Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 13

Tóm Tắt Chiếc Lược Ngà

66b Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi,

ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo

trên mặt làm cha không giống trong bức ảnh chụp chung với má. Em đối xử

với ba như người xa lạ.

Đến lúc Thu nhận ra cha, thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Tại khi căn

cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương con vào việc làm chiếc

lược bằng ngà voi để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn, ông hy sinh.

Trước lúc nhắm mắt ông còn kịp trao cây lược cho người bạn để gửi cho con.

Về Nhà Văn Nguyễn Quang Sáng

Nguyễn Quang Sáng (1932-2014).

Quê quán: huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang

Từ năm 1954, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn.

Những năm chống Mỹ, ông trở về Nam bộ tham gia kháng chiến rồi

tiếp tục sáng tác văn học.

Sau khi đất nước thống nhất, ông là Tổng thư ký Hội nhà văn Thành

phố Hồ Chí Minh.

Các tác phẩm của ông thuộc nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết,

kịch bản phim…


Năm 2000, ông được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh

về Văn học Nghệ thuật.

Một số tác phẩm tiêu biểu: Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956),

Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961), Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn,

1966), Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975), Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết,

1985), Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990)…

Về Tác Phẩm Chiếc Lược Ngà

Về tác phẩm Chiếc lược ngà, truyện ngắn này của tác giả Nguyễn

Quang Sáng thể hiện tình cha con cảm động và sâu nặng trong hoàn cảnh éo le,

khắc nghiệt của chiến tranh.

Qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” chúng ta thực sự thấm thía và

cảm động trước tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt của cha con ông Sáu

trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Truyện không chỉ dừng lại ở việc khắc

họa tình cảm phụ tử mà còn có ý nghĩa tố cáo hiện thực, tố cáo chiến tranh đã

đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đã phá tan đi biết bao nhiêu là hạnh phúc của

các gia đình, khiến vợ chồng xa cách, cha con xa nhau.

Xuất Xứ Và Hoàn Cảnh Sáng Tác Chiếc Lược Ngà

Truyện Chiếc lược ngà được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm

1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ của

nhân dân ta đang diễn ra quyết liệt. Được đưa vào tập truyện cùng tên.
Ý Nghĩa Nhan Đề Tác Phẩm Chiếc Lược Ngà

“Chiếc lược ngà” là một nhan đề hay thể hiện nội dung, tư tưởng và chủ

đề của tác phẩm. Đó chính là hình tượng nghệ thuật chứa đựng tình cảm cha

con sâu nặng, thiêng liêng. Chọn hình ảnh “Chiếc lược ngà” làm nhan đề cho

tác phẩm, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã bộc lộ tài năng của mình trong việc

thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm qua một hình ảnh nghệ thuật cô đúc, giàu ý

nghĩa.

Với bé Thu, chiếc lược ngà là kỉ vật của người cha, là tình cảm yêu mến

nhớ thương của người cha chiến sĩ nơi chiến khu dành cho mình. Với ông Sáu,

chiếc lược ngà là một vật quý giá thiêng liêng bởi nó chứa đựng bao yêu

thương, mong đợi của người cha và làm dịu đi nỗi ân hận vì đã đánh con…

Với nhan đề ấy, nhà văn không chỉ nói tình cha con thắm thiết sâu nặng

mà còn gợi cho người đọc thấm thía những đau thương mất mát do chiến tranh

gây ra.

Bố Cục Tác Phẩm Chiếc Lược Ngà

Phần 1 (từ đầu đến “chị cũng không muốn bắt nó về”): Ông Sáu trở về

thăm nhà trong ba ngày nghỉ phép nhưng bé Thu không nhận ông là ba.

Phần 2 (tiếp theo đến “vừa nói vừa từ từ tuột xuống”): Bé Thu nhận ra

ba và cuộc chia tay của hai cha con.


Phần 3 (đoạn còn lại): Ông Sáu hi sinh ở chiến trường và chuyện chiếc

lược ngà.

