính từ có thể đem ra so sánh giữa các sự vật, sự việc với
nhau và thường có các phụ từ chỉ mức độ (rất, quá, hơi,...)
• Tính từ không có thang độ là những tính từ không thể đem ra so sánh giữa các sự vật,
sự việc, không thể kết hợp với các phụ từ chỉ mức độ.
Cấu tạo của cụm tính từ
Phần phụ trước Thành tố trung Phần phụ sau
tâm

- Phụ từ chỉ sự đồng nhất, tiếp - Tính từ có thang - Phần phụ sau có thể là phụ từ,
diễn: vẫn,... độ cũng có thể là thực từ.
- Phụ từ chỉ thời gian: đã, đang, - Tính từ không có
sẽ,... thang độ
- Phụ từ khẳng định hay phủ
định: không, có,...
- Phụ từ chỉ mức độ: hơi, rất,
khá,...

LUYỆN TẬP
Phân tích các cụm từ sau. Cho biết loại cụm từ, chỉ ra thành tố chính, phần phụ trước và
phần phụ sau
1. Những học sinh đang làm bài tập Văn
2. Các em nhỏ vùng cao
3. Rất xinh đẹp
4. Người cô gái rất tốt bụng kia
5. Quyển vở màu vàng ở đằng đấy
6. Con gà mái đang đẻ trứng ở đó
7. Toàn bộ mười hai cái cây bút chì màu đỏ nằm ở kia
8. Đã hoàn thành xong bài tập cô Sương Mai giao
9. Rất thường hay làm mình làm mẩy với mọi người

Trang 10
11 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

10. Sáu mươi ba tỉnh thành ở nước Việt Nam

III: GIẢN YẾU VỀ CÂU


3.1, Các thành phần câu trong Tiếng Việt
3.1.1, Thành phần nòng cốt
Thành phần nòng cốt là thành phần chính có chức năng tạo ra ý nghĩa cho câu. Thông
thường, các câu Tiếng Việt sẽ không thể trọn vẹn nếu không có nòng cốt hoặc cấu trúc nòng
cốt thiếu ổn định. Nòng cốt thường bao gồm hai thành phần: chủ ngữ chính và vị ngữ chính.
• Chủ ngữ chính: Là thành phần biểu thị đối tượng mà câu đang hướng đến. Nó trả lời
cho câu hỏi: câu nói về ai? Về cái gì? Về điều gì?
• Vị ngữ chính: Là thành phần biểu thị hành động, trạng thái, tính chất,... của chủ ngữ
Ví dụ:
Cô ấy đi làm mới về
CN VN
3.1.2, Thành phần phụ của câu
Thành phần phụ là những thành phần phụ thuộc vào nòng cốt, có chức năng làm rõ
thêm ý nghĩa cho nòng cốt. Thành phần phụ (được học trong chương trình THPT) bao gồm
trạng ngữ, đề ngữ, phụ ngữ tình thái
a. Trạng ngữ
Trạng ngữ là thành phần bổ sung ý nghĩa về thời gian, địa điểm, tính chất, cách thức,
phương tiện,... cho nòng cốt. Trạng ngữ có thể đứng đầu câu, giữa câu hoặc cuối câu (đứng
đầu câu là phổ biến nhất)
Ví dụ:
Ngày hôm qua, tôi học bài
Trạng ngữ chỉ thời gian CN VN

Chị Linh, bằng toàn bộ sức lực của mình, đã gắng sức chạy về đích
CN Trạng ngữ chỉ phương tiện VN

b. Đề ngữ
Đề ngữ, hay còn gọi khởi ngữ, là thành phần nêu vật, đối tượng, nội dung mà nòng cốt
sẽ bàn bạc với tư cách là chủ đề của câu. Đề ngữ thường đứng trước nòng cốt câu.
Ví dụ:
Quan, người ta sợ cái uy của quyền thế. Nghị Lại, người ta sợ cái uy của đồng tiền
(“Bước đường cùng”, Nguyễn Công Hoan)
Cái chết, Mị từ lâu đã không còn nghĩ về nó nữa
c. Phụ ngữ tình thái
Phụ ngữ tình thái là thành phần biểu hiện thái độ, cảm xúc, ý kiến chủ quan của người
viết. Phụ ngữ tình thái thường mang tính biểu cảm.
Ví dụ
• Em cảm ơn cô ạ.
• Có lẽ, đã có ai đặt chân đến đây.
• Dường như, con sông Đà hung bạo ấy đôi khi cũng có những vẻ đẹp vô cùng dịu
dàng.
3.1.3, Thành phần biệt lập
Thành phần biệt lập là thành phần có chức năng ngữ pháp độc lập, không phụ thuộc
vào nòng cốt câu. Thành phần biệt lập bao gồm thành phần phụ chú, thành phần gọi đáp, thành
phần chuyển tiếp.

Trang 11
12 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

a. Phụ chú ngữ


Phụ chú ngữ, hay còn gọi là giải thích ngữ, là thành phần biệt lập nhận nhiệm vụ bổ
sung chi tiết, bình phẩm việc được nói đến trong câu, làm rõ hơn ý nghĩa của thành phần đó.
Ví dụ
• Mẹ tôi, người đàn bà đang đứng ở đằng kia, đang gọi điện thoại cho ai đó.
• Nguyễn Tuân - một nhà văn tài hoa - đã miệt mài đi đến Tây Bắc để tìm kiếm nguồn
cảm hứng sáng tác.
* Lưu ý cách viết và cách dùng phụ chú ngữ trong câu.
• Người ta thường dùng dấu phẩy hoặc dấu gạch nối để đánh dấu phần phụ chú ngữ. Khi
kết thúc phụ chú ngữ, nếu chưa có dấu hiệu hết câu hoặc chuyển sang vế câu khác thì
phải có dấu gạch nối hoặc dấu phẩy thứ hai.
Ví dụ: Trợ lý văn học - trực thuộc quản lý của team học văn cô Sương Mai - vừa đăng bài
thông báo về kì thi THPTQG 2024
Ví dụ: Chúng tôi vừa mua một chiếc máy giặt - chiếc duy nhất được làm ở Trung Quốc, tôi
rất thích nó.
Ở ví dụ 2, do đằng sau là một vế câu khác nên không cần phải có dấu gạch nối đánh dấu kết
thúc phụ chú ngữ.
Lưu ý: Học sinh dùng dấu nào để mở phụ chú ngữ thì phải dùng chính dấu đó để kết thúc.
Ví dụ: Hoàng, một nhà văn tài ba, đã cho tôi quyển sách mà anh ta yêu thích.
• Phụ chú ngữ phải nằm liền sau từ, cụm từ hoặc mệnh đề mà nó bổ ngữ.
b, Thành phần chuyển tiếp
Thành phần chuyển tiếp là một từ hoặc một ngữ dùng để kết nối các câu, các đoạn; biểu
thị mối quan hệ logic giữa chúng
Ví dụ: Không chỉ có vậy, cô ta còn rất xinh đẹp
Tuy nhiên, số người tử vong vẫn rất cao
c, Thành phần gọi đáp
Thành phần gọi đáp, hay còn gọi là hô ngữ, là loại thành phần biểu thị lời gọi-đáp, đưa
đẩy, thể hiện thái độ của người viết, người nói.
Ví dụ: Lan ơi! Tôi về nhé!
Dạ, con tới liền.
Vâng, bác nói phải lắm.
Ví dụ về phân tích một câu
1. Với tấm lòng yêu mến và trân trọng tuổi thơ, Phạm Hổ, nhà thơ của các thế hệ măng non, đã
Trạng ngữ CN phụ chú ngữ
viết nên những bài thơ, câu chuyện lí thú.
VN
2. Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi đi
Trạng ngữ PCN bổ nghĩa cho trạng từ CN VN
trên con đường dài và hẹp.

3.2, Cách viết các loại câu


3.2.1, Phân loại câu theo cấu trúc
Theo cấu trúc, ta có thể phân loại câu thành câu đơn, câu phức, câu ghép.
a. Câu đơn
Câu đơn là câu chỉ có một cụm chủ-vị và cụm chủ-vị đó giữ vai trò nòng cốt
Ví dụ: Tôi đi ăn kem
CN VN
Ngoài ra, trong câu đơn có thể tồn tại một số thành phần biệt lập, thành phần phụ là từ
hoặc ngữ (không chấp nhận thành phần biệt lập/thành phần phụ là một kết cấu chủ-vị)

Trang 12
13 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Ví dụ:
1. Lan - người mà tôi thích - vừa viết thư cho tôi
CN ngữ phụ chú VN
2. Sống, chúng ta thật sự muốn điều đó.
Đề ngữ CN VN
b. Câu phức
Câu phức là câu có nhiều hơn một kết cấu chủ vị; trong đó, chỉ có một kết cấu chủ vị
làm nòng cốt câu.
Ví dụ: Một học sinh vừa được cô Sương Mai tặng quyển sách “Nhà giả kim” vì đã đạt điểm tốt
trong bài thi
Nòng cốt Một học sinh vừa được cô Sương Mai tặng quyển sách “Nhà giả kim”
vì đã
CNC VNC
đạt điểm tốt trong bài thi
*CNC: chủ ngữ chính
VNC: vị ngữ chính

Kết cấu chủ vị cô Sương Mai tặng quyển sách “Nhà giả kim” vì đã đạt điểm tốt
khác trong bài
CN VN
thi
Ví dụ 2: Toàn bộ bốn mươi học sinh đang chăm chú nghe cô giáo giảng bài
Nòng cốt Toàn bộ bốn mươi học sinh đang chăm chú nghe cô giáo giảng bài.
CNC VNC

Kết cấu chủ vị khác cô giáo giảng bài


CN VN

c. Câu ghép
Câu ghép là câu có từ hai nòng cốt trở lên.
Trường hợp mở rộng của câu ghép là câu phức ghép - câu có nhiều hơn một nòng cốt,
trong đó sẽ có thêm những kết cấu chủ vị khác.
Ví dụ:

Ngày hôm qua, tôi đau bụng ,tôi đã tìm đến phòng y tế
Trạng ngữ Nòng cốt 1 Nòng cốt 2
Phân loại câu ghép: Có hai loại câu ghép chính là câu ghép không có quan hệ từ và câu
ghép có quan hệ từ. Trong câu ghép có quan hệ từ, người ta tiếp tục chia thành câu ghép chính
phụ, câu ghép đẳng lập và câu ghép qua lại
c.1, Câu ghép không có quan hệ từ (câu ghép chuỗi)
Câu ghép chuỗi là câu ghép không có quan hệ từ giữa các nòng cốt câu. Thay vào đó,
ta sẽ dùng dấu phẩy hoặc dấu chấm phẩy để liên kết hai mệnh đề nòng cốt.
Ví dụ
• Mái nhà màu đỏ, bức tường màu xanh
• Hôm nay, tôi đến trường cùng mẹ, tôi gặp bạn trên đường đi.
c.2, Câu ghép có quan hệ từ
Câu ghép có quan hệ từ là câu ghép mà các mệnh đề nòng cốt được liên hệ bằng các
quan hệ từ.

Trang 13
14 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Câu ghép Là câu ghép mà các mệnh đề nòng cốt được nối với nhau bằng quan hệ từ
chính phụ chính phụ (Vd: tuy….nhưng…; nếu…thì; không chỉ…mà còn….)
Trong câu ghép chính phụ, các mệnh đề nòng cốt phụ thuộc vào nhau,
không thể tách ra thành một câu riêng.
Ví dụ:
- Nếu trời tiếp tục mưa thì chúng tôi sẽ ở nhà.
- Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi.
- Tuy anh ấy yếu ớt nhưng anh ấy lại học rất giỏi.

Câu ghép Là câu ghép mà các mệnh đề nòng cốt được nối với nhau bằng quan hệ từ
đẳng lập đẳng lập (Vd: và, hay,...)
Ví dụ:
- Tôi không thích nghe nhạc và tôi cũng không thích xem phim.
- “Mình đọc hay tôi đọc” (Nam Cao)

Câu ghép Là câu ghép mà các mệnh đề nòng cốt được nối với nhau bằng quan hệ từ
qua lại hô ứng, qua lại. Các mệnh đề nòng cốt gắn kết rất chặt chẽ với nhau.
Ví dụ:
- Mẹ càng nuông chiều con là càng làm cho con ỷ lại.
- Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.
• Hiện tượng tỉnh lược chủ ngữ trong câu ghép
Trong câu ghép, nếu chủ ngữ của cả hai mệnh đề giống nhau, người ta có thể lược bỏ
một trong hai chủ ngữ đó. Trong trường hợp trên, câu đó vẫn tính là một câu ghép.
Ví dụ: Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng. (Nếu tôi là chim, tôi sẽ là loài bồ câu
trắng)
Trong một số trường hợp, nếu chủ ngữ không thật sự cần thiết cho sự diễn đạt, người
ta cũng có thể lược bỏ nó.
Ví dụ: Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi (Tô Hoài)

THỰC HÀNH
Hãy thử viết 1 câu đơn có thành phần biệt lập, 1 câu phức, 1 câu ghép chính phụ. Sau đó, phân
tích cấu trúc của các câu em đã viết.

3.2.2, Phân loại câu theo mục đích giao tiếp


a. Câu trần thuật
Câu trần thuật là câu dùng để miêu tả sự tình hoặc để nêu một nhận định, một phán
đoán,... Về ngữ điệu, câu trần thuật thường có ngữ điệu bình thường, ổn định và hạ thấp ở cuối
câu. Ta dùng dấu chấm để kết thúc câu trần thuật.
Câu trần thuật có thể tồn tại ở dạng khẳng định, phủ định hoặc dạng ngôn hành
Ví dụ:
• Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn mà nghĩ nữa.
(Tô Hoài)
• Không ai lại không nghĩ về điều đó.
• Chưa bao giờ có một học sinh nào tặng quà cho tôi hoành tráng như vậy.
• Tôi khuyên bạn nên học Văn từ sớm.
Ở ví dụ số 2, hình thức câu chứa từ ngữ phủ định nhưng lại dùng cách diễn đạt phủ định của
phủ định để tạo ra sự khẳng định ở mức độ cao.
b. Câu cầu khiến
Câu cầu khiến là câu dùng để biểu thị một lời khuyên hoặc một mệnh lệnh (câu cầu
khiến còn gọi là câu mệnh lệnh). Trong câu thường có các từ ngữ cầu khiến như nên, đừng,

Trang 14
15 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

hãy,... Câu cầu khiến phần đa đều tỉnh lược chủ ngữ và kết thúc bằng dấu chấm hoặc dấu chấm
than.
Ví dụ:
• Cố lên em nhé!
• Cấm vẽ lên bàn trong giờ học!
• Tôi đang bị bệnh. Mong bạn thông cảm !
Một số trường hợp, người ta có thể dùng hình thức nghi vấn để thể hiện sự yêu cầu.
Hình thức này thường diễn ra ở bối cảnh trang trọng, thường giữa những người không cùng vai
vế với nhau, thể hiện sự lịch sự, tôn trọng.
Ví dụ:
• Bạn có thể lấy ly nước cho tôi được không?
• Bạn nói lại điều đó cho tôi được không?
c. Câu nghi vấn
Câu nghi vấn là câu dùng để hỏi nhằm mục đích biết thêm thông tin về sự vật, hiện
tượng nào đó. Kết thúc câu nghi vấn, ta sẽ dùng dấu chấm hỏi
Ta có một số cách đặt câu nghi vấn như sau:
• Câu hỏi hoàn toàn (Hay còn gọi là câu hỏi có, không): Là câu hỏi mà câu trả lời sẽ là
có hoặc không; rồi hoặc chưa;...
Ví dụ:
• Bạn có thích tôi không?
• Bạn đã làm bài chưa?
• Câu hỏi bộ phận (câu hỏi chuyên biệt): Là câu hỏi dùng để hỏi về các tham tố của sự
tình, thường là: ai, ở đâu, bằng cách nào, khi nào, bao nhiêu,...
Ví dụ:
• Ai mở cửa thế?
• Bạn mua que kem này ở đâu?
• Cái đó bao nhiêu thế?
• Câu hỏi hạn định: Là câu hỏi mà câu trả lời sẽ mang tính lựa chọn.
Ví dụ:
• Bạn muốn uống trà hay uống cà phê?
• Bạn muốn thi vào trường đại học nào, có phải HCMUE không?
d, Câu cảm thán
Câu cảm thán là câu sử dụng các từ ngữ cảm thán (ôi, chao ôi, trời ơi, ủa,...) hoặc các
từ ngữ thể hiện mức độ cảm xúc (ghê, quá, cực,...). Câu cảm thán thường được kết thúc bằng
dấu chấm cảm (dấu chấm than).
• Trời ơi! Chết tôi rồi !
• Trời ơi, thế có khổ không?
• Con bé đó xinh ghê !
Ở ví dụ 2, người ta có thể sử dụng hình thức câu nghi vấn để thể hiện sự cảm thán.

3.3, Các lỗi câu phổ biến


Có ba lỗi câu phổ biến là câu sai cấu trúc, câu sai logic và câu sai dấu câu.
Câu Câu thiếu Ví dụ: “Qua văn bản trên đã cho ta thấy một thiên nhiên Tây Bắc vô
sai chủ ngữ cùng đẹp đẽ”.
cấu chính Nếu phân tích cấu trúc, ta sẽ có “Qua văn bản trên” là thành phần
trúc trạng ngữ, “đã cho ta…đẹp đẽ” là thành phần vị ngữ. Câu này lại là
câu trần thuật. Như vậy, câu trên đã thiếu chủ ngữ ở mệnh đề nòng
cốt.
=> Cách sửa: Thêm chủ ngữ hoặc biến đổi trạng ngữ thành chủ ngữ.

Trang 15
16 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Ví dụ: Văn bản trên đã cho ta thấy một thiên nhiên Tây Bắc vô cùng
đẹp đẽ.
Hoặc: Qua văn bản trên, tác giả đã cho ta thấy một thiên nhiên Tây
Bắc vô cùng đẹp đẽ

Câu thiếu Ví dụ: “Nam Cao - nhà văn chuyên viết về đề tài người nông dân”
vị ngữ Khi xét cấu trúc của câu trên, ta sẽ thấy như sau:
“Nam Cao - nhà văn chuyên viết về đề tài người nông
CN phụ chú ngữ (Thành phần biệt lập)
dân”
Như vậy, câu trên thiếu vị ngữ ở mệnh đề nòng cốt.
=> Cách sửa: Thêm vị ngữ hoặc biến đổi thành phần biệt lập thành vị
ngữ.
Ví dụ:
Nam Cao - nhà văn chuyên viết về đề tài người nông dân - đã viết nên
tác phẩm “Chí Phèo”
Hoặc: Nam Cao là nhà văn chuyên viết về đề tài người nông dân.

Câu thiếu Ví dụ: “Bằng ngòi bút miêu tả nghệ thuật đặc sắc cùng với việc nhà
nòng cốt văn thể hiện rõ nét hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài”.
Nếu phân tích câu trên, ta sẽ thấy toàn bộ đều là trạng ngữ và câu chưa
có nòng cốt.
=> Sửa: Thêm nòng cốt vào câu
Ví dụ: Bằng ngòi bút miêu tả nghệ thuật đặc sắc cùng với việc nhà
văn thể hiện rõ nét hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, tác
phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” đã thành công chiếm trọn một vị trí
trong trái tim người đọc.

Câu què, Ví dụ: “Nếu Nguyễn Tuân viết về con Sông Đà hung bạo. Thì Hoàng
câu cụt Phủ Ngọc Tường lại viết về con sông Hương trữ tình.”
Nếu phân tích từng câu, ta sẽ thấy mỗi câu riêng lẻ khi tách ra sẽ
không mang nghĩa hoàn chỉnh. Vì cặp quan hệ từ “Nếu…thì…” dùng
để nối hai nòng cốt của một câu ghép.
=> Sửa: Bỏ dấu chấm ở giữa hai câu, gộp hai câu làm một.
Ví dụ: Nếu Nguyễn Tuân viết về con Sông Đà hung bạo thì Hoàng
Phủ Ngọc Tường lại viết về con sông Hương trữ tình.

Câu sai Ví dụ: Tôi yêu đất nước Việt Nam, một người công dân Việt Nam.
trật tự các Ở câu trên, thành phần phụ chú “một người công dân Việt Nam” đặt
thành sai vị trí.
phần => Sửa: Điều chỉnh lại vị trí các thành phần câu
Tôi, một người công dân Việt Nam, yêu đất nước Việt Nam.
Ví dụ 2: Trường THPT Lê Quý Đôn vừa tổ chức cuộc thi ý tưởng trẻ
để tìm kiếm các học sinh xuất sắc lần thứ ba.
=> Sửa: Trường THPT Lê Quý Đôn vừa tổ chức cuộc thi ý tưởng trẻ
lần thứ ba để tìm kiếm các học sinh xuất sắc.

Câu thiếu Ví dụ: “Nếu bạn quan tâm thì có thể đến tìm tôi”
bổ ngữ Ở phần II: Cụm từ, ta đã nói về trường hợp các động từ không độc lập
bắt buộc. hoặc động từ độc lập nhưng là ngoại động từ. Các động từ này cần

Trang 16
17 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

phải có bổ ngữ đi kèm. Ở câu trên, động từ “quan tâm” là một ngoại
động từ nhưng lại không có bổ ngữ đi kèm. Người ta sẽ không biết họ
đang “quan tâm” đến điều gì.
=> Sửa: Thêm bổ ngữ vào câu
Nếu bạn quan tâm đến bức tranh này thì có thể đến tìm tôi

* Câu sai logic:


Một số trường hợp, người viết dùng từ chưa đúng hoặc thể hiện chưa rõ ràng sự liên
kết giữa các thành phần trong câu, dẫn đến việc sai logic.
Ví dụ:
• Khép trang sách lại, tác phẩm vẫn ngân nga.
• Vì năm nay lượng mưa kéo dài nên mùa màng bị thất bát.
• Tất cả các nhà thơ đều viết về sự hi sinh, mất mát; chỉ có Xuân Quỳnh lại lựa chọn viết
về tình yêu.
Ở ví dụ 1, trạng ngữ “khép lại trang sách” không thể bổ nghĩa cho chủ ngữ “tác phẩm”. Vì
động từ “khép” là thuộc về hành động của con người. Để sửa câu này, ta có thể thay chủ ngữ
thành “tác giả” hoặc “người đọc”.
Ở ví dụ 2, ta sẽ nhận ra từ “lượng mưa” không thể kết hợp với động từ “kéo dài”. Thay vào đó,
ta có thể sử dụng từ “mùa mưa”.
Ở ví dụ 3, từ “tất cả” đặt trong ngữ cảnh này thật sự chưa ổn. Vì “tất cả” nghĩa là đã bao gồm
cả Xuân Quỳnh. Thay vào đó, ta có thể dùng từ “hầu hết”, “phần đa”,....
* Câu sai dấu câu:
Lỗi này thường để biểu hiện qua việc người viết không dùng dấu câu hoặc dùng dấu
câu sai mục đích, chức năng của nó.
Ví dụ:
• Chúng ta không thể nhân nhượng được nữa chúng ta phải làm cho đến cùng.
• Tôi bước xuống xe, tiến đến chỗ Nhi và hỏi cô ấy rằng cô ấy có làm bài được không?
Ở ví dụ 1, ta thấy giữa hai nòng cốt “chúng ta…được nữa” và “chúng ta…đến cùng” không có
sự liên kết bằng bằng quan hệ từ hay dấu câu. Vì vậy, ta cần phải thêm dấu phẩy hoặc dấu
chấm phẩy vào giữa hai nòng cốt trên.
Ở ví dụ 2, dấu chấm hỏi đặt ở cuối câu là chưa ổn vì dấu kết thúc câu phải dựa theo chức năng
giao tiếp của nòng cốt. Nếu phân tích ví dụ 2, ta sẽ thấy như sau:
Tôi bước xuống xe, tiến đến chỗ Nhi và hỏi cô ấy rằng cô ấy có làm bài được không?
CN1 VN1 VN2 VN3
Ta có thể thấy, cả 3 mệnh đề trên đều cùng một chủ ngữ và đều mang ý nghĩa trần thuật. Còn
cụm từ “cô ấy có làm bài được không” dù có kết cấu chủ vị nhưng không đóng vai trò là nòng
cốt. Nên câu trên, ta phải dùng dấu chấm để kết thúc câu.

*LUYỆN TẬP
Bài 1: Đoạn văn sau được trích trong bài bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường. Em hãy phân tích từng câu ở trong đoạn trên và chỉ ra nó thuộc loại câu nào (dựa
vào cú pháp câu)
Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng
vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai
dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột khởi như Vọng Cảnh, Tam Thai,
Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc
thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi.
Bài 2: Em hãy thêm dấu câu vào đoạn văn sau:

Trang 17
18 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Gần 20 quán hủ tiếu Nam Vang phân bố khắp các quận tại Sài Gòn có chất lượng suýt
soát nhau trong đó các cửa hàng ở Võ Văn Tần Nguyễn Trãi An Dương Vương được biết đến
lâu hơn đặc điểm của những cửa hàng thu hút khách ăn là có kĩ thuật nấu nước dùng đạt chất
lượng cao nấu bằng xương ống của heo một ít mực khô tôm khô đun lửa cháy liu riu liên tục
vớt bọt để cho một thứ nước trong vắt ngọt lịm nhiều quán ít khách nước dùng là nước luộc
thịt cho quá nhiều bột ngọt và đường món thịt băm phải thật nhuyễn và chế biến sao cho không
dai không nát không khô xơ không quá béo trải lên sợi bánh là thịt nạc gan tim huyết tôm tươi
luộc vừa chín có vị ngọt tự nhiên bánh hủ tiếu làm bằng thứ bột gạo nàng hương xay thật
nhuyễn sợi nhỏ sấy khô nhưng chỉ cần trụng nhanh qua nước sôi là đã mềm tươm vào một ít
mỡ hành phi cọng sợi hủ tiếu sẽ trong veo bóng loáng cái dẻo cái thơm đó có thể cảm nhận
được bằng mắt hủ tiếu Nam Vang có mùi vị độc đáo là do nêm vào một vài muỗng tỏi giã
nhuyễn ngâm giấm thanh tỏi ngâm một vài ngày thì ăn sớm quá bị cay nồng muộn quá mất
hương vị và mềm nhũn
Bài 4: Em hãy xác định lỗi ở trong những câu sau và sửa lại cho đúng:
1. Các gia đình hiện đại có hiện tượng này nên xử lý như thế nào. Và đây có phải là tiền đề hay
nguyên nhân dẫn đến các xung đột và cuối cùng hậu quả là ly dị hay không.
2. Muốn bảo vệ môi trường, trước hết ta phải hiểu môi trường là gì?
3. Kẻ thù giết chết nhưng không giết được ý chí của họ.
4. Với thủ pháp so sánh được vận dụng một cách hiệu quả để khắc họa chiến thắng ngoạn mục
của con thuyền bé nhỏ ấy.
5. Nếu ở trùng vi thạch trận thứ nhất ta bắt gặp ông lái đò kiên cường, bản lĩnh khi đối diện với
năm cửa đá với bổn cửa tử, có lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo
chỉ huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.
6. Trong khi tất cả các nhà thơ đều viết về đề tài chiến tranh, Xuân Quỳnh lại chọn đề tài tình
yêu để nương náu tâm hồn mình.
7. Qua bài thơ “Tây Tiến” đã cho ta thấy vẻ đẹp người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa.
8. Quang Dũng, nhà thơ của những người lính.
9. Qua bài thơ “Đất Nước” với những vần thơ chân thành, giản dị của “anh” và “em”.

IV. ĐOẠN VĂN


4.1, Khái niệm
Khi phân tích các đơn vị ngôn ngữ, nhiều nhà ngôn ngữ học đã sắp xếp chúng theo
chiều từ bé đến lớn
ngữ âm -> hình vị -> từ -> cụm từ -> câu -> đoạn -> văn bản
Nếu nhìn vào trình tự trên, có thể thấy đoạn văn được tạo nên từ việc kết nối các câu
với nhau, là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản.
Về mặt hình thức, một đoạn văn bắt đầu từ chữ viết hoa được lùi đầu dòng và kết thúc
bằng dấu kết thúc câu của câu cuối cùng. Xuyên suốt đoạn văn, người viết không được xuống
dòng.
Ví dụ:
Lắng nghe có những vai trò đặc biệt quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta. Lắng
nghe là một từ rất hay; bởi nó được kết hợp bởi hai động từ “lắng” và “nghe. Đúng vậy, phải
“lắng” thì mới “nghe” một cách trọn vẹn, chân thành nhất. Chính vì thế mà lắng nghe trở
thành một phương tiện giúp chúng ta phát triển những mối quan hệ xung quanh. Việc lắng
nghe giúp chúng ta dễ dàng đồng cảm, thấu hiểu người khác; từ đó có những điều chỉnh phù
hợp trong lời nói và hành động. Chỉ khi lắng nghe đủ sâu, đủ nhiều, đủ chân thành; ta mới có
thể yêu thương, lan tỏa những nguồn năng lượng tích cực đến người khác. Máy ATM gạo chính
là một sản phẩm của lòng nhân ái; nhưng nó sẽ chẳng thể nào được ra đời dù chỉ là một ý
tưởng nếu như anh Tuấn Anh không có sự lắng nghe, thấu hiểu nỗi lòng của những người khó

Trang 18
19 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

khăn, cơ cực trong đại dịch. Không chỉ lắng nghe người khác, mà lắng nghe chính mình sẽ
giúp chúng ta kết nối với bản thân nhiều hơn, từ đó ta sẽ hiểu mình muốn gì, cần gì. Tóm lại,
lắng nghe là một việc cần thiết nếu chúng ta muốn sống một cuộc đời hạnh phúc và an nhiên.
(Người biên soạn)
4.2, Các thành phần của đoạn văn
Một đoạn văn chủ yếu được tạo nên từ ba thành phần chính: câu chủ đoạn, câu thuyết
đoạn và câu kết đoạn.
a. Câu chủ đoạn (câu chủ đề)
Câu chủ đoạn là câu nhận nhiệm vụ khái quát toàn bộ nội dung của đoạn văn, định
hướng cho việc khai triển, lập luận của các thành phần sau.
Ở ví dụ phần 4.1, có thể thấy người viết đã để câu chủ đoạn ở đầu đoạn văn: Lắng nghe
có những vai trò đặc biệt quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta. Câu chủ đoạn có chức
năng khái quát nội dung mà đoạn sắp sửa hướng tới: vai trò của sự lắng nghe trong cuộc sống.
Một đoạn văn có thể có câu chủ đoạn hoặc không, phụ thuộc vào phương pháp trình
bày đoạn văn. Câu chủ đoạn có thể nằm ở đầu (đoạn văn diễn dịch), nằm ở giữa (trường hợp
không phổ biến), hoặc nằm ở cuối (đoạn văn quy nạp).
b. Câu thuyết đoạn
Thành thuyết đoạn bao gồm những câu văn có vai trò triển khai nội dung câu chủ đề,
cũng có trường hợp câu chủ đề là sự tổng hợp nội dung của những câu thuyết đoạn.
Ví dụ, nếu câu chủ đề khái quát về giải pháp để bảo vệ môi trường thì các câu thuyết đoạn phải
cụ thể hoá đó là giải pháp gì. Có thể theo hướng như sau:
+ Tuyên truyền mọi người về tác hại của việc gây ô nhiễm môi trường cũng như động viên họ
chung tay bảo vệ môi trường.
+ Loại bỏ các thói quen xấu như xả rác, dùng đồ nhựa, túi bóng; tích cực trồng cây, sử dụng
chất liệu có thể tái chế được trong cuộc sống.
c. Câu kết đoạn
Trong một đoạn văn tổng - phân - hợp; ngoài sự xuất hiện của câu chủ đoạn, ta cũng sẽ
bắt gặp câu kết đoạn. Câu kết đoạn là câu văn cuối cùng của đoạn, nhận nhiệm vụ kết luận lại
nội dung đã được triển khai bên trên.
Cách viết câu kết đoạn: Câu kết đoạn thường là một cách diễn đạt khác của câu chủ đề.
Nếu câu chủ đề là: Lắng nghe có vai trò quan trọng trong cuộc sống; câu kết đoạn thường là:
Như vậy, vai trò của việc lắng nghe trong cuộc sống là không thể phủ nhận. Từ đó, ta có thể
suy ra rằng câu kết đoạn và câu chủ đề thường có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cần tránh
dùng câu kết đoạn để mở rộng thêm vấn đề hoặc đề cập những phương diện mà câu chủ đề
không thể hiện.
Ngoài ba thành phần trên, khi phân tích một vài đoạn văn của học sinh hoặc những
người viết sáng tạo khác, ta cũng sẽ bắt gặp những thành phần khác xuất hiện.
d. Hook (Câu văn móc câu)
Thông thường, để cho đoạn văn trở nên sáng tạo, thu hút sự tò mò của người đọc, nhiều
người viết không lựa chọn cách viết thông thường là nêu câu chủ đề đầu tiên, mà họ sẽ dùng
những cách dẫn dắt mới lạ, thú vị,.. - gọi chung là Hook. Hook là một khái niệm phổ biến được
dùng trong đoạn mở bài của một bài văn; nhưng một số người viết đã tận dụng nó, với một
hình thức nhỏ và hạn chế hơn, để đưa vào đoạn văn.
Ví dụ: Trong thời đại hội nhập và xu thế toàn cầu hóa hiện nay, mạng xã hội trở thành một
công cụ vô cùng tiện ích giúp gắn kết mọi người vào cùng với nhau. Nhưng nó lại mang tính
hai mặt, dẫn đến hiện tượng sống phụ thuộc vào mạng xã hội của nhiều người trẻ hiện
nay.
(Bài làm của học sinh)
Ở ví dụ trên, trước khi học sinh trình bày câu chủ đề (phần in đậm), bạn đã dùng một câu văn
nêu hiện trạng nhằm khơi gợi sự tò mò của người đọc về vấn đề.

