Professional Documents
Culture Documents
Chiếc Lược Ngà
Chiếc Lược Ngà
66b Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi,
ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo
trên mặt làm cha không giống trong bức ảnh chụp chung với má. Em đối xử
Đến lúc Thu nhận ra cha, thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Tại khi căn
cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương con vào việc làm chiếc
lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn, ông hy sinh.
Trước lúc nhắm mắt ông còn kịp trao cây lược cho người bạn để gửi cho con.
Những năm chống Mỹ, ông trở về Nam bộ tham gia kháng chiến rồi
Sau khi đất nước thống nhất, ông là Tổng thư ký Hội nhà văn Thành
Các tác phẩm của ông thuộc nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết,
Một số tác phẩm tiêu biểu: Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956),
Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961), Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn,
1966), Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975), Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết,
Về tác phẩm Chiếc lược ngà, truyện ngắn này của tác giả Nguyễn
Quang Sáng thể hiện tình cha con cảm động và sâu nặng trong hoàn cảnh éo le,
Qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” chúng ta thực sự thấm thía và
cảm động trước tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt của cha con ông Sáu
trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Truyện không chỉ dừng lại ở việc khắc
họa tình cảm phụ tử mà còn có ý nghĩa tố cáo hiện thực, tố cáo chiến tranh đã
đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đã phá tan đi biết bao nhiêu là hạnh phúc của
Truyện Chiếc lược ngà được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm
1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ của
nhân dân ta đang diễn ra quyết liệt. Được đưa vào tập truyện cùng tên.
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Chiếc Lược Ngà
“Chiếc lược ngà” là một nhan đề hay thể hiện nội dung, tư tưởng và chủ
đề của tác phẩm. Đó chính là hình tượng nghệ thuật chứa đựng tình cảm cha
con sâu nặng, thiêng liêng. Chọn hình ảnh “Chiếc lược ngà” làm nhan đề cho
tác phẩm, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã bộc lộ tài năng của mình trong việc
thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm qua một hình ảnh nghệ thuật cô đúc, giàu ý
nghĩa.
Với bé Thu, chiếc lược ngà là kỉ vật của người cha, là tình cảm yêu mến
nhớ thương của người cha chiến sĩ nơi chiến khu dành cho mình. Với ông Sáu,
chiếc lược ngà là một vật quý giá thiêng liêng bởi nó chứa đựng bao yêu
thương, mong đợi của người cha và làm dịu đi nỗi ân hận vì đã đánh con…
Với nhan đề ấy, nhà văn không chỉ nói tình cha con thắm thiết sâu nặng
mà còn gợi cho người đọc thấm thía những đau thương mất mát do chiến tranh
gây ra.
Phần 1 (từ đầu đến “chị cũng không muốn bắt nó về”): Ông Sáu trở về
thăm nhà trong ba ngày nghỉ phép nhưng bé Thu không nhận ông là ba.
Phần 2 (tiếp theo đến “vừa nói vừa từ từ tuột xuống”): Bé Thu nhận ra
lược ngà.
1. Ông Sáu trở về thăm nhà nhưng bé Thu không nhận ông là ba
– Trong những năm xa nhà, ông Sáu luôn nhớ con, khát khao gặp con.
– Khi được trở về thăm con: Thuyền chưa cập bến đã nhảy vội lên bờ gọi con.
Lúc mới gặp ông Sáu: “Con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác
lạ lùng”.
Nhìn vết thẹo dài trên má ông Sáu nó càng hoảng hốt, sợ hãi “mặt nó
Suốt ba ngày, con bé bộc lộ sự bướng bỉnh, nhất quyết không gọi ông
Sáu bằng ba, chỉ nói trổng (khi mời ông Sáu ăn cơm, khi muốn nhờ ông chắt
nước…).
Hất văng ra khỏi chén cái trứng cá ông Sáu gắp cho.
=> Bé Thu bộc lộ sự ương ngạnh, bướng bỉnh vừa đáng giận vừa đáng
– Nguyên nhân:
Bé Thu không nhận ông Sáu là ba vì ông có vết thẹo trên mặt “không
Với lứa tuổi của mình, Thu không thể hiểu những khắc nghiệt của chiến
tranh. Vậy mà, vết sẹo chiến tranh hằn trên gương mặt ông Sáu đã làm Thu
=> Hậu quả mà chiến tranh gây ra khiến con người xót xa.