Đọc Hiểu Truyện Ngắn Chiếc Lược Ngà

1. Ông Sáu trở về thăm nhà nhưng bé Thu không nhận ông là ba

– Trong những năm xa nhà, ông Sáu luôn nhớ con, khát khao gặp con.

– Khi được trở về thăm con: Thuyền chưa cập bến đã nhảy vội lên bờ gọi con.

– Nhưng ngược lại, bé Thu lại không chịu nhận cha:

Lúc mới gặp ông Sáu: “Con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác

lạ lùng”.

Nhìn vết thẹo dài trên má ông Sáu nó càng hoảng hốt, sợ hãi “mặt nó

tái đi, vụt chạy rồi kêu thét lên”.

Suốt ba ngày, con bé bộc lộ sự bướng bỉnh, nhất quyết không gọi ông

Sáu bằng ba, chỉ nói trổng (khi mời ông Sáu ăn cơm, khi muốn nhờ ông chắt

nước…).

Hất văng ra khỏi chén cái trứng cá ông Sáu gắp cho.

Bị ông Sáu đánh, nó bỏ sang nhà bà ngoại.

=> Bé Thu bộc lộ sự ương ngạnh, bướng bỉnh vừa đáng giận vừa đáng

thương nhưng không đáng trách.

– Nguyên nhân:
Bé Thu không nhận ông Sáu là ba vì ông có vết thẹo trên mặt “không

giống cái hình ba chụp với má”.

Với lứa tuổi của mình, Thu không thể hiểu những khắc nghiệt của chiến

tranh. Vậy mà, vết sẹo chiến tranh hằn trên gương mặt ông Sáu đã làm Thu

không nhận ra được cha mình.

=> Hậu quả mà chiến tranh gây ra khiến con người xót xa.

– Ông Sáu rất đau lòng, thất vọng vì bé Thu không nhận mình:

Khi bé Thu chạy vụt đi, hét lên hoảng hốt, sợ hãi: “nỗi đau đớn khiến

mặt anh tối sầm lại trông rất đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.

Trong ba ngày phép, càng muốn gần gũi, yêu thương con, bé Thu càng

lảng tránh, lạnh lùng, vô lễ. Ông càng đau khổ hơn (tám năm mới được gặp

con, những ngày phép ngắn dần mà con không chịu nhận ba, không một lần

được ôm con trìu mến…)

=> Tình cảm yêu thương trìu mến của một người cha.

2. Bé Thu nhận ra ba và cuộc chia tay của hai cha con

– Tình cảm thắm thiết mà ông Sáu dành cho con:

Lúc chia tay, ông Sáu muốn ôm hôn con nhưng sợ con không chịu, ông

chỉ nhìn con bằng đôi mắt “trìu mến lẫn buồn rầu”. Khi Thu nhận cha, ông Sáu

đã khóc vì sung sướng và xúc động.


Lúc ở rừng, tại khu căn cứ: ông Sáu sung sướng khi tìm được khúc ngày

(“hớt hải chạy về”, “hớn hở như trẻ con được quà”); lúc rỗi ông “cưa từng

chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”, khắc dòng

chữ nhỏ với bao tình cảm “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”

Lúc nhớ con, “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược

thêm bóng, thêm mượt”, có cây lược ông càng mong gặp con.

Trong giờ phút cuối cùng, tình cha con vẫn da diết “không đủ sức trăn

trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”.

Ông gửi cây lược cho đồng đội nhờ đưa cho con, lúc ấy mới nhắm mắt

xuôi tay.

– Tình cảm bé Thu đối với cha:

Trước lúc ông Sáu đi, Bé Thu gọi tiếng ba đầu tiên, xé lòng như thét lên:

“Ba…a…a… Ba!”. Tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao năm nay, tiếng ba

như vỡ tung từ đáy lòng nó.

Nó vừa kêu “vừa chạy xô tới”, “dang tay ôm chặt cổ, nó hôn ba nó cùng

khắp, nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết sẹo dài trên má ba nó nữa”,

“dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó” (muốn giữ ba nó ở lại), khóc mếu

máo với lời dặn “ba mua cho con một cái lược, nghe ba”.