Trang 19
20 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Để có thể hấp dẫn người đọc, ta có thể dùng các cách dẫn dắt sau:
• Một câu hát, danh ngôn, ngạn ngữ, tục ngữ,...
• Hiện trạng đang diễn ra hiện nay.
• Một số liệu, tình huống, sự kiện gây sốc.
• Nêu phản đề
Lưu ý: Vì hook vốn dĩ không phải là một thành phần cốt yếu của đoạn văn, cũng như
vì dung lượng đoạn văn khá hạn chế, nên học sinh không nên viết thành phần này quá dài.
Thông thường chỉ cần một câu là đủ.
e. Câu văn lạc đề
Câu văn lạc đề là những câu văn mắc lỗi lạc ý (xem phần V chương 3), không đi đúng
hướng của câu chủ đoạn mà trình bày những thông tin ngoài lề, không quan trọng, không có
giá trị lập luận cụ thể. Trong bài viết, số lượng câu văn lạc đề càng nhiều, đoạn văn càng bị mơ
hồ, nếu tham gia các kì thi thì điểm sẽ càng thấp. Học sinh cần tránh viết các câu này.

4.3, Các phương pháp trình bày đoạn văn


4.3.1, Đoạn văn có câu chủ đoạn
a. Đoạn văn diễn dịch
Đoạn văn diễn dịch là đoạn văn có câu chủ đoạn nằm ở đầu đoạn và các câu thuyết
đoạn sẽ dựa theo nội dung câu chủ đề để triển khai.
Câu chủ đoạn => Câu thuyết đoạn 1 + câu thuyết đoạn 2 + ….
Ví dụ:
Làm chủ chính mình có ý nghĩa vô cùng to lớn đến cuộc sống của chúng ta. Đó là
khi ta biết tự điều chỉnh hành vi, cảm xúc của mình sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ
thể. Làm chủ chính mình là một đức tính cần thiết, là một phẩm chất của ý chí; không có nó,
ta sẽ khó lòng gặt hái được thành công và hạnh phúc. Sở dĩ tự chủ có vai trò quan trọng đối với
mỗi người vì trước hết, nó là một cánh cửa giúp ta thấu hiểu bản thân, ta nhìn nhận được những
ưu, nhược điểm và từ đó vươn đến hoàn thiện chính mình. Cũng như làm chủ chính mình sẽ
giúp chúng ta kiểm soát được cảm xúc tiêu cực, nhất thời; không để nó ảnh hưởng tới những
mối quan hệ xung quanh. Thêm vào đó, làm chủ chính mình chính là tiền đề để phát triển các
đức tính khác như nghị lực, quyết đoán, dũng cảm…Chúng ta sẽ không thể nào đạt được mục
tiêu, ước mơ nếu như thiếu đi sự thấu hiểu và làm chủ được chính mình. Các đại sứ quán -
người đại diện cho một quốc gia này để thực hiện ngoại giao với một quốc gia khác - được đào
tạo, rèn luyện kĩ lưỡng đức tính quan trọng này. Bởi lẽ chỉ cần một chút bốc đồng, thiếu suy
nghĩ, thiếu kiềm chế của họ sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy vô cùng nghiêm trọng cho đất nước mà họ
thay mặt.
(Người biên soạn)
b. Đoạn văn quy nạp
Đoạn văn quy nạp là đoạn văn có câu chủ đoạn nằm ở cuối đoạn. Câu chủ đoạn thường
sẽ là sự tổng hợp nội dung của các câu thuyết đoạn.
Câu thuyết đoạn 1 + câu thuyết đoạn 2 + …. + câu thuyết đoạn n => Câu chủ đoạn
Ví dụ:
Những đứa con từ khi sinh ra đến khi trưởng thành, phần lớn thời gian là gần gũi và
thường là chịu ảnh hưởng từ người mẹ hơn từ cha. Chúng được mẹ cho bú sữa, bồng ẵm, dỗ
dành, tắm giặt, ru ngủ, cho ăn uống, chăm sóc rất nhiều khi ốm đau…Với việc nhận thức thông
qua quá trình bé tự quan sát, học hỏi tự nhiên hàng ngày và ảnh hưởng đặc biệt các đức của
người mẹ, đã hình thành dần dần bản tính của đứa con theo kiểu “mưa dầm, thấm lâu”. Ngoài
ra, những đứa trẻ thường là thích bắt chước người khác thông qua những hành động của người
gần gũi nhất chủ yếu là người mẹ. Chính người phụ nữ là người chăm sóc và giáo dục con
cái chủ yếu trong gia đình.
(Trần Thanh Thảo)

Trang 20
21 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

c. Đoạn văn tổng - phân - hợp


Đoạn văn tổng - phân - hợp thực chất là sự kết hợp của hai phương thức diễn dịch và
quy nạp. Trong đó, một đoạn văn tổng - phân - hợp sẽ có đủ ba thành phần chính của đoạn là
câu chủ đoạn, câu thuyết đoạn và câu kết đoạn.
Ví dụ:
Thế đấy, biển luôn luôn thay đổi màu tùy theo sắc mây trời. Trời xanh thẳm, biển
cũng xanh thẳm, như dâng cao lên, chắc nịch. Trời rải mây trắng nhạt, biển mơ màng dịu hơi
sương. Trời âm u mây mưa, biển xám xịt, nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu giận
dữ…Như một con người biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt, lạnh lùng, lúc sôi nổi, hả hê, lúc
đăm chiêu, gắt gỏng.
(Vũ Tú Nam)
4.3.2, Đoạn văn không có câu chủ đoạn
Đối với các đoạn văn không có câu chủ đoạn, việc xác định nội dung chính của đoạn
hoàn toàn phụ thuộc vào việc người đọc phải tự đúc kết trên cơ sở hiểu được toàn bộ nội dung
của đoạn. Đoạn văn không có câu chủ đoạn thường là đoạn văn song hành, đoạn văn móc xích
và đoạn văn có cấu trúc đặt biệt.
d. Đoạn văn song hành
Đoạn văn song hành là đoạn văn mà các câu trong đoạn triển khai nội dung song song,
không nội dung nào bao trùm lên nội dung nào. Nội dung chính của đoạn văn song hành sẽ bao
hàm toàn bộ các câu văn trong đoạn.
Ví dụ:
Khi đọc tác phẩm của Nam Cao, ta sẽ ấn tượng với những người nông dân nghèo, lam
lũ nhưng đầy niềm khao khát yêu đời, yêu cuộc sống; cho dù bị đẩy vào con đường tha hoá,
bần cùng hoá. Ngoài ra, ta cũng sẽ thổn thức trước mảnh đời cơ cực, nhỏ bé của người tri thức
nghèo, muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị cơm áo ghì sát đất.
Ở đoạn văn trên, người viết triển khai song song nội dung về người nông dân và người tri thức
nghèo trong tác phẩm của Nam Cao. Hai nội dung ấy không bao trùm lên nhau mà có mối quan
hệ đẳng lập. Khi tổng hợp hai nội dung song hành đó lại, ta sẽ có nội dung chính của đoạn văn
là: số phận con người trong tác phẩm của nhà văn Nam Cao, hoặc nói về trải nghiệm của
người đọc khi tiếp cận tác phẩm của nhà văn Nam Cao.
e. Đoạn văn móc xích
Đoạn văn móc xích là đoạn văn có các ý đan xen, nối kết nhau. Ở trong đoạn văn móc
xích, các câu văn được trình bày tương đối chặt chẽ, thể hiện sự tăng tiến về mặt nội dung cần
biểu đạt. Đoạn văn móc xích thường không có câu chủ đoạn (vẫn có câu chủ đoạn). Khi viết
đoạn văn móc xích, người ta thường lặp lại từ ngữ ở câu trước để thể hiện sự liên kết.
Ví dụ:
Đọc thơ Nguyễn Trãi, nhiều người đọc khó mà biết có đúng là thơ Nguyễn Trãi không.
Đúng là thơ Nguyễn Trãi rồi thì cũng không phải là dễ hiểu đúng. Lại có khi chữ hiểu đúng,
câu hiểu đúng mà toàn bài không hiểu. Không hiểu vì không biết chắc bài thơ bài thơ được viết
ra lúc nào trong cuộc đời nhiều nổi chìm của Nguyễn Trãi. Cũng một bài thơ nếu viết năm 1420
thì có một ý nghĩa, nếu viết năm 1430 thì nghĩa khác hẳn.
f. Đoạn văn có cấu trúc đặc biệt:
Đoạn văn có cấu trúc đặc biệt là đoạn văn có kết cấu đặc biệt, thường chỉ bao gồm từ
một đến hai câu. Đoạn văn có cấu trúc đặc biệt không có sự phân chia cụ thể về các thành phần
câu; nói cách khác, các câu chủ đoạn, thuyết đoạn, kết đoạn không tồn tại ở dạng đoạn văn này.
Người ta thường dùng câu có cấu trúc đặc biệt với mục đích tu từ, nhấn mạnh nội dung được
thể hiện.
Ví dụ:
Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mỵ cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì
thào được một tiếng "Đi đi..." rồi Mỵ nghẹn lại. A Phủ khuỵu xuống không bước nổi.

Trang 21
22 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Trời tối lắm. Mị vẫn băng đi. Mỵ đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy xuống tới lưng dốc.
(Trích “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài)
Câu văn “Mị đứng lặng trong bóng tối” được tách riêng thành một đoạn, được xem là một
đoạn có cấu trúc đặc biệt. Chính việc tách ra như vậy đã khiến cho câu văn như dồn nén biết
bao tâm trạng, suy tư của nhân vật.

* LUYỆN TẬP
Câu 1: Em hãy phân tích cấu trúc của đoạn văn sau, chỉ ra đâu là hook (nếu có), câu chủ đoạn,
đâu là các câu thuyết đoạn, câu là câu kết đoạn (nếu có) và cho biết đoạn văn được trình bày
theo phương pháp nào.
Ngày nay, ngày càng nhiều người dễ dàng từ bỏ cơ hội sống của mình với một số lý do
nào đó. Nhưng họ lại ít khi nhận ra có muôn vàn lý do để họ yêu thương chính sự tồn tại của
mình. Sự sống của chúng ta đâu phải ngẫu nhiên mà có, mà nó được kết tinh từ tình yêu của
cha mẹ, hay như thuyết duy tâm từng quan niệm: “người ta phải vượt qua biết bao đau khổ mới
có thể tái sinh làm người”. Sự sống của ta quý giá vô cùng bởi vì những người yêu thương ta,
hay chính chúng ta đã nỗ lực hết mình để duy trì nó đến tận thời khắc này. Khi ta mất đi, nỗi
đau ấy không tan biến, mà nó sẽ len lỏi, ám ảnh người yêu thương ta suốt phần đời còn lại. Ta
sống, không phải vì bất cứ ai, mà là vì chính ta. Ta chỉ có thể làm mọi thứ, nếu ta còn sống. Ta
chỉ có thể thành công và hạnh phúc, nếu ta còn sống. Đó cũng chính là quan niệm sống của
Nick Vujicic - người đàn ông không có tứ chi đã vượt lên trên mọi mặc cảm khổ đau của bản
thân để sống một cách tích cực không chỉ cho bản thân mà ông còn lan tỏa nguồn năng lượng
đó đến với người khác. Chúng ta chỉ được sống duy nhất một lần, nên hãy sống làm sao chỉ
một lần thôi cũng đã mãn nguyện.
(Người biên soạn)
Câu 2: Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của sự tự tin
trong cuộc sống.

Trang 22
23 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP TU TỪ

I. BIỆN PHÁP TU TỪ NGỮ ÂM


Biện pháp tu từ là việc sử dụng ngôn ngữ một cách độc đáo, sáng tạo, linh hoạt nhằm
làm tăng giá trị biểu đạt cho lời nói, câu, văn bản.
Biện pháp tu từ ngữ âm là việc kết hợp, sử dụng khéo léo các âm thanh của ngôn ngữ
để tạo ra giá trị biểu cảm nhất định. Ta có các biện pháp tu từ ngữ âm cơ bản sau đây:
1.1. Điệp âm
1.1.1, Điệp phụ âm
Điệp phụ âm là việc lặp lại phụ âm đầu (hoặc phụ âm cuối) nhằm mục đích tăng tính
tạo hình và biểu cảm. Cần lưu ý, điệp âm sẽ dựa trên cách phát âm của từ, không dựa trên
chữ cái thể hiện.
Ví dụ: “Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông” (Nguyễn Du)

Trang 23
24 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

(Bảng phát âm các nguyên âm Tiếng Việt. Nguồn: vnlp.net)


Ngoài ra, điệp phụ âm không chỉ dựa trên yếu tố âm vị mà còn dựa trên sự tương
đồng về vị trí âm thanh, cơ quan phát âm.
Xem bảng hệ thống phụ âm đầu sau:

(Bảng phụ âm tổng hợp. Nguồn: vnlp.net)


Xét ví dụ sau:
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
(Nguyễn Công Trứ)
Ở câu thơ đầu, hai phụ âm “c” và “ng” đều là phụ âm tắc, cùng nằm ở vị trí cuối lưỡi .
Ở câu thơ thứ hai, âm “t”, “n” cùng là âm lợi.
Để hiểu rõ hơn về tác dụng của thủ pháp điệp phụ âm, ta xét tiếp ví dụ sau
“Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương"
(Tản Đà – “Thăm ma cũ bên đường”)

Trang 24
25 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Ở câu thơ đầu, hai phụ âm “p” và “t” đều là âm xát, vô thanh, tạo cảm giác nghẹn
ngào, uất ức. Ở câu thơ thứ hai, hai âm cuối “ng” kết hợp một số âm tiết mở “h”, “m”, “qu”
thể hiện sự thoát tục, phong trần, muốn buông thả cho quên sự đời.
1.1.2, Điệp vần
Ở chương 1, ta đã biết rằng phần vần bao gồm ba vị trí âm đệm, âm chính và âm cuối;
trong đó, âm chính là hạt nhân, là bộ phận quan trọng và thường được phát âm rõ ràng nhất.
Điệp vần là khi ta lặp lại phần vần của từ (chủ yếu là lặp lại âm chính)
Ví dụ:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!
(Hồ Xuân Hương)
Ở bài thơ trên, vần “on” - trong đó, nguyên âm “o” là nguyên âm lưỡi trung, âm vực
thấp, tròn môi - được điệp xen kẽ nhau, tạo cảm giác nhỏ bé, lở dở, chưa trọn vẹn.
Khi dùng phép điệp âm, người ta không chỉ điệp y chang âm chính mà đôi khi sẽ sử
dụng các nguyên âm có sự tương đồng về tính chất, phù hợp với cảm xúc, thái độ muốn
truyền tải.
- Nguyên âm bổng, hàng trước (vị trí lưỡi), không tròn môi: “ê”, “e”, i
- Nguyên âm trung hoà, hàng giữa hoặc hàng sau (vị trí lưỡi), không tròn môi: “ư”, “ơ”, “a”
- Nguyên âm trầm, hàng sau, tròn môi: “u”, “ô”, “o”
Xét ví dụ sau
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
(Huy Cận)
Vần “iu” trong “hiu” và vần “iêu” trong “chiều” và “liêu” đều chứa những nguyên âm
bổng, hàng trước, độ mở miệng thấp, thể hiện sự co ro, cô đơn, vắng vẻ của con người giữa
thiên nhiên, vũ trụ bao la.
1.1.3, Điệp thanh
Điệp thanh là việc lặp lại dấu thanh nhằm mục đích tu từ. Trong Tiếng Việt, người ta
chia làm hai nhóm dấu thanh chính là thanh bằng và thanh trắc. Thanh bằng gồm bốn thanh:
sắc, hỏi, ngã, nặng và thanh huyền gồm hai thanh: huyền, ngang.
Xét ví dụ sau:
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió.
(Nguyễn Tuân)
Ta thấy nhà văn đã điệp liên tiếp thanh trắc trong từ “nước”, “đá”, “sóng”, “gió”, gợi lên sự
va đập mạnh mẽ của sóng thác trên sông Đà.
Khi sử dụng thanh bằng, ta lại có hiệu ứng cảm xúc khác. Xét ví dụ sau:
“Nhà ai Pha Luông mưa sa khơi” (Quang Dũng)
Có thể thấy, toàn bộ câu thơ đều là thanh bằng, thể hiện tâm thế nhẹ nhàng, thoải mái của
những người lính sau một ngày hành quân đầy gian nan.
1.2. Hài thanh

Trang 25
26 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Hài thanh là việc sử dụng kết hợp hài hoà nhiều hiệu ứng ngữ âm của từ để tạo ra cảm
xúc phù hợp khi diễn đạt. Người ta sử dụng biện pháp hài thanh để cân bằng yếu tố âm thanh
khi diễn đạt, làm cho câu văn, lời thơ thêm da diết, sâu lắng.
Ví dụ:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
(Trích “Sóng”, Xuân Quỳnh)
Nhà thơ đã chia hai câu thơ thành hai vế, vế đầu tiên là tính từ thể hiện sự dữ dội, nồng nàn
bằng các thanh trắc, các nguyên âm trầm, tròn môi như sự cồn cào của biển cả; vế thứ hai là
tính từ thể hiện sự nhẹ nhàng, êm ả qua các thanh bằng, các nguyên âm bổng như tiếng nhạc
du dương, dịu dàng của đại dương. Chính biện pháp hài thanh đã làm cho các yếu tố ngữ âm
trong câu thơ được hài hoà, thể hiện rõ nét sự cộng hưởng của hai yếu tố đối lập trong cùng
một chủ thể “sóng”.
1.3. Giả thanh
Giả thanh (hay còn gọi là tượng thanh) là việc bắt chước âm thanh của sự vật, sự việc
nào đó. Giả thanh có thể hoàn toàn hoặc gần giống.
Ví dụ:
Lộp bộp
Lộp bộp...
Rơi
Rơi...
Đất trời
Mù trắng nước
Mưa chéo mặt sân
Sủi bọt
(Trích “Mưa”, Trần Đăng Khoa)
Nhà thơ đã mô phỏng âm thanh tiếng mưa rơi qua từ láy “lộp bộp” - âm thanh tiếng mưa rơi
trước sân nhà hoặc trên những mái tôn. Sau đó là những hình ảnh như “mù trắng nước”, “chéo
mặt sân”, thể hiện rất sinh động thời điểm bắt đầu một trận mưa rào.

II. BIỆN PHÁP TU TỪ TỪ VỰNG - NGỮ NGHĨA


Biện pháp tu từ từ vựng - ngữ nghĩa là việc sử dụng sáng tạo, khéo léo từ vựng và ngữ
nghĩa nhằm tăng giá trị biểu đạt. Biện pháp tu từ từ vựng - ngữ nghĩa bao gồm những biện pháp
sau:
2.1, So sánh
So sánh là việc so sánh các đối tượng với nhau dựa trên sự tương đồng giữa chúng. So
sánh luôn có hai vế: vế được so sánh và vế so sánh.
Ví dụ: “Cánh buồm giương to như một mảnh hồn làng” (Tế Hanh)
Ở ví dụ trên, “cánh buồm giương to” là vế được so sánh, “mảnh hồn làng” là vế so sánh, phương
tiện so sánh là từ “như”, thể hiện sự ngang bằng giữa hai sự vật, hiện tượng.
So sánh có thể ngang bằng (phương tiện so sánh thường là: là, như, cũng như, giống,
y,...; hoặc dấu hai chấm, dấu gạch nối,...) hoặc không ngang bằng (phương tiện so sánh thường
là: không như, khác, hơn, thua, không bằng,...)
* Tác dụng của phép so sánh:
- Về nghệ thuật: Làm cho diễn đạt thêm sinh động, giàu hình ảnh.
- Về nội dung: Làm cho sự vật thêm cụ thể hoặc trừu tượng, đóng góp thêm nhiều góc nhìn về
sự vật, hiện tượng đó.

Trang 26
27 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Trong một số trường hợp, vế so sánh không nhất thiết phải cụ thể hơn vế được so sánh.
Như trong tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân viết: “Bờ sông hoang dại như một
bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.” Ở đây, tác giả đã so dùng
hai sự vật mang tính trừu tượng “bờ tiền sử”, “cổ tích tuổi xưa” để so sánh cho một sự vật vô
cùng cụ thể “bờ sông”. Điều đó làm thiên nhiên nơi sông Đà càng trở nên huyền ảo, bí ẩn, tựa
như nơi xứ sở thần tiên.
2.2, Ẩn dụ
Ẩn dụ là biện pháp lấy sự vật này để lâm thời biểu thị cho sự vật khác dựa trên những
nét tương đồng về tính chất. Có thể coi ẩn dụ là một hình thức so sánh nhưng bị khuyết một
vế.
Xét ví dụ sau:
“Ngày ngày mặt trời(1) đi qua trên lăng,
Thấy một mặt trời(2) trong lăng rất đỏ.”
(Trích “Viếng lăng bác”, Viễn Phương)
- Hình ảnh “mặt trời” ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của vũ trụ, nhưng hình ảnh “mặt trời” ở
câu thơ thứ hai lại là hình ảnh ẩn dụ. Tác giả đã lấy sự tính chất của mặt trời (chỉ có một, toả
sáng, mang hơi ấm cho nhân loại) để biểu thị cho vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh (người đã mang
ánh sáng của Đảng đến cho nhân dân).
Phân loại ẩn dụ:
• Ẩn dụ hình thức: Là ẩn dụ dựa trên nét tương đồng về hình thức của sự vật. Ví dụ: “Đầu
tường lửa lựu lập loè đâm bông” (Nguyễn Du). Từ “lửa” là một phép ẩn dụ hình thức,
biểu thị cho màu đỏ đậm, rực rỡ của hoa lựu.
• Ẩn dụ cách thức: Là ẩn dụ dựa trên nét tương đồng về cách thức của sự vật. Ví dụ: “Ăn
quả nhớ kẻ trồng cây”. Câu tục ngữ trên đã sử dụng phép ẩn dụ ở hai từ ngữ “ăn quả”
(chỉ người hưởng thụ thành quả), “kẻ trồng cây” (chỉ người đã làm nên thành quả đó)
• Ẩn dụ phẩm chất: Là ẩn dụ dựa trên nét tương đồng về phẩm chất của sự vật. Ví dụ:
“Thuyền về có nhớ bến chăng/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”. Ở đây, hình
ảnh “thuyền” biểu thị cho người con trai (thường xuyên đi đây đi đó để tìm cơ hội cho
bản thân) và “bến” biểu thị cho người con gái (luôn chờ đợi, ngóng trông thuyền trở
về)
• Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: Là việc lấy giác quan này để biểu thị cho giác quan khác.
Ví dụ: “Ánh nắng chảy đầy vai”. Từ “chảy” (xúc giác) biểu thị cho việc ánh nắng chiếu
xuống vai (thị giác)
* Tác dụng của phép ẩn dụ:
- Về nghệ thuật: Làm cho diễn đạt trở nên ấn tượng, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc.
- Về nội dung: Cung cấp thêm góc nhìn về sự vật, hiện tượng.
2.3, Hoán dụ
Hoán dụ là việc lấy sự vật hiện tượng này để lâm thời biểu thị cho sự vật khác có mối
quan hệ gần gũi về mặt logic.
Xét ví dụ sau: “ Áo chàm đưa buổi phân li” (Tố Hữu)
Ở câu thơ trên, hình ảnh “áo chàm”, về mặt tính chất, không hề tương đồng với người nông
dân. Nhưng “áo chàm” lại là chiếc áo mà người nông dân Việt Bắc thường xuyên mặc trong
sinh hoạt thường ngày. Vì thế mà tác giả đã dùng hình ảnh “áo chàm” để biểu thị cho người
nông dân Việt Bắc.
Các ví dụ khác:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.”
(Nguyễn Bính)
Áo nâu liền với áo xanh
Nông thôn cùng với thị thành đứng lên

Trang 27
28 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

(Tố Hữu)
Biểu hiện của phép ẩn dụ: Lấy vật chứa để chỉ vật bị chứa, lấy cái cụ thể để chỉ cái
chung, lấy dấu hiệu của sự vật để gọi sự vật, lấy cái cụ thể để chỉ cái trừu tượng.
* Tác dụng của phép hoán dụ: Tương tự với phép ẩn dụ.
PHÂN BIỆT ẨN DỤ VÀ HOÁN DỤ
- Điểm giống: Đều lấy sự vật này để lâm thời biểu thị sự vật khác.
- Điểm khác:
+ Ẩn dụ: Dựa trên nét tương đồng về tính chất giữa hai sự vật, hiện tượng.
+ Hoán dụ: Dựa trên mối quan hệ logic giữa hai sự vật, hiện tượng.
Xét ví dụ sau:
Từ hồi về thành phố
Quen ánh điện, cửa gương
Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường
(Nguyễn Duy)
Có thể thấy, hình ảnh “ánh điện”, “cửa gương” là hình ảnh hoán dụ, vì về tính chất, “ánh
điện”, “cửa gương” không đồng nhất với cuộc sống ở thành thị. Nhưng hai sự vật đó là một
biểu hiện tiêu biểu cho cuộc sống thanh phố nên nó lâm thời biểu thị cho điều đó.
Xét tiếp ví dụ sau:
“Thương thay thân phận con rùa
Lên đình đội hạc xuống chùa đội bia.”
Hình ảnh “con rùa”, xét về mặt logic, không hề tương cận với người nông dân. Nhưng nếu
phân tích theo khía cạnh tính chất, con rùa là một sinh vật thấp cổ bé họng, tương đồng với
số phận người nông dân ngày xưa. Hành động “đội hạc”, “đội bia” cũng ẩn dụ cho cuộc
sống mưu sinh vất vả, luôn phải luồn cúi, chịu bao nhiêu dày vò, bất công.

2.4, Nhân hoá


Nhân hoá là việc dùng hành động, tính chất của con người cho những sự vật, hiện tượng
không phải là người.
Ví dụ:
Núi cao bởi có đất bồi,
Núi chê đất thấp núi ngồi ở đâu.
Lưu ý: Học sinh cần phân biệt giữa phép nhân hoá cùng một số cấu trúc ngữ pháp khác
ở trong Tiếng Việt. Nếu xét câu văn: “Cơm nấu xong rồi, ra ăn đi”, ta sẽ nhận ra động từ “nấu”
không phải là biểu hiện của phép nhân hoá. Bởi vì trong Tiếng Việt, ngoài cấu trúc chủ-vị
thông thường trong văn viết, người ta lại thường dùng cấu trúc đề-thuyết trong giao tiếp hằng
ngày. Trong cấu trúc đề thuyết, người ta không tiếp cận cú pháp câu theo khái niệm của cấu
trúc chủ-vị đã được nói ở phần III chương 1 mà sẽ chia ra hai bộ phận là Đề (cơm) và Thuyết
(nấu xong rồi). Vì vậy, đôi khi việc xác định quan hệ giữa động từ (hoặc tính từ) và danh từ
trong một câu có thể khá phức tạp, không phải lúc nào nó cũng sẽ phù hợp về ngữ nghĩa khi
chỉ tiếp cận theo cấu trúc chủ-vị.
Để đảm bảo không nhầm lẫn, học sinh cần chú ý mối quan hệ giữa danh từ và các thành
phần khác trong câu, xác định được câu đó đang được khai triển theo ngữ pháp thông dụng hay
là ngữ pháp chức năng, từ đó ta sẽ không bị nhầm lẫn phần “đề” là nhân hoá.
* Tác dụng của phép nhân hoá:
- Về nghệ thuật: Làm cho diễn đạt thêm sinh động, có hồn hơn.
- Về nội dung: Giúp cho sự vật, hiện tượng trở nên gần gũi với con người hơn.

2.5, Phép điệp

Trang 28
29 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Điệp là việc lặp lại từ, ngữ, cú pháp có chủ đích nhằm nhấn mạnh nội dung cần biểu
đạt, thông qua đó tạo nhịp điệu cho câu văn/câu thơ.
Ví dụ: “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”. (Thép Mới)
Ở câu văn trên, tác giả đã điệp lại bốn lần từ “giữ” nhằm nhấn mạnh vai trò của cây tre trong
đời sống của người Việt Nam.
Phân loại phép điệp:
• Phân loại theo vị trí điệp, ta có: điệp nối tiếp, điệp ngắt quãng, điệp vòng.
• Phân loại theo thành phần được điệp, ta có: điệp từ, điệp ngữ, điệp cú pháp.
Học sinh cần dựa theo kiến thức ở chương 1 để phân biệt rõ về từ, cụm từ và cú pháp.
Cần lưu ý đến phép điệp cú pháp, đó là phải điệp lại đúng khung cú pháp của câu trước.
Ví dụ:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.”
(Nguyễn Đình Thi)
Ở đoạn thơ trên, ta sẽ thấy rõ hai cấu trúc được lặp lại, đó là Danh từ + “đây là của chúng ta”
và “Những” + danh từ. Khi trình bày, học sinh có thể ghi tắt là phép điệp cấu trúc “... đây là
của chúng ta”, “Những…”
* Tác dụng của phép điệp:
- Về nghệ thuật: Tạo nhịp điệu cho câu văn/câu thơ; làm cho diễn đạt có tính nhạc, khơi gợi
cảm xúc.
- Về nội dung: Nhấn mạnh nội dung mà người viết, người nói muốn truyền đạt.

2.6, Biện pháp nói quá và nói giảm nói tránh


Nói quá là việc khuếch đại tính chất, mức độ của sự vật, hiện tượng nhằm nhấn mạnh
và thể hiện cảm xúc.
Ví dụ: "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ
căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho thân này phơi ngoài nội
cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng.". (Trần Quốc Tuấn)
Ngược lại, nói giảm nói tránh lại làm giảm đi mức độ diễn đạt, làm cho nó mềm mại,
nhẹ nhàng hơn, đúng với mục đích cần diễn đạt.
Ví dụ “Anh bạn dãi dầu không bước nữa / Gục lên súng mũ bỏ quên đời.” (Quang Dũng)
* Tác dụng của biện pháp nói quá và nói giảm nói tránh: Không có tác dụng chung, học sinh
cần dựa vào ngữ cảnh chứa biện pháp đó để đánh giá. Thường sẽ có những tác dụng sau:
- Nhấn mạnh (hoặc làm giảm) tình trạng, thái độ của người viết, nhân vật, chủ thể trữ tình…
- Thể hiện sự đồng cảm, kính trọng (đối với phép nói giảm nói tránh)
- Làm tăng hiệu quả diễn đạt, giúp người đọc lĩnh hội nội dung một cách sâu sắc hơn.

2.7, Biện pháp chêm xen


Biện pháp chêm xen là việc người viết, người nói chen thành phần biệt lập vào ngay
sau thành phần thể hiện thông tin chính trong câu nhằm bổ nghĩa cho thành phần đó hoặc làm
gia tăng tính biểu cảm cho câu.
Ví dụ:
1. Gia cảnh của Hương rất nghèo khó. Cô ấy, mặc dù vậy, vẫn cố gắng học hành cho đến nơi
đến chốn.
2.
Cô bé nhà bên (có ai ngờ)
Cũng vào du kích.

Trang 29
30 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích

Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)


(Giang Nam)

2.8, Biện pháp nghịch ngữ


Nghịch ngữ là biện pháp mà ở đó, người viết, nói sử dụng liền kề hoặc gần nhau các
thành phần ngữ pháp mang tính chất đối lập trong cùng một câu (hoặc đoạn văn).
* Tác dụng của phép nghịch ngữ: tạo ra cách nói nghịch lý, bất ngờ để thể hiện đúng nhận xét
về đối tượng đang được nói tới. Ngoài ra, nghịch ngữ còn mang lại những góc nhìn, nhận thức
độc đáo, mới lạ, đa chiều hơn.
Người ta có thể tạo ra nghịch ngữ bằng cách:
• Dùng các từ trái nghĩa, tạo ra những kết hợp từ mới lạ, bất bình thường. Ví dụ: “bản
đồng ca lặng ngắt” (Nguyễn Tuân), những cái chết bất tử, vở bi kịch lạc quan. Nghịch
ngữ cũng khá phổ biến trong văn nói: đẹp ghê, ngon ghê, hiền dữ.
• Sử dụng các từ, ngữ, vế câu trái ngược nhau của cùng một đối tượng hoặc giữa các đối
tượng khác nhau. Ví dụ:
Dù đục, dù trong con sông vẫn chảy
Dù cao, dù thấp cây lá vẫn xanh
Dù người phàm tục hay kẻ tu hành
Đều phải sống từ những điều rất nhỏ.
(Lưu Quang Vũ)
2.9, Biện pháp liệt kê
Liệt kê là việc người viết (người nói) kể ra nhiều sự vật, hiện tượng,... có chung một
trường liên tưởng trong một câu, một đoạn.
* Tác dụng của phép liệt kê:
- Về nghệ thuật: Tạo nhịp điệu cho câu thơ (câu văn), làm cho diễn đạt trở nên sinh động, gợi
hình, gợi cảm.
- Về nội dung: Cụ thể hoá đối tượng, nội dung được đề cập đến.
Học sinh cần phân biệt sự khác nhau giữa liệt kê thông thường và liệt kê nghệ thuật.
Liệt kê thông thường chỉ thoả mãn tác dụng số 2 (cụ thể hoá đối tượng được đề cập đến) chứ
không làm cho diễn đạt trở nên sinh động hơn. Ví dụ: Nhà em có bốn người: ba, mẹ, anh của
em và em. Đối với liệt kê nghệ thuật, phép liệt kê không chỉ cụ thể hoá cái được nhắc đến mà
còn có chức năng khơi gợi cảm xúc. Ví dụ: Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem cả tinh thần
và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy (Hồ Chí Minh). Ở ví
dụ số 2, phép liệt kê tạo nhịp điệu rất rõ ràng vì các danh từ được liệt kê được hài thanh vô
cùng tốt, thể hiện sự quyết liệt, sôi nổi của nhân dân Việt Nam, sẵn sàng hi sinh để có được
độc lập.

