Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

TIỂU LUẬN

Đề: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản


Việt Nam. Liên hệ thực tiễn công tác cán bộ của Đảng ta
hiện nay. Bản thân anh chị cần làm gì
I. Đặt vấn đề:

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta, Người trực tiếp sáng lập và
lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do
cho dân tộc. Người là hiện thân mẫu mực của người đảng viên đảng cộng sản, kiên
định với mục tiêu, lý tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin, trọn đời cống hiến cho sự nghiệp
đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người là một chiến sĩ cách mạng
suốt đời đấu tranh vì độc lập tự do và hạnh phúc của dân tộc, vì tình hữu nghị và đoàn
kết quốc tế giữa các quốc gia và dân tộc yêu hòa bình. Người là tấm gương sáng về
đạo đức, tác phong công tác để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân noi theo. Di sản của
Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho Đảng, cho nhân dân ta vô cùng to lớn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản là một bộ phận quan trọng, là sự thừa
kế, bổ sung và phát triển, sáng tạo tư tưởng của Mác - Ănghen và nhất là những
nguyên tắc về Đảng kiểu mới của Lê - Nin trong điều kiện Việt Nam. Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước.
Hiện nay với sự phát triển của đất nước thì công tác cán bộ của Đảng ta cũng rất
quan trọng và cần thiết. Vì vậy, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam. Liên hệ thực tiễn công tác cán bộ của Đảng ta
hiện nay. Bản thân anh chị cần làm gì”.

1
II. Nội dung:
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản:
1.1. Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam:

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 03 – 02 – 1930. Do hoàn cảnh của Việt Nam
là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước ở nước ta. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem yếu tố tự giác vào phong trào công
nhân, làm cho phong trào cách mạng nước ta có một bước nhảy vọt về chất, lên một
tầm cao mới.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc
Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy nguyên tắc tập trung
dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, lấy sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm mục đích tối cao của mình.

Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện vai trò lãnh đạo,
tinh thần phụ trách trước giai cấp và dân tộc trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối chiến
lược, sách lược, phương pháp cách mạng và lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn thành
từng mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước và đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới
đất nước nhằm tạo ra bước ngoặt lịch sử, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội, xây dựng nước ta theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.

Để đưa sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi, để đảm đương được vai trò lãnh đạo,
Đảng Cộng sản Việt Nam coi việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng và nâng cao năng
lực lãnh đạo là yêu cầu quan trọng hàng đầu, đảm bảo cho Đảng luôn luôn ngang tầm

2
nhiệm vụ cách mạng. “Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực lãnh
đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, đảm bảo đầy đủ dân chủ
và kỷ luật trong sinh hoạt Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi hành vi chia rẽ, bè phái. Đảng
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có
sức chiến đấu cao. Đảng quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp
cách mạng của Đảng và nhân dân”.

1.2. Đảng phải trong sạch, vững mạnh:

a. Đảng là đạo đức, là văn minh:

Theo Hồ Chí Minh, đạo đức của Đảng thể hiện trên những điểm sau đây:
Thứ nhất, mục đích hoạt động của Đảng là lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Đó là sự nghiệp cách
mạng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, làm cho dân tộc được độc lập, nhân dân có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc thực sự, đoàn kết hữu nghị với các dân tộc trên thế giới
Thứ hai, cương lĩnh, đường lối, chủ trương và mọi hoạt động thực tiễn của Đảng
đều phải nhằm mục đích đó. Đảng phải luôn luôn trung thành với lợi ích toàn dân tộc
vì Đảng không có mục đích riêng; sự ra đời và phát triển của Đảng đều vì mục đích
làm cho đất nước hùng cường đi lên chủ nghĩa xã hội, đưa lại quyền lợi cho dân.
Thứ ba, đội ngũ đảng viên phải luôn luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng, ra sức
tu dưỡng, rèn luyện, suốt đời phấn đấu cho lợi ích của dân, của nước. Do vậy, một
trong những biểu hiện rõ nhất của Hồ Chí Minh về rèn luyện Đảng Cộng sản Việt
Nam để cho Đảng trở thành Đảng của đạo đức, của văn minh là Người “rèn” đạo đức
cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đảng viên càng phải là những người có
lòng nhân ái, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”; trung với Đảng, trung với
nước, hiếu với dân; có bốn đức: cần, kiêm, liêm, chính và luôn luôn chí công vô tư; có
tinh thần quốc tế trong sáng.
Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một Đảng đạo đức, văn minh thể hiện ở
những nội dung chủ yếu sau đây:
3
Thứ nhất, Đảng văn minh là một Đảng tiêu biểu cho lương tâm, trí tuệ và danh dự
của dân tộc.
Thứ hai, Đảng ra đời là một tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển văn minh tiến
bộ của dân tộc và của nhân loại. Mọi hoạt động của Đảng đều xuất phát từ yêu cầu
phát triển của dân tộc, lấy lợi ích tối cao của dân tộc làm trọng, mọi lợi ích giai cấp
đều phải đặt dưới sự phát triển của dân tộc; mọi hoạt động của Đảng đều phải phù hợp
với quy luật vận động của xã hội Việt Nam.
Thứ ba, Đảng phải luôn luôn trong sạch, vững mạnh, làm tròn sứ mệnh lịch sử do
nhân dân, dân tộc giao phó là lãnh đạo giành độc lập cho Tổ quốc và đưa lại tự do, ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong giai đoạn Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh càng
chú trọng hơn việc phòng và chống các tiêu cực trong Đảng.
Thứ tư, xây dựng Đảng văn minh còn thể hiện trong giai đoạn cầm quyền, Đảng
hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, Đảng không phải là tổ chức đứng
trên dân tộc.
Thứ năm, Đảng văn minh còn là ở chỗ đội ngũ đảng viên, từ những đảng viên giữ
chức vụ lãnh đạo, quản lý trong bộ máy Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần chúng,
nhất là những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý chủ chốt, cho đến đảng viên
không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý phải là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu
trong công tác và cuộc sống hằng ngày.
Thứ sáu, Đảng văn minh phải là Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động
không những vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà còn vì độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác; vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát
triển của các dân tộc trên thế giới.
b. Những vấn đề nguyên tắc trong hoạt động của Đảng:
Thứ nhất, Tập trung dân chủ Hồ Chí Minh đưa ra luận đề liên quan mật thiết với
nhau: Tập trung trên nền tảng dân chủ, dân chủ phải đi đến tập trung. Như vậy, hàm
lượng dân chủ càng cao, càng đậm đặc bao nhiêu trong hoạt động của Đảng thì tập
trung trong Đảng càng đúng đắn bấy nhiêu. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, phải làm
cho tất cả mọi đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình ở trong Đảng, tức là khơi dậy tinh
thần trách nhiệm và tính tích cực chủ động của tất cả Đảng viên. Khi đã thảo luận, bày

4
tỏ ý kiến rồi đi đến tập trung, tức là đề cập ý chí thống nhất, hành động thống nhất,
như thế mới có sức mạnh. Và, nói như Hồ Chí Minh, lúc ấy quyền tự do của đảng viên
trở thành quyền phục tùng chân lý, mà chân lý là những điều có lợi cho dân, cho nước.
Điều kiện tiên quyết khi thực hiện nguyên tắc này là tổ chức Đảng phải trong sạch,
vững mạnh.
Thứ hai, Tự phê bình và phê bình. Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là
việc làm thường xuyên, “như mỗi ngày phải rửa mặt”. Người viết trong Di chúc:
“Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình
và phê bình là cách tốt nhất để củng cố sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng”. Người
cho rằng, tự phê bình và phê bình là “thang thuốc” tốt nhất để làm cho phần tốt trong
mỗi tổ chức và mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi; tự
phê bình và phê bình phải trung thực, kiên quyết, đúng người, đúng việc, phải có văn
hóa... Trong Đảng, “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Thứ ba, Kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng tổ chức
rất nghiêm, khác với các đảng phái khác và các hội quần chúng. Trong Đảng chỉ kết
nạp những phần tử hăng hái nhất, cách mạng nhất. Đảng có những điều kiện kỷ luật
bắt buộc mỗi đảng viên phải theo. Không có kỹ luật sắt không có Đảng. Đã vào Đảng
thì phải theo tư tưởng của Đảng. Đảng đã chỉ thị nghị quyết là phải làm. Không làm
thì đuổi ra khỏi Đảng”. Sức mạnh của một đảng cộng sản bắt nguồn từ kỷ luật, muôn
người như một, cùng một ý chí và hành động. Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng ta tuy
đông người, nhưng khi tiến đánh chỉ như một người. Điều đó là nhờ trong Đảng có kỷ
luật, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng,“Đảng phải giữ kỷ luật rất nghiêm từ trên xuống
dưới. Kỷ luật này là tư tưởng phải nhất trí, hành động phải nhất trí” . Kỷ luật của
Đảng là kỷ luật tự giác, “do lòng tự giác của đảng viên về nhiệm vụ của họ đối với
Đảng” ; khi đã tự giác thì kỷ luật của Đảng mới nghiêm và mới bền lâu, thực sự tạo
sức mạnh cho Đảng.
Thứ tư, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn. Quyền lực của Đảng là do giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc giao phó. Đảng phải không ngừng tự
chỉnh đốn bản thân mình. Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng không có mục đích tự thân
Đảng không phải là tổ chức để