3. Ông Sáu hy sinh ở chiến trường và chuyện chiếc lược ngà


– Ông Sáu ở chiến trường không nguôi nhớ thương con, ân hận vì đã trót

đánh con bé. Ông dồn tất cả tình yêu con để tự tay làm chiếc lược ngà tặng con

như lời ông đã hứa lúc chia tay.

– Trước khi chết, ông Sáu vẫn cố dồn chút sức lực cuối cùng để gửi lại

chiếc lược, nhờ đồng đội trao tận tay cho con gái ông.

– Bé Thu lớn lên đã đi tiếp con đường của cha như để nối dài mãi tình

cha con bất tử.

Giá Trị Tác Phẩm Chiếc Lược Ngà

Giá trị nội dung

Qua truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện một cách cảm động

tình cha con thắm thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn

cảnh éo le của chiến tranh. Tình cảm ấy là cội nguồn, sức mạnh vượt lên sự

hủy diệt tàn bạo của chiến tranh.

Truyện còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau

thương, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia

đình.

Giá trị nghệ thuật

Tạo dựng tình huống bất ngờ, tự nhiên và hợp lí, thành công

Miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc qua suy nghĩ, hành động và lời nói.
Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích

hợp.

Ngôn ngữ truyện mang đậm chất địa phương Nam Bộ.

BÀI VĂN MẪU

Nguyễn Quang Sáng (1932 – 2014), là một nhà văn, nhà biên kịch nổi

tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là với những tác phẩm viết

về đề tài người lính và chiến tranh. Văn chương của Nguyễn Quang Sáng là

một chất giọng nhẹ nhàng, chân thành, trong sáng và cảm động, chính vì vậy

ông được mệnh danh là “một trong những con khủng long quý hiếm của nền

văn học thời chiến trận mà tác phẩm không có hận thù”.

Với tác phẩm nổi tiếng nhất của đời mình – Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang

Sáng không hề cố khơi gợi lên những mối thù hận chiến tranh mà thay vào đó

ông tập trung xoáy mạnh vào tình cảm gia đình, tình cảm cha con và những nỗi

đau trong cảnh ngộ đầy éo le của những ngày đất nước đau thương.

Trong truyện ngắn Chiếc lược ngà trước tiên có lẽ cần phải nói đến nỗi đau,

nỗi bất hạnh của người lính chiến – anh Sáu. Người đàn ông dường như đã hy

sinh cả tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cầm súng chiến đấu suốt hàng chục năm

trời, từ những ngày đứa con gái của anh chưa tròn một tuổi. Anh Sáu hy sinh

nhiều lắm, chấp nhận rời bỏ quê hương, rời xa vợ con để theo tiếng gọi của Tổ

quốc, hy sinh cả sức khỏe, xương máu của mình ở tại chiến trường.
Sau nhiều năm chiến đấu cuối cùng anh nhận lại được những gì? Một tấm thân

đầy sương gió, một vết sẹo dữ tợn trên mặt và cuối cùng đó là sự xa lánh, kinh

sợ của đứa con gái mà thuở bé anh chưa được ẵm bồng con ngày nào.

Đứa trẻ ấy, nó chỉ thương người cha ở trong bức ảnh của mẹ, chứ không phải

một người đàn ông trung niên có vết sẹo xấu xí, và trong suốt những ngày nghỉ

phép ấy, anh Sáu đã phải đối diện với những nỗi đau thực ghê gớm, sự buồn

rầu, xót xa, sự nuối tiếc khi đã bỏ lỡ những thời gian ở cạnh đứa con.

Rồi cả những cử chỉ ghét bỏ, lạnh lùng của bé Thu dường như đang cứa vào

trái tim anh từng nhát, mang đến những nỗi đớn đau day dứt trong tâm hồn.

Không chỉ vậy, trước sự hỗn láo của đứa con mà anh chưa dạy dỗ ngày nào,

anh đã đánh nó, khiến nó khóc bỏ đi, có lẽ bé Thu đau một thì anh Sáu lại là

người đau mười. Rõ ràng bé Thu không có lỗi, anh Sáu lại càng không có lỗi,

lỗi là bởi hoàn cảnh trái ngang đã đẩy đưa khiến cho mối quan hệ cha con trở

nên căng thẳng.