2.10, Im lặng
Im lặng (chủ yếu được sử dụng trong văn viết) là việc người viết tạo ra những khoảng
trống trong diễn đạt để thể hiện cảm xúc (thường là cảm xúc nghẹn ngào, nín lặng,...).
Ví dụ:
“Cháu đi đường cháu
Chú lên đường xa
Đến nay tháng sau
Chợt nghe tin nhà
Ra thế…
Lượm ơi!
(Tố Hữu)

Trang 30
31 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Biện pháp im lặng thường đi cùng với dấu ba chấm (trường hợp này gọi là dấu chấm
lửng). Nhưng đôi khi, không cần có dấu chấm lửng, biện pháp im lặng vẫn được thể hiện.
Ví dụ: Mị đứng lặng trong bóng tối. (Tô Hoài)

*LUYỆN TẬP:
Bài 1: Hãy viết một đoạn văn về chủ đề em thích; trong đó, có ít nhất 1 biện pháp so sánh, 1
biện pháp liệt kê và 1 biện pháp điệp ngữ.
Bài 2: Em hãy chỉ ra ba biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong đoạn thơ sau và nêu tác dụng:
Cuối trời mây trắng bay Hơi lạnh qua bàn tay
Lá vàng thưa thớt quá Tình ta như hàng cây
Phải chăng lá về rừng Đã qua mùa gió bão
Mùa thu đi cùng lá Tình ta như dòng sông
Mùa thu ra biển cả Đã yên ngày thác lũ…
Theo dòng nước mênh mang (Trích “Thơ tình cuối mùa thu”, Xuân Quỳnh)
Mùa thu vào hoa cúc
Chỉ còn anh và em
Chỉ còn anh và em
Là của mùa thu cũ
Chợt làn gió heo may
Thổi về xao động cả:
Lối đi quen bỗng lạ
Cỏ lật theo chiều mây
Đêm về sương ướt má

III. BIỆN PHÁP TU TỪ CÚ PHÁP


Biện pháp tu từ cú pháp là việc sử dụng cấu trúc câu một cách độc đáo, sáng tạo, nhằm
thể hiện mục đích tu từ khi diễn đạt. Tài liệu này sẽ giới thiệu tới học sinh một số biện pháp tu
từ cú pháp phổ biến được dạy ở trường phổ thông sau:
3.1, Sử dụng các loại câu đặc biệt
Ngoài các loại câu được giới thiệu ở phần III chương 1, người ta có thể sử dụng một số
loại câu có cấu trúc đặc biệt nhằm mục đích tu từ, thường thấy nhất là câu tỉnh lược và câu đặc
biệt.
• Câu tỉnh lược là câu bị lược bớt một thành phần nào đó để câu trở nên gọn hơn nhưng
không làm ảnh hưởng quá nhiều tới nội dung cần diễn đạt. Câu tỉnh lược có thể khuyết
chủ ngữ hoặc vị ngữ, đôi lúc có thể rút gọn cả mệnh đề nòng cốt.
Ví dụ:
• “Băn ăn cơm chưa?” - “Rồi” (Câu đầy đủ là “Tôi ăn cơm rồi”)
• “Tác phẩm văn học nào mà em yêu thích nhất?” - “Người lái đò sông Đà” của
Nguyễn Tuân”
• “Ai muốn làm công việc này nào?” - “Tôi”
• Câu đặc biệt là câu không tuân theo cấu trúc ngữ pháp thông thường, nó có thể chỉ
bao gồm một từ, ngữ.
Ví dụ:
• Trời ơi! Sao tôi khổ thế này.
• Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu.

3.2, Đảo ngữ

Trang 31
32 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Đảo ngữ là việc đảo một thành phần câu lên đầu nhưng không làm thay đổi ý nghĩa của
câu. Phép đảo ngữ có tác dụng nhấn mạnh vào thành phần được đảo, gây ấn tượng sâu sắc,
đậm nét về sự vật, hiện tượng.
Ví dụ:
• “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. (Huy Cận)
• “Đã tan tác những bóng từ hắc ám/ Đã sáng lại trời thu tháng Tám”. (Tố Hữu)

3.3, Câu hỏi tu từ.


Câu hỏi tu từ là hình thức câu hỏi nhưng không phải để hỏi mà là để tăng tính diễn cảm
của lời nói, thể hiện cảm xúc (thường là sự bâng khuâng)
Ví dụ:
1.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
(Hàn Mặc Tử)
2.
“Ai nặn nên hình
Khế chia năm cánh?”
(Phạm Hổ)

3.4, Tách biệt


Tách biệt là phương thức tách bất kì thành phần nào đó của câu ra làm một câu độc lập
với mục đích nhấn mạnh thành phần được tách và tăng tính biểu cảm.
Ví dụ:
• Ngay buổi chiều hôm đó. Mặt biển trở lại thanh bình. (Nguyễn Tuân)
• Tôi nghĩ đến sức mạnh của thơ. Chức năng và vinh dự của thơ. (Phạm Hổ)
• Từ ngẩng mặt lên nhìn Hộ ba lần. Ba lần. Từ muốn nói nhưng lại không dám nói (Nam
Cao)

Trang 32
33 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

CHƯƠNG 3: PHONG CÁCH HỌC TIẾNG VIỆT

I. PHƯƠNG THỨC BIỂU ĐẠT


Phương thức biểu đạt là cách thức mà người ta sử dụng để truyền đạt thông tin. Phương
thức biểu đạt quy định tính chất của văn bản. Một đoạn hay một văn bản có thể có nhiều phương
thức biểu đạt. Có văn bản có nhiều phương thức biểu đạt nhưng chỉ có một phương thức chính,
cũng có văn bản không rõ chính phụ mà các phương thức có vai trò như nhau trong việc thể
hiện nội dung cần truyền đạt. Ở tài liệu này, ta sẽ tìm hiểu 06 phương thức biểu đạt thường
được sử dụng là tự sự, biểu cảm, miêu tả, nghị luận, thuyết minh, hành chính ngôn luận.
1.1, Tự sự
Đọc đoạn văn ngắn sau:
Đây không phải lần đầu tiên có người hỏi tên cậu bé. Hồi đầu có nhiều đứa trẻ khác hỏi...
- Ê này, cậu mới đến đây hả?
- Cậu từ đâu tới đẩy?
- Bố cậu làm gì?
- Cậu mấy tuổi?
- Cậu học lớp mấy?
- Có biết chơi trò chòi cao không?
Toàn những câu hỏi trẻ con.
Nhưng thưởng mọi người hỏi giống câu Sói Lam vừa nảy ra trong đầu
- Cậu tên là gì?
Và chưa hề có ai hiểu được câu trả lời của cậu bé.
- Tôi tên là Phi Châu.
- Phi Châu ư? Đẩy là tên nước chứ có phải tên người đầu!
Và họ cười.
– Nhưng tên tôi là Phi Châu thật mà. [...]
Song cậu bé biết rõ là một cái tên sẽ chẳng nói lên điều gì nếu không có chuyện của nó. Cũng
như một con sói trong vườn thú. Nó sẽ chỉ là một con thú bình thường như bao con khác nếu
người ta không biết chuyện về cuộc đời nó.
“Được rồi, Sói Lam ơi, ta sẽ kể cho mi nghe chuyện của ta.”

Trang 33
34 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Và đến lượt con mắt của cậu bé chuyển động. Như một ánh sáng vụt tắt. Hoặc cảm giác như
một đường hầm bị sập dưới lòng đất. Phải rồi, một đường hầm giống một cái hang cáo mà Sói
Lam từng chui vào. Càng vào sâu thì càng mờ mịt.
(Trích “Mắt sói”, Đa-ni-en Pen-nắc, SGK Ngữ Văn 8 tập 2 Kết nối tri thức với cuộc sống)
Ở đoạn văn trên, ta sẽ thấy nhà văn tập trung vào việc kể lại một câu chuyện (cụ thể là
cuộc đối thoại giữa cậu bé Phi Châu với Sói Lam). Trong câu chuyện đó, có hệ thống nhân vật,
có cốt truyện rõ ràng (có thể đoạn văn này chưa thể hiện rõ nét yếu tố này). Nếu một đoạn văn
hội tụ các yếu tố nêu trên, đó được xem là đoạn văn tự sự.
Tự sự là phương thức người viết kể lại một câu chuyện (có thể là trải nghiệm của bản
thân, một câu chuyện có thật hoặc một câu chuyện hư cấu). Yếu tố kể là chất liệu đặc sắc trong
văn bản tự sự. Các loại văn bản thường sử dụng phương thức tự sự có thể kể đến như tản văn,
tuỳ bút, truyện ngắn, một số bài thơ tự sự, thư, hồi ký,...
1.2, Miêu tả
Miêu tả là phương thức mà ở đó, người viết tập trung vào khắc hoạ, miêu tả sự vật, hiện
tượng nào đó. Văn bản miêu tả chú trọng vào yếu tố miêu tả khi diễn đạt - trong đó sử dụng
nhiều danh từ, tính từ; dùng một số biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, nhân hoá, liệt
kê,...
Ví dụ:
Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam - bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc
Trản, nó chuyển hướng sang tây - bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi
đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông - bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về
Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng
vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai
dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột khởi như Vọng Cảnh, Tam Thai,
Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc
thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi.
(Trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, Hoàng Phủ Ngọc Tường)
1.3, Biểu cảm
Phương thức biểu cảm thể hiện ở việc người viết dùng ngôn ngữ để bộc lộ tâm tư, tình
cảm của mình hoặc của bất cứ chủ thể, nhân vật nào. Phương thức biểu cảm đi sâu vào khắc
hoạ cảm xúc, nội tâm của chủ thể trữ tình. Do đó, phần lớn các bài thơ đều có phương thức
biểu đạt chính là biểu cảm (Vì thơ là sản phẩm của cảm xúc, là “tiếng nói của trái tim”). Trong
văn bản văn xuôi, yếu tố biểu cảm được thể hiện rõ nét qua việc người viết sử dụng hợp lý từ
vựng, ngữ âm, cú pháp để khơi gợi cảm xúc.
Ví dụ:
1.
Ta đã ngậm hương trăng đầy lỗ miệng
Cho ngây người mê dại đến tâm can
Thét chòm sao hoảng rơi vào đáy giếng
Mà muôn năm rướm máu trong không gian.
(Hàn Mặc Tử)
2. Một đoạn văn có chứa phương thức biểu cảm:
Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Leningrad đã
đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi tôi muốn hóa làm một con chim
nhỏ đứng co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vẫy tay, nhưng sông
Nêva đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng
đang ngẩn ngơ trông theo. (Hoàng Phủ Ngọc Tường)
1.4, Nghị luận
Phương thức nghị luận là thể hiện ở việc người viết dùng ngôn ngữ để lý giải, phân
tích, bàn bạc về một vấn đề nào đó nhằm mục đích thuyết phục người khác tin theo quan điểm

Trang 34
35 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

của mình. Đặc trưng của văn bản nghị luận chính nằm ở các thao tác lập lập: giải thích, phân
tích, chứng minh, bình luận, so sánh, bác bỏ. Ngôn ngữ của văn bản nghị luận thường giàu
nhịp điệu, có tính đanh thép, xác đáng để có thể dễ dàng thuyết phục người khác.
Ví dụ:
Nếu như bạn muốn kết bạn với người khác thì hãy chào họ một cách thật sôi nổi và
nhiệt tình. Khi có ai đó gọi điện thoại cho bạn, bạn hãy nói câu “xin chào” bằng một giọng
biểu lộ sự vui thích thật lòng. Ban đã từng nghe về giọng nói biết cười đúng không ? Những
công ty huấn luyện nhân viên trực điện thoại chào người gọi đến bằng giọng nói toát lên niềm
vui, sự quan tâm và lòng nhiệt tình. Người gọi đến sẽ cảm thấy được sự quan tâm thật sự. Đừng
quên điều này khi bạn gọi hay trả lời điện thoại hôm nay nhé. Biểu lộ sự quan tâm chân thành
đối với người khác không những giúp bạn có thêm bạn bè mà còn có thể làm tăng lòng trung
thành của khách hàng đối với công ty bạn. (Đắc nhân tâm, Dale Carnegie)
Một số thao tác lập luận thường gặp trong văn bản nghị luận
Giải Giải thích là việc người viết cắt nghĩa, lý giải vấn đề để cho nó rõ ràng, cụ thể
thích hơn. Ở thao tác này, người viết thường đi trả lời cho câu hỏi: Vấn đề đó là gì?
Vấn đề đó như thế nào?

Phân Phân tích là việc người viết dùng những luận điểm, luận cứ, lý lẽ để làm sáng tỏ
tích vấn đề

Chứng Chứng minh việc người viết dùng một các ví dụ minh hoạ mang tính thực tiễn
minh để kết nối vấn đề với cuộc sống, giúp vấn đề trở nên xác đáng, thuyết phục hơn.

Bình Bình luận là việc người viết đi sâu vào vấn đề để đánh giá nó: tốt hay xấu, đúng
luận hay sai,...

So sánh So sánh là việc người viết so sánh vấn đề đang bàn luận với những vấn đề khác
để làm cho nó sáng tỏ hơn.
Ví dụ: người viết so sánh giữa “tự tin” và “tự phụ” để thấy được sự khác biệt
giữa chúng, từ đó khẳng định giá trị của sự tự tin cũng như định hướng người
đọc xây dựng tự tin một cách đúng đắn, tránh để nó trở thành tự cao hay tự phụ.

Bác bỏ Bác bỏ là thao tác nêu một ý kiến trái chiều sau đó dùng lý lẽ, lập luận để bác bỏ
nó.

1.5, Thuyết minh


Văn bản thuyết minh là văn bản chủ yếu cung cấp, giới thiệu những tri thức, thông tin,...
của sự vật, hiện tượng nào đó (có thể là nguồn gốc, công dụng, cách thức, ý nghĩa,...). Trái với
văn bản nghị luận, văn bản thuyết minh khá hạn chế về quan điểm cá nhân (chủ yếu là nêu cảm
nhận của người viết về sự vật, hiện tượng đang được giới thiệu).
Ví dụ:
Đờn ca tài tử Nam bộ là một dòng nhạc dân tộc của Việt Nam đã được UNESCO ghi
danh là di sản văn hóa phi vật thể vào ngày 5 tháng 12 năm 2013[1] và là một danh hiệu
UNESCO ở Việt Nam có vùng ảnh hưởng lớn, với phạm vi 21 tỉnh thành phía Nam. Đờn ca tài
tử hình thành và phát triển từ cuối thế kỷ 19, bắt nguồn từ nhạc lễ, Nhã nhạc cung đình Huế
và văn học dân gian. Đờn ca tài tử là loại hình nghệ thuật dân gian đặc trưng của vùng Nam
Bộ. Đây là loại hình nghệ thuật của đàn và ca, do những người bình dân, thanh niên nam nữ
nông thôn Nam Bộ hát ca sau những giờ lao động.
(wikipedia)

Trang 35
36 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Ở đoạn văn trên, người viết chủ yếu cung cấp những thông tin (xuất xứ, lịch sử, tổng quan,...)
về nghệ thuật dân gian Đờn ca tài tử.

1.6, Hành chính - ngôn luận


Văn bản hành chính là văn bản có hình thức trang trọng, liên quan đến các vấn đề mang
tính pháp lý. Phương thức hành chính - ngôn luận thường được thể hiện ở các văn bản sau: các
loại đơn, thông tư, nghị quyết, quyết định, văn bản quy phạm pháp luật,... Văn bản hành chính
quy định rất chặt chẽ về mặt hình thức trình bày, yêu cầu ngôn ngữ chính xác, đơn nghĩa, văn
phong nghiêm túc, trang trọng.
Ví dụ:
Điều 5. Quyền và nghĩa vụ của người lao động
1. Người lao động có các quyền sau đây:
a) Làm việc; tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ
nghề nghiệp; không bị phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, quấy rối tình dục tại nơi làm việc;
b) Hưởng lương phù hợp với trình độ, kỹ năng nghề trên cơ sở thỏa thuận với người sử dụng
lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn, vệ sinh lao động;
nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có hưởng lương và được hưởng phúc lợi tập thể;(...)
(Trích “Bộ luật lao động”, Quốc hội, 2019)

* LUYỆN TẬP
Em hãy xác định phương thức biểu đạt chính của những ngữ liệu sau:
1. “Theo các nhà khoa học, bao bì ni lông lẫn vào đất làm cản trở quá trình sinh trưởng của các
loài thực vật bị nó bao quanh, cản trở sự phát triển của cỏ dẫn đến hiện tượng xói mòn ở các
vùng đồi núi. Bao bì ni lông bị vứt xuống cống làm tắc các đường dẫn nước thải, làm tăng khả
năng ngập lụt của các đô thị về mùa mưa. Sự tắc nghẽn của hệ thống cống rãnh làm cho muỗi
phát sinh, lây truyền dịch bệnh. Bao bì ni lông trôi ra biển làm chết các sinh vật khi chúng nuốt
phải…”
(Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000)
2. Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều.
Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre
làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời.
Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng
theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. Liên ngồi yên lặng bên
mấy quả thuốc sơn đen; đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm
thía vào tâm hồn ngây thơ của chị: Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác
trước cái giờ khắc của ngày tàn.
(Trích “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam)
3. Ðêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh
tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng
nhện tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột phân gián.Trong một không khí khói tỏa như đám cháy
nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên
một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi mắt lia lịa. Một người
tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên
mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền
kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu
mực.
(Trích “Chữ người tử tù”, Nguyễn Tuân)
4. Tình cảm trong gia đình là những tình cảm tốt đẹp nhất của con người, giúp cho chúng ta
rèn luyện tình cảm và những đức tính tốt đẹp khác và tình cảm gia đình là tiền đề để con người

Trang 36
37 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

phát triển bởi gia đình là cái nôi đầu tiên và quan trọng nhất để giáo dục một đứa trẻ thành
người và giúp ích cho xã hội. Tuy nhiên, trong cuộc sống vẫn còn có nhiều người con sống bất
hiếu, vô lễ, đánh đập, đối xử tàn nhẫn, bỏ rơi cha mẹ già của mình. Lại có những người làm
cha mẹ bỏ rơi con cái, làm cho tình cảm gia đình sứt mẻ,… những người này đáng bị xã hội
phê phán và cần thay đổi bản thân, sửa chữa lỗi lầm để có được cuộc sống tốt đẹp hơn.
5.
Yêu, là chết ở trong lòng một ít,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?
Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu:
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết.
(Xuân Diệu)

II. PHONG CÁCH NGÔN NGỮ


Phong cách ngôn ngữ là cách thức người viết sử dụng ngôn ngữ sao cho phù hợp với
kiểu văn bản, phù hợp với hoàn cảnh cũng như mục đích diễn đạt. Mỗi phong cách ngôn ngữ
sẽ có một cách chọn lọc từ ngữ, sử dụng các biện pháp tu từ, dùng các kiểu cú pháp diễn đạt
khác nhau. Ta sẽ thường bắt gặp sáu phong cách ngôn ngữ phổ biến sau trong giao tiếp sinh
hoạt hằng ngày hoặc trong các thể loại văn bản:
2.1, Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt
2.1.1, Khái niệm
Phong cách sinh hoạt (hay còn gọi là phong cách khẩu ngữ) là phong cách thường được
sử dụng trong giao tiếp thường ngày, thường với ngữ cảnh thân thuộc, ít trang trọng. Chức
năng của phong cách sinh hoạt đó là trao đổi ý nghĩ, tư tưởng, tình cảm; tạo lập quan hệ xã hội,
nghi thức xã hội, thu hút sự chú ý của người nghe.
2.1.2, Đặc trưng
Tính cá Thể hiện ở sự đặc trưng trong hệ thống ngôn ngữ của mỗi cá nhân. Mỗi người sẽ
thể có cách sử dụng từ ngữ, cách diễn đạt khác nhau khi giao tiếp.

Tính cụ Thể hiện ở sự cụ thể về hoàn cảnh, về con người. Các sự vật, hiện tượng không
thể chỉ được gọi tên mà còn hiện lên với hình ảnh, âm thanh rõ rệt.

Tính Thể hiện ở biểu cảm, ngữ điệu của lời nói khi giao tiếp. Đặc trưng này giúp cho
cảm xúc người nghe hiểu một cách sâu sắc không chỉ về nội dung lĩnh hội mà còn ở tâm
tư, tình cảm của người nói.
2.1.3, Đặc điểm ngôn ngữ
Đặc điểm ngữ âm Đặc điểm từ vựng Đặc điểm ngữ Đặc điểm tu từ
pháp

- Phong cách sinh hoạt là - Từ ngữ mang tính - Ngữ pháp thường - Thường dùng
phong cách giàu ngữ điệu, cụ thể, giàu hình lệch chuẩn, chủ yếu các biện pháp tu
thể hiện ở cách nhấn nhá ảnh và có sắc thái dùng khung ngữ từ thông dụng
thông tin, lên giọng, xuống biểu cảm rõ rệt. pháp chức năng. như so sánh, nói
giọng; hoặc kết hợp các từ - Từ ngữ ít trang - Dùng nhiều loại quá, nói giảm nói
ngữ có đặc trưng ngữ âm trọng, chủ yếu câu tỉnh lược, câu tránh, nghịch
độc đáo. thường được dùng đặc biệt, câu ngắn; ngữ,...
trong các tình các loại câu theo

Trang 37
38 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

- Cách phát âm các từ huống mang tính mục đích phát ngôn
cũng phụ thuộc nhiều vào bình dân. như câu cầu khiến,
yếu tố vùng miền. Thông - Sử dụng nhiều từ cảm thán, nghi vấn.
thường, cách phát âm từ ngữ địa phương,
vựng trong ngôn ngữ sinh vùng miền; thành
hoạt khi nói thường lệch ngữ, tục ngữ, quán
chuẩn để thuận tiện trong ngữ, đặc biệt là hệ
việc giao tiếp. thống tình thái từ
đặc sắc.
- Các lỗi về dùng từ
cũng thường xuyên
bắt gặp trong phong
cách sinh hoạt (chủ
yếu là lỗi lặp từ)
- Các văn bản, ngữ cảnh thường sử dụng phong cách sinh hoạt: lời nói thường ngày, văn bản
giao tiếp qua thư từ, tin nhắn, nhật ký,...
Ví dụ:
Chị Chiến lại nói, giọng còn rành rọt hơn cả hồi nãy :
- Bây giờ chị Hai ở xa. Chị em mình đi thì thằng Út sang ở với chú Năm, chú
nuôi. Còn cái nhà này ba má làm ra đó thì cho các anh ở xã mượn mở trường học. Chú Năm
nói có con nít học ê a có gì nó quét dọn cho. Thằng Út cũng học ở đây. Mầy chịu không ?
Việt chụp một con đom đóm úp trong lòng tay :
– Sao không chịu ?
– Giường ván cũng cho xã mượn làm ghế học, nghen?
– Hồi đó má dặn chị làm sao, giờ chị cứ làm y vậy, tôi chịu hết.
– Má dặn tao hồi nào ? Giờ còn có tao với mầy thôi. Nếu đồng ý thì nồi, lu, chén, đĩa, cuốc,
vá, đèn soi với nơm để gởi chú Năm. Chừng nào chị Hai ở dưới biển về làm giỏ má, chị có
muốn lấy gì thì chị chở về dưới, nghen ?
– Tôi nói chị tính sao cứ tính mà…
Chị Chiến cựa mình, làm như chị nghĩ ngợi lung lắm. Phải chị thở dài rồi kêu thằng Út dậy đi
đái nữa thì giống hệt như má vậy. Chị lại nói, lần này không gọi Việt bằng mầy, mà bằng em
và xưng chị :
– Còn năm công ruộng hồi trước mấy chú cấp cho ba má, giờ mình đi mình trao lại chi bộ
đặng chia cho có bác khác mần, nghen ? Hai công mía thì chừng nào tới mùa, nhờ chú Năm
đến, để dành đó làm đám giỗ ba má. Em cũng ừ nghen ?
(Trích “Những đứa con trong gia đình”, Nguyễn Thi)
2.2, Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
2.2.1, Khái niệm
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật là phong cách thường được sử dụng phổ biến trong
các văn bản văn học như truyện, ký, thơ ca, tiểu thuyết,... Phong cách nghệ thuật biểu hiện qua
việc sử dụng ngôn ngữ một cách độc đáo, sáng tạo; coi ngôn ngữ như phương tiện để xây dựng
hình tượng nghệ thuật, thể hiện giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung cho tác phẩm. Phong cách
nghệ thuật mang chức năng thẩm mĩ, ngoài ra còn có chức năng dự báo, tác động,...
2.2.2, Đặc trưng
Tính cấu Thể hiện ở việc ngôn ngữ trong văn bản nghệ thuật có sự kết nối, tác động qua
trúc lại lẫn nhau. Nên để hiểu tác phẩm nghệ thuật, ta phải lĩnh hội một bức tranh
toàn cảnh của nó, để từ đó, thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa các thành phần
trong kết cấu văn bản.

Trang 38
39 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Tính cá Tính cá thể ở đây được thể hiện qua việc mỗi tác giả sẽ có một góc nhìn riêng,
thể hoá tư tưởng, tình cảm riêng tư; cũng như một cách diễn đạt độc đáo riêng, không
trộn lẫn với bất kì ai.

Tính Tính hình tượng thể hiện ở việc ngôn ngữ của văn bản nghệ thuật giàu tính tạo
hình hình, nhằm mục đích giúp cho người đọc có thể hình dung rõ nét sự vật, hiện
tượng tượng đang được nhắc đến.

2.2.3, Đặc điểm ngôn ngữ

Đặc điểm ngữ âm Đặc điểm từ Đặc điểm ngữ pháp Đặc điểm tu từ
vựng

Chủ yếu được thể Từ vựng được Hệ thống ngữ pháp không Sử dụng nhiều biện
hiện qua các vận dùng có tính sáng chỉ được sử dụng một pháp nghệ thuật độc
dụng hình thức ngữ tạo cao, thường cách bài bản mà đôi khi đáo, có tính liên
âm của từ để tạo đa nghĩa, giàu còn có cả sự phá cách, tưởng cao để kích
nhịp điệu, khơi gợi tính hình tượng. sáng tạo để thể hiện cái thích tư duy của
cảm xúc. “tôi” của người viết. người đọc.
Ví dụ:
Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi nhìn
Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu đã thấy thèm chỗ thoáng.
Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi,
trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi
nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương
Châu”. Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con
sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi
rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc
dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh mà chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi lại bẳn tính và
gắt gỏng thác lũ ngay đấy.
(Trích “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân)
2.3, Phong cách ngôn ngữ chính luận
2.3.1, Khái niệm
Phong cách ngôn ngữ chính luận là phong cách thường được sử dụng trong các văn bản
có phương thức biểu đạt nghị luận; mang tính khuôn mẫu, thường đề cập đến những vấn đề
liên đến chính trị-xã hội. Phong cách chính luận thực hiện chức năng thông báo và tác động
(tác động vào tư tưởng-tình cảm của người đọc, người nghe).
2.3.2, Đặc trưng
Tính chặt Thể hiện ở chỗ văn bản chính luận phải lập luận một cách thuyết phục, logic,
chẽ có căn cứ xác đáng, dựa trên những bằng chứng khoa học,

Tính đại Các văn bản chính luận thường hướng đến đối tượng đại chúng, nên ngôn ngữ
chúng được sử dụng cũng mang tính đại chúng.

Tính Không chỉ truyền tải thông tin một cách thông thường, văn bản chính luận còn
truyền có tính diễn cảm hùng hồn, sinh động, đanh thép, có sức hấp dẫn để tác động
cảm và thuyết phục người đọc, người nghe.
2.3.3, Đặc điểm ngôn ngữ

Trang 39
40 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Đặc điểm Đặc điểm từ vựng Đặc điểm ngữ pháp Đặc điểm tu từ
ngữ âm

Giàu tính - Từ vựng được sử - Sử dụng các câu phức, câu - Sử dụng nhiều
nhịp điệu, dụng một cách chọn ghép có kết cấu khá phức tạp, kết cấu trùng điệp,
hùng hồn, lọc, xác đáng, phù có nhiều thành phần để truyền nhiều phép so
đanh thép. hợp với đại chúng đạt thông tin một cách thuyết sánh, tiệm tiến, liệt
phục, xác đáng. kê,...
Ví dụ:
Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực
dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc.
Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng
súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra
sức chống thực dân Pháp cứu nước.
(Hồ Chí Minh)
2.4, Phong cách ngôn ngữ báo chí
2.4.1, Khái niệm
Phong cách báo chí (hay còn gọi là phong cách báo) thường được sử dụng trong các
văn bản mang tính thời sự ở lĩnh vực báo chí. Phong cách báo là phong cách ngôn ngữ chủ đạo
trong các văn bản như bản tin, phỏng vấn, thông báo, quảng cáo,... Phong cách báo có chức
năng thông tin, hướng dẫn và điều hướng dư luận về những sự kiện mang tính thời sự thuộc
nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội.
2.4.2, Đặc trưng
Tính thời sự Thể hiện những thông tin quan trọng, nóng hổi, cấp thiết về các vấn đề
trong xã hội

Tính hấp dẫn Thể hiện ở việc văn bản báo chí có khả năng khơi gợi hứng thú, kích thích
tò mò bằng các truyền tải nội dung một cách sống động, phong phú, nổi
bật.

Tính chân Thể hiện ở việc những thông tin thời sự đó được truyền tải đúng với bản
thực chất khách quan.

Tính ngắn Thể hiện ở khả năng truyền tải một lượng thông tin lớn bằng hình thức
gọn, súc tích ngắn gọn, tiết kiệm nhất.
2.4.3, Đặc điểm ngôn ngữ
- Vì đối tượng của văn bản báo chí là đại chúng nên việc sử dụng từ ngữ phải đảm bảo khuôn
mẫu, chuẩn mực. Đối với văn bản viết, cần hạn chế tối đa các lỗi chính tả, dùng từ để tránh gây
hiểu lầm. Ngoài ra, phong cách báo chú trọng sử dụng từ ngữ phổ thông, ít đưa vào yếu tố vùng
miền (trừ khi đối tượng nó hướng tới chỉ gói gọn trong một khu vực nhất định). Không chỉ có
vậy, kiểu cỡ, cỡ chữ, màu chữ, khoảng cách các dòng,... cũng được quy định một cách nghiêm
ngặt.

Trang 40
41 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

- Phong cách báo chí sử dụng đa dạng từ ngữ, phù hợp với mục đích của người nói, người viết
trong việc truyền đạt thông tin. Ngôn ngữ báo chí không đơn điệu mà mang sắc thái biểu cảm
cao (nhất là ở các bài báo mang tính phê phán). Cũng có trường hợp phong cách báo chí sử
dụng nhiều từ mang sắc thái trang trọng.
- Về ngữ pháp, phong cách báo chí thường dùng nhiều câu khuyết chủ ngữ, câu đặc biệt, câu
tỉnh lược, câu hỏi tu từ, câu tách biệt,... với mục đích nhấn mạnh nội dung.
Ví dụ:
KINH TẾ VĨ MÔ VIỆT NAM NĂM 2023- MỘT NĂM VƯỢT KHÓ – THÁCH THỨC
VẪN CÒN
Từ cuối năm 2022, khi tăng trưởng Quý III/2022 của Việt Nam đang ở mức trên 8%
(cao nhất từ trước tới nay), một số báo cáo chuyên sâu về kinh tế vĩ mô đã có những cảnh báo
thận trọng về diễn biến khó lường trong năm 2023.
Quả thật, một số điểm yếu căn bản trong nền kinh tế, như giải ngân đầu tư công, nguồn
cung năng lượng, khả năng nội địa hóa hàng xuất khẩu v.v.. và những “cơn gió ngược” về
xung đột chính trị, lạm phát và lãi suất tăng cao, tâm lý tiêu dùng bất ổn định, v.v… đã khiến
kinh tế Việt Nam giảm đà tăng trưởng một cách đáng kể, có những lúc xuống mức thấp nhất
trong hơn mười năm trở lại đây.
(Trích Báo Nhân Dân, 01/01/2024)
2.5, Phong cách ngôn ngữ khoa học
2.5.1, Khái niệm
Phong cách ngôn ngữ khoa học thường được thể hiện trong các văn bản nghiên cứu
hoặc các văn bản mang tính khoa học như sách giáo khoa, giáo trình, luận văn, luận án,... Phong
cách khoa học có chức năng thông báo những tri thức về khoa học về những lịch vực trong đời
sống của con người.
2.5.2, Đặc trưng
Tính trừu Phong cách khoa học thường trừu tượng, mang tính khái quát vì nó thường
tượng, khái xuyên phản ánh những quy luật mang tính chất chung, không dừng lại ở
quát những sự vật, hiện tượng mang tính riêng lẻ, cá biệt… Vỉ vậy, phong cách
khoa học thường chứa đựng những công cụ tư duy và diễn đạt về những vấn
đề trừu tượng.

Tính logic Phong cách khoa học phải logic, phải thuyết phục, phải biểu đạt vấn đề một
nghiêm cách hợp lý. Ngoài ra, phong cách khoa học quy định rất chặt chẽ về trình tự
ngặt lập luận, ít có sự phá cách về kết cấu đến từ người viết.