– Ông Sáu rất đau lòng, thất vọng vì bé Thu không nhận mình:
Khi bé Thu chạy vụt đi, hét lên hoảng hốt, sợ hãi: “nỗi đau đớn khiến
mặt anh tối sầm lại trông rất đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.
Trong ba ngày phép, càng muốn gần gũi, yêu thương con, bé Thu càng
lảng tránh, lạnh lùng, vô lễ. Ông càng đau khổ hơn (tám năm mới được gặp
con, những ngày phép ngắn dần mà con không chịu nhận ba, không một lần
=> Tình cảm yêu thương trìu mến của một người cha.
Lúc chia tay, ông Sáu muốn ôm hôn con nhưng sợ con không chịu, ông
chỉ nhìn con bằng đôi mắt “trìu mến lẫn buồn rầu”. Khi Thu nhận cha, ông Sáu
(“hớt hải chạy về”, “hớn hở như trẻ con được quà”); lúc rỗi ông “cưa từng
chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”, khắc dòng
chữ nhỏ với bao tình cảm “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”
Lúc nhớ con, “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược
thêm bóng, thêm mượt”, có cây lược ông càng mong gặp con.
Trong giờ phút cuối cùng, tình cha con vẫn da diết “không đủ sức trăn
trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”.
Ông gửi cây lược cho đồng đội nhờ đưa cho con, lúc ấy mới nhắm mắt
xuôi tay.
Trước lúc ông Sáu đi, Bé Thu gọi tiếng ba đầu tiên, xé lòng như thét lên:
“Ba…a…a… Ba!”. Tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao năm nay, tiếng ba
Nó vừa kêu “vừa chạy xô tới”, “dang tay ôm chặt cổ, nó hôn ba nó cùng
khắp, nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết sẹo dài trên má ba nó nữa”,
“dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó” (muốn giữ ba nó ở lại), khóc mếu
máo với lời dặn “ba mua cho con một cái lược, nghe ba”.
đánh con bé. Ông dồn tất cả tình yêu con để tự tay làm chiếc lược ngà tặng con
– Trước khi chết, ông Sáu vẫn cố dồn chút sức lực cuối cùng để gửi lại
chiếc lược, nhờ đồng đội trao tận tay cho con gái ông.
– Bé Thu lớn lên đã đi tiếp con đường của cha như để nối dài mãi tình
Qua truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện một cách cảm động
tình cha con thắm thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn
cảnh éo le của chiến tranh. Tình cảm ấy là cội nguồn, sức mạnh vượt lên sự
Truyện còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau
thương, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia
đình.
Tạo dựng tình huống bất ngờ, tự nhiên và hợp lí, thành công
Miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc qua suy nghĩ, hành động và lời nói.
Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích
hợp.
Ngôn ngữ truyện mang đậm chất địa phương Nam Bộ.
Nguyễn Quang Sáng (1932 – 2014), là một nhà văn, nhà biên kịch nổi
tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là với những tác phẩm viết
về đề tài người lính và chiến tranh. Văn chương của Nguyễn Quang Sáng là
một chất giọng nhẹ nhàng, chân thành, trong sáng và cảm động, chính vì vậy
ông được mệnh danh là “một trong những con khủng long quý hiếm của nền
văn học thời chiến trận mà tác phẩm không có hận thù”.
Với tác phẩm nổi tiếng nhất của đời mình – Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang
Sáng không hề cố khơi gợi lên những mối thù hận chiến tranh mà thay vào đó
ông tập trung xoáy mạnh vào tình cảm gia đình, tình cảm cha con và những nỗi
đau trong cảnh ngộ đầy éo le của những ngày đất nước đau thương.
Trong truyện ngắn Chiếc lược ngà trước tiên có lẽ cần phải nói đến nỗi đau,
nỗi bất hạnh của người lính chiến – anh Sáu. Người đàn ông dường như đã hy
sinh cả tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cầm súng chiến đấu suốt hàng chục năm
trời, từ những ngày đứa con gái của anh chưa tròn một tuổi. Anh Sáu hy sinh
nhiều lắm, chấp nhận rời bỏ quê hương, rời xa vợ con để theo tiếng gọi của Tổ
quốc, hy sinh cả sức khỏe, xương máu của mình ở tại chiến trường.
Sau nhiều năm chiến đấu cuối cùng anh nhận lại được những gì? Một tấm thân
đầy sương gió, một vết sẹo dữ tợn trên mặt và cuối cùng đó là sự xa lánh, kinh
sợ của đứa con gái mà thuở bé anh chưa được ẵm bồng con ngày nào.