Cho đến khi cha con nhận nhau, giữa một khung cảnh đầy cảm động yêu

thương, mà người ta ước chi nó kéo dài được thêm vài giờ nữa thì anh Sáu lại

phải vác súng quay trở lại chiến trường, rồi cuối cùng hy sinh tại đó. Anh đã ra

đi khi chưa kịp tận tay đưa cho đứa con gái yêu của mình chiếc lược ngà mà

anh hứa sẽ tặng nó, ra đi trong những nỗi đau và nuối tiếc dồn nén, cả đối với

người ra đi và những người ở lại.


Vậy có thể nói rằng, nhân vật anh Sáu trong truyện ngắn Chiếc lược ngà chính

là một trong những đại diện, ví dụ tiêu biểu nhất về câu nói: “Không có hạnh

phúc nào cho người lính”.

Điều đó khiến mỗi chúng ta ngày hôm nay lại càng phải thêm trân trọng những

gì mà cha ông đã hy sinh xương máu, tình cảm cá nhân để giành lại, đồng thời

có tấm lòng yêu thương, kính trọng với những con người đã ngã xuống về nền

độc lập dân tộc cũng như với thân nhân của họ.

Một nhân vật thứ hai nữa trong truyện ngắn ấy là bé Thu, có thể nói rằng cô bé

cũng là một trong những nạn nhân gián tiếp của chiến tranh. Bé Thu có hoàn

cảnh tội nghiệp, cha ra đi vào chiến trường từ những ngày bé còn chưa biết gì,

thiếu thốn tình cảm của cha, lớn lên trong vòng tay của mẹ, của bà vào những

năm tháng đất nước nhiều đau thương.

Thế nhưng có lẽ trẻ con thời kỳ này trưởng thành sớm, Thu là một cô bé biết

suy nghĩ, bé thấu hiểu cho hành động đi chiến đấu của cha, và trong trái tim bé

nhỏ của nó không chỉ là những tình cảm yêu thương thắm thiết phụ tử, mà còn

là cả tấm lòng ngưỡng mộ về một người lính cách mạng anh hùng.

Nhưng chính sự xa cách và những suy nghĩ non dại của Thu đã dẫn đến những

bi kịch gia đình, khi mà cô bé một lòng yêu thương trân trọng người đàn ông

trẻ tuổi ở trong tấm ảnh, cô bé ấy không thể hiểu được rằng bom đạn có thể lấy

đi của người ta tất cả mọi thứ, và để lại trên thân thể những vết sẹo không bao

giờ lành.
Sự kỳ vọng bao nhiêu về một người cha trẻ trung, sáng láng thì bé Thu lại càng

thất vọng và sợ hãi khi thấy một người tự xưng là cha mình, nhưng mặt lại có

vết sẹo dữ tợn, bộ dáng phong trần già nua, khác hoàn toàn với những gì bé

tưởng tượng. Điều ấy khiến bé Thu thất vọng và căm ghét người đàn ông trước

mắt, Thu không chịu nhận ông Sáu là cha, không gọi một tiếng “cha” nào cả,

và còn có những hành động hỗn hào, lạnh lùng với ông Sáu.

Khi ấy người ta mới thật thấm thía những bi kịch gia đình của người lính, khi

xa nhà quá lâu, đến vợ có khi còn quên mặt nói gì đến một đứa bé 8 tuổi chưa

từng gặp mặt cha lần nào, chưa từng được ôm hôn hưởng thụ thứ tình cảm phụ

tử ấm áp như bé Thu.

Thì việc bé Thu giãy nảy, băn khoăn, khó chịu trong lòng khi đối diện với một

ông Sáu hoàn toàn khác xa những gì bé biết là hoàn toàn có thể xảy ra và có lẽ

nó đã xảy ra trong rất nhiều gia đình của những người lính chiến.