Tính chính Thể hiện ở việc phong cách khoa học phản ánh sự vật, hiện tượng một cách
xác- khách chính xác, hợp lý, chân thực; và quan trọng là đòi hỏi tính khách quan của
quan vấn đề, không được đưa quá nhiều quan điểm nặng tính cá nhân vào.
2.5.3, Đặc điểm ngôn ngữ
Đặc điểm ngữ âm Đặc điểm từ Đặc điểm ngữ pháp Đặc điểm tu từ
vựng

- Yếu tố biểu cảm - Từ vựng - Ngữ pháp về câu được đảm - Phong cách khoa
thường khá hạn chế để phải được sử bảo tuyệt đối, thường xuất học sử dụng khá
giúp vấn đề trở nên dụng một hiện các loại câu phức tạp với hạn chế biện pháp
khách quan hơn. cách chính nhiều thành phần. tu từ để đảm bảo
- Do thường xuyên xác, không - Các câu, đoạn được liên kết tính chính xác của
vay mượn hoặc sử được quá đa một cách chặt chẽ, logic với diễn đạt. Chủ yếu
dụng thuật ngữ của nghĩa. nhau. là biện pháp so

Trang 41
42 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

ngôn ngữ từ nước - Lớp từ - Để đảm bảo tính khách sánh, liệt kê, điệp
ngoài nên hệ thống vựng học quan, đôi khi, người viết sẽ ngữ,...
ngữ âm trong phong thuật chiếm dùng các câu khuyết chủ ngữ,
cách khoa học thường tỉ lệ lớn đại từ bất định, đại từ phiếm
xuất hiện một vài âm trong phong chỉ.
không có trong tiếng cách khoa - Ngôi xưng: phong cách
Việt. học. khoa học thường hạn chế về
- Các từ ngữ ngôi xưng, thường thấy là
mang sắc ngôi thứ nhất số ít (người
thái biểu cảm viết, tác giả bài nghiên cứu)
không được và ngôi thứ nhất số nhiều (ta,
sử dụng chúng ta). Ngoài ra, ngôi thứ
trong văn ba và không ngôi xưng cũng
bản khoa khá phổ biến trong phong
học. cách khoa học.

Ví dụ:
Ly hôn, trong ngôn ngữ Việt Nam hiện tại chỉ đến người chồng và người vợ đã hết hiệu
lực về hôn nhân trên pháp lý và tiến hành chia tài sản. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ Anh, tuy
cùng được dịch thành ly hôn hay hủy hôn, nhưng ["Annulment"] rất khác so với ["Divorce"].
Theo "Annulment", thì hôn nhân giữa hai người đã bị xem là không tồn tại, những người con
của hai người có thể sẽ bị xem là con ngoại hôn, còn "Divorce" lại xem cả hai đã từng kết hôn
và chỉ thực hiện việc phân ly tài sản cùng nghĩa vụ chăm sóc con cái, những người con từ
"Divorce" vẫn được xem là con hợp pháp của một hay cả hai người. Và trong trường hợp của
Henry VIII, nhà vua muốn "Annulment" cuộc hôn nhân với Catalina xứ Aragón, khiến cho con
của hai người, Mary, sẽ thành con ngoại hôn (nói thô tục là con hoang) nếu thực sự được chấp
nhận.
(Theo wikipedia)

2.6, Phong cách hành chính - công vụ


2.6.1, Khái niệm
Phong cách hành chính - công vụ là phong cách được sử dụng phổ biến trong các văn
bản hành chính - công vụ như: hiến pháp, luật, thông tư, nghị định, hiệp định, văn bằng,...Phong
cách hành chính - công vụ có chức năng thông báo (chứng từ,giấy khen, văn bằng,... ) và điều
khiển (mệnh lệnh, nghị quyết, hiệp định,...)
2.6.2, Đặc trưng
Tính chính Thể hiện ở chỗ các văn bản hành chính phải sử dụng từ ngữ, các lập luận,
xác, minh diễn đạt rõ ràng, chính xác, không bóng gió, không đa nghĩa.
bạch

Tính khuôn Các văn bản hành chính phải viết theo khuôn mẫu theo quy định, bao gồm
mẫu cách trình bày, kiểu chữ, màu và kích thước chữ, thông tin cần nêu ra, cách
ghi chú, cách ký tên,...

Tính nghiêm Vì văn bản hành chính - công vụ được tạo ra với mục đích hành chính nên
túc, khách phong cách HCCV phải đảm bảo tính chất xác nhận, khẳng định, tính chỉ
quan thị, mệnh lệnh. Mọi tính chất cá nhân đều không xuất hiện trong phong
cách ngôn ngữ này.
2.6.3, Đặc điểm ngôn ngữ

Trang 42
43 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

- Từ ngữ: Được sử dụng có chọn lọc, chính xác, đơn nghĩa; đặc biệt là mang sắc thái trung tính
hoặc trang trọng, không hoặc hạn chế dùng những từ ngữ có nét nghĩa biểu thái. Trong văn bản
HCCV, một vài từ ngữ Hán Việt xuất hiện nhiều như “quyết định”, “nghị quyết”, “pháp lệnh”,
“ban hành”....
- Ngữ pháp: Câu văn trong văn bản HCCV đòi hỏi sự chính xác cao về mặt ngữ pháp, thường
là câu trần thuật, câu ghép, câu phức ghép với nhiều vế câu. Câu văn thường không mang tính
biểu cảm mà khô khan, cứng nhắc, mang tính giáo điều. Hình thức của văn bản cần được thống
nhất, quy định rõ ràng theo những khuôn mẫu nhất định.

(Một số quy định về cách ghi số và ghi ký hiệu đúng chuẩn trong văn bản hành chính.
Nguồn: LuatVietNam)

* LUYỆN TẬP
Câu 1: Phong cách ngôn ngữ chính của tác phẩm “Truyện Kiều” của nhà thơ Nguyễn Du là
gì? Căn cứ vào đâu mà em có thể xác định như thế?
Câu 2: Bằng kiến thức đã được học ở phần này và phần I chương 1, em hãy sửa lỗi dùng từ
trong đoạn văn sau, sao cho phù hợp với phong cách ngôn ngữ mà đoạn văn đang thể hiện.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - tự do - hạnh phúc

ĐƠN XIN NGHỈ TIẾT


Gửi đến: Ban giám hiệu trường THPT A
Em tên là Trần Văn B, học sinh lớp 12A5 của cô giáo Ngân xì tin.
Em làm cái đơn này vì muốn xin ban giám hiệu cho phép em được nghỉ tiết môn Sử vào
tiết cuối của ngày mai.
Lý do: Do em và bạn em có hẹn đi nhổ răng ở bệnh viện nha khoa thành phố vào khung giờ
đó.
Em rất mong ban giám hiệu sẽ chiếu cố cho em để em được nghỉ ạ.
Em xin cảm ơn

Trang 43
44 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Người làm đơn ký tên


Trần Văn B

Câu 3: Xác định những phong cách ngôn ngữ có thể có của đoạn văn sau:
"Tôi thường đón gió chướng về với một tâm trạng lộn xộn, ngổn ngang. Mừng đó rồi
bực đó. Sao tôi lại chờ đợi nó, chẳng phải năm nào cũng vậy, lúc cầm cây chổi ra quét sân,
đứng trong gió đầm đìa tôi cũng buồn, buồn muốn chết. Trời ơi, gió này là sắp hết năm đây,
sắp già thêm một tuổi đây, mình đã kịp sống gì đâu, tay mình vẫn trắng như vầy... Mỗi lần gió
về lại cảm giác mình mất một cái gì đó không rõ ràng, không giải thích được, như ai đó đuổi
theo đằng sau, tôi gấp rãi ăn, gấp rãi nói, gấp rãi cười, gấp rãi khi ngày bắt đầu rụng xuống…
Nhưng tôi vẫn mong gió chướng về. Sự chờ đợi đã thành thói quen của thời thơ dại.
Khi gió bắt đầu hiu hiu se lạnh, đám con nít nhảy cà tưng, háo hức vỗ tay cười, vậy là gần
được sắm quần áo, dép mới rồi (nhà nghèo, cả năm chỉ được dịp này chứ mấy). Gió chướng
(và gió bấc) với tôi là gió Tết, dù từ khi bắt đầu mùa gió đến Tết, mất gần ba tháng ròng. Má
tôi cũng coi nó là gió Tết, nghe gió, má thuận miệng hát "Cấy rồi mùa qua sông cấy mướn.
Ông trời ổng thổi ngọn chướng buồn cha chả là buồn..." rồi thở dài cái thượt "Ứ hự, lụi hụi
mà hết năm...". Dường như tâm trạng má khác tôi, những sợi gió cứ như xốn xang vào nỗi
nghèo túng, sợ không lo nỗi một cái Tết tử tế cho cả nhà."
(Trích “Trở Gió”, Nguyễn Ngọc Tư)

III. LIÊN KẾT CÂU, LIÊN KẾT ĐOẠN


3.1, Vai trò của liên kết trong việc viết câu và viết đoạn.
Khi nói và viết, người ta thường khó có thể truyền tải một đại ý chỉ thông qua một hoặc
hai thông tin, mà cần phải tổng hợp, xâu chuỗi nhiều thông tin, nhiều thao tác mới có thể truyền
tải thông điệp một cách trọn vẹn, hoàn chỉnh đến người nghe, người đọc. Sự liên kết sẽ giúp
các thông tin đó được tổng hợp một cách logic, có tổ chức, giúp người đọc hiểu một cách trọn
vẹn, sâu sắc.
• Tính logic trong diễn đạt: Là sự hợp lý trong cách người viết sắp xếp các ý tưởng cần
truyền đạt, cũng như cách họ lựa chọn phương thức để liên kết giữa các ý tưởng đó.
Ví dụ, một học sinh viết như sau: Tuy bạn của em học giỏi nhưng bạn ấy còn vẽ đẹp. Ở câu
văn trên, ta có thể thấy quan hệ từ “tuy…nhưng…” chưa ổn, vì hai việc “học giỏi” và “vẽ đẹp”
trên thực tế không mâu thuẫn nhau, không phải là một ưu điểm, một hạn chế mà cả hai đều là
ưu điểm. Do vậy, bạn học sinh cần sửa lại thành: Bạn của em không chỉ học giỏi mà còn vẽ đẹp
Ở ví dụ tiếp theo, ta sẽ thấy rõ nét tầm quan trọng của liên kết câu. Trong bài làm của một bạn
học sinh lớp 11, có đoạn như sau: Câu văn thứ nhất đã thể hiện rõ nét sự tài hoa của tác giả.
Bài thơ đã mang lại trong tôi nhiều cảm xúc thật độc đáo. Có thể nhận ra, cả hai câu của bạn
học sinh này hoàn toàn rời rạc, không có sự liên kết với nhau, làm cho hệ thống lập luận trở
nên lỏng lẻo, thiếu thuyết phục.
• Ngữ pháp siêu câu (Discourse level): Ngữ pháp siêu câu là một khái niệm chỉ cấp độ
cao nhất của ngữ pháp, vượt qua ngoài phạm vi câu. Ngữ pháp siêu câu chú trọng vào

Trang 44
45 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

phản ánh sự liên kết giữa các ý tưởng trong ngữ cảnh, góp phần giúp cho lời nói hoặc
văn bản có sự rõ ràng, hợp lý, thuyết phục.
3.2, Các phép liên kết câu, đoạn thông dụng.
a. Phương thức lặp.
Phương thức lặp là lặp lại một số yếu tố ngôn ngữ giữa các câu để thể hiện sự liên kết.
Ta thường xuyên gặp những biểu hiện sau đây có phương thức lặp:
• Lặp ngữ âm: Là hình thức lặp lại ngữ âm của từ giữa các câu để thể hiện sự liên kết.
Ví dụ:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
(Hồ Xuân Hương – Bánh trôi nước)
• Lặp từ vựng: Là hình thức lặp lại từ vựng giữa các câu để thể hiện sự liên kết
Ví dụ: Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc,
xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân
cày và dân buôn, trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng
bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn. (Hồ Chí Minh)
• Lặp cấu trúc ngữ pháp: Là hình thức lặp lại khung cú pháp giữa các câu để thể hiện sự
liên kết.
Ví dụ: Bạn Lan thì học giỏi. Bạn Uyên thì hát rất hay.
b. Phương thức nối.
Là phương thức dùng các từ ngữ thực hiện chức năng nối giữa các câu để liên kết. Chủ
yếu là sử dụng các chuyển tiếp ngữ.
Ví dụ:
• Tôi mắc bệnh hôm qua. Vì thế, hôm nay tôi không đến trường.
• Đầu tiên, xả rác làm huỷ hoại mỹ quan đô thị. Tiếp đến, việc xả rác còn ảnh hưởng
đến môi trường sống và sức khoẻ của con người.
c. Phương thức thế.
Là phương thức dùng từ, ngữ ở câu này thay thế cho từ, ngữ ở câu khác để thể hiện sự
liên kết. Có 02 dạng thế thường thấy:
• Thay bằng đại từ: Là dùng đại từ để thay thế cho sự vật, hiện tượng được nhắc tới ở câu
trước. Ví dụ: Nguyễn Tuân là một nhà văn tài ba của nền văn học Việt Nam. Ông đi
nhiều để có thêm cho mình nguồn cảm hứng bất tận cho công việc sáng tác.
• Thay bằng đồng nghĩa, trái nghĩa: Là dùng những cặp từ, ngữ đồng nghĩa hoặc trái
nghĩa để thay thế cho sự vật, hiện tượng, hành động, tính chất ở câu trước. Ví dụ: Thực
dân Pháp đổ máu cũng nhiều. Dân ta hi sinh cũng không ít.
d. Phương thức liên tưởng.
Là phương thức sử dụng các từ ngữ nằm trong các quan hệ liên tưởng với nhau để tạo
sự liên kết.
Ví dụ: Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. (Kim Lân)
Ở ví dụ trên, ta thấy động từ “nhìn” ở câu thứ nhất và danh từ “hai con mắt” ở câu thứ hai có
cùng một trường liên tưởng với nhau.
Ví dụ 2: Chim chóc cũng đua nhau đến bên hồ làm tổ. Những con sít lông tím, mỏ hồng kêu
vang như tiếng kèn đồng. Những con bói cá mỏ dài lông sặc sỡ. Những con cuốc đen trùi trũi
len lủi giữa các bụi ven bờ.
e. Phương thức đối.
Là phương thức dùng các từ hoặc cụm từ có ý nghĩa đối lập hoặc hô ứng nhau giữa các
câu để thể hiện sự liên kết.
Ví dụ:

Trang 45
46 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

• Biết rất rõ về tôi, địch quyết bắt tôi khuất phục. Nhưng tôi quyết giữ vững lập trường
chiến đấu của mình. (Nguyễn Ðức Thuận)
• Nhà thơ gói tâm tình của mình trong thơ. Người đọc mở ra bỗng thấy tâm tình của
chính mình. (Lưu Quý Kỳ)
6. Phương thức tỉnh lược.
Là phương thức sử dụng việc loại bỏ một thành phần nào đó ở câu trước để tránh lặp
từ và thể hiện sự liên kết trong mạch nội dung của các câu:
Ví dụ:
• “Cô ấy mang trong mình nét đẹp của một người con gái tân thời. Cả vẻ dịu dàng, nữ
tính của người con gái xứ Gò Công.”
• “Ăn cơm chưa? - Rồi! “Tắm rửa chưa?” - Cũng rồi !
7. Phương thức tuyến tính.
Là phương thức dùng trật tự sắp xếp các câu để thể hiện sự liên kết.
Ví dụ:
• Phát súng nổ. Em bé từ lưng trâu ngã xuống.
• Tôi mời các học sinh vào học. Các em giở sách ra và bắt đầu đọc bài.
Ở hai ví dụ trên, hai câu văn được sắp xếp theo trình tự tuyến tính, cái nào diễn ra trước thì
đứng trước, cái nào diễn ra sau thì đứng sau. Ta không thể đảo vị trí các câu khi diễn đạt.

*LUYỆN TẬP
Bài 1: Sắp xếp các câu sau theo thứ tự hợp lý nhất.
1. Chỉ khi lắng nghe đủ sâu, đủ nhiều, đủ chân thành; ta mới có thể yêu thương, lan tỏa những
nguồn năng lượng tích cực đến người khác.
2. Đầu tiên, lắng nghe trở thành một phương tiện giúp chúng ta phát triển những mối quan hệ
xung quanh.
3. Lắng nghe có những vai trò đặc biệt quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta.
4. Việc lắng nghe còn giúp chúng ta dễ dàng đồng cảm, thấu hiểu người khác; từ đó có những
điều chỉnh phù hợp trong lời nói và hành động.
Bài 2: Xác định phép liên kết được sử dụng trong các trường hợp sau:
1. Đọc sách không cốt lấy nhiều, quan trọng nhất là phải chọn cho tinh, đọc cho kĩ. Nếu đọc
được 10 quyển sách không quan trọng, không bằng đem thời gian, sức lực đọc 10 quyển ấy mà
đọc một quyển thật sự có giá trị.
2. Tôi phải cố gắng, anh phải cố gắng. Nếu không cố là chết.
3. Một số phường săn đến thăm dò để giăng bẫy bắt con cọp xám. Nhưng con ác thú tinh lắm.
4. Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về cái dáng cây kì lạ này. Thân nó khẳng khiu,
cao vút, cành ngưng thẳng đuột, thiếu cái dáng cong, đứng nghiêng, chiều quằn, chiều lượn
của cây xoài, cây nhãn.
5.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Trích “Truyện Kiều”, Nguyễn Du)

Trang 46
47 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

IV. NGỮ CẢNH


4.1, Khái niệm
Khi phân tích về ngôn ngữ, bên cạnh hệ thống ngữ pháp có tính quy luật, ta cũng cần
quan tâm đến chức năng của nó ở trong giao tiếp hoặc trong việc truyền đạt thông tin bằng các
phương tiện khác nhau. Trên thực tế, một câu văn, một cấu trúc ngữ pháp nhưng khi đặt vào
những tình huống khác nhau, nó lại có chức năng khác nhau. Hãy xét các ví dụ có chứa câu
“Giờ sao?”
1. Tình huống 1:
- “Chúng ta bỏ quên chìa khoá ở nhà rồi”
- “Giờ sao?”
- “May quá, tớ có đem một cái dự phòng ở trong túi”.
2. Tình huống 2:
- “ Giờ sao? Con có chịu làm bài tập chưa? Con đã chơi điện tử suốt một tiếng rồi.”
- “Dạ vâng con sẽ tắt và đi làm ngay đây.”
Khi đặt vào hai tình huống khác nhau, câu hỏi “Giờ sao?” lại mang một chức năng, một
thái độ khác. Ở tình huống 1, câu hỏi “Giờ sao?” thể hiện sự lúng túng, không biết phải làm
như thế nào để cứu vãn tình hình. Còn ở tình huống 2, câu hỏi trên lại giống như một lời đe
doạ, yêu cầu người con phải dừng ngay hoạt động chơi điện tử để làm bài. Sự khác biệt ấy
chính nằm ở chỗ một cấu trúc ngôn ngữ nhưng được đặt trong hai ngữ cảnh khác nhau.
Ngữ cảnh là bối cảnh ngôn ngữ giúp cho người đọc, người nghe lĩnh hội được thấu đáo
thông tin mà người nói, người viết truyền đại.
Ngữ cảnh bao gồm các nhân tố như nhân vật giao tiếp, bối cảnh ngoài lời nói và văn
cảnh.
4.2, Vai trò của ngữ cảnh
Đối với người truyền đạt thông tin, ngữ cảnh chính là yếu tố quan trọng để họ có thể
sản sinh ra lời nói, câu văn. Ngữ cảnh sẽ ảnh hưởng, chi phối đến nội dung tinh thần mà họ
muốn gửi gắm đến người nghe, người đọc. Nếu ngữ cảnh rõ ràng, người đọc sẽ dễ dàng tiếp
thu những tri thức mà người truyền đạt muốn cung cấp. Đứng ngoài ngữ cảnh, mọi tâm tư, tình
cảm của người nói, người viết sẽ không rất khó để nắm bắt.
Đối với người lĩnh hội thông tin, ngữ cánh chính là cơ sở để họ có thể tiếp nhận lời nói,
câu văn của người truyền đạt. Nhờ có văn cảnh, họ không chỉ nhận được lượng kiến thức được
cung cấp mà còn hiểu rõ hơn về tư tưởng, tình cảm của người phát ngôn (hoặc người cầm bút).
Khi tiếp nhận một văn bản văn học, người đọc không chỉ cần phải tìm hiểu ngữ cảnh
được thể hiện trong tác phẩm, mà còn tìm hiểu về những văn cảnh rộng hơn, bao quanh tác
phẩm như văn cảnh văn hoá, văn cảnh lịch sử, văn cảnh thời đại,...

Trang 47
48 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

V. SỬA LỖI LOGIC, MƠ HỒ VỀ CÂU, ĐOẠN


Lỗi logic là hiện tượng câu, đoạn chứa những thông tin mâu thuẫn, thiếu nhất quán,
chưa thuyết phục, thiếu tính hợp lý, trái với những nhận thức thông thường. Khá nhiều nguyên
nhân gây ra lỗi logic, chủ yếu là do người viết diễn đạt những điều còn mâu thuẫn, dùng từ
chưa chuẩn xác, tạo ra các kết hợp chưa phù hợp.
Ví dụ: Trong một màn đêm tối đen như mực, tôi bỗng thấy một cái ghế ở bên đường.
Có thể thấy câu văn trên không hề hợp lý về mặt logic vì “màn đêm tối đen như mực” thì không
thể “thấy một cái ghế ở bên đường”.
Lỗi mơ hồ là hiện tượng câu mắc lỗi dùng từ, lỗi cấu trúc dẫn đến việc câu bị tối nghĩa.
Ví dụ: Chị Liên là người Gò Công - cô gái làm nghề chài lưới.
Ở câu trên, do người viết đặt sai vị trí phụ chú ngữ nên câu bị tối nghĩa, gây nhầm lẫn cho
người đọc.
Một số lỗi logic, mơ hồ về câu, đoạn phổ biến.
A. SỬA LỖI LOGIC CÂU
5.1, Mắc lỗi logic do dùng từ chưa đúng yêu cầu
Ở phần I chương 1, chúng ta đã tìm hiểu về một số lỗi dùng từ phổ biến, và các lỗi dùng
từ đó đôi khi cũng làm cho câu bị sai logic.
Ví dụ: Đây là phương án hơi tối ưu mà chúng ta có thể sử dụng
Cụm từ “hơi tối ưu” là một kết hợp từ chưa hợp lý, vì “tối ưu” có nghĩa là tốt nhất, hợp lý nhất;
nên không thể đi kèm với phần phụ trước “hơi”.
Ví dụ 2: Trong thanh niên nói chung và trong bóng đá nói riêng, niềm say mê là nhân tố quan
trọng dẫn đến thành công.
Ở ví dụ trên, người viết đã dùng kết hợp từ sai trong ngữ cảnh. “Thanh niên” và “bóng đá”
không phải là danh từ cùng trường liên tưởng, nên không thể kết hợp với “nói chung” và “nói
riêng”.
5.2, Mắc lỗi logic, mơ hồ do sai cấu trúc câu
Ở phần III chương 1, chúng ta cũng đã biết về một số lỗi câu về cú pháp phổ biến, và
các lỗi đó cũng khiến cho câu bị mơ hồ hoặc bị sai logic.
Ví dụ: Chúng em đã giúp các bạn học sinh ở vùng bị bão lụt quần áo, giày dép và nhiều đồ
dùng trong học tập khác.
Ở câu trên, chúng ta sẽ thấy người viết sắp xếp trật tự các thành phần câu chưa ổn, làm cho ta
nghĩ quần áo, giày dép, nhiều đồ dùng học tập của các bạn học sinh ở vùng bão ở vùng lụt.
Sửa lại: Chúng em đã quyên góp quần áo, giày dép và nhiều đồ dùng trong học tập khác cho
các bạn học sinh ở vùng bị bão lụt.
Trong một số trường hợp, nhiều người viết chưa sử dụng tốt các thành phần câu, làm
cho chúng bị chập vào nhau, khiến diễn đạt cũng trở nên gượng gạo, mơ hồ.
Ví dụ 2: Em yêu cha của em đã mua cho em món quà này
Ở ví dụ 2, danh từ “cha” vừa đóng vai trò là bổ ngữ, vừa đóng vai trò là chủ ngữ trong kết cấu
chủ vị phụ phía sau. Ta sẽ sửa bằng cách điều chỉnh thành phần câu hợp lý để tránh trường hợp
một thành phần nhận từ hai chức năng trở lên.
Sửa: Em yêu cha của em - người đã mua cho em món quà này.
5.3, Sai logic vì liên kết các thành phần câu, câu và đoạn chưa chuẩn xác.
Lỗi này chủ yếu là do người viết xác định sai ý nghĩa liên hệ giữa các mệnh đề, câu và
đoạn; dẫn tới dùng quan hệ từ hoặc chuyển tiếp ngữ chưa phù hợp.
Ví dụ:
• Vì tôi đã lớn nên tôi vẫn thích xem phim hoạt hình.

Trang 48
49 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

• Nhà văn Nguyễn Minh Châu nổi tiếng với những sáng tác về đời sống của con người
thời hậu chiến. Tuy nhiên, ông cũng là một nhà văn của những triết lý, của những quan
niệm đạo đức mới mẻ.
Ở ví dụ thứ nhất, vế “tôi đã lớn” và “thích xem phim hoạt hình” không thật sự có mối quan hệ
nhân quả, nên dùng cặp quan hệ từ “Vì…nên…” chưa hợp lý. Ta có thể sửa thành cặp quan hệ
từ “Tuy…nhưng…”. Tiếp đến ở ví dụ thứ hai, chuyển tiếp ngữ “Tuy nhiên” cũng chưa phù
hợp vì câu sau không hẳn là đối lập với câu trước về ý nghĩa. Nếu ta thay bằng chuyển tiếp ngữ
“Thêm vào đó” hoặc “Ngoài ra” thì sẽ ổn hơn.
5.4, Câu bị tối nghĩa do dùng chưa đúng dấu câu
Trong một vài trường hợp, việc không dùng dấu câu hoặc dùng sai dấu câu cũng sẽ gây
ra sự hiểu nhầm.
Ví dụ: Cậu sinh viên mới đến tìm ba.
Nếu không có dấu câu, ta có thể hiểu câu văn trên theo rất nhiều cách
- Cậu sinh viên vừa mới đến để tìm ba
- Cậu sinh viên mới nhập học đó đến tìm ba
- Cậu sinh viên đó vừa mới đến và muốn tìm ba.
Khi đặt thêm dấu câu vào, người ta hạn chế tối đa sự đa nghĩa của câu và làm cho diễn đạt dễ
hiểu hơn.
- Cậu sinh viên, mới đến tìm ba
- Cậu sinh viên mới, đến tìm ba
- Cậu sinh viên mới đến, tìm ba
Ví dụ 2: Nhà có hai con vợ chồng hạnh phúc.
Nếu không đặt đúng dấu câu ở ví dụ trên, chắc chắn sẽ gây ra hiểu lầm vô cùng lớn. Sửa: Nhà
có hai con, vợ chồng hạnh phúc.
Ví dụ 3: Cô giáo Nga - bằng kinh nghiệm và tài năng - đã giúp cho nhiều học sinh thoát cảnh
mất gốc môn Toán.
Ý của người viết là cô Nga đã dùng tài năng, kinh nghiệm của mình để giúp cho nhiều học sinh
thoát cảnh mất gốc môn Toán. Nhưng ở đây, người viết lại dùng dấu gạch nối (dấu thường chỉ
dùng cho phụ chú ngữ) để ngăn cách trạng ngữ. Ở đây, ta nên sửa lại cặp dấu gạch nối thành
cặp dấu phẩy sẽ hợp lý hơn.
5.4, Sai logic do diễn đạt thiếu khách quan, nói quá
Lỗi nói quá trong diễn đạt là hiện tượng người viết tuyệt đối hoá mọi sự vật, hiện tượng,
sự kiện được nhắc đến, làm cho ý của câu thiếu khách quan. Lỗi này càng nên tránh khi viết
các văn bản chính luận, khoa học, hành chính - công vụ.
Ví dụ: Khi chơi với những người giỏi, chúng ta chắc chắn sẽ tiến bộ.
Từ “chắc chắn” ở ví dụ trên là một biểu hiện của sự nói quá, vì không phải ai, trong bất cứ
trường hợp, thời điểm nào, cũng có thể tiến bộ khi chơi với những người giỏi. Vì vậy, ta nên
sửa lại để diễn đạt trở nên khách quan hơn: Khi chơi với những người giỏi, chúng ta có xu
hướng sẽ trở nên tiến bộ.
Ví dụ 2: Ai ai cũng sẽ chọn con đường đơn giản để có được hạnh phúc.
Ví dụ 2 cũng mắc lỗi tương tự khi người viết dùng từ “ai ai”, trong khi trên thực tế sẽ có người
không đúng như những gì câu văn truyền tải. Thay vào đó, nên sử dụng những từ mang tính
chất cận tuyệt đối như “phần lớn”, “đa số”,...

B. SỬA LỖI LOGIC ĐOẠN.


5.5, Đứt mạch ý
Lỗi này là hiện tượng các câu trong đoạn thiếu tính thống nhất, không liên tục mà bị
gián đoạn.
Ví dụ:

Trang 49
50 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Trong đầm sen có rất nhiều loài cá. Có con ễnh ương đêm nằm kêu o o. Có con nhái
ộp thường trốn sau những lá hoa sen. Có con chào mào chiều tà lặn lội đi kiếm ăn.
Ở đoạn văn trên, các ý thiếu sự liền mạch, thống nhất mà bị ngắt quãng. Ở câu một, người viết
trình bày rằng trong đầm sen có nhiều loài cá, nhưng sang những câu sau, người viết lại chuyển
sang nói về những loài động vật cũng sống ở trong đầm sen nhưng không phải cá.
Để sửa lỗi này, ta cần thêm một số thành phần câu hoặc một số câu văn chuyển tiếp để
các ý có sự liền mạch hơn. Ví dụ, ta có thể bổ sung câu: “Ngoài ra, ở đây cũng có rất nhiều
loài chim và lưỡng cư” vào đoạn trên để các ý không bị gián đoạn.
5.6, Lạc ý
Lạc ý là hiện tượng mà câu chủ đề của đoạn nói một đằng nhưng nội dung triển khai
lại đi theo một hướng khác.
Ví dụ:
Lắng nghe có nhiều giá trị đối với chúng ta. Chúng ta cần phải giữ cho tâm hồn được
tĩnh lặng thì mới có thể lắng và nghe một cách trọn vẹn. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải để
tâm đến lời nói của người khác để hiểu hơn về cảm xúc của họ. Không chỉ có vậy, ta cũng phải
hạ thấp cái “tôi” xuống để tiếp nhận câu chuyện của người khác một cách trọn vẹn hơn.
Câu chủ đề của đoạn văn trên hướng đến nêu giá trị của sự lắng nghe. Nhưng những câu thuyết
đoạn lại đi theo hướng nêu giải pháp.
Để sửa lỗi này, ta có thể theo hai hướng: sửa lại câu chủ đề; hoặc nếu câu chủ đề đã
được quy định từ trước thì sửa lại các câu thuyết đoạn sao cho phù hợp với nội dung của câu
chủ đề.
5.7, Thiếu ý
Thiếu ý là hiện tượng người viết chưa triển khai hết nội dung của câu chủ đề.
Ví dụ:
Tôi thích xem phim và chơi thể thao. Loại phim mà tôi thường xem đó là phim giả tưởng
và kinh dị. Bộ phim tôi đã xem đi xem lại nhiều lần đó là “Quỷ quyệt”. Tôi rất thích đi xem
phim với bạn và gia đình.
Ở đoạn trên, người viết đề cập rằng “tôi thích xem phim và chơi thể thao”. Nhưng các câu
thuyết đoạn chỉ mới triển khai nội dung “thích xem phim”, chưa đề cập đến nội dung “chơi thể
thao”.
Để sửa lỗi này, ta cần viết thêm các câu để triển khai thêm ý bị thiếu hụt.
5.8, Loãng ý
Loãng ý là hiện tượng mà các câu triển khai đề cập đến nội dung xa rời câu chủ đề.
Ví dụ:
Để có được hạnh phúc, ta cần có những giải pháp cụ thể. Ta cần phải luôn không
ngừng nỗ lực để hoàn thiện bản thân. Hạnh phúc sẽ đem đến cho ta rất nhiều thoả mãn, nhiều
dư vị trong cuộc sống. Thêm vào đó, chúng ta đừng nên kì vọng quá cao, hãy biết đủ, lúc đó ta
sẽ cảm thấy mình may mắn và hạnh phúc biết bao nhiêu. Hạnh phúc chính là điều mà biết bao
nhiêu người hằng mong ước.
Ở đoạn văn trên, câu chủ đề đang muốn hướng tới giải pháp để có được hạnh phúc; nhưng một
số câu thuyết đoạn lại chen vào nêu ý nghĩa, giải thích cho vấn đề.
Để sửa lỗi này, ta cần loại bỏ những câu làm loãng ý để tập trung vào triển khai câu chủ
đề.
5.9, Mâu thuẫn ý
Mâu thuẫn ý là việc người viết viết các câu trong đoạn có sự mâu thuẫn với nhau, trái
ngược nhau.
Ví dụ:
Đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong cảnh màn đêm buông xuống. Sóng biển cài then,
đêm sập cửa, vũ trụ đi vào yên tĩnh, vắng lặng. Bốn bề không một tiếng động. Lá cờ nhỏ sáng
bừng trên đỉnh cột buồm bay phần phật, gió ào ào dữ dội.

Trang 50
51 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Đoạn văn trên có hai chi tiết mâu thuẫn nhau. Thứ nhất là “màn đêm buông xuống” và “lá cờ
nhỏ sáng bừng”. Thứ hai là “không một tiếng động” và “bay phần phật, gió ào ào”.
Để sửa lỗi câu này, ta cần loại bỏ các ý mâu thuẫn trong đoạn văn.

*LUYỆN TẬP:
Sửa lỗi logic cho các câu sau:
1. Em rất kính yêu bố hết mực thương con và dạy dỗ con nên người.
2. Đường và muối đều là hai gia vị không thể thiếu để tạo độ ngọt cho kẹo.
3. Mặc dù tôi đi học trễ nhưng tôi vẫn phải xin lỗi thầy.
4. Trong màn đêm tối đen như mực, không thể thấy gì, bỗng loé lên những hạt vệt vàng như
bụi sao trong gian phòng.
5. Vì đã hướng dẫn kĩ càng nên học sinh vẫn không hiểu bài.
6. Chính tình yêu to lớn nói chung và biện pháp liệt kê nói riêng đã làm nên thành công cho
tác phẩm.
7. Nếu sử dụng quá nhiều thiết bị công nghệ trong thời gian dài, chúng ta chắc chắn sẽ mắc các
bệnh lý liên quan đến thần kinh.
8. Quang Dũng khác xa với tất cả các nhà thơ trên văn đàn thi ca, ông đứng riêng một ốc đảo
của riêng mình.