Đứa trẻ ấy, nó chỉ thương người cha ở trong bức ảnh của mẹ, chứ không phải
một người đàn ông trung niên có vết sẹo xấu xí, và trong suốt những ngày nghỉ
phép ấy, anh Sáu đã phải đối diện với những nỗi đau thực ghê gớm, sự buồn
rầu, xót xa, sự nuối tiếc khi đã bỏ lỡ những thời gian ở cạnh đứa con.
Rồi cả những cử chỉ ghét bỏ, lạnh lùng của bé Thu dường như đang cứa vào
trái tim anh từng nhát, mang đến những nỗi đớn đau day dứt trong tâm hồn.
Không chỉ vậy, trước sự hỗn láo của đứa con mà anh chưa dạy dỗ ngày nào,
anh đã đánh nó, khiến nó khóc bỏ đi, có lẽ bé Thu đau một thì anh Sáu lại là
người đau mười. Rõ ràng bé Thu không có lỗi, anh Sáu lại càng không có lỗi,
lỗi là bởi hoàn cảnh trái ngang đã đẩy đưa khiến cho mối quan hệ cha con trở
Cho đến khi cha con nhận nhau, giữa một khung cảnh đầy cảm động yêu
thương, mà người ta ước chi nó kéo dài được thêm vài giờ nữa thì anh Sáu lại
phải vác súng quay trở lại chiến trường, rồi cuối cùng hy sinh tại đó. Anh đã ra
đi khi chưa kịp tận tay đưa cho đứa con gái yêu của mình chiếc lược ngà mà
anh hứa sẽ tặng nó, ra đi trong những nỗi đau và nuối tiếc dồn nén, cả đối với
là một trong những đại diện, ví dụ tiêu biểu nhất về câu nói: “Không có hạnh
Điều đó khiến mỗi chúng ta ngày hôm nay lại càng phải thêm trân trọng những
gì mà cha ông đã hy sinh xương máu, tình cảm cá nhân để giành lại, đồng thời
có tấm lòng yêu thương, kính trọng với những con người đã ngã xuống về nền
độc lập dân tộc cũng như với thân nhân của họ.
Một nhân vật thứ hai nữa trong truyện ngắn ấy là bé Thu, có thể nói rằng cô bé
cũng là một trong những nạn nhân gián tiếp của chiến tranh. Bé Thu có hoàn
cảnh tội nghiệp, cha ra đi vào chiến trường từ những ngày bé còn chưa biết gì,
thiếu thốn tình cảm của cha, lớn lên trong vòng tay của mẹ, của bà vào những
Thế nhưng có lẽ trẻ con thời kỳ này trưởng thành sớm, Thu là một cô bé biết
suy nghĩ, bé thấu hiểu cho hành động đi chiến đấu của cha, và trong trái tim bé
nhỏ của nó không chỉ là những tình cảm yêu thương thắm thiết phụ tử, mà còn
là cả tấm lòng ngưỡng mộ về một người lính cách mạng anh hùng.
Nhưng chính sự xa cách và những suy nghĩ non dại của Thu đã dẫn đến những
bi kịch gia đình, khi mà cô bé một lòng yêu thương trân trọng người đàn ông
trẻ tuổi ở trong tấm ảnh, cô bé ấy không thể hiểu được rằng bom đạn có thể lấy
đi của người ta tất cả mọi thứ, và để lại trên thân thể những vết sẹo không bao
giờ lành.
Sự kỳ vọng bao nhiêu về một người cha trẻ trung, sáng láng thì bé Thu lại càng
thất vọng và sợ hãi khi thấy một người tự xưng là cha mình, nhưng mặt lại có
vết sẹo dữ tợn, bộ dáng phong trần già nua, khác hoàn toàn với những gì bé
tưởng tượng. Điều ấy khiến bé Thu thất vọng và căm ghét người đàn ông trước
mắt, Thu không chịu nhận ông Sáu là cha, không gọi một tiếng “cha” nào cả,
và còn có những hành động hỗn hào, lạnh lùng với ông Sáu.
Khi ấy người ta mới thật thấm thía những bi kịch gia đình của người lính, khi
xa nhà quá lâu, đến vợ có khi còn quên mặt nói gì đến một đứa bé 8 tuổi chưa
từng gặp mặt cha lần nào, chưa từng được ôm hôn hưởng thụ thứ tình cảm phụ
tử ấm áp như bé Thu.