Thế mới nói một khi người lính ra đi, họ chỉ có thể mất đi nhiều thứ, chứ chẳng

nhận được điều gì ngoài việc đất nước nay mai được hòa bình. Một lý tưởng vĩ

đại, đã đựng dựng nên bằng hàng vạn những hy sinh mất mắt mà không phải ai

cũng thấu hiểu.

Một bi kịch khác trong mối quan hệ giữa cha con bé Thu và của chính bé Thu

có lẽ là nỗi niềm hối hận, nuối tiếc muộn màng. Khi cô bé đã hiểu ra mọi
chuyện, quyết định quay về nhận cha, thì cũng là lúc anh Sáu phải quay lại

chiến trường.

Cuộc hội ngộ cha con cảm động chỉ diễn ra trong vài phút giây ngắn ngủi, ông

Sáu vẫn chưa bù đắp được gì cho con, còn bé Thu cũng chưa kịp yêu thương

ông Sáu như những gì nó hằng tưởng đến.

Đó là nỗi đau không chỉ của riêng hai nhân vật mà nó còn là nỗi đau chung của

nhiều gia đình trên đất Việt lúc bấy giờ, bao nhiêu tình mẫu tử, tình phụ tử,

tình anh em, tình vợ chồng nhiều khi chỉ kịp bùng lên một nhoáng rồi đứt đoạn

vì những hy sinh mất mát trong chiến tranh, để cho những người ở lại biết bao

xót xa, ân hận.

Đặc biệt ở trong hoàn cảnh của bé Thu, ngày bé nhận cha cũng là lần cuối cô

bé còn được nhìn thấy cha bằng xương bằng thịt, thì lại càng thêm đau đớn.

Người con gái ấy kể cả khi lớn lên, có lẽ trong trái tim vẫn luôn âm ỉ đau đớn

một nỗi niềm hối hận, khi giờ đây chỉ còn lại duy nhất chiếc lược ngà là kỷ vật

người cha tỉ mẩn khắc từng nhát dao để lại cho cô bé.

Nhưng có một điều không thể nào chối cãi được rằng, dù gần gũi thì ít, xa cách

thì nhiều thế nhưng tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu là những tình

cảm thật thắm thiết và sâu nặng. Khi bản thân ông Sáu cố gắng bù đắp, cố

gắng, chăm sóc bé Thu những ngày nghỉ phép, nén nhịn nỗi đau nỗi tức giận

trước sự lạnh nhạt của con bé, chỉ mong được con bé thừa nhận.
Đến khi ra chiến trường nhiều nguy hiểm gian khó, ông Sáu vẫn nhớ y nguyên

những lời dặn dò của bé Thu tỉ mẩn làm cho nó một chiếc lược ngà, làm xong

rồi thì luôn đặt trong túi trước ngực, thỉnh thoảng lại lấy ra chải tóc cho chiếc

lược thêm bóng bẩy, đẹp đẽ. Có thể nói bao nhiêu yêu thương đều dồn cả vào

trong đó.

Thì ở bé Thu là những tình cảm ngây thơ trong sáng, tình yêu thương đối với

cha hình thành từ tấm ảnh, rồi qua những lời kể của mẹ, của bà, và cuối cùng là

khi đã hiểu rõ mọi chuyện, thì con bé trở nên dũng cảm, lập tức quay về nhận

cha, vì sợ không được gặp cha nữa. Có thể nhận thấy rằng Thu là một đứa trẻ

hiểu chuyện, tuy có cứng đầu, thế nhưng là một đứa trẻ ngoan, sẵn sàng sửa sai

khi nhận ra lỗi lầm của mình.

Đến nay chiến tranh dù đã qua đi được hơn nửa thế kỷ nhưng có những nỗi

đau, có những câu chuyện vẫn khiến nhiều độc giả phải thấy xúc động và đau

đớn cho nhân vật, cuộc đời của những người lính chiến và gia đình của họ. Đặc

biệt trong truyện ngắn Chiếc lược ngà thì tình cảm cha con giữa hai nhân vật

ông Sáu và bé Thu vừa khiến người ta cảm động lại cũng là một bi kịch đầy

xót xa, khiến chúng ta không thể không có nhiều trăn trở suy nghĩ.

You might also like