CHƯƠNG 4: NGÔN NGỮ HỌC XÃ HỘI

I. NGÔN NGỮ NÓI VÀ NGÔN NGỮ VIẾT


1.1, Tiếng nói và chữ viết.
Khi phân tích ngôn ngữ theo hướng lịch đại, nhiều nhà ngôn ngữ học khẳng định rằng
tiếng nói có trước chữ viết và tiếng nói có phần ổn định hơn chữ viết. Bằng chứng là người ta
có thể giao tiếp, truyền đạt thông tin mà không cần biết chữ. Một đứa trẻ có thể lĩnh hội ngôn
ngữ, có thể nói được ngôn ngữ đó mà không cần phải học hệ thống chữ viết. Khi phân tích
ngôn ngữ, các nhà ngôn ngữ cũng chú trọng hơn vào nghiên cứu tiếng nói, vì xuyên suốt quá
trình tiến hoá hoặc thoái hoá của một ngôn ngữ, tiếng nói thường ít chịu sự biến động hơn.
Tiếng Việt trải qua rất nhiều quá trình thay đổi hệ thống chữ viết, tiêu biểu nhất là ba
bộ chữ Hán, Nôm và được sử dụng rộng rãi và chính thức hiện nay là chữ quốc ngữ. Về bản
chất, chữ viết chỉ là hình thức thể hiện tiếng nói của ngôn ngữ trên một công cụ ghi chép, nếu
như chữ viết thay đổi, nó cũng sẽ không ảnh hưởng tới ngôn ngữ vốn có.
Ví dụ, khi sử dụng hệ thống chữ Nôm, chữ viết không thể hiện rõ nét cấu trúc âm thanh
của từ (xem phần I chương 1). Ngược lại với chữ quốc ngữ, hệ thống ngữ âm của từ được thể
hiện khá rõ nét, giúp cho quá trình học chữ diễn ra dễ dàng hơn; nhưng bản thân kết cấu hình
vị lại không biểu thị ý nghĩa của từ. Tuy vậy, dù có sự khác biệt về chức năng của chữ viết
(biểu ý hay biểu âm), tiếng nói Tiếng Việt vẫn khá ổn định.
1.2, Ngôn ngữ nói
Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ được biểu hiện bằng cách phát ra âm thanh của từ khi giao
tiếp. Trong bối cảnh của ngôn ngữ nói luôn tồn tại người nói và người nghe. Ngôn ngữ nói
đánh dấu quá trình tương tác giữa người với người - là hình thức tương tác phổ biến, thường
xuyên, lâu dài trong lịch sử ngôn ngữ.
Ngôn ngữ nói khác với ngôn ngữ viết ở dạng đọc thành tiếng. Nếu chỉ đọc, người nói
đang phụ thuộc vào một văn bản có sẵn (ít nhiều bị ảnh hưởng bởi đặc điểm của ngôn ngữ
viết). Còn khi nói, người nói chủ yếu dùng trải nghiệm, tri thức cá nhân để giao tiếp.

Trang 51
52 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Ngôn ngữ nói cũng có thể xuất hiện dưới hình thức chữ viết: tin nhắn, các đoạn hội
thoại trong các văn bản văn học. Tuy nhiên, một số đặc điểm của ngôn ngữ nói sẽ bị hạn chế.
* Các đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ nói:
• Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ của âm thanh. Ngôn ngữ được biểu hiện lời nói của người
với người trong cuộc sống. Ngoài yếu tố ngôn ngữ, người nói còn sử dụng các yếu tố
phi ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ hình thể, để giao tiếp.
• Ngôn ngữ nói có tính ngữ điệu. Ngữ điệu cũng là một thành tố quan trọng giúp người
nghe lĩnh hội cụ thể ý nghĩa của lời nói. Cùng một cấu trúc câu, nhưng ngữ điệu khác
nhau sẽ cho ra một cách hiểu khác nhau.
• Bối cảnh giao tiếp rất quan trọng trong ngôn ngữ nói vì ý nghĩa của thông tin truyền đạt
không được chú thích cụ thể như ở ngôn ngữ viết.
• Từ vựng được sử dụng trong ngôn ngữ nói khá đa dạng, ít phức tạp, xoay quanh các
vấn đề trong cuộc sống, có nhiều từ lóng, từ địa phương. Ngoài ra, các ngữ cố định
cũng được sử dụng rộng rãi trong lời ăn tiếng nói thường ngày.
• Ngữ pháp của ngôn ngữ nói thường hay lệch chuẩn (độ lệch chuẩn còn phụ thuộc vào
vùng miền, bối cảnh văn hoá - xã hội). Người nói thường chỉ sử dụng câu đơn, các vế
câu sẽ được ngắt ra, tạo thành nhiều câu. Dấu câu sẽ được thay bằng cách ngắt nghỉ khi
nói. Khi diễn đạt, người ta lặp từ để nhấn mạnh nội dung cần biểu đạt. Ngữ pháp thông
dụng (chủ-vị) ít phổ biến trong ngôn ngữ nói, ngôn ngữ nói chủ yếu được phân tích dựa
trên ngữ pháp chức năng. Ngôn ngữ nói có đòi hỏi về sự sắp xếp logic các thông tin
truyền đạt nhưng không nghiêm ngặt như ngôn ngữ viết.
1.3, Ngôn ngữ viết
Ngôn ngữ viết là ngôn ngữ được biểu hiện qua hệ thống chữ viết. Ngôn ngữ viết thường
có thể tồn tại với khoảng thời gian lâu hơn ngôn ngữ nói, vì âm thanh khi phát ra thì sẽ tan
biến, còn chữ viết, nếu được lưu giữ cẩn thận, có thể tồn tại nhiều năm liền. Ngôn ngữ viết
được xem như một sự bổ sung của ngôn ngữ nói. Nếu xét trên một quá trình phát triển, ngôn
ngữ nói luôn sẽ đi trước, sau đó ngôn ngữ viết sẽ phản ánh lại ngôn ngữ nói.
Ngôn ngữ viết, tuy vậy, được nhiều người cho là có độ chuẩn mực hơn ngôn ngữ nói.
Vì ngôn ngữ viết là sự thể hiện rõ nét ngôn ngữ, trong đó, người viết có cơ hội suy nghĩ, sửa
đổi, nên yêu cầu của ngôn ngữ viết thường khá cao.
Ngôn ngữ viết cũng có thể xuất hiện dưới hình thức lời nói: đọc văn bản thành tiếng,
thuyết trình,...
* Các đặc điểm của ngôn ngữ viết
• Ngôn ngữ viết là ngôn ngữ được thể hiện bằng hệ thống chữ viết. Chữ viết có thể là
chữ tượng hình hoặc chữ tượng thanh; chữ biểu âm hoặc chữ biểu ý.
• Vì không được phát âm nên yếu tố ngữ điệu được thể hiện khá hạn chế. Người viết phải
vận dụng nhiều kĩ thuật viết mới dễ dàng tận dụng ngữ âm của từ để mà tạo nhịp điệu
cho câu văn, câu thơ.
• Ngôn ngữ viết có nhiều hệ thống ký hiệu để hỗ trợ cho việc diễn đạt. Trong đó, hệ thống
dấu câu là được quy định một cách chặt chẽ nhất.
• Về từ vựng, ngôn ngữ viết thường có sự chọn lọc ngôn từ một cách kĩ lưỡng. Trong
văn bản văn học, ngôn ngữ viết được coi là một hình thức sáng tạo của ngôn ngữ, khi
nó được thể hiện không chỉ đúng mà còn sáng tạo, mang tính độc đáo.
• Về ngữ pháp, ngôn ngữ viết thường phải tuân thủ các nguyên tắc ngữ pháp khi diễn đạt.
Sự nhầm lẫn về mặt ngữ pháp có thể làm thay đổi đi ý nghĩa của thông tin cần truyền
đạt. Việc diễn đạt câu ở ngôn ngữ viết sẽ phức tạp hơn nhằm biểu hiện mối quan hệ
giữa các thành phần. Ngoài ra, ngôn ngữ viết đòi hỏi rất cao về sự liên kết giữa các ý
tưởng khi trình bày.

Trang 52
53 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

III. NGÔN NGỮ TRANG TRỌNG VÀ NGÔN NGỮ THÔNG TỤC


3.1, Ngôn ngữ trang trọng
Ngôn ngữ trang trọng là ngôn ngữ thường được dùng trong các ngữ cảnh mang tính lịch
sự, học thuật như giao tiếp với người lạ, người lớn tuổi hơn mình,... hoặc trong các buổi báo
cáo, thuyết trình, toạ đàm,... Ngôn ngữ trang trọng được sử dụng trong nhiều văn bản viết, đặc
biệt là các văn bản chính luận, hành chính-công vụ, khoa học, báo chí.
Ngôn ngữ trang trọng đòi hỏi sự gọt dũa kĩ lưỡng, bảo đảm chuẩn mực trong ngữ âm,
từ vựng, ngữ pháp. Ngôn ngữ trang trọng thường là ngôn ngữ toàn dân (xem phần 4.1 phương
4), rất ít hoặc không có từ lóng, từ thông tục. Từ vựng phải yêu cầu tính đơn nghĩa, chính thống,
hạn chế các từ mang sắc thái nghĩa biểu thái cao; ưu tiên những từ sắc thái trung lập hoặc sắc
thái trang trọng.
Ví dụ: “Xin lỗi vì đã làm phiền, bạn có thể hướng dẫn tôi cách đến trạm xăng gần nhất được
không?”
Ví dụ 2: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do,
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
3.2, Ngôn ngữ thông tục
Ngôn ngữ thông tục (hay còn gọi là ngôn ngữ thân mật) thường được dùng trong bối
cảnh giao tiếp thường ngày, mang tính gần gũi, thân mật giữa bạn bè, người thân quen; có thể
qua lời nói trực tiếp hoặc qua thư từ, tin nhắn,... Một số văn bản văn học thường sử dụng ngôn
ngữ thông tục khi xây dựng những đoạn đối thoại của nhân vật.
Ví dụ:
- Này bác Tràng ! Bác Tràng ! ...
Sau một khuôn cửa tối, một cái đầu trọc thò ra gọi giật giọng.
Tràng lật đật quay lại.
- Về muộn mấy? Hẵng vào chơi cái đã nào.
Tràng đứng lại thoái thác:
- Thôi ông để cho đến hôm khác.
Cái đầu trọc nháy nháy một con mắt, hất hất về phía người đàn bà hóm hỉnh:
- Cánh nào đấy?
- à hà... người quen. Thôi để hôm khác ông nhá.
(Kim Lân)
Ngôn ngữ thông tục bao gồm các từ ngữ dân dã, gần gũi, phù hợp với bối cảnh giao
tiếp thường ngày. Ngữ pháp của ngôn ngữ thông tục thường khá đa dạng, phụ thuộc nhiều vào
bản thân người nói. Ngôn ngữ thông tục thường có nhiều câu đặc biệt, câu rút gọn, phương tiện
liên kết thường dùng là phép lặp, phép tuyến tính, phép thế và phép tỉnh lược.

*LUYỆN TẬP
Bài 1: Đọc các câu sau đây và chỉ ra câu nào sử dụng ngôn ngữ thân mật, câu nào sử dụng
ngôn ngữ trang trọng. Vì sao?
a, Tôi thường đón gió chướng về với một tâm trạng lộn xộn, ngổn ngang. Mừng đó rồi bực
đó. Sao tôi lại chờ đợi nó, chẳng phải năm nào cũng vậy, lúc cầm cây chổi ra quét sân, đứng
trong gió đầm đìa tôi cũng buồn, buồn muốn chết. Trời ơi, gió này là sắp hết năm đây, sắp

Trang 53
54 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

già thêm một tuổi đây, mình đã kịp sống gì đâu, tay mình vẫn trắng như vầy... Mỗi lần gió về
lại cảm giác mình mất một cái gì đó không rõ ràng, không giải thích được, như ai đó đuổi
theo đằng sau, tôi gấp rãi ăn, gấp rãi nói, gấp rãi cười, gấp rãi khi ngày bắt đầu rụng
xuống… (Nguyễn Ngọc Tư)
b,
Thanh đi bên bà, người thẳng, mạnh, cạnh bà cụ gầy còng. Tuy vậy chàng cảm thấy chính bà
che chở cho chàng, cũng như những ngày chàng còn nhỏ.
- Nhà không có ai ư bà?
- Vẫn có thằng Nhân, hôm nay nó đi đong thóc bên kia xóm. D- chốc nó về. Con đã ăn cơm
chưa?
- Dạ chưa. Con ở tàu về đây ngay. Nhưng con không thấy đói.
Bà nhìn cháu, giục:
- Con rửa mặt đi, rồi đi nghỉ không mệt. Trời nắng thế này mà con không đi xe ư?
Thanh cười:
- Có một tý đường đất, cần gì phải xe. Con đi bộ hàng ngày cũng được.
(Thạch Lam)
c. Theo Wilhelm Wundt, đối tượng của tâm lý học không chỉ là ý thức chủ quan và con đường
nghiên cứu ý thức là các phương pháp nội quan và tự quan sát. Mà đối tượng của tâm lý học
còn bao hàm cả những ý thức khách quan (hữu thức) mà con người hoàn toàn có thể quan sát,
đo đạc được bằng các phương pháp thực nghiệm.
Bài 2: Theo em, ngôn ngữ trang trọng và ngôn ngữ thông tục có thể cùng xuất hiện trong một
đoạn hội thoại hay một văn bản hay không? Nếu có thể, hãy nêu tác dụng của sự kết hợp đó.
Trên thực tế, ngôn ngữ trang trọng và ngôn ngữ thông tục có thể dùng kết hợp, nhưng
rất ít khi chúng xuất hiện trong cùng một ngữ cảnh giao tiếp. Thông thường, khi muốn biểu
đạt một điều vừa mang tính trang trọng, vừa mang tính thân mật; ta sẽ dùng lớp ngôn ngữ ở
giữa chúng (gọi là lớp từ trung tính hoặc lớp từ bán trang trọng). Việc sử dụng ngôn ngữ
trang trọng đảm bảo được sự lịch sự khi giao tiếp; còn ngôn ngữ thân mật lại giúp gia tăng
tình cảm, thu gọn hoặc xoá bỏ khoảng cách giữa các đối tượng giao tiếp.

IV. PHƯƠNG NGỮ TIẾNG VIỆT


4.1, Khái niệm phương ngữ
Phương ngữ là hệ thống ngôn ngữ được sử dụng bởi một tập hợp người ở một địa
phương nhất định. Các phương ngữ chủ yếu khác nhau về ngữ âm, từ vựng; ngữ pháp có sự ổn
định giữa các phương ngữ, nhưng một vài cách diễn đạt đôi khi sẽ khác nhau giữa các phương
ngữ.
Phương ngữ sinh ra do tính xã hội của ngôn ngữ. Ngôn ngữ sẽ phản ánh bối cảnh kinh
tế, văn hoá-xã hội ở nơi mà nó được sử dụng. Do vậy, vì sự khác nhau về bối cảnh văn hoá-xã
hội giữa các vùng ở một đất nước, phương ngữ được sinh ra. Ở Việt Nam, có ba phương ngữ
chính thường được nghiên cứu là phương ngữ Bắc Bộ (đại diện là thủ đô Hà Nội), phương ngữ
Trung Bộ (đại diện là thành phố Huế), phương ngữ Nam Bộ (đại diện là thành phố Hồ Chí
Minh). Trong đó, phương ngữ Bắc Bộ và Nam Bộ có sự khác biệt tương đối rõ ràng, phương
ngữ Trung Bộ, ngoại trừ những đặc trưng riêng, cũng có sự tương đồng với hoặc phương ngữ
Bắc Bộ, hoặc phương ngữ Nam Bộ. Ở vùng Bắc Trung bộ, phương ngữ có phần giống với
phương ngữ Bắc Bộ; ở vùng Nam Trung Bộ, phương ngữ có phần giống với phương ngữ Nam
Bộ. Ở tài liệu này, người viết chủ yếu phân tích sâu về phương ngữ Bắc Bộ và phương ngữ
Nam Bộ.
Ví dụ về phương ngữ:
• Ơ, bố đi đâu thế? (Phương ngữ Bắc Bộ)

Trang 54
55 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

• Ủa, ba đi đâu vậy? (Phương ngữ Nam Bộ)


• Ô, ba đi mô rứa? (Phương ngữ Trung Bộ)
* Ngôn ngữ toàn dân.
Vì sự khác biệt tương đối trong cách sử dụng ngôn ngữ giữa các vùng miền, một số
quốc gia đã đặt ra quy định về ngôn ngữ toàn dân. Trong đó, ngôn ngữ toàn dân sẽ là ngôn ngữ
được sử dụng chính thức trong các văn bản hành chính (thường là các văn bản cấp cao, mang
tính trang trọng), được phổ cập rộng rãi thông qua giáo dục, và được dùng để giao tiếp giữa
các vùng miền với nhau.
Ngôn ngữ toàn dân cần phải đảm bảo tính phổ thông (thông thường, các quốc gia trên
thế giới sẽ lựa chọn phương ngữ có đông người nói nhất để làm ngôn ngữ toàn dân). Ở Việt
Nam, phương ngữ Bắc Bộ được quy định là ngôn ngữ toàn dân. Các phương ngữ khác được
xem là ngôn ngữ địa phương và được sử dụng hạn chế trong các lĩnh vực thuộc cấp quốc gia.
4.2, Quy luật hình thành phương ngữ Tiếng Việt
Các phương ngữ thường có sự khác biệt rõ ràng về mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp.
Trong đó, ngữ âm là yếu tố khác biệt rõ nét nhất, nhưng có thể dự đoán được. Còn sự khác biệt
về từ vựng thường để lại nhiều hiểu nhầm.
a. Sự biến đổi về ngữ âm
Do sự khác biệt về bối cảnh văn hoá-xã hội, về lối sống, lối sinh hoạt giữa các vùng
miền, cũng như sự ảnh hưởng giữa các vùng miền với các địa phương lận cận đó; cách phát
âm giữa các phương ngữ có sự khác nhau. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ nói thông dụng, không
có một phương ngữ Tiếng Việt nào phát âm chính xác hoàn toàn theo chính tả của chữ quốc
ngữ.
Phân loại sự biến đổi:
• Biến đổi yếu: Là sự thay đổi đôi chút về cách phát ra âm thanh giữa các vùng miền về
một đơn vị âm thanh nào đó. Ví dụ, phụ âm “ch” trong phương ngữ Bắc Bộ thường
được phát âm bằng cách đưa phần giữa của lưỡi chạm vào vòm miệng và bật hơi; còn
ở phương ngữ Nam Bộ, phụ âm “ch” lại được phát âm bằng cách đưa phần cuối đầu
lưỡi chạm vào phần khẩu cái và không bật hơi.
• Biến đổi mạnh hoặc biến đổi hoàn toàn: Là sự thay đổi hoàn toàn về cách phát âm của
một đơn vị âm thanh nào đó. Ví dụ, phụ âm “d” trong phương ngữ Bắc Bộ được phát
âm giống âm /z/, còn trong phương ngữ Nam Bộ lại được phát âm giống âm /j/
Về mặt thanh điệu, phương ngữ Bắc Bộ có đủ sáu thanh, nhưng phương ngữ Trung Bộ
và Nam Bộ có số thanh ít hơn (chỉ có từ 4-5 thanh)
Ví dụ:
Bắc Bộ Nam Bộ

rõ ràng zɔʔɔ˧˥ za̤ːŋ˨˩ ɹɔ˨˩˦ ɹaːŋ˨˩


Phương ngữ Bắc Bộ phát âm rất rõ thanh ngã, phụ âm “r” phát âm tương đồng với phụ
âm “d” và “gi”. Trong khi đó, phương ngữ Nam Bộ lại phát âm phụ âm “r” là một phụ âm độc
lập, không giống với các phụ âm khác; nhưng lại biến đổi thanh ngã thành thanh hỏi do không
tồn tại thanh ngã trong ngôn ngữ nói hằng ngày.

b, Sự biến đổi về từ vựng


Từ vựng là yếu tố có sự thay đổi ít rõ ràng hơn ngữ âm nhưng có thể gây hiểu nhầm khi
giao tiếp nếu không dùng ngôn ngữ toàn dân. Mỗi phương ngữ sẽ có cách sử dụng một số từ
tương đối khác nhau do sự khác biệt về tư duy và văn hoá-xã hội.
Ví dụ
Phương ngữ Bắc Bộ Phương ngữ Nam Bộ

Trang 55
56 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

tôi tui

chúng tôi tụi tui

chúng bây tụi bây

thế vậy

như thế như vậy

ông ấy/ bà ấy/ cô ấy/ anh ấy ổng/ bả/ ảnh/ chỉ

trong kia trong trỏng

đằng kia đằng đẵng


Trong một số từ vựng đi theo cặp, phương ngữ miền Nam và Bắc sẽ chọn một thành tố
khác nhau
Phương ngữ Bắc Bộ Phương ngữ Nam Bộ

cực nhọc làm nhọc quá làm cực quá

chén bát bát cơm chén cơm


Có một số từ vựng được cả hai miền sử dụng nhưng lại mang ý nghĩa khác nhau
Phương ngữ Bắc Bộ Phương ngữ Nam Bộ

mắc động từ, hành động treo cái gì đó tính từ, trái nghĩa với rẻ
lên Vd: bán mắc quá vậy?
Vd: mắc màn

đắt trái nghĩa với rẻ nhiều, khấm khá


Vd: cái này đắt quá Vd: buôn may bán đắt

bất tính từ, không bao giờ chết tính từ và trạng từ, một cách bất ngờ, không kịp
tử Vd: tác phẩm bất tử với thời gian trở tay.
Vd: Bây nói bất tử vậy sao má biết đường
chuẩn bị?

ốm tính từ, cảm thấy không khoẻ tính từ, trái nghĩa với mập (béo)
trong người Vd: Hổm rày không gặp, thấy bây ốm nhom ốm
Vd: Hôm nay tôi xin nghỉ ốm bác nhách hen.
ạ.

4.3, Phương ngữ trong các văn bản văn học.


Từ xưa nay, vấn đề phương ngữ luôn là một đề tài nghiên cứu của các nhà phê bình văn
học. Trên thực tế, bất kì tác phẩm nào cũng sẽ có phương ngữ, phản ánh rõ nét bối cảnh tâm
lý, xã hội mà tác phẩm đang hướng đến.
Tác dụng của phương ngữ trong văn học:
• Phương ngữ mang đậm tính khẩu ngữ, làm cho tác phẩm trở nên gần gũi với người
đọc.
• Thể hiện rõ nét những dòng chảy suy nghĩ, tâm lý của nhân vật.

Trang 56
57 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Vd: Tao cũng sống phây phây đây, ở một chỗ cũng sướng, ai như tụi bây đi mà không biết đi
đâu, y như mấy đám mây khùng", ông nạt một hơi. (Nguyễn Ngọc Tư)
Vd2: Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh thì thị ở
đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:
- Điêu ! Người thế mà điêu !
Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận ra thị là ai. Hôm nay
thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt
chỉ còn thấy hai con mắt.
- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt.
(Kim Lân)
Vd: “Hổm rài tui thấy cổ rầu lung lắm” (Hồ Biểu Chánh)
* Học sinh có nên dùng phương ngữ khi viết văn hay không?
Học sinh hoàn toàn có thể dùng phương ngữ khi viết văn, nhưng không nên dùng nhiều
từ ít phổ biến, cần đảm bảo chính tả của từ đã được quy định khi viết.
Vd: Viết “hành chính” thay vì “hành chánh”, “chính tả” thay vì “chánh tả”, “thịnh hành” thay
cho “thạnh hành”, “mắt kính” thay cho “mắt kiếng”...

MỘT SỐ ĐỀ ĐỌC HIỂU LUYỆN TẬP

I. DÀNH CHO CHƯƠNG TRÌNH CŨ

ĐỀ 1
Đọc văn bản sau:
52HZ - CHÚ CÁ VOI CÔ ĐƠN NHẤT ĐẠI DƯƠNG
52 Hz hay 52 Blue là tên thường gọi của chú cá voi cô đơn nhất hành tinh. Sở dĩ nói rằng
52Hz cô đơn là bởi tiếng kêu của nó có tần số bất thường, lên đến 52 Hz. Trong khi đó ở những
loài cá voi khác, ví dụ như cá voi xanh, tần số tiếng kêu của nó là từ 10 - 39 Hz và con số này
là 20 Hz với cá voi vây.
Chính vì tần số quá đặc biệt nên 52Hz không được đồng loại của mình "lắng nghe". Tiếng
kêu của nó chẳng bao giờ có lời lời hồi đáp từ những chú cá voi xung quanh. Thế nhưng suốt
mấy chục năm qua kể từ khi được phát hiện đến nay, 52Hz vẫn ngày ngày miệt mài cất tiếng
gọi mong đợi một người bạn.

Trang 57
58 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Cô đơn và khác biệt là thế, nhưng 52Hz vẫn sống sót và trưởng thành đến tận bây giờ. Thậm
chí một số nhà khoa học còn nhận định, 52 Hz vẫn đang sống khỏe mạnh là đằng khác. Câu
chuyện về chú cá voi đặc biệt này đã trở thành một thông điệp về sự lạc quan thường xuyên
được lan truyền trên mạng xã hội trong những năm gần đây.
Chú cá voi này đã trở thành đề tài cho thơ ca, nhạc họa và thậm chí có hẳn một tài khoản trên
Twitter. Chú cá voi này dường như đại diện cho những người đang cảm thấy cô đơn và vô
định. Mắc kẹt trong cô đơn và công việc mà mình không hề yêu thích, một nhạc sĩ đã soạn một
album lấy cảm hứng từ chú cá voi này. Một nhà làm phim trải qua những lo lắng trong cuộc
sống cảm thấy bình tĩnh hơn khi thấy hình ảnh chú cá voi cô độc trong đại dương và lắng nghe
tiếng kêu của nó. Năm 2015, một bài hát của nhóm nhạc KPop nổi tiếng BTS mang tên Whalien
52 cũng nói về một chú cá voi với "tiếng nói cô độc không bao giờ có thể chạm đến ai khác
cho dù cố gắng thế nào".
Bạn thân mến, bạn có thể không giống những người khác, bạn có thể cô đơn, lạc loài, thậm
chí là bị cuộc đời bạc đãi về một phương diện nào đó. Nhưng mong rằng sau tất cả, bạn vẫn
giữ vững được niềm tin và hy vọng sống của mình.
(Nguồn: Vov cuộc sống đó đây)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Theo tác giả, tại sao chú cá voi 52Hz lại được gọi là chú cá voi cô đơn nhất đại dương?
Câu 2: Anh(chị) cảm nhận như thế nào về sự cô đơn của chú cá voi qua câu văn: “Tiếng nói
cô độc không bao giờ có thể chạm đến ai khác cho dù cố gắng thế nào”?
Câu 3: Xác định và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn: “Bạn thân
mến, bạn có thể không giống những người khác, bạn có thể cô đơn, lạc loài, thậm chí là bị cuộc
đời bạc đãi về một phương diện nào đó.”
Câu 4: Anh/chị có bao giờ cảm nhận bản thân là một “chú cá voi 52Hz” chưa? Làm sao để
anh/chị vượt qua được cảm giác đó? (Trình bày từ 3-10 câu)

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI ĐỀ 1


Câu Đáp án gợi ý

1 - Sở dĩ nói rằng 52Hz cô đơn là bởi tiếng kêu của nó có tần số bất thường, lên đến
52 Hz.
- Chính vì tần số quá đặc biệt nên 52Hz không được đồng loại của mình "lắng
nghe". Tiếng kêu của nó chẳng bao giờ có lời lời hồi đáp từ những chú cá voi xung
quanh

2 Học sinh trả lời theo cảm nhận của bản thân. Gợi ý:
-> Sự cô đơn của chú cá voi diễn ra cùng cực, bế tắc, dù đã cố gắng nhưng tiếng nói
của mình vẫn không chạm đến đồng loại. Dường như chú vô định trong chính môi
trường sống của mình, cảm thấy lạc lõng, chơi vơi, không ai thấu hiểu mình.

3 - Biện pháp tu từ liệt kê: “cô đơn, lạc loài, thậm chí là bị cuộc đời bạc đãi về một
phương diện nào đó”.
- Tác dụng:

Trang 58
59 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

+ Tác dụng nội dung: Cụ thể hóa những trải nghiệm tiêu cực mà chúng ta dễ dàng
bắt gặp trong cuộc đời, nhấn mạnh rằng đôi lúc sự khác biệt sẽ mang đến cho
chúng ta sự lạc lõng, chơi vơi, vô định trước thế giới rộng lớn ngoài kia.
+ Tác dụng nghệ thuật: Tạo nhịp điệu cho câu văn; tăng sức thuyết phục cho diễn
đạt

4 Học sinh trả lời theo trải nghiệm của bản thân mình.
- Đã từng cảm nhận bản thân là một chú cá voi 52Hz bao giờ chưa?
- Biện pháp để vượt qua cảm giác ấy:
+ Tìm thấy những điều tích cực, những lợi ích khi ở một mình
+ Cởi mở hơn với những người xung quanh nhưng.
+ Trân trọng bản thân mình cũng như trân trọng sự khác biệt của người khác
+ Biện pháp hỗ trợ khác: Viết nhật ký, thiền định, thư giãn, đọc sách…

ĐỀ 2:
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Tự trọng nghĩa là biết coi trọng mình, nhưng không phải theo nghĩa vị kỷ (chỉ biết đến
danh lợi cùa bản thân mình) mà là coi trọng phẩm giá/đạo đức của mình. Một người có tự trọng
hay không thường được thể hiện qua câu trả lời hay qua hành xử của anh ta cho những câu trả
lời như: “Điều gì khiến tôi sợ hãi/xấu hổ?”, “Điều gì khiến tôi tự hào/ hạnh phúc?”... Người tự
trọng tất nhiên sẽ biết sợ sự trừng phạt của nhà nước (sợ pháp lý) nếu làm trái pháp luật và sợ
điều tiếng dư luận của xã hội (sợ đạo lý) nếu làm trái với luân thường, lẽ phải. Nhưng đó vẫn
chưa phải là điều đáng sợ nhất với họ. Điều đáng sợ nhất đối với một người tự trọng là sự giày
vò bản thân khi làm những chuyện đi ngược lại lương tri của chính mình, phản bội lại lẽ sống,
giá trị sống, nguyên tắc sống mà mình theo đuổi và có cảm giác đánh mất chính mình. Nói cách
khác, đối với người tự trọng, có đạo đức, “tòa án lương tâm” còn đáng sợ hơn cả “tòa án nhà
nước” hay “tòa án dư luận”. [...] Nói cách khác, người tự trọng/tự trị thường không muốn làm
điều xấu, ngay cả khi không ai có thể biết việc họ làm. Họ sẵn lòng làm điều tốt ngay cả khi
không có ai biết đến. Họ sẵn lòng làm điều đúng mà không hề để ý đến chuyện có ai ghi nhận
việc mình làm hay không. Nếu tình cờ có ai đó biết và ghi nhận thì cũng vui, nhưng nếu không
có ai biết đến và cũng không có ai ghi nhận điều tốt mà mình làm thì cũng không sao cả, vì
phần thưởng lớn nhất đối với người tự do/tự trị/tự trọng là “được sống đúng với con người của
mình”, tất nhiên đó là con người phẩm giá, con người lương tri mà mình đã chọn.
(Trích Đúng việc - Giản Tư Trung, NXB Tri thức, 2016, tr.27-28)
Câu 1. Theo đoạn trích, “tự trọng” khác “vị kỉ” như thế nào?
Câu 2. Điều đáng sợ nhất với người tự trọng là gì?

Trang 59
60 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Câu 3. Anh/chị có đồng tình với quan điểm: “... đối với người tự trọng, có
đạo đức, “tòa án lương tâm” còn đáng sợ hơn cả “tòa án nhà nước” hay “tòa án dư luận”?
Câu 4. Theo anh/chị, vì sao phần thưởng lớn nhất đối với người tự trọng là “được sống đúng
với con người của mình”?

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI ĐỀ 2


Câu Đáp án gợi ý

1 Tự trọng nghĩa là biết coi trọng mình, nhưng không phải theo nghĩa vị kỷ (chỉ biết
đến danh lợi của bản thân mình) mà là coi trọng phẩm giá/đạo đức của mình.
Hoặc:
Sự khác biệt giữa tự trọng và vị kỉ:
- Tự trọng: biết coi trọng phẩm giá/đạo đức của mình
- Vị kỉ: chỉ biết đến danh lợi của bản thân mình

2 Điều đáng sợ nhất đối với một người tự trọng là sự giày vò bản thân khi làm những
chuyện đi ngược lại lương tri của chính mình, phản bội lại lẽ sống, giá trị sống,
nguyên tắc sống mà mình theo đuổi và có cảm giác đánh mất chính mình.

3 - Đưa ra ý kiến của mình: đồng tình/hay không đồng tình/hay vừa đồng tình vừa có
phần muốn phản bác
- Lý giải sự lựa chọn của mình (kể cả khi đề không hỏi vì sao, bạn vẫn phải lý giải
về sự lựa chọn của mình)
VD
+ “Tòa án lương tâm” là sự phán xét từ bên trong mà mỗi người dành cho chính
bản thân mình.
+ Còn “tòa án nhà nước” là sự phán xét từ pháp luật, “tòa án dư luận” là những ý
kiến từ xã hội – đó đều là những đánh giá bên ngoài. + Người có tự trọng là người
biết tôn trọng giá trị của chính mình, họ có thể không cần quá quan tâm tới ý kiến
từ bên ngoài, nhưng sẽ rất coi trọng “tòa án lương tâm”, lắng nghe tiếng nói của
chính bản thân mình.