Thì việc bé Thu giãy nảy, băn khoăn, khó chịu trong lòng khi đối diện với một
ông Sáu hoàn toàn khác xa những gì bé biết là hoàn toàn có thể xảy ra và có lẽ
nó đã xảy ra trong rất nhiều gia đình của những người lính chiến.
Thế mới nói một khi người lính ra đi, họ chỉ có thể mất đi nhiều thứ, chứ chẳng
nhận được điều gì ngoài việc đất nước nay mai được hòa bình. Một lý tưởng vĩ
đại, đã đựng dựng nên bằng hàng vạn những hy sinh mất mắt mà không phải ai
Một bi kịch khác trong mối quan hệ giữa cha con bé Thu và của chính bé Thu
có lẽ là nỗi niềm hối hận, nuối tiếc muộn màng. Khi cô bé đã hiểu ra mọi
chuyện, quyết định quay về nhận cha, thì cũng là lúc anh Sáu phải quay lại
chiến trường.
Cuộc hội ngộ cha con cảm động chỉ diễn ra trong vài phút giây ngắn ngủi, ông
Sáu vẫn chưa bù đắp được gì cho con, còn bé Thu cũng chưa kịp yêu thương
Đó là nỗi đau không chỉ của riêng hai nhân vật mà nó còn là nỗi đau chung của
nhiều gia đình trên đất Việt lúc bấy giờ, bao nhiêu tình mẫu tử, tình phụ tử,
tình anh em, tình vợ chồng nhiều khi chỉ kịp bùng lên một nhoáng rồi đứt đoạn
vì những hy sinh mất mát trong chiến tranh, để cho những người ở lại biết bao
Đặc biệt ở trong hoàn cảnh của bé Thu, ngày bé nhận cha cũng là lần cuối cô
bé còn được nhìn thấy cha bằng xương bằng thịt, thì lại càng thêm đau đớn.
Người con gái ấy kể cả khi lớn lên, có lẽ trong trái tim vẫn luôn âm ỉ đau đớn
một nỗi niềm hối hận, khi giờ đây chỉ còn lại duy nhất chiếc lược ngà là kỷ vật
người cha tỉ mẩn khắc từng nhát dao để lại cho cô bé.
Nhưng có một điều không thể nào chối cãi được rằng, dù gần gũi thì ít, xa cách
thì nhiều thế nhưng tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu là những tình
cảm thật thắm thiết và sâu nặng. Khi bản thân ông Sáu cố gắng bù đắp, cố
gắng, chăm sóc bé Thu những ngày nghỉ phép, nén nhịn nỗi đau nỗi tức giận
trước sự lạnh nhạt của con bé, chỉ mong được con bé thừa nhận.
Đến khi ra chiến trường nhiều nguy hiểm gian khó, ông Sáu vẫn nhớ y nguyên
những lời dặn dò của bé Thu tỉ mẩn làm cho nó một chiếc lược ngà, làm xong
rồi thì luôn đặt trong túi trước ngực, thỉnh thoảng lại lấy ra chải tóc cho chiếc
lược thêm bóng bẩy, đẹp đẽ. Có thể nói bao nhiêu yêu thương đều dồn cả vào
trong đó.
Thì ở bé Thu là những tình cảm ngây thơ trong sáng, tình yêu thương đối với
cha hình thành từ tấm ảnh, rồi qua những lời kể của mẹ, của bà, và cuối cùng là
khi đã hiểu rõ mọi chuyện, thì con bé trở nên dũng cảm, lập tức quay về nhận
cha, vì sợ không được gặp cha nữa. Có thể nhận thấy rằng Thu là một đứa trẻ
hiểu chuyện, tuy có cứng đầu, thế nhưng là một đứa trẻ ngoan, sẵn sàng sửa sai
Đến nay chiến tranh dù đã qua đi được hơn nửa thế kỷ nhưng có những nỗi
đau, có những câu chuyện vẫn khiến nhiều độc giả phải thấy xúc động và đau
đớn cho nhân vật, cuộc đời của những người lính chiến và gia đình của họ. Đặc
biệt trong truyện ngắn Chiếc lược ngà thì tình cảm cha con giữa hai nhân vật
ông Sáu và bé Thu vừa khiến người ta cảm động lại cũng là một bi kịch đầy
xót xa, khiến chúng ta không thể không có nhiều trăn trở suy nghĩ.