4 Câu hỏi vì sao → lý giải vấn đề → tập trung vào vấn đề mà câu hỏi đặt ra.
VD:

Trang 60
61 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

- Giải thích: “được sống đúng với con người của mình” là được theo đuổi những lý
tưởng cao đẹp mà bản thân lựa chọn, không phải sống vì những khuôn khổ hay
những lời ngợi ca của mọi người xung quanh.
- Đối với người tự trọng – coi trọng giá trị của bản thân, việc tự mình thấu hiểu
mình quan trọng hơn là chỉ kiếm tìm sự công nhận từ người khác.

ĐỀ 3:
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Hãy sống như đời sống để biết yêu nguồn cội
Hãy sống như đồi núi vươn tới những tầm cao
Hãy sống như biển trào, như biển trào để thấy bờ bến rộng
Hãy sống như ước vọng để thấy đời mênh mông
Và sao không là gió, là mây để thấy trời bao la
Và sao không là phù sa rót mỡ màu cho hoa
Sao không là bài ca của tình yêu đôi lứa
Sao không là mặt trời gieo hạt nắng vô tư
Và sao không là bão, là giông, là ánh lửa đêm đông
Và sao không là hạt giống xanh đất mẹ bao dung
Sao không là đàn chim gọi bình minh thức giấc
Sao không là mặt trời gieo hạt nắng vô tư?
(Trích ca khúc “Khát vọng” – Phạm Minh Tuấn)
Câu 1. Xác định nội dung chủ đạo của đoạn trích trên và các phương thức biểu đạt được sử
dụng trong đoạn trích.
Câu 2. Theo đoạn trích, ta nên là những gì?
Câu 3. Ở khổ đầu của đoạn trích, tác giả lặp đi lặp lại cụm từ “Hãy sống” ở đầu mỗi câu thơ.
Đó là dấu hiệu của phép tu từ nào? Tác dụng của nó?
Câu 4. Câu hát “Sao không là mặt trời gieo hạt nắng vô tư” được lặp lại 2 lần trong đoạn trích.
Anh/chị hiểu gì về thông điệp được gợi lên từ câu hát này?

Trang 61
62 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI ĐỀ 3


Câu Đáp án gợi ý

1 - Nội dung chủ đạo của đoạn trích trên là: Khát vọng cống hiến cho cuộc đời và tình
yêu tha thiết tác giả dành cho cuộc sống.
- Các phương thức biểu đạt: Biểu cảm, miêu tả.

2 Theo đoạn trích, ta nên là gió, là mây, là phù sa, bài ca, mặt trời, là bão, là giông, là
ánh lửa đêm đông, là hạt giống, là đàn chim.

3 ***Điệp từ: sự lặp đi lặp lại của 1 từ


Điệp ngữ: sự lặp đi lặp lại của 1 cụm từ
Điệp cấu trúc: sự lặp đi lặp lại của 1 cấu trúc ngữ pháp
- Đó là phép điệp ngữ (hoặc điệp cấu trúc).
- Tác dụng:
+ Về nội dung: Nhấn mạnh khát vọng cống hiến và lời nhắn nhủ chân thành của
người cầm bút.
+ Về nghệ thuật: Tạo nhịp điệu da diết, tha thiết cho lời thơ (lời hát).

4 ** Với dạng câu hỏi này, học sinh nên viết thành đoạn văn ngắn khoảng 5 – 7 dòng.
Gợi ý:
- Nội dung câu hát:
+ Mặt trời: thường tượng trưng cho nguồn sống, cho những điều tốt đẹp + Mặt trời
gieo hạt nắng là quy luật tự nhiên, đem đến ánh sáng rực rỡ cho con người
+ Cách gieo: cho đi một cách vô tư
- Thông điệp: Hãy cống hiến cho cuộc đời một cách tự nguyện, chủ động, không cầu
nhận lại cho riêng mình.

Trang 62
63 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

ĐỀ 4:
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Người thành công luôn chịu trách nhiệm cho bất cứ chuyện gì xảy ra trong cuộc sống
của họ. Họ tin rằng dù chuyện gì xảy ra đi chăng nữa, họ là một phần nguyên nhân gây ra nó.
Ví dụ: nếu họ thi trượt, đó là lỗi của họ. Nếu không được cha mẹ tin tưởng, đó là lỗi của họ.
Nếu phải vào lớp tệ hại nhất, đó là lỗi của họ. Nếu trở thành một học sinh xuất sắc, đó cũng là
nhờ nỗ lực của họ. Nhận lãnh trách nhiệm về bản thân có một sức mạnh tiềm ẩn vô cùng to
lớn. Nếu bạn tin rằng bạn là nguyên do của mọi chuyện, bạn sẽ có khả năng thay đổi và cải
thiện mọi chuyện. Nói một cách đơn giản, bạn làm chủ cuộc sống của chính bạn. [...]Những
kẻ thất bại bao giờ cũng có khuynh hướng đổ lỗi cho mọi người ngoại trừ bản thân họ. Họ đổ
thừa thầy cô giảng bài nhàm chán, đổ thừa kì thi quá khó, đổ thừa bạn bè làm họ xao nhãng
việc học, đổ thừa cha mẹ suốt ngày cằn nhằn họ. Tệ hại hơn cả, một số học sinh còn tự lừa dối
bản thân rằng mọi việc cũng không đến nỗi quá tệ, rằng môn Toán của họ cũng không tệ đến
thế, rằng thực chất họ học hành rất chăm chỉ...trong khi tự đáy lòng, họ biết rõ những điều
đó không phải là sự thật. “Những người và những việc xung quanh mình khiến mình thất bại”.
Suy nghĩ đó khiến bạn trở thành nạn nhân bất lực, không thể thay đổi được cuộc sống.
(Tôi tài giỏi, bạn cũng thế, Adam Khoo, Trang 43, NXB Phụ nữ, 2013)
Câu 1. Xác định nội dung chính của đoạn trích trên.
Câu 2. Theo đoạn trích, những kẻ thất bại có khuynh hướng thế nào?
Câu 3. Theo tác giả: “Suy nghĩ đó khiến bạn trở thành nạn nhân bất lực, không thể thay đổi
được cuộc sống”. Anh/chị có đồng tình với ý kiến ấy không? Vì sao?
Câu 4. Anh/chị suy nghĩ gì về ý kiến: “Nhận lãnh trách nhiệm về bản thân có một sức mạnh
tiềm ẩn vô cùng to lớn.”?

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI ĐỀ 4

Trang 63
64 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Câu Đáp án gợi ý

1 Nội dung chính của đoạn trích trên là: Giá trị, ý nghĩa của việc tự mình chịu trách
nhiệm cho cuộc sống của mình (hoặc: giá trị của việc nhận lãnh trách nhiệm về bản
thân mình).

2 Theo đoạn trích/theo tác giả, những kẻ thất bại bao giờ cũng có khuynh hướng đổ lỗi
cho mọi người ngoại trừ bản thân họ.

3 - Nêu ý kiến của mình (đồng tình hay không đồng tình/hoặc có phần đồng tình nhưng
có phần muốn phản bác ý kiến) - Lý giải sự lựa chọn:
(Đồng tình) Suy nghĩ đó – tức thói quen đổ lỗi cho hoàn cảnh sẽ đem đến nhiều hệ
lụy:
+ Khiến ta không học cách tự rút kinh nghiệm sau mỗi sai lầm, để rồi ngày càng trở
nên trì trệ, khó phát triển
+ Khiến ta trở nên bị động, phụ thuộc – không có sự chủ động cần thiết trong cuộc
sống của mình
**Học sinh có thể trả lời bằng gạch đầu dòng từng ý hoặc bằng 1 đoạn văn ngắn gọn
từ 5 – 7 dòng.

4 **Học sinh có thể trả lời bằng gạch đầu dòng từng ý hoặc bằng 1 đoạn văn ngắn gọn
từ 5 – 7 dòng.
- Giải thích ngắn gọn ý kiến: “Nhận lãnh trách nhiệm về bản thân” nghĩa là biết tự
mình chịu trách nhiệm cho những sự lựa chọn trong cuộc đời, không đổ lỗi cho hoàn
cảnh hay bất cứ ai. Tác giả khẳng định thói quen ấy có sức mạnh tiềm ẩn quan trọng
và sẽ đem lại nhiều giá trị.
- Nêu suy nghĩ của mình: …

ĐỀ 5:
Đọc đoạn ngữ liệu sau
Đọc văn bản sau

Trang 64
65 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Về câu chuyện của học sinh 16 tuổi kết liễu cuộc đời mình và nỗi khổ của người làm bố làm
mẹ (…)
Sẽ chẳng có bạn trẻ nào nhìn được cảnh cha mẹ làm lụng vất vả ngoài đường, dành dụm từng
đồng để cho con được đi học. Sẽ chẳng có bạn trẻ nào nhìn thấy bố chạy xe ôm, mồ hôi ướt
đẫm áo và có giấc ngủ vội trên xe. Sẽ chẳng có bạn trẻ nào nhìn thấy mẹ đi làm thuê khiến bàn
tay chai sạn và bị người ta trách mắng. Sẽ chẳng có bạn trẻ nào nhìn thấy cảnh bố mẹ đi vay
mượn khắp nơi cho đủ tiền đóng viện phí hay nộp tiền học cho kịp thời hạn…Các bạn trẻ trách
bố mẹ không chịu chia sẻ với con. Vậy những lúc khó khăn, ai là người trò chuyện cùng bố
mẹ?
Bố mẹ cũng biết buồn và cũng có cái "tôi" của riêng mình. Nhưng khi có con, họ bỏ qua tất
cả, chỉ để dốc sức kiếm tiền sao cho cuộc sống của gia đình được ấm no. Và khi đã quá mệt
mỏi, mấy ai đã giữ được cho mình một trái tim nóng và một cái đầu lạnh, để thấu hiểu mọi suy
nghĩ của các con. Bố mẹ đâu phải chuyên gia tâm lý, họ cũng có nỗi khổ trăm bề.
(…)Tôi rất thích một câu nói giản dị trong bộ phim Reply 1988, khi bố của Duk Sun vụng
về giãi bày với cô con gái nhỏ: "Bố không phải vừa sinh ra đã làm bố, bố cũng là lần đầu tiên
làm bố". Mỗi chúng ta hiện sinh một lần duy nhất trên đời và gánh tròn trọng trách làm người
của mình.
Thế nên, trên hành trình sinh mệnh đó, thay vì trách cứ, oán giận, kì vọng, gây áp lực… hãy
cố công như cách Nam Cao nói “cố tìm mà hiểu họ”, đặt bản thân vào vị trí của đối phương để
vĩnh viễn không còn nữa những vết dao xé nát trái tim người ở lại như sự việc đau lòng vừa
mới xảy ra. Bởi, người ra đi đã yên một phận đời, còn người ở lại, bao giờ cho vơi nỗi đau đớn
tột cùng này. Bạn nhé!
(Trích báo afamily.vn)
Thực hiện các yêu cầu sau
Câu 1: Xác định nội dung chính của đoạn văn trên.
Câu 2: Tác giả đã liệt kê bao nhiêu công việc vất vả của cha mẹ mà các bạn trẻ ít khi nào nhìn
thấy? Đó là những công việc nào?
Câu 3: Anh(chị) hiểu như thế nào về câu nói: “Bố không phải vừa sinh ra đã làm bố, bố cũng
là lần đầu tiên làm bố” (Reply, 1988) được đề cập trong đoạn văn trên.
Câu 4: Sau khi đọc văn bản, anh(chị) tự rút ra bài học gì cho bản thân với cương vị là một
người con trong gia đình?

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI ĐỀ 5


Câu Đáp án gợi ý

1 Nội dung của đoạn văn trên là những nỗi khổ thầm kín của cha mẹ mà chúng ta phải
cảm thông, đồng cảm.
Học sinh có thể lựa chọn cách diễn đạt khác, miễn là nội dung hướng về chủ
đề mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.

2 Tác giả đã liệt kê 4 công việc vất vả của cha mẹ, đó là: làm lụng vất vả ngoài đường,
chạy xe ôm, đi làm thuê, vay mượn khắp nơi.

Trang 65
66 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

3 Học sinh lập luận theo quan điểm cá nhân của mình.
Gợi ý:
+ Bố mẹ là người sinh chúng ta ra, cách chúng ta một tuổi đời rất lớn, nhưng bố mẹ
cũng chỉ là lần đầu tiên đảm nhiệm trách nhiệm thiêng liêng này.
+ Vì thế không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế khiến chúng ta cảm thấy bất
mãn, không hài lòng.
+ Hiểu được điều đó, chúng ta phải cảm thông cho bố mẹ, hỗ trợ bố mẹ để họ làm
tròn trọng trách thiêng liêng là nuôi dưỡng những đứa con của mình.

4 Gợi ý: Với cương vị là một người con, em rút ra được những bài học vô cùng đắt giá:
+ Phải biết cảm thông cho cha mẹ bởi vì họ cũng sẽ có nỗi khổ riêng
+ Không ngừng nỗ lực học tập, phấn đấu để cha mẹ không phải phiền lòng.
+ Hỗ trợ cha mẹ trong công việc gia đình, có trách nhiệm đóng góp vào việc xây dựng
một gia đình hạnh phúc

II. DÀNH CHO CHƯƠNG TRÌNH 2018

ĐỀ 1
Cho đoạn ngữ liệu sau:
Tượng khổng lồ, mộ giấy đá vô danh
Có phải đời sống con người quá vất vả, cực nhọc dày vò, nên ai cũng hy vọng, cũng
đinh ninh rằng khi chết mình sẽ được yên nghỉ. Balzac là một trong số những người đó. Ông
đã phải làm "mọi" cho đám nhà văn thị trường sản xuất đủ các thứ truyện bá láp mà giới văn
học thường gọi chung là "tiểu thuyết của người gác cổng" để sinh nhai. Thiên hạ nghĩ rằng chỉ
có làm cu ly ba tê mới cực nhọc.
Viết văn cũng cực nhọc, cũng phu phen chẳng kém gì. Đi khuân vác về, mệt, có thể
làm một tợp rượu rồi lăn ra ngủ giấc ngủ của "kẻ công chính," chuẩn bị sức cho ngày hôm sau.
Người viết văn không được cái yên ổn ấy... thường sống những đêm ân hận, dằn vặt,... Mình
đã bôi bẩn những trang giấy thật trong trắng kia để làm gì? Sao mình lại mài mòn bộ óc, tiêu
xài hoang phí những giấc mộng đẹp tuổi trẻ để viết những trang sách mà ngày mai, ngày kia...
người ta sẽ vứt vào sọt rác... Để đổi lấy những đồng nhuận bút chết đói!l Ôi! Cái nghề văn…
Không ai tính được những đêm thấp thỏm của Balzac, những giấc ngủ hoảng loạn, chập chờn
đầy ác mộng, như giấc ngủ một kẻ bất lương.

Trang 66
67 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Ngay cả khi đã nổi tiếng... và trở thành một trong những nhà văn hàng đầu của thế kỷ
XIX... cuộc sống của ông cũng chẳng nhàn nhã vui thú gì. Chưa viết xong một tiểu thuyết đã
phải lập tức nghĩ đến cốt một tiểu thuyết khác. Balzac suốt đời khao khát một chút điều kiện
để có thể viết một tác phẩm văn học "như mình thích." Ôi! ước gì mình có 500,000 quan...
mình sẽ để thời giờ chuốt lại từng câu văn, đẽo gọt từng chi tiết... sửa đi sửa lại cho đến khi
không còn sửa được nữa... một kiệt tác, cỡ một bức tượng của Michel Ange... nó sừng sững
tồn tại với thời gian và cạnh tranh với quyền lực vô biên của tạo hóa.
Balzac không phải không kiếm được nhiều tiền... Nhưng ông tiêu còn nhiều hơn... tiền
cho mình... tiền cho bạn... cho cả đám người không quen biết thường cộng sinh trên lưng những
người lương thiện. Và Balzac lại kéo cày, lại phải viết vội... viết như bổ củi, để đến lúc sửa
morát lại dập xóa, lại thêm bớt, làm tình làm tội đám thợ sắp chữ… Và giữa tuần trăng mật với
người yêu, thành hôn sau hàng chục năm trời xa cách thương nhớ... một nữ bá tước đẹp, trẻ và
nhiều tiền ở một nước Nga huyền thoại đầy tuyết trắng, thì Chúa lại bắt ông đì. Với hàng tấn
trang viết lặc lè thồ trên lưng, làm sao người ta có thể sống lâu được… Viết... viết... buồn ngủ
lại nốc cà phê... lại đắp nước lạnh vào mặt... để lại viết. Balzac thở dài mệt mỏi. "Tôi chết vì
ba vạn tách cà phê..."
Cái chết của Balzac thật rôm rả. Tang lễ đồ sộ. Có cả vòng hoa của Hoàng Đế Napoléon
III lúc đó còn làm tổng thống nước Cộng Hòa. Ngay những kẻ thù của ông cũng viết những lời
ai điếu có thể là thành thật. Người chết rồi còn nguy hiểm cho ai nữa. Cả những nhà phê bình
bẩn bụng nhất cũng bỏ phiếu suy tôn Balzac làm nhà đại văn hào đầu bảng của thế kỷ XIX.
Xã hội có thói quen xử đẹp với người đã chết. Đó là một mỹ tục cần duy trì. Nhưng bao
giờ thì xã hội tập được thói quen xử đẹp với người còn sống nó là một đòi hỏi còn cấp thiết
hơn và đạo lý hơn. Xóa hộ nhau cái vết chàm mà mấy câu thơ xưa đã in sâu lên mặt nền văn
minh vốn mỏng manh của nhân loại.Sống thì chẳng chịu cho ăn. Đến khi chết xuống làm văn
tế ruồi. Người ta hồ hởi nghĩ việc tạc tượng Balzac…
(Trích “Tượng Balzac” - Lê Đạt)
I. PHẦN TRẮC NGHIỆM
Câu 1: Đoạn ngữ liệu trên được viết theo phương thức biểu đạt nào?
A. tự sự B. nghị luận C. thuyết minhD. chính luận
Câu 2: Phép liên kết nào được sử dụng trong hai câu văn sau:
Đi khuân vác về, mệt, có thể làm một tợp rượu rồi lăn ra ngủ giấc ngủ của "kẻ công chính,"
chuẩn bị sức cho ngày hôm sau. Người viết văn không được cái yên ổn ấy... thường sống
những đêm ân hận, dằn vặt,...
A. tỉnh lược B. nghịch đối C. thế D. nối
Câu 3: Trong đoạn trích, Balzac là một nhà văn:
A. sung sướng với tiền bạc, danh vọng đầy ắp
B. sung sướng nhưng không nổi tiếng, chỉ khi chết đi mới được tưởng nhớ đến
C. sống khổ cực trong chính nghề nghiệp của mình
D. sống khổ cực, chỉ khi chết đi mới được tưởng nhớ một cách long trọng.
Câu 4: Đâu là lời giải thích hợp lý nhất cho việc tác giả dùng từ “mỹ tục” trong câu văn: Xã
hội có thói quen xử đẹp với người đã chết. Đó là một mỹ tục cần duy trì. ?
A. Thể hiện đó là một việc nên làm, đáng làm
B. Thể hiện truyền thống đẹp đẽ của xã hội
C. Thể hiện sự mỉa mai rằng đó không thật sự là một thói quen tốt
D. Thể hiện sự mỉa mai khi họ chẳng thể làm điều đó với người đang sống.
Câu 5: Điều nào được suy ra từ đoạn ngữ liệu trên?
A. Balzac chưa bao giờ được sung sướng, được nổi tiếng khi làm nghề viết văn
B. Cái chết của Balzac chính là niềm vui sướng của những người còn lại
C. Balzac chỉ thật sự được mọi người tôn sùng, trân trọng khi ông chết đi
D. Balzac đã từng yêu và đến được với người mình yêu

Trang 67
68 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

II. PHẦN TỰ LUẬN


Câu 1: Anh/chị hãy đặt một nhan đề cho đoạn ngữ liệu trên (Không được lấy tên tác phẩm
gốc)
Câu 2: Anh/chị hiểu như thế nào về câu văn: Sống thì chẳng chịu cho ăn. Đến khi chết xuống
làm văn tế ruồi. ?
Câu 3: Anh/chị có suy nghĩ gì về cuộc đời của Balzac? Hãy chia sẻ bằng một đoạn văn ngắn
khoảng 6-10 dòng.

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI ĐỀ 1


I. PHẦN TRẮC NGHIỆM.
1. A 2. C 3. D 4. D 5. C
II. PHẦN TỰ LUẬN.
Câu Học sinh đặt nhan đề sao cho phù hợp với nội dung chủ đạo của ngữ liệu
1 Vd:
Cuộc đời Balzac
Balzac - nhà văn khổ hạnh
…..

Câu Học sinh giải thích cách bản thân hiểu về câu văn: Sống thì chẳng chịu cho ăn. Đến
2 khi chết xuống làm văn tế ruồi.
Gợi ý:
+ “chẳng chịu cho ăn”: ý chỉ việc đối xử tệ bạc
+ “làm văn tế ruồi”: được mọi người tưởng nhớ, trân trọng; nhưng thực chất lại vô
nghĩa vì người đã không còn nữa.
=> Câu nói trên có ý nghĩa mỉa mai, châm biếm việc người sống chịu nhiều đau đớn,
hắt hủi, bất công; khi chết đi thì mới được đối đãi tử tế, được trân trọng. Từ đó, tác
giả muốn khuyên chúng ta phải biết yêu thương, giúp đỡ và đùm bọc lẫn nhau khi
còn có thể, vì khi cuộc đời của ai đó chấm dứt, mọi điều ta làm cho họ đều không
còn ý nghĩa gì nữa.

Câu Học sinh nêu cảm nhận của mình về cuộc đời của Balzac dựa trên nội dung đoạn
3 ngữ liệu.
Gợi ý:
- Cuộc đời của ông gặp vô vàn những mệt nhọc, đau khổ và bất hạnh:
+ Sự cực khổ trong nghề nghiệp: không được ngủ ngon giấc, phải làm và nghĩ liên
tục, nốc rất nhiều cà phê…
+ Cuộc sống eo hẹp: tuy đã có lúc Balzac nổi tiếng nhưng cuộc sống của ông vẫn
chưa thể đảm bảo do nhuận bút bèo bọt và thói quen tiêu tiền của mình.

Trang 68
69 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

+ Cuối cùng, ông đã mất vì lao lực, mất trước khi có được hạnh phúc của riêng
mình.
- Sự sống của ông mờ nhạt trong mắt những người xung quanh, chỉ khi chết đi, ông
mới được mọi người ca ngợi, tưởng nhớ.

ĐỀ 2
Đọc văn bản sau:
DIGITAL AFTERLIFE - CUỘC ĐỜI SAU KHI CHẾT
Công nghệ lưu giữ hình ảnh người đã mất
Nym thấy còn chuyện này hay nữa nè, và nó sẽ thay đổi cách ta quan hệ với người thân, bạn
bè. Với số lượng khổng lồ dấu chân số mà một con người bỏ lại phía sau, như tin nhắn, tài
khoản Facebook, Twitter, Instagram, Snapchat, v.v. sau khi đã rời khỏi thế giới này, công nghệ
vẫn có thể thu thập hết dữ liệu lịch sử, nhờ AI xử lý, rồi tổng hợp lại thành con người số. Con
người số này có thể hiện diện ở hình dáng của chatbot, robot, hay là một con AI sống trong
máy tính. Và khi ta tương tác với người số đó, ta hoàn toàn có cảm giác như đang tương tác
với người thân đã mất của mình. Cách họ nói chuyện, dùng từ, tính khôi hài, giọng điệu, v.v.
là hoàn toàn y như người thật. Không thật sao được, vì đó chỉ là cách lập trình lại từ dữ liệu
lịch sử của chính họ đấy thôi. Công nghệ là vậy đó. Nó chạm cả vào cuộc sống sau khi chết,
mang người đã ra đi trở lại với đời.
Tưởng tượng ai đó đã mất rồi. Nhớ họ quá, bạn nhắn “Con rất nhớ ba” chẳng hạn. Xong thấy
ba nhắn lại liền: “Ba cũng rất nhớ con”. Người nghĩ sao? Nym thấy vừa quá hay, vừa quá tàn
nhẫn, vừa cực kỳ kinh khủng. Mà chuyện này đâu phải Nym bịa. Đã có người ở Nga làm thử
nghiệm rồi. Nó thật đến nỗi, mẹ của người bạn đã mất đi phải công nhận là mình đang thật sự
nói chuyện với con. Trời! Mà nếu biết ai đó mất đi mà mình vẫn còn liên hệ được thì ta có còn
trân quý giây phút hiện tại với họ không? Nếu họ đi rồi vẫn cảm ơn, xin lỗi, phân bua tán loạn
được thì ta có quá lười đến nỗi chờ đến ngày họ không còn nữa? Hay ta biết, sau khi chết họ
vẫn có thể trở thành digital human - người số, vẫn có thể ở đây nói chuyện, trao đổi và dẫn dắt
ta? Khái niệm về cái chết có lẽ sẽ khác đi, không còn là mất mát to lớn như trước nữa? Giờ kể
chuyện thiệt nè, Nym thấy trên website Eternime, dịch vụ mang người chết trở về từ quá khứ
đã có hơn 44 ngàn người đăng ký download mọi dữ liệu cuộc đời mình xuống để giữ lại tương
tác với đời sau. Một startup(*) khác, Hereafter, còn đi xa hơn là tạo ra tương tác bằng giọng
nói. Sống trong cái vỏ gì không cần biết, nhưng bạn có thể nói chuyện với họ như họ vẫn còn
sống quanh đây. “Never loose someone you love – Không bao giờ mất người thân”, họ quảng
cáo như thế. Chẳng bao lâu nữa, bạn có thể đăng ký dài hạn để lắng nghe và trò chuyện với
người thân đã mất của mình như đăng ký xem Netflix, hay có thể nhờ cả Siri, Alexa làm luôn
chuyện thay mặt họ trò chuyện với mình. Vậy, chắc người sống sẽ lo mua dịch vụ chuẩn bị
cuộc đời sau khi chết của chính mình, để giữ lại cho con cháu, người thân? Một cuộc đời rồi
chẳng đủ hay sao? Vừa bot, vừa người, vừa người số. Rồi bao nhiêu người sẽ nhờ đó mà bớt

Trang 69
70 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

đau thương mất mát Và bao nhiêu người sẽ mãi kẹt vào câu chuyện tương lai của người đã ra
đi?
(Trích “Tôi của tương lai - My future self” - Nguyễn Phi Vân, NXB Văn hóa - Văn nghệ)
* startup: người sáng lập
Câu 1: Xác định 3 phương thức biểu đạt tiêu biểu được sử dụng trong đoạn trích trên.
Câu 2: Theo đoạn trích, “con người số” có những lợi ích gì trong việc lưu giữ lại hình ảnh
người đã khuất?
Câu 3: Anh/chị hãy nhận xét về thái độ của người viết qua câu văn: Trời! Mà nếu biết ai đó
mất đi mà mình vẫn còn liên hệ được thì ta có còn trân quý giây phút hiện tại với họ không?
Nếu họ đi rồi vẫn cảm ơn, xin lỗi, phân bua tán loạn được thì ta có quá lười đến nỗi chờ đến
ngày họ không còn nữa?
Câu 4: Theo em, đoạn văn số 2 đang lập luận theo hướng như thế nào? Em nghĩ những lý lẽ
mà tác giả đưa ra có đủ thuyết phục hay chưa? Nếu đã thuyết phục, vì sao? Nếu chưa, em có
gì cần phản biện thêm không?
Câu 5: Nếu tương lai thật sự phát triển công nghệ AI tái hiện lại hình ảnh, giọng nói, cử chỉ
của người đã khuất, em có lựa chọn sử dụng nó hay không? Tại sao?

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI ĐỀ 02

Câu 3 phương thức biểu đạt tiêu biểu được sử dụng trong đoạn trích trên là: tự sự, thuyết
1 minh, nghị luận

Câu Theo đoạn trích, con người số có những lợi ích: Khi ta tương tác với người số đó, ta
2: hoàn toàn có cảm giác như đang tương tác với người thân đã mất của mình. Cách
họ nói chuyện, dùng từ, tính khôi hài, giọng điệu, v.v. là hoàn toàn y như người thật

Câu Học sinh trả lời theo góc nhìn của bản thân. Gợi ý:
3: + Thái độ của tác giả: Không đồng tình với việc sử dụng AI để tái tạo lại hình ảnh
người đã khuất, vì điều đó sẽ làm cho người ta không còn trân trọng khoảnh khắc
bên nhau khi người thân, bạn bè còn sống.
+ Từ đó, tác giả muốn khuyên chúng ta hãy chấp nhận quy luật sinh tử của cuộc
sống và hãy đối xử với nhau thật tốt khi còn có thể.

Câu Học sinh trả lời theo góc nhìn của bản thân. Gợi ý:
4: Hướng lập luận chính của đoạn số 2 giới thiệu sơ lược về công nghệ lưu giữ hình
ảnh người đã khuất, sau đó chỉ ra những hạn chế mà có lẽ rất khó để có thể nhận ra.
Học sinh tiếp tục đưa ra những suy nghĩ về hiệu quả lập luận.
Ví dụ
- Cảm thấy thuyết phục -> Vì nếu như ta biết rằng mình có thể liên lạc với một ai đó
sau khi họ mất bằng công nghệ AI, ta sẽ chẳng còn trân trọng, hoài niệm về những
lúc họ còn sống nữa. Cảm xúc nhớ thương, tiếc nuối dần sẽ không còn đậm đà nữa.

Câu Học sinh trả lời theo suy nghĩ của mình. Gợi ý:
5 Không sử dụng, vì:
- Dù AI có thể tái tạo một cách kĩ càng, tỉ mỉ; ta vẫn không thể phủ nhận một điều là
người đó đã không còn nữa, ta cũng sẽ không thể gặp lại họ. Lúc đó, AI chỉ là công
cụ giúp ta giải tỏa cảm xúc, chứ không phải là một giải pháp hữu hiệu để giúp họ tái
sinh.
- Nếu công nghệ ấy được ưa chuộng, nếu mọi người biết mình có thể liên lạc với
một ai đó sau khi họ mất, liệu ta có còn muốn hết lòng yêu thương họ lúc họ còn

Trang 70
71 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

sống hay không? Rồi đến bao lâu ta mới có thể tiếp tục bước tiếp trên hành trình của
mình? Người đã khuất vốn dĩ không thể trở lại một cách trọn vẹn được, nhưng
người sống thì vẫn phải tiếp tục sự sống của mình. Ta chỉ nên xem sự tồn tại của họ
là một kỉ niệm để mãi nhớ, mãi trân trọng. Đó là một điều tưởng như đơn giản
nhưng lại vô cùng thiêng liêng.

ĐỀ 3
Đọc đoạn ngữ liệu sau và trả lời câu hỏi
KÝ ỨC ĐAU THƯƠNG CỦA MARIAM (*)
Ở bờ suối, Mariam đợi đúng chỗ họ đã hẹn ngày hôm trước. Trên bầu trời, một vài đám
mây xám hình bông hoa lơ đãng trôi qua. Bố Jalil đã dạy cô rằng những đám mây xám có màu
như vậy bởi chúng dày đến mức phần trên đỉnh hấp thụ ánh sáng mặt trời và chiếu cái bóng
của chính mình xuống khắp phần đáy. Đó là cái con thấy đấy, Mariam bé bỏng à, ông nói, bóng
tối ở dưới đáy của nó.
Một quãng thời gian nữa trôi qua.
Mariam quay trở lại kolba. Lần này cô vòng qua rìa phía Tây của khu đất trống để
không phải đi qua chỗ mẹ Nana. Cô xem lại đồng hồ. Đã gần một giờ rồi.
Bố là doanh nhân, Mariam nghĩ. Hẳn bố đang bận việc gì đó.
Cô quay trở lại con suối và đợi một lúc lâu hơn. Một bầy chim két liệng vòng tròn trên
đầu cô rồi nhào xuống đám cỏ đây đó. Cô thấy một con sâu bướm đang bò trên gốc một cây kế
non.
Cô đợi đến khi hai chân đã tê cứng. Lần này cô không quay trở lại kolba nữa. Cô xắn
ống quần lên tới đầu gối rồi lội qua suối, và lần đầu tiên trong đời cô đi xuống đồi, hướng về
Herat.
Mẹ Nana cũng lại nói sai về Herat. Không ai chỉ trỏ. Không ai cười nhạo. Mariam bước
đi trên những đại lộ náo nhiệt và đông đúc với những hàng bách thẳng tắp, bước giữa dòng
người đi bộ, đi xe đạp và những chiếc gari được la kéo, và không ai ném đá vào cô. Không ai
gọi cô là harami. Thậm chí hầu như không ai để ý đến cô. Thật ngạc nhiên và kỳ diệu, ở đây
cô là một người bình thường.
Cô đứng một lúc bên bồn nước hình ô van ở giữa một công viên lớn, chằng chịt những
con đường rải sỏi bắt chéo nhau. Cô mân mê một cách thích thú những con ngựa xinh đẹp làm
bằng cẩm thạch đứng quanh mép bồn đang nhìn chằm chằm xuống nước bằng những con mắt
trắng đục. Cô chú ý đến mấy cậu bé trai đang thả thuyền giấy. Cô nhìn thấy hoa ở khắp mọi
nơi, hoa tuy líp, hoa huệ tây, dạ yến thảo, những cánh hoa rạng rỡ trong ánh mặt trời. Mọi
người đi bộ dọc trên đường, ngồi trên ghế đá và nhâm nhi tách trà.
Mariam hầu như không thể tin được là cô đang ở đây. Trái tim cô đập liên hồi vì phấn
khích. Cô ước gì Giáo sĩ Faizullah có thể thấy cô lúc này. Ông sẽ thấy cô mới gan dạ làm sao.
Thật dũng cảm biết bao! Cô đã chọn cho mình một cuộc sống mới đang chờ đợi cô ở thành phố
này, một cuộc sống với bố, với các anh chị em, một cuộc sống nơi cô sẽ trao đi và được nhận
lại tình yêu thương, nơi không có sự chờ đợi, e dè hay hổ thẹn.
Cô tung tăng bước trở lại con đường lớn gần công viên. Cô đi qua những người bán
hàng rong già nua, khuôn mặt nhăn nheo đang ngồi dưới bóng cây tiêu huyền, bình thản nhìn
cô từ phía sau những tháp trái sê ri và đụn nho. Những cậu bé chân trần chạy đuổi theo ô tô và
xe bus, tay huơ huơ mấy túi quả mộc qua. Mariam đứng ở góc đường quan sát dòng người qua
lại mà không thể hiểu tại sao họ có thể thờ ơ như vậy trước những điều kỳ diệu ở xung quanh.

Trang 71
72 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Sau một lúc, cô lấy hết dũng khí hỏi thăm một người đàn ông đứng tuổi sở hữu chiếc
gari có la kéo, xem ông ấy có biết Jalil, chủ rạp phim, sống ở đâu không. Ông già có hai má
phúng phính và mặc chiếc chapan bảy sắc cầu vồng. “Cháu không sống ở Herat có phải
không?” ông nói vẻ thân thiện. “Mọi người đều biết Jalil Khan sống ở đâu.”
“Ông có thể chỉ cho cháu được không?”
Ông già bóc một chiếc kẹo bơ cứng bọc trong giấy và nói, “Cháu đi một mình à?”
“Vâng ạ.”
“Trèo lên đây. Ông sẽ đưa cháu đi.”
“Cháu không thể trả tiền cho ông. Cháu không có tiền.”
Ông đưa cho cô bé chiếc kẹo. Ông nói rằng ông không có khách đã hai tiếng rồi và
đằng nào cũng đang định về nhà. Nhà Jalil trên đường ông đi về.
(...)Mariam nhảy xuống. Ông già mỉm cười và đánh xe đi tiếp.
Mariam chưa từng được chạm vào xe hơi. Cô bé lướt tay quanh cái mui xe của Jalil,
một chiếc xe hơi màu đen, bóng nhoáng, với những vành xe sáng choang nơi Mariam có thể
nhìn thấy được hình ảnh của mình bị dẹt đi và kéo rộng ra. Ghế xe được làm bằng da màu
trắng. Đằng sau bánh lái, Mariam nhìn thấy những bảng điều khiển ốp kính gắn kim đồng hồ
bên trong.
Trong một thoáng, Mariam nghe thấy giọng nói của mẹ Nana vang lên trong đầu, nhạo
báng và dập tắt những hy vọng âm ỉ, le lói trong cô. Đôi chân run run, Mariam tiến tới cửa
trước của ngôi nhà. Cô đặt tay lên tường. Những bức tường nhà bố Jalil mới cao làm sao, mới
ẩn tàng nhiều bất trắc làm sao. Cô phải nghển cổ mới thấy được những ngọn cây bách nhô ra
từ phía bên kia. Những ngọn cây đung đưa trong gió và cô tưởng tượng thấy chúng đang gật
đầu đón chào cô. Mariam phải cố trấn tĩnh lại khi đột nhiên cảm thấy mình mất hết can đảm.
Một cô gái trẻ đi chân trần ra mở cửa. Chị ta có một hình xăm ở dưới môi dưới.
“Em đến gặp Jalil Khan. Em là Mariam. Con gái của ông ấy.”
Gương mặt cô gái thoáng một chút bối rối. Rồi chị nhanh chóng nhớ ra. Chị hơi mỉm
cười và có phần hồ hởi. “Đợi ở đây nhé,” chị nói nhanh.
Cánh cửa đóng lại.
Vài phút trôi qua. Rồi một người đàn ông ra mở cửa. Ông ta dáng người cao, vai vuông
vức, đôi mắt ngái ngủ và gương mặt điềm tĩnh.
“Tôi là tài xế của Jalil Khan,” ông ta nói, giọng khá tử tế.
“Là gì của ông ấy cơ ạ?”
“Là lái xe của ông ấy. Jalil Khan không có ở đây.”
“Cháu nhìn thấy xe của ông ấy,” Mariam nói.
“Ông ấy đi vắng vì bận việc gấp.”
“Khi nào thì ông ấy về ạ?”
“Ông ấy không nói.”
Mariam nói cô sẽ đợi.
Ông ta đóng cổng lại. Mariam ngồi xuống, thu gối vào sát ngực. Trời sắp tối rồi và cô
dần cảm thấy ngày càng đói. Cô ăn chiếc kẹo bơ cứng của người đánh xe gari. Một lát sau,
người lái xe lại xuất hiện.
“Cháu phải về nhà đi,” ông ta nói. “Không đầy tiếng nữa thôi là trời tối rồi.”
“Cháu quen với bóng tối rồi.”
“Trời cũng sẽ lạnh đấy. Bác lái xe đưa cháu về nhà nhé? Bác sẽ bảo với ông ấy là cháu đã đến
đây.”
Mariam nhìn ông chăm chăm.
“Thế thì bác sẽ đưa cháu đến khách sạn. Ở đó cháu có thể ngủ thoải mái. Sáng mai chúng ta sẽ
xem xem có thể làm gì.”
“Cho cháu vào trong nhà đi.”

Trang 72
73 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

“Bác đã được lệnh không được làm thế. Nghe này, không ai biết được khi nào ông ấy sẽ về.
Có thể mất nhiều ngày đấy.”
Mariam khoanh tay.
Người lái xe thở dài và nhìn cô bé với ánh mắt hơi trách móc.
Những năm sau đó, nhiều lần Mariam đã suy nghĩ không biết cuộc đời của cô sẽ như
thế nào nếu cô để người lái xe đưa quay trở về kolba. Nhưng cô đã từ chối. Cô ở cả đêm bên
ngoài nhà của Jalil. Cô nhìn màn đêm buông xuống, ngắm bóng tối dần nhấn chìm những dãy
nhà xung quanh. Cô gái có hình xăm mang cho cô một ít bánh mì và một đĩa cơm nhưng
Mariam nói cô không muốn ăn. Cô gái đặt đồ ăn xuống cạnh Mariam. Thỉnh thoảng, Mariam
nghe thấy tiếng bước chân trên phố, tiếng những cánh cửa mở ra, tiếng chào nhau khe khẽ. Đèn
điện được bật lên và những ô cửa sổ tỏa ánh sáng nhàn nhạt. Mấy con chó cất tiếng sủa. Khi
không thể chịu nổi cái đói nữa, Mariam ăn đĩa cơm và cái bánh mì. Rồi cô nghe thấy tiếng dế
kêu ngoài vườn. Trên đầu, mây trôi che khuất ánh trăng lay lắt.
Đến sáng, Mariam bị lay dậy. Mariam nhận ra đêm qua, ai đó đã đắp cho cô một cái
chăn.
Người lái xe đang lay vai cô.
“Thế này là đủ rồi. Cháu làm loạn hết lên rồi đấy. Rối tung hết cả. Đã đến lúc phải đi
rồi.”
Mariam ngồi dậy, dụi dụi mắt. Lưng và cổ cô đều đau nhức. “Cháu sẽ đợi ông ấy.”
“Nhìn ta đây này,” ông ta nói. “Jalil Khan nói rằng ta phải đưa cháu quay về bây giờ.
Ngay bây giờ. Cháu có hiểu không? Chính Jalil Khan nói như vậy.”
Người đàn ông mở cánh cửa khách phía sau dẫn vào trong xe. “Bia, đi nào,” ông ta nói nhẹ
nhàng.
“Cháu muốn gặp ông ấy,” Mariam nói. Nước mắt cô giàn giụa.
Người lái xe thở dài. “Để ta đưa cháu về nhà. Đi nào, dokhtar jo.”
Mariam đứng lên đi về phía ông. Nhưng rồi, đến phút chót, cô đổi hướng và chạy về
phía cổng trước. Cô cảm thấy những ngón tay của người lái xe đang lóng ngóng tóm lấy vai
cô. Cô đẩy ông ta ra và lao qua cánh cổng đang mở.
Chỉ trong vài giây, Mariam đã ở trong vườn nhà Jalil, mắt dán chặt vào một khu nhà
kính có cây cối bên trong, cả những cây nho quấn quanh dàn gỗ, một cái hồ cá bằng đá xám,
cây ăn quả và những bụi hoa tươi sáng có mặt khắp mọi nơi. Ánh mắt cô lướt qua tất cả những
thứ này trước khi bắt gặp một khuôn mặt ở cửa sổ trên tầng. Gương mặt đó chỉ xuất hiện trong
một giây nhưng thế cũng đủ rồi. Đủ để Mariam nhìn thấy đôi mắt mở to và cái miệng há hốc.
Rồi nó biến mất. Một bàn tay hiện ra và vội vàng kéo dây. Rèm cửa sập xuống.
Sau đó, có một đôi tay xốc nách và nhấc cô lên khỏi mặt đất. Chân Mariam giãy giụa.
Những viên sỏi rơi ra khỏi túi áo. Mariam tiếp tục giãy giụa và kêu khóc trong lúc cô được
mang ra ô tô và được đặt xuống chiếc ghế sau bọc da lạnh lẽo.
Người lái xe vừa lái vừa nói với giọng an ủi. Mariam không nghe ông nói. Trên suốt
chặng đường, cô lăn lộn trên ghế sau và khóc. Đó là giọt nước mắt của sự đau đớn, của nỗi
căm giận, của những ảo tưởng bị tan vỡ. Nhưng hơn hết, đó là những giọt nước mắt của nỗi hổ
thẹn sâu sắc bởi cô đã ngu ngốc làm sao khi đã toàn tâm toàn ý vì Jalil, khi đã phải đắn đo mặc
chiếc váy gì, đắn đo về chiếc hijab không hợp màu, rồi còn phải đi bộ cả chặng đường để đến
đây, kiên quyết không rời đi, ngủ trên đường như một con chó lạc. Và cô thấy hổ thẹn vì đã
không đếm xỉa đến ánh mắt buồn khổ và đôi mắt sưng húp của mẹ. Mẹ Nana đã cảnh báo cô,
và tới giờ bà đã hoàn toàn đúng.
Mariam không ngừng nghĩ đến khuôn mặt của ông bên cửa sổ trên tầng. Ông để cô ngủ
ngoài đường. Trên đường phố. Mariam nằm xuống mà khóc. Cô không ngồi lên, không muốn
bị nhìn thấy. Cô tưởng tượng ra cảnh sáng nay cả Herat đã thấy cô tự làm nhục bản thân như
thế nào. Cô ước gì Giáo sĩ Faizullah đang ở đây để cô có thể dụi đầu vào lòng ông và để ông
xoa dịu nỗi đau này.

Trang 73
74 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Được một lúc, con đường trở nên gập ghềnh hơn và mũi xe cứ chĩa dần lên. Họ đang
trên con đường dốc ngược nằm giữa Herat và Gul Daman.
Cô sẽ nói gì với mẹ Nana đây, Mariam tự hỏi mình. Cô sẽ xin lỗi mẹ như thế nào?
Thậm chí làm sao mà cô có thể đối diện với mẹ bây giờ?
Chiếc xe dừng lại và người lái xe giúp cô bước ra ngoài. “Ta sẽ dẫn cháu về nhà,” ông
nói. Cô để ông đưa sang đường và đi lên con đường mòn. Ven đường có những cây kim ngân
mọc và cả cỏ sữa đang vươn mình. Ong kêu vo vo trên những bông hoa dại sáng lấp loáng.
Người lái xe cầm tay cô và giúp cô qua suối. Rồi ông để cô tự đi và nói về chuyện đợt gió kéo
dài một trăm hai mươi ngày nổi tiếng của Herat sắp bắt đầu thổi, suốt từ giữa sáng cho đến tối,
và chuyện những con ruồi cát sẽ bước vào bữa tiệc ăn uống điên cuồng, và rồi đột nhiên ông
đứng sững lại trước mặt cô, cố gắng che mắt cô và vừa đẩy cô quay ngược lại con đường vừa
nói, “Quay trở lại! Không! Đừng nhìn. Quay lại. Quay trở lại!”
Nhưng không còn kịp nữa rồi. Mariam đã nhìn thấy. Một cơn gió mạnh chợt thổi rẽ tấm
rèm bằng những cành liễu rủ và Mariam nhìn thấy thứ đang hiển hiện dưới gốc cây: chiếc ghế
có lưng tựa bị đổ lật ngược. Sợi dây thừng thõng xuống từ một cành cây cao. Mẹ Nana đang
treo lủng lẳng ở đầu dây.
(Trích “Ngàn mặt trời rực rỡ”, Khaled Hosseini, NXB Văn học)
(*Nhan đề được đặt bởi người viết tài liệu)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1: Hãy điền vào bảng sau những sự kiện, tình tiết em đọc được từ đoạn ngữ liệu trên
- Trước khi quyết định tự đi tìm cha của mình, Mariam đã:
_______________________________________________________________________________________
- Mariam đã làm gì khi đến nơi?
_______________________________________________________________________________________
- Cảm xúc của Mariam như thế nào?
_______________________________________________________________________________________
- Khi quay trở về, điều gì đã xảy ra?
_______________________________________________________________________________________
Câu 2: Hãy hoàn thành bản so sánh sau
CẢM XÚC, THÁI ĐỘ CỦA MARIAM

Trước khi gặp người cha Sau khi nhận ra mọi việc

Từ đó, nêu cảm nhận của em về sự thay đổi này.


Câu 3: Em hãy tìm một vài từ ngữ, câu văn để thể hiện sự tò mò của Mariam. Em có cảm nhận
gì về những câu văn ấy?
Câu 4: Theo em, tình huống truyện trên có phải là tình huống nhận thức hay không? Vì sao?
Câu 5: Theo em, tại sao người mẹ Nana lại tự sát? Nếu được sửa lại đoạn kết của trích đoạn,
em sẽ sửa như thế nào, hoặc giữ lại, tại sao?
Câu 6: Có ý kiến cho rằng “Hành động tự đi tìm cha của Mariam vừa đáng thương, vừa đáng
trách”. Em hãy bình luận cả hai khía cạnh trên và nêu suy nghĩ của bản thân.

Trang 74
75 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI ĐỀ 3


Câu Để thực hiện được câu này, em cần phải:
1 - Đọc lướt nhanh một lượt để hiểu nội dung chính của đoạn trích.
- Đọc lần thứ hai và chú ý hơn vào yêu cầu của đề bài. Em có thể dùng lại cách diễn
đạt của tác giả hoặc sử dụng chính góc nhìn của mình (miễn là phù hợp).

Câu Để thực hiện được câu này, em cần:


2 - Xác định những đoạn văn thể hiện bối cảnh nội dung “trước khi gặp cha”, bỏ qua
một số tình tiết không quan trọng và tập trung đọc sâu những câu văn, từ ngữ miêu
tả cảm xúc, thái độ của Mariam. Thực hiện tương tự với những đoạn văn thể hiện
nội dung ở cột thứ 2
- Đọc kĩ lại bảng so sánh giữa hai cột, sau đó nêu cảm nhận của em về sự thay đổi
giữa cột 1 và cột 2.

Câu Để thực hiện tốt câu này, em cần:


3 - Xác định được phạm vi các đoạn chứa nội dung liên quan đến sự tò mò của
Mariam.
- Từ đó, gạch chân hoặc đánh dấu vào những câu văn mà thể hiện được nội dung
cần tìm. Sau đó nêu cảm nhận của em.

Câu Để thực hiện được câu này, em cần:


4 - Lưu ý lại định nghĩa tình huống truyện, các loại tình huống truyện: nhận thực,
hành động, tâm lý,...
- Thử tự liệt kê các tình huống diễn ra trong truyện và phân loại chúng.
- Trả lời câu hỏi đề bài và nêu lý do (có thể dựa vào cốt truyện để lý giải)

Câu Để thực hiện được câu này, em cần:


5 - Đọc và cảm nhận đoạn văn thể hiện nội dung.
- Thử đặt mình vào vị trí của người mẹ, của tác giả để cảm nhận và nêu lý do dựa
trên góc nhìn của bản thân.
- Suy nghĩ ra một vài kịch bản có thể diễn ra nếu em chọn cái kết khác. Sau đó, cân
nhắc xem các kịch bản đó có làm giảm độ hay hay làm cho chủ đề tư tưởng của
đoạn trích bị mờ nhạt đi hay không.

Trang 75
76 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Câu Để thực hiện được câu này, em cần:


6 - Nắm chắc đoạn ngữ liệu, các thông tin liên quan đến cô bé Mariam.
- Trả lời các câu hỏi theo 2 khía cạnh. Mỗi khía cạnh em cần nêu ra được những lập
luận, bằng chứng.
- Nêu suy nghĩ của em (Em nghiêng về bên nào hơn, có suy nghĩ hay bổ sung gì về
ý kiến ấy hay không).

ĐỀ 4
Đọc văn bản sau:
HỌA BÌ
(Bộ da vẽ)
Vương Sinh vốn người Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây) sáng sớm ra đường gặp một
nữ lang ôm bọc quần áo đi mau một mình, có vẻ rất mệt nhọc, vội vượt lên nhìn thì thấy tuổi
khoảng đôi tám, dung mạo tuyệt đẹp. Trong lòng ưa thích bèn hỏi "Sao còn sớm mà đã đi lẻ
loi một mình thế?”, nàng đáp “Khách qua đường hiểu sao được nỗi lo buồn của kẻ khác, hỏi
làm gì cho mệt?”. Sinh hỏi "Nàng có điều gì lo buồn vậy? Nếu giúp được thì ta không từ chối
mà". Cô gái buồn bã đáp "Cha mẹ tham tiền bán thiếp cho nhà quan, vợ lớn cả ghen sớm hôm
đánh đập chửi mắng làm nhục, không chịu nổi nên phải trốn đi". Sinh hỏi định đi đâu, nàng
đáp "Người đi trốn thì làm sao có nơi mà định trước được?". Sinh nói “Tệ xá không xa, mời
nàng ghé qua", cô gái mừng rỡ đi theo.
Sinh mang hộ bọc quần áo, đưa nàng cùng về. Cô gái thấy nhà không có ai bèn hỏi sao
không có người nhà, sinh đáp đây chỉ là phòng sách thôi, nàng nói "Nơi này tốt lắm. Chàng
như thương xót mà cứu giúp thiếp thì xin giữ kín đừng nói với ai". Sinh ưng thuận, kế cùng
nàng chung chạ, giấu diếm trong phòng kín qua mấy ngày cũng không ai hay. Sinh nói hé với
vợ là Trần thị, vợ ngờ là nàng hầu vợ lẽ của nhà đại gia, khuyên để cô ta đi nhưng sinh không
nghe. Ngẫu nhiên đi ngang chợ, gặp một đạo sĩ nhìn sinh kinh ngạc hỏi gặp gì lạ rồi, sinh đáp
không có gì cả. Đạo sĩ nói “Người ông đầy tà khí, sao lại nói là không?”, sinh lại cố chối. Đạo
sĩ bèn bỏ đi, nói "Mê muội thay, trên đời vẫn có kẻ sắp chết đến nơi mà chưa tỉnh ngộ!".
Sinh thấy lời nói lạ lùng cũng hơi ngờ cô gái, nhưng lại nghĩ rõ ràng là một mỹ nữ sao
đến nỗi là yêu quái được nên cho rằng đạo sĩ mượn tiếng trừ tà để kiếm ăn. Lát sau về tới nhà
học, thấy bên trong đóng chặt không vào được lấy làm ngờ vực, bèn trèo qua chỗ tường lở vào
thì cửa phòng cũng đóng. Sinh rón rén tới trước cửa sổ nhìn vào, thấy một con quỷ hung ác
mặt xanh lè, răng chơm chởm như lưỡi cưa đang trải một tấm da người ra giường, lấy bút màu
tô lên. Tô xong ném bút nhấc tấm da như tấm áo khoác lên người, liền biến thành cô gái. Sinh
thấy thế cả sợ, bò xuống lẻn ra, vội vàng đi tìm đạo sĩ thì không biết đã đi đâu, tìm kiếm khắp
nơi mới gặp ngoài đồng, quỳ xuống xin cứu mạng.
Đạo sĩ nói "Xin sẽ đuổi đi giúp ông. Con quỷ ấy cũng khốn khổ mới tìm được người
thay, ta cũng không nỡ hại mạng nó”. Liền lấy chiếc phất trần đưa sinh, dặn treo ở cửa phòng
ngủ rồi từ biệt, hẹn gặp lại ở miếu Thanh Đế. Sinh về không dám tới nhà học bèn vào phòng
vợ ngủ, treo phất trần lên cửa. Khoảng canh một nghe ngoài cửa có tiếng lạch cạch, không dám
nhìn bèn bảo vợ ra nhìn xem. Chỉ thấy cô gái tới, thấy chiếc phất trần thì không dám bước tới
nữa, đúng nghiến răng hồi lâu rồi bỏ đi. Giây lát lại quay lại mắng "Đạo sĩ chỉ dọa ta! Chẳng
lẽ miếng ăn đã đến miệng lại nhả ra à?" Rồi chụp chiếc phất trần bẻ nát, phá cửa sấn vào, lên
thẳng giường sinh nằm xé bụng móc lấy quả tim bỏ đi.

Trang 76
77 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Vợ sinh la lên, tỳ nữ vào soi đèn thì sinh đã chết, khoang bụng máu me bê bết, Trần thị
sợ khóc không thành tiếng. Hôm sau sai em chồng là Nhị Lang chạy tới kể với đạo sĩ, đạo sĩ
tức giận nói “Ta đã thương tình mà con quỷ này lại dám làm thế”. Lập tức theo em sinh tới thì
cô gái đã biến mất, bèn ngẩng đầu nhìn quanh rồi nói “May là nó trốn chưa xa”. Lại hỏi dãy
nhà phía nam là nhà ai, Nhị Lang đáp “Đó là nhà tiểu sinh”. Đạo sĩ nói “Nó đang ở nhà ông",
Nhị Lang ngạc nhiên nói là chưa hề có. Đạo sĩ hỏi "Vậy có ai không quen tới chưa?”. Nhị Lang
đáp "Ta tới miếu Thanh Đế nên không biết, để về hỏi lại”.
Rồi đi một lúc thì quay lại nói "Quả là có. Sáng nay có một bà già tới xin làm thuê, vợ
ta giữ lại, hiện còn ở đó". Đạo sĩ nói “Chính nó đấy”, liền cùng đi qua, cầm kiếm gỗ đứng giữa
sân gọi "Yêu nghiệt ra đền phất trần cho ta!". Bà già trong nhà hốt hoảng tái mặt, ra cửa toan
chạy. Đạo sĩ đuổi theo chém ngã lăn ra, tấm da người tuột xuống, bà ta hóa thành con quỷ nằm
kêu rống như heo. Đạo sĩ lấy kiếm gỗ chặt đầu, thân nó biến thành đám khói dày xoáy tròn trên
mặt đất. Đạo sĩ lấy ra một cái hồ lô mở nút đặt vào giữa đám khói, nghe kêu vu vu như huýt
sáo, trong chớp mắt đám khói mất hết, đạo sĩ nút hồ lô lại bỏ vào túi. Cùng nhìn lại tấm da
người thấy đủ cả mày mắt tay chân, đạo sĩ cuốn lại, tiếng kêu như cuốn trục tranh, cũng bỏ vào
túi rồi từ biệt toan đi.
Trần thị đón lại lạy lục trước cổng, khóc lóc xin cứu chồng sống lại, đạo sĩ từ tạ là
không làm được. Trần thị càng đau xót, quỳ rạp không đứng dậy, đạo sĩ ngẫm nghĩ rồi nói
“Phép thuật của ta kém cỏi, thật không làm người chết sống lại được. Ta chỉ cho một người
may ra có thể làm được, tới cầu chắc có kết quả”. Hỏi là ai, đạo sĩ đáp “Trong chợ có một
người điên hay nằm trên đống phân, thử tới khẩn cầu xem. Nếu y buông tuồng làm nhục phu
nhân, xin phu nhân cũng đừng tức giận".
Nhị Lang cũng biết người ấy bèn từ biệt đạo sĩ, cùng chị dâu đi tìm. Thấy người ăn mày
đang ngu ngơ ca hát trên đường, nước mũi lòng thòng, vô cùng bẩn thỉu. Trần thị lê gối tới
trước mặt, y cười nói “Người đẹp yêu ta à?", Trần thị kể mọi chuyện xong y lại cười lớn nói
"Ai cũng là chồng được mà, cứu sống lại làm gì?”. Trần thị cố kêu van, y nói “Lạ thật, ai đâu
chết mà nhờ ta cứu sống, ta là Diêm Vương à?", rồi tức giận lấy gậy đánh Trần thị.
Trần thị cắn răng chịu đau, người trong chợ dần xúm lại xem đông nghẹt. Người ăn
mày khạc một vốc đờm vào tay rồi dí vào miệng Trần thị nói “Ăn đi!". Trần thị đỏ bừng mặt
tỏ vẻ ngần ngại, nhưng nhớ lại lời đạo sĩ dặn bèn nhắm mắt nuốt vào, tới cổ họng thấy vướng
như nắm bông, nghèn nghẹn trôi xuống rồi dùng lại ở ức. Người ăn mày cười lớn nói "Người
đẹp yêu ta thật!" rồi đứng lên đi thẳng không ngoái lại. Trần thị theo sau thấy y vào trong miếu,
bước mau theo để khẩn cầu thì không biết đã đi đâu mất, tìm khắp trước sau không thấy tăm
hơi đành vừa thẹn vừa giận trở về.
Đã xót chồng không may chết thảm, lại hối mình chịu nhục nuốt đờm, ôm mặt kêu khóc
chỉ muốn chết ngay. Kế chùi máu liệm xác chồng, người nhà cứ đứng xa nhìn không ai dám
tới gần, Trần thị ôm thây nhặt ruột, vừa xếp vừa khóc. Khóc đến lúc thất thanh chợt cái vật
vướng trong ức trào ra, chưa kịp quay đi nó đã rơi vào trong khoang bụng xác chết. Hoảng sợ
nhìn lại thì là một quả tim người đang đập thon thót, hơi nóng bốc nghi ngút như khói, lấy làm
lạ vội lấy hai tay khép bụng chồng lại, cố sức giữ chặt, hơi nới tay thì hơi nóng từ khe hở bốc
ra, bèn xé lụa buộc mau lại. Sờ vào xác chồng thấy dần dần ấm lại bèn lấy chăn đắp lên, nửa
đêm mở ra xem thì thấy mũi có hơi thở.
Đến sáng thì sinh sống lại, nói vừa giật mình như nằm mơ tỉnh dậy, chỉ thấy bụng nhoi
nhói đau. Nhìn lại chỗ bị xé rách thấy đóng vẩy to như đồng tiền, sau dần lành lại.
Dị Sử thị nói: Người đời ngu thay! Rõ ràng là yêu quái mà cho là người đẹp. Người
ngu mê muội thay! Rõ ràng là lời ngay mà cho là nói bậy. Nhưng mê đắm sắc đẹp mà muốn
chiếm lấy, thì vợ cũng phải chịu cái nhục nuốt đờm của người khác. Đạo trời tuần hoàn, nhưng
người ngu vẫn mê muội không tỉnh ngộ, đáng thương lắm thay.
(Trích Quyển 1, chương 14, “Liêu trai chí dị”,
Bồ Tùng Linh, Cao Tự Thanh dịch)

Trang 77
78 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Thực hiện các yêu cầu sau:


Câu 1: Xác định phong cách ngôn ngữ chính của văn bản trên.
Câu 2: Hãy tóm tắt lại văn bản bằng một đoạn văn ngắn.
Câu 3: Theo đoạn trích, người đạo sĩ đã tiêu diệt yêu quái Họa bì bằng cách nào?
Câu 4: Theo anh/chị, sự xuất hiện của nhân vật người ăn mày trong truyện có ý nghĩa gì?
Câu 5: Anh/chị hãy nhận xét về nhân vật người vợ Trần thị trong văn bản trên.
Câu 6: Anh/chị hãy nêu suy nghĩ của mình về thông điệp được đúc kết ở đoạn văn cuối
cùng.

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI ĐỀ 04


Câu Phong cách ngôn ngữ chính của văn bản trên là nghệ thuật
1

Câu Học sinh tự tóm tắt văn bản theo góc nhìn của mình.
2 Gợi ý:
Vương Sinh tình cờ gặp một thiếu nữ đang trong hoàn cảnh khó khăn. Vì ham mê sắc
đẹp của nàng mà Sinh đã đưa nàng về phòng sách. Trong một lần lén nhìn vào phòng
sách, Sinh tá hỏa phát hiện cô gái ấy là một con quỷ khoác tấm da người vào. Sinh
bèn tìm tới người đạo sĩ nhờ giúp. Người đạo sĩ đưa cho anh một cây phất trần để
chống lại nó, nhưng con quỷ lại không sợ hãi mà xông vào móc tim của anh rồi bỏ đi.
Sau đó, người đạo sĩ đã thành công thu phục con yêu quái và chỉ dẫn cho Trần thị -
vợ Sinh - cách để chồng sống lại. Làm theo lời đạo sĩ, Trần thị tìm người ăn mày, van
xin, ấm ức nuốt cục đờm của hắn. Tuyệt vọng, Trần thị khóc nấc lên, cục đờm văng
vào lồng ngực Sinh, trở thành quả tim và giúp anh sống lại.

Câu Người đạo sĩ đã tiêu diệt yêu quái họa bì bằng cách:
3 - Chém bà lão ngã lăn ra, khiến con quỷ tuột bộ da người.
- Hạ gục con quỷ, sau đó dùng hồ lô để hút yêu khí mà nó tỏa ra sau khi chết.

Câu Học sinh trả lời theo góc nhìn và trải nghiệm đọc của mình.
4 Gợi ý:
Nhân vật người ăn mày xuất hiện với hai vai trò:
- Là người đã cứu mạng của Sinh
- Là người thử thách tình cảm của người vợ với chồng
- Là người bộc lộ chủ đề tư tưởng của tác phẩm: Vì sự ham mê sắc đẹp của chồng
mà người vợ phải ngậm đắng nuốt cay, chịu nhục nhã trước bàn dân thiên hạ.

Câu Học sinh nêu cảm nhận, đánh giá dựa trên những trải nghiệm đọc và kĩ năng được
5 học. Gợi ý:
- Trần thị là người vợ chịu thương, chịu khó, sẵn sàng chịu nhục nhã để cứu chồng.
- Trần thị cũng là một người nặng tình nghĩa, yêu thương Vương Sinh. Khi nghĩ
rằng không thể cứu được Sinh, nàng khóc rất nhiều.
=> Hình tượng người vợ xuất hiện trong truyện tuy bất lực trước thế lực của yêu ma
quỷ quái nhưng lại có thể giúp cho người chồng sống lại. Chính tình yêu thương của
nàng đã mang đến cho truyện một cái kết có hậu và những bài đọc đắt giá cho hậu
thế sau này.

Câu Học sinh đọc kĩ đoạn văn cuối cùng và nêu suy nghĩ của mình.
6 Gợi ý:

Trang 78
79 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Đoạn văn cuối là những lời phê phán của dân gian về những người ngu muội, đem
đến cái khó, cái khổ cho bản thân và người khác.
+ Sinh gặp yêu quái nhưng cho đó là một người xinh đẹp, không tin lời của đạo sĩ,
cho đó là những lời nói bậy.
+ Vì sự ham mê sắc đẹp của Sinh mà Trần thị phải chịu nhục nhã trước bàn dân
thiên hạ.
Qua câu chuyện trên, tác giả đã phản ánh thành công hiện thực xã hội lúc bấy giờ:
khi mà vẫn còn nhiều người ham mê tửu sắc, lười nhác, cứng đầu. Ngoài ra, ông
cũng bày tỏ niềm tin về sức mạnh của tình yêu thương giữa con người và con người
trong cuộc sống.

ĐỀ 5
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi
Những tượng đài nguy nga đá tảng
Sao trường tồn bằng những vần thơ
Vì trong thơ người rạng ngời tỏa sáng
Đền đài kia theo năm tháng phai mờ.

Mọi công trình xa hoa lộng lẫy


Sẽ nát tan bởi chinh chiến điêu tàn
Nhưng thanh gươm thần chiến tranh rực cháy
Trước người, và thơ, cũng phải tiêu tan.

Trang 79
80 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Qua sự chết và muôn trùng tàn hại


Người hiên ngang tiến vào cõi huy hoàng
Cho hậu thế muôn đời nhớ mãi
Đến tận ngày trời đất tan hoang

Giờ cánh chung người hồi sinh thức dậy


Bởi trong thơ, sức sống vẫn tràn đầy.
(Sonnet 55 - William Shakespeare, Kim Lưu dịch)
Câu 1 (1đ): Xác định thể thơ và phương thức biểu đạt chính của bài thơ trên.
Câu 2 (1đ): Xác định nội dung chủ đạo của bài thơ trên.
Câu 3 (2đ): Chỉ ra và nêu tác dụng của phép so sánh không ngang bằng trong khổ thơ đầu
tiên:
Những tượng đài nguy nga đá tảng
Sao trường tồn bằng những vần thơ
Vì trong thơ người rạng ngời tỏa sáng
Đền đài kia theo năm tháng phai mờ.
Câu 4: Khi đọc khổ thơ thứ 3, anh/chị có nhận xét gì về sức sống của văn chương?
Câu 5: Anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ đánh giá giá trị nghệ thuật và nội
dung của bài thơ trên.

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI ĐỀ 5

Câu Nội dung

1 - Thể thơ tự do
- Phương thức biểu đạt chính: Biểu cảm

2 - Nội dung chủ đạo: Bài thơ nói về sức sống của văn chương với cuộc đời và thời
đại. Con người có thể chết đi, những đền đài nguy nga có thể bị sụp đổ; chỉ có văn
chương là mãi mãi vẹn nguyên những giá trị của mình.

3 - Phép so sánh không ngang bằng: “Sao trường tồn bằng….”


- Tác dụng:
+ Về mặt nghệ thuật: Làm cho câu thơ trở nên sinh động, khơi gợi cảm xúc, cung
cấp thêm thông tin cho độc giả về sự vật, sự việc được nhắn đến.
+ Về mặt nội dung: Phép so sánh không ngang bằng đã làm góp phần làm nổi bật
thêm sức sống của văn chương. Những tượng đài nguy nga, đá tảng tưởng chừng

Trang 80
81 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

như vô cùng bền vững nhưng lại không thể bằng sức sống mãnh liệt của văn
chương.

4 Áp dụng kĩ năng đọc và phân tích 1 đoạn thơ:


Phân tích, giải thích từng hình ảnh, biện pháp nghệ thuật -> Nêu cảm nhận về đoạn
thơ
Qua sự chết và muôn trùng tàn hại
Người hiên ngang tiến vào cõi huy hoàng
Cho hậu thế muôn đời nhớ mãi
Đến tận ngày trời đất tan hoang
Câu thơ đã thể hiện rõ nét những tượng đài bất tử của những con người dám đương
đầu với “sự chết” và “muôn trùng tàn hại”. Sự sống của họ có thể hữu hạn, mong
manh nhưng nếu họ dâng hiến đời mình cho cộng đồng, cho tổ quốc, cho nhân loại;
tiếng thơm của họ sẽ mãi mãi ở lại và vững bền theo năm tháng. Hình ảnh “trời đất
tan hoang” gợi đến một điểm kết thúc xa xôi của mọi thứ, và cũng là một lời hứa hẹn
rằng danh tiếng, vẻ đẹp của những con người ấy sẽ còn mãi cho đến khi mọi thứ
hoàn toàn chấm dứt. Ngoài ra, ta cũng có thể hiểu “người” ở đây chính là đại diện
cho văn chương, khi nó đã đi qua biết bao nhiêu thế hệ, biết bao nhiêu cuộc đời để
cất lên tiếng hát miên viễn mãi mãi về sau.

5 Học sinh áp dụng cách đánh giá nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm được học
trong sgk Ngữ Văn 10 và 11.
Gợi ý:
+ Nghệ thuật:
• Thể thơ tự do -> Phù hợp để thể hiện một cách đầy đủ, trọn vẹn tâm tư và
tình cảm của người cầm bút.
• Giọng điệu thơ, nhịp thơ dồn dập, hân hoan -> Như một lời khẳng định bền
vững về sức sống của văn chương.
• Hình ảnh thơ sinh động với nhiều phép so sánh, liên tưởng độc đáo, mới lạ.
+ Nội dung:
Bài thơ là một lời khẳng định đầy mạnh mẽ của người viết về giá trị và sức mạnh
của văn chương. Văn chương sẽ luôn nằm ngoài quy luật băng hoại của thời gian,
giúp cho những tâm hồn, những vẻ đẹp mãi mãi ở lại với đời.

Trang 81
82 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

HƯỚNG DẪN TRẢ LỜI PHẦN LUYỆN TẬP CÁC CHƯƠNG


CHƯƠNG 1:
I. TỪ
Bài 1: Hãy phân tích cấu trúc hình vị của những từ sau
a. Khoáng
THANH SẮC

Tiếng Phần vần

Âm đệm Âm chính Âm cuối

kh o a ng

b. Hoa
THANH NGANG

Tiếng Phần vần

Âm đệm Âm chính Âm cuối

H o a

c. Khập Khiễng
THANH NẶNG

Trang 82
83 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Tiếng Phần vần

Âm đệm Âm chính Âm cuối

kh â p

THANH NGÃ

Tiếng Phần vần

Âm đệm Âm chính Âm cuối

kh iê ng

d. Toàn
THANH HUYỀN

Tiếng Phần vần

Âm đệm Âm chính Âm cuối

t o a n

e. Uyên Ương

THANH NGANG

Tiếng Phần vần

Âm đệm Âm chính Âm cuối

u yê n

THANH NGANG

Tiếng Phần vần

Âm đệm Âm chính Âm cuối

Trang 83
84 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

ươ ng

Bài 2: Xếp các từ sau đây vào bảng


lang thang mỏng manh hộp bút chùa chiền ăn tái tạo gió
ra-đi-ô phiêu bạt ảnh hưởng lung linh to to bệnh cháu
chắt

Từ đơn Từ láy Từ ghép

ăn lang thang hộp bút


gió mỏng manh tái tạo
ra-đi-ô chùa chiền phiêu bạt
bệnh lung linh ảnh hưởng
to to cháu chắt
Bài 3: Phân tích nghĩa của những từ in đậm
a. Ngày hôm qua, chúng tôi bàn nhau về cách để tổ chức sinh nhật cho Hà.
=> “Bàn” ở đây có nghĩa là thảo luận về một cái gì đó.
b. Hôm qua tôi ngủ ngon lắm.
=> “Ngon” ở đây ý chí giấc ngủ tốt, thuận lợi.
c. Lan ngồi ở mũi thuyền, cất lên câu hò nghe sao mã não lòng.
=> “Mũi” kết hợp với “thuyền” lại mang nghĩa là phần nhô ra đầu trước của thuyền.
d. Áo trắng em đến trường, cùng đàn chim ca rộn ràng. Từng làn gió vờn tóc em, kỷ niệm
buồn vui ngập tràn.
=> “Áo trắng” trong ngữ cảnh trên mang nghĩa tu từ (hoán dụ), ý chỉ những nữ sinh mặc áo
trắng.
Bài 4: Phân tích lỗi và chữa lỗi ở những câu sau.
a. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh phát động sinh viên tham gia chiến dịch
hiến máu nhân đạo, chuyền máu cứu người.
- Từ sai: “chuyền máu”. Lỗi: Dùng từ sai hình thức ngữ âm
=> Chữa: “truyền máu”
b. Hai nhóm học sinh bị triệu hồi tại phòng giám thị sau khi tham gia một trận cãi vã ở sân
trường.
- Từ sai: “triện hội”. Lỗi: dùng từ sai ngữ nghĩa của từ
=> Chữa: “triệu tập”
c. Đó là một phương án khả dĩ có thể chấp nhận được.
- Lỗi: thừa từ
“khả dĩ” đã bao hàm nghĩa có thể chấp nhận được, nên không cần thêm cụm “có thể chấp
nhận được” vào sau.
=> Chữa: “Đó là một phương án khả dĩ” hoặc “Đó là một phương án có thể chấp nhận được.
d. Luật pháp quy định trẻ em chưa vị thành viên không được đi xe gắn máy phân khối một
trăm.
- Lỗi: thừa từ
Từ “trẻ em” đã bao hàm cả nghĩa “chưa vị thành niên”
=> Bỏ cụm “chưa vị thành niên” hoặc sửa “trẻ em” thành “người”.

II. CỤM TỪ

Trang 84
85 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Phân tích các cụm từ sau. Cho biết loại cụm từ, chỉ ra thành tố chính, phần phụ trước và
phần phụ sau
Câu Loại cụm Phần phụ trước Thành tố chính Phần phụ sau
từ

1 cụm danh những học sinh đang làm bài tập Văn
từ

2 cụm danh các em nhỏ vùng cao


từ

3 cụm tính từ rất xinh đẹp

4 cụm danh những cô gái tốt bụng kia


từ

5 cụm danh quyển vở màu vàng ở đằng đấy


từ

6 cụm danh con gà mái đang đẻ trứng ở đó


từ

7 cụm danh toàn bộ mười hai cây bút chì màu đỏ nằm ở kia
từ cái

8 cụm động đã hoàn thành xong bài tập cô Sương Mai


từ giao

9 cụm động rất thường hay làm mình làm với mọi người
từ mẩy

10 cụm danh sáu mươi ba tỉnh thành ở nước Việt Nam


từ

III. CÂU
Bài 1: Đoạn văn sau được trích trong bài bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ
Ngọc Tường. Em hãy phân tích từng câu ở trong đoạn trên và chỉ ra nó thuộc loại câu nào (dựa
vào cú pháp câu)
(1)Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một
Trạng ngữ CN1 VN1(CN1)
lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó
VN2 (CN1) Trạng ngữ chuyển tiếp ngữ

nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với
CN2 VN1 (CN2) quan hệ từ
những điểm cao đột khởi như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó,
CN3 VN1(CN3) chuyển tiếp ngữ
người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền
CN4 VN 1 (CN4) QHT CN5
xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi.

Trang 85
86 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

VN1 (CN5)
=> Câu phức ghép
Bài 2: Em hãy thêm dấu câu vào đoạn văn sau:
Gần 20 quán hủ tiếu Nam Vang phân bố khắp các quận tại Sài Gòn có chất lượng suýt
soát nhau. Trong đó, các cửa hàng ở Võ Văn Tần, Nguyễn Trãi, An Dương Vương được biết
đến lâu hơn. Đặc điểm của những cửa hàng thu hút khách ăn là có kĩ thuật nấu nước dùng đạt
chất lượng cao - nấu bằng xương ống của heo, một ít mực khô, tôm khô; đun lửa cháy liu riu
liên tục, vớt bọt để cho một thứ nước trong vắt, ngọt lịm. Nhiều quán ít khách, nước dùng, là
nước luộc thịt, cho quá nhiều bột ngọt và đường. Món thịt băm phải thật nhuyễn và chế biến
sao cho không dai, không nát, không khô xơ, không quá bé, trải lên sợi bánh là thịt nạc, gan,
tim, huyết tôm tươi luộc vừa chín, có vị ngọt tự nhiên. Bánh hủ tiếu làm bằng thứ bột gạo nàng
hương, xay thật nhuyễn sợi nhỏ, sấy khô nhưng chỉ cần trụng nhanh qua nước sôi là đã mềm
tươm. Vào một ít mỡ hành phi cọng, sợi hủ tiếu sẽ trong veo, bóng loáng. Cái dẻo, cái thơm đó
có thể cảm nhận được bằng mắt. Hủ tiếu Nam Vang có mùi vị độc đáo là do nêm vào một vài
muỗng tỏi giã nhuyễn, ngâm giấm thanh tỏi. Ngâm một vài ngày thì ăn sớm quá bị cay nồng;
muộn quá mất hương vị và mềm nhũn.
Bài 3: Em hãy xác định lỗi ở trong những câu sau và sửa lại cho đúng:
1. Các gia đình hiện đại có hiện tượng này nên xử lý như thế nào. Và đây có phải là tiền đề hay
nguyên nhân dẫn đến các xung đột và cuối cùng hậu quả là ly dị hay không.
=> Lỗi: sai dấu câu
=> Sửa lại: Các gia đình hiện đại có hiện tượng này nên xử lý như thế nào? Và đây có phải là
tiền đề hay nguyên nhân dẫn đến các xung đột và cuối cùng hậu quả là ly dị hay không?
2. Muốn bảo vệ môi trường, trước hết ta phải hiểu môi trường là gì?
=> Lỗi: sai dấu câu
=> Sửa: Muốn bảo vệ môi trường, trước hết ta phải hiểu môi trường là gì.
3. Kẻ thù giết chết nhưng không giết được ý chí của họ.
=> Lỗi: Thiếu bổ ngữ bắt buộc (Giết chết ai?)
=> Sửa: Kẻ thù giết chết họ nhưng không giết được ý chí của họ.
4. Với thủ pháp so sánh được vận dụng một cách hiệu quả để khắc hoạ chiến thắng ngoạn mục
của con thuyền bé nhỏ ấy.
=> Lỗi: Thiếu nòng cốt
=> Sửa: Thủ pháp so sánh được vận dụng một cách hiệu quả để khắc hoạ chiến thắng ngoạn
mục của con thuyền bé nhỏ ấy.
5. Nếu ở trùng vi thạch trận thứ nhất ta bắt gặp ông lái đò kiên cường, bản lĩnh khi đối diện với
năm cửa đá với bổn cửa tử, có lúc bị trúng đòn hiểm, mặt méo bệch đi nhưng ông vẫn tỉnh táo
chỉ huy con thuyền lướt đúng vào luồng sinh.
=> Lỗi: cụt một vế câu ghép
=> Chữa: Thêm vế “thì…” vào sau hoặc bỏ từ “nếu”.
6. Trong khi tất cả các nhà thơ đều viết về đề tài chiến tranh, Xuân Quỳnh lại chọn đề tài tình
yêu để nương náu tâm hồn mình.
=> Lỗi: sai logic
=> Chữa: Trong khi hầu hết các nhà thơ đều viết về đề tài chiến tranh, Xuân Quỳnh lại chọn
đề tài tình yêu để nương náu tâm hồn mình.
7. Qua bài thơ “Tây Tiến” đã cho ta thấy vẻ đẹp người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa.
=> Lỗi: thiếu chủ ngữ
=> Chữa: thêm chủ ngữ hoặc bỏ từ “qua”
8. Quang Dũng, nhà thơ của những người lính.
=> Lỗi: Thiếu vị ngữ
=> Chữa: Thêm vị ngữ hoặc điều chỉnh thành phần biệt lập trở thành vị ngữ
Quang Dũng là nhà thơ của những người lính.

Trang 86
87 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

9. Qua bài thơ “Đất Nước” với những vần thơ chân thành, giản dị của “anh” và “em”.
=> Lỗi: Thiếu nòng cốt
=> Chữa: Thêm nòng cốt
Qua bài thơ “Đất Nước” với những vần thơ chân thành, giản dị của “anh” và “em”, tác giả đã
gửi gắm đến người đọc những thông điệp đắt giá về giá trị của sự cống hiến trong cuộc sống.
IV. ĐOẠN VĂN
Câu 1:
Bài mẫu Phân
tích

Ngày nay, ngày càng nhiều người dễ dàng từ bỏ cơ hội sống của mình -> Hook
với một số lý do nào đó. Nhưng họ lại ít khi nhận ra có muôn vàn lý do để họ
yêu thương chính sự tồn tại của mình. Sự sống của chúng ta đâu phải ngẫu -> Câu
nhiên mà có, mà nó được kết tinh từ tình yêu của cha mẹ, hay như thuyết duy chủ đề
tâm từng quan niệm: “người ta phải vượt qua biết bao đau khổ mới có thể tái
sinh làm người”. Sự sống của ta quý giá vô cùng bởi vì những người yêu thương
ta, hay chính chúng ta đã nỗ lực hết mình để duy trì nó đến tận thời khắc này.
Khi ta mất đi, nỗi đau ấy không tan biến, mà nó sẽ len lỏi, ám ảnh người yêu
thương ta suốt phần đời còn lại. Ta sống, không phải vì bất cứ ai, mà là vì chính -> Các
ta. Ta chỉ có thể làm mọi thứ, nếu ta còn sống. Ta chỉ có thể thành công và hạnh câu
phúc, nếu ta còn sống. Đó cũng chính là quan niệm sống của Nick Vujicic - người thuyết
đàn ông không có tứ chi đã vượt lên trên mọi mặc cảm khổ đau của bản thân để đoạn
sống một cách tích cực không chỉ cho bản thân mà ông còn lan tỏa nguồn năng
lượng đó đến với người khác. Chúng ta chỉ được sống duy nhất một lần, nên hãy
sống làm sao chỉ một lần thôi cũng đã mãn nguyện.
(Người biên soạn)

-> Nêu
dẫn
chứng

Câu 2: Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của em về ý nghĩa của sự tự tin
trong cuộc sống.
BÀI THAM KHẢO
Tự tin là một đức tín có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của mỗi chúng ta.
Đó là khi ta hoàn toàn thấu hiểu được năng lực, tính cách, phẩm chất của bản thân và sẵn sàng
bộc lộ nó ra bên ngoài trong một số điều kiện nhất định. Sỡ dĩ tự tin có giá trị to lớn là bởi vì
nó giúp chúng ta nắm bắt mọi thời cơ xuất hiện trong cuộc sống; ta sẽ vượt qua sự lo sợ, tự ti
để tìm kiếm những cơ hội để phát triển cho bản thân. Thêm vào đó, tự tin còn là tiền đề để ta
dám nghĩ, dám làm, trở thành một con người quyết đoán và bản lĩnh. Không chỉ có vậy, lòng
tự tin tạo động lực cho chúng ta trải nghiệm nhiều bài học, thử thách; từ đó ta phát huy ưu điểm
và khắc phục nhược điểm của bản thân. Chúng ta không thể làm một điều gì đó trọn vẹn nếu
như ta không tin tưởng vào bản thân mình. Thomas Edison trong quá trình thử nghiệm bóng
đèn dây tóc đã thất bại hàng trăm lần, nhưng nhờ có sự thấu hiểu năng lực của bản thân cũng
như có đam mê cháy bỏng với khoa học; ông đã dũng cảm vượt qua khó khăn và cuối cùng,
phát minh của ông đã mang nhân loại ra khỏi bóng tối. Tự tin chỉ thật sự có giá trị với những
con người biết thể hiện nó một cách đúng đắn, tích cực. Chúng ta hãy lấy đó làm bài học để

Trang 87
88 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

tránh việc đề cao thái quá bản thân, cũng như không ngừng học hỏi, trau dồi để sự tự tin ấy
thật sự trở thành một vũ khí giúp ta chinh phục những thành công trong cuộc sống.
(Người biên soạn)

CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP TU TỪ


Bài 1: Hãy viết một đoạn văn về chủ đề em thích; trong đó, có ít nhất 1 biện pháp so sánh, 1
biện pháp liệt kê và 1 biện pháp điệp ngữ.
- Học sinh lựa chọn một chủ đề mà mình yêu thích, sau đó viết về nó (học sinh có thể viết nghị
luận, viết truyện, làm thơ hoặc viết tản văn,...)
- Sau đó, học sinh kiểm tra, gạch chân các biện pháp mà đề yêu cầu cần có.
Bài 2: Em hãy chỉ ra ba biện pháp tu từ ngữ nghĩa trong đoạn thơ sau và nêu tác dụng:
Cuối trời mây trắng bay Hơi lạnh qua bàn tay
Lá vàng thưa thớt quá Tình ta như hàng cây
Phải chăng lá về rừng Đã qua mùa gió bão
Mùa thu đi cùng lá Tình ta như dòng sông
Mùa thu ra biển cả Đã yên ngày thác lũ…
Theo dòng nước mênh mang (Trích “Thơ tình cuối mùa thu”, Xuân Quỳnh)
Mùa thu vào hoa cúc
Chỉ còn anh và em
Chỉ còn anh và em
Là của mùa thu cũ
Chợt làn gió heo may
Thổi về xao động cả:
Lối đi quen bỗng lạ
Cỏ lật theo chiều mây
Đêm về sương ướt má
- Phép nhân hoá “mùa thu đi”, “mùa thu ra”, “mùa thu vào”,...
=> Tác dụng: Làm cho diễn đạt thêm sinh động, giúp cho hiện tượng “mùa thu” như có linh
hồn, sự sống.
- Phép điệp cấu trúc: “Chỉ còn anh và em”
=> Tác dụng: Tạo nhịp điệu say mê, da diết cho đoạn thơ. Ngoài ra, phép điệp cấu trúc còn
nhấn mạnh vào câu chuyện tình yêu giữa anh và em. Câu chuyện đó như đang hoà vào đất trời,
đi cùng tháng năm, vẫn nguyên vẹn dù có vật đổi sao dời.
- Phép so sánh: Tình ta như hàng cây
=> Tác dụng: Làm cho câu thơ thêm giàu hình ảnh, cũng như cụ thể hoá một danh từ trừu
tượng “tình tà” như những hàng cây, luôn vững chãi trước bao nhiêu khó khăn, thử thách của
cuộc đời.

CHƯƠNG 3: PHONG CÁCH HỌC


I. PHƯƠNG THỨC BIỂU ĐẠT
Em hãy xác định phương thức biểu đạt chính của những ngữ liệu sau:
1. Phương thức biểu đạt chính là thuyết minh.
2. Phương thức biểu đạt chính là miêu tả
3. Phương thức biểu đạt chính là tự sự
4. Phương thức biểu đạt chính là nghị luận
5. Phương thức biểu đạt chính là biểu cảm
II. PHONG CÁCH NGÔN NGỮ
Câu 1: Phong cách ngôn ngữ chính của tác phẩm “Truyện Kiều” của nhà thơ Nguyễn Du là
gì? Căn cứ vào đâu mà em có thể xác định như thế?

Trang 88
89 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

- Phong cách ngôn ngữ chính của tác phẩm “Truyện Kiều” của nhà thơ Nguyễn Du là nghệ
thuật
- Vì trong toàn bộ tác phẩm, nhà thơ Nguyễn Du đã chọn lọc từ ngữ vô cùng khéo léo để gieo
vần, làm cho câu văn cô đọng nhưng đa nghĩa. Ngoài ra, tác giả cũng vận dụng nhiều điển tích,
điển cố, nhiều biện pháp nghệ thuật để xây dựng câu chuyện.
Câu 2: Bằng kiến thức đã được học ở phần này và phần I chương 1, em hãy sửa lỗi dùng từ
trong đoạn văn sau, sao cho phù hợp với phong cách ngôn ngữ mà đoạn văn đang thể hiện.
BÀI ĐÃ SỬA
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - tự do - hạnh phúc

ĐƠN XIN NGHỈ TIẾT


Gửi đến: Ban giám hiệu trường THPT A
Em tên là Trần Văn B, học sinh lớp 12A5 do cô giáo Ngân chủ nhiệm
Em làm đơn này vì muốn xin ban giám hiệu cho phép em được nghỉ tiết môn Sử vào tiết
cuối của ngày mai.
Lý do: Do em cùng bạn em có đặt lịch đi nhổ răng ở bệnh viện nha khoa thành phố vào
khung giờ đó.
Em rất mong ban giám hiệu sẽ chấp nhận cho em để em được nghỉ ạ.
Em xin cảm ơn.
Người làm đơn ký tên
Trần Văn B

Câu 3: Xác định những phong cách ngôn ngữ có thể có của đoạn văn sau:
"Tôi thường đón gió chướng về với một tâm trạng lộn xộn, ngổn ngang. Mừng đó rồi
bực đó. Sao tôi lại chờ đợi nó, chẳng phải năm nào cũng vậy, lúc cầm cây chổi ra quét sân,
đứng trong gió đầm đìa tôi cũng buồn, buồn muốn chết. Trời ơi, gió này là sắp hết năm đây,
sắp già thêm một tuổi đây, mình đã kịp sống gì đâu, tay mình vẫn trắng như vầy... Mỗi lần gió
về lại cảm giác mình mất một cái gì đó không rõ ràng, không giải thích được, như ai đó đuổi
theo đằng sau, tôi gấp rãi ăn, gấp rãi nói, gấp rãi cười, gấp rãi khi ngày bắt đầu rụng xuống…
Nhưng tôi vẫn mong gió chướng về. Sự chờ đợi đã thành thói quen của thời thơ dại.
Khi gió bắt đầu hiu hiu se lạnh, đám con nít nhảy cà tưng, háo hức vỗ tay cười, vậy là gần
được sắm quần áo, dép mới rồi (nhà nghèo, cả năm chỉ được dịp này chứ mấy). Gió chướng
(và gió bấc) với tôi là gió Tết, dù từ khi bắt đầu mùa gió đến Tết, mất gần ba tháng ròng. Má
tôi cũng coi nó là gió Tết, nghe gió, má thuận miệng hát "Cấy rồi mùa qua sông cấy mướn.
Ông trời ổng thổi ngọn chướng buồn cha chả là buồn..." rồi thở dài cái thượt "Ứ hự, lụi hụi
mà hết năm...". Dường như tâm trạng má khác tôi, những sợi gió cứ như xốn xang vào nỗi
nghèo túng, sợ không lo nỗi một cái Tết tử tế cho cả nhà."
(Trích “Trở Gió”, Nguyễn Ngọc Tư)
Đây là một tác phẩm truyện, phương thức biểu đạt chính là tự sự. Trong đoạn trích cũng không
có bất cứ thao tác lập luận nào được sử dụng => Loại phong cách báo chí, khoa học, hành chính
- công vụ, hành chính
Tác phẩm truyện ngắn => có phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Khi đọc văn bản, ta sẽ thấy nhà văn dùng một số cách diễn đạt khá dân dã, gần gũi với đời sống
thường ngày, như “…đứng trong gió đầm đìa tôi cũng buồn, buồn muốn chết. Trời ơi, gió này
là sắp hết năm đây, sắp già thêm một tuổi đây, mình đã kịp sống gì đâu, tay mình vẫn trắng
như vầy...
=> Có phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
III. LIÊN KẾT CÂU, LIÊN KẾT ĐOẠN

Trang 89
90 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

Bài 1: Sắp xếp các câu sau theo thứ tự hợp lý nhất.
1. Chỉ khi lắng nghe đủ sâu, đủ nhiều, đủ chân thành; ta mới có thể yêu thương, lan tỏa những
nguồn năng lượng tích cực đến người khác.
2. Đầu tiên, lắng nghe trở thành một phương tiện giúp chúng ta phát triển những mối quan hệ
xung quanh.
3. Lắng nghe có những vai trò đặc biệt quan trọng đối với cuộc sống của chúng ta.
4. Việc lắng nghe còn giúp chúng ta dễ dàng đồng cảm, thấu hiểu người khác; từ đó có những
điều chỉnh phù hợp trong lời nói và hành động.
=> ĐÁP ÁN: 3, 2, 4, 1
Bài 2: Xác định phép liên kết được sử dụng trong các trường hợp sau:
1. Đọc sách không cốt lấy nhiều, quan trọng nhất là phải chọn cho tinh, đọc cho kĩ. Nếu đọc
được 10 quyển sách không quan trọng, không bằng đem thời gian, sức lực đọc 10 quyển ấy mà
đọc một quyển thật sự có giá trị.
=> PHÉP LẶP TỪ “ĐỌC”
2. Tôi phải cố gắng, anh phải cố gắng. Nếu không cố là chết.
=> PHÉP TỈNH LƯỢC, LƯỢC BỎ CHỦ NGỮ Ở CÂU THỨ 2
3. Một số phường săn đến thăm dò để giăng bẫy bắt con cọp xám. Nhưng con ác thú tinh lắm.
=> PHÉP THẾ ĐẠI TỪ: “CON CỌP XÁM” = “CON ÁC THÚ”
4. Đứng ngắm cây sầu riêng, tôi cứ nghĩ mãi về cái dáng cây kì lạ này. Thân nó khẳng khiu,
cao vút, cành ngưng thẳng đuột, thiếu cái dáng cong, đứng nghiêng, chiều quằn, chiều lượn
của cây xoài, cây nhãn.
=> PHÉP THẾ ĐẠI TỪ: CÂY SẦU RIÊNG = NÓ
=> PHÉP LIÊN TƯỞNG: DÁNG CÂY, THÂN, CÀNH
5.
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Trích “Truyện Kiều”, Nguyễn Du)
=> PHÉP LẶP CẤU TRÚC: CẤU TRÚC “BUỒN TRÔNG” + MỆNH ĐỀ

V. SỬA LỖI LOGIC, MƠ HỒ VỀ CÂU, ĐOẠN


*LUYỆN TẬP:
Sửa lỗi logic cho các câu sau:
1. Em rất kính yêu bố hết mực thương con và dạy dỗ con nên người. (MỘT THÀNH PHẦN
CÂU NHẬN HAI VAI TRÒ NGỮ PHÁP)
=> Em rất kính yêu bố - người luôn hết mực thương con và dạy dỗ con nên người
2. Đường và muối đều là hai gia vị không thể thiếu để tạo độ ngọt cho kẹo. (DÙNG TỪ CHƯA
HỢP NGỮ CẢNH)
=> Bỏ “muối” và thay bằng các thành phần hợp lý hơn như “mật ong”,...
3. Mặc dù tôi đi học trễ nhưng tôi vẫn phải xin lỗi thầy. (SAI QUAN HỆ TỪ)
=> Vì tôi đi học trễ nên tôi mới phải xin lỗi thầy.
4. Trong màn đêm tối đen như mực, không thể thấy gì, bỗng loé lên những hạt vệt vàng như
bụi sao trong gian phòng. (DIỄN ĐẠT CHƯA HỢP LÝ)
=> Trong màn đêm hơi tối, tôi vẫn có thể nhìn thấy những hạt vệt vàng như bụi sao trong gian
phòng loé lên.

Trang 90
91 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

5. Vì đã hướng dẫn kĩ càng nên học sinh vẫn không hiểu bài. (SAI QUAN HỆ TỪ VÀ SAI HỆ
QUY CHIẾU)
=> Mặc dù đã được hướng dẫn kĩ càng nhưng học vẫn không hiểu bài.
6. Chính tình yêu to lớn nói chung và biện pháp liệt kê nói riêng đã làm nên thành công cho
tác phẩm. (KẾT HỢP TỪ CHƯA ĐÚNG NGỮ CẢNH)
=> Chính tình yêu to lớn với con người nói chung và với những mảnh đời nghèo khó nói riêng
đã làm nên thành công cho tác phẩm.
7. Nếu sử dụng quá nhiều thiết bị công nghệ trong thời gian dài, chúng ta chắc chắn sẽ mắc các
bệnh lý liên quan đến thần kinh. (NÓI QUÁ)
=> Nếu sử dụng quá nhiều thiết bị công nghệ trong thời gian dài, chúng ta có nguy co sẽ mắc
các bệnh lý liên quan đến thần kinh
8. Quang Dũng khác xa với tất cả các nhà thơ trên văn đàn thi ca, ông đứng riêng một ốc đảo
của riêng mình. (DÙNG TỪ CHƯA ĐÚNG NGỮ CẢNH)
=> Quang Dũng khác xa với hầu hết các nhà thơ trên văn đàn thi ca, ông đứng riêng một ốc
đảo của riêng mình.

CHƯƠNG 4: NGÔN NGỮ HỌC XÃ HỘI


II. NGÔN NGỮ TRANG TRỌNG VÀ NGÔN NGỮ THÔNG TỤC
Bài 1: Đọc các câu sau đây và chỉ ra câu nào sử dụng ngôn ngữ thân mật, câu nào sử dụng
ngôn ngữ trang trọng. Vì sao?
a, Tôi thường đón gió chướng về với một tâm trạng lộn xộn, ngổn ngang. Mừng đó rồi bực
đó. Sao tôi lại chờ đợi nó, chẳng phải năm nào cũng vậy, lúc cầm cây chổi ra quét sân, đứng
trong gió đầm đìa tôi cũng buồn, buồn muốn chết. Trời ơi, gió này là sắp hết năm đây, sắp
già thêm một tuổi đây, mình đã kịp sống gì đâu, tay mình vẫn trắng như vầy... Mỗi lần gió về
lại cảm giác mình mất một cái gì đó không rõ ràng, không giải thích được, như ai đó đuổi
theo đằng sau, tôi gấp rãi ăn, gấp rãi nói, gấp rãi cười, gấp rãi khi ngày bắt đầu rụng
xuống… (Nguyễn Ngọc Tư)
=> NGÔN NGỮ THÂN MẬT
b,
Thanh đi bên bà, người thẳng, mạnh, cạnh bà cụ gầy còng. Tuy vậy chàng cảm thấy chính bà
che chở cho chàng, cũng như những ngày chàng còn nhỏ.
- Nhà không có ai ư bà?
- Vẫn có thằng Nhân, hôm nay nó đi đong thóc bên kia xóm. D- chốc nó về. Con đã ăn cơm
chưa?
- Dạ chưa. Con ở tàu về đây ngay. Nhưng con không thấy đói.
Bà nhìn cháu, giục:
- Con rửa mặt đi, rồi đi nghỉ không mệt. Trời nắng thế này mà con không đi xe ư?
Thanh cười:
- Có một tý đường đất, cần gì phải xe. Con đi bộ hàng ngày cũng được.
(Thạch Lam)
=> NGÔN NGỮ THÂN MẬT
c. Theo Wilhelm Wundt, đối tượng của tâm lý học không chỉ là ý thức chủ quan và con đường
nghiên cứu ý thức là các phương pháp nội quan và tự quan sát. Mà đối tượng của tâm lý học
còn bao hàm cả những ý thức khách quan (hữu thức) mà con người hoàn toàn có thể quan sát,
đo đạc được bằng các phương pháp thực nghiệm.
=> NGÔN NGỮ TRANG TRỌNG
Bài 2: Theo em, ngôn ngữ trang trọng và ngôn ngữ thông tục có thể cùng xuất hiện trong một
đoạn hội thoại hay một văn bản hay không? Nếu có thể, hãy nêu tác dụng của sự kết hợp đó.
Trên thực tế, người ta có thể kết hợp ngôn ngữ trang trọng và ngôn ngữ thân mật khi
giao tiếp, nhưng rất ít khi chúng được dùng chung trong một ngữ cảnh. Trong trường hợp trên,

Trang 91
92 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

người ta sẽ dùng cách viết trung gian, hay còn gọi là bán trang trọng. Việc sử dụng ngôn ngữ
trang trọng sẽ giúp cho giao tiếp trở nên lịch sự, chuẩn mực. Ngược lại, việc sử dụng ngôn ngữ
thông tục sẽ gia tăng tình cảm, thu hẹp hoặc xoá bỏ khoảng cách giữa các đối tượng giao tiếp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Lã Thị Bắc Lý, Phan Thị Hồng Xuân, Nguyễn Thị Thu Nga, 2013, Giáo trình Tiếng Việt và
Tiếng Việt thực hành, NXB Đại học Sư phạm.

2. Nguyễn Thị Ly Kha, 2017, Dùng từ, viết câu và soạn thảo văn bản, NXB Giáo dục Việt
Nam.

Trang 92
93 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

3. Hoàng Phê (chủ biên), 2004, Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội.

4. Diệp Quang Ban, 1998, Ngữ pháp Tiếng Việt, NXB Giáo dục.

5. Lê A, Đỗ Xuân Thảo, Giáo trình Tiếng Việt 1 (Giáo trình đào tạo Cử nhân Giáo dục Tiểu
học), NXB Đại học Sư phạm.

6. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết, Tái bản 2022, Dẫn
luận ngôn ngữ học, NXB Giáo dục Việt Nam.

7. Bùi Minh Toán, 2023, Giáo trình Dẫn luận Ngôn ngữ học, NXB Đại học Sư phạm.

Trang 93

You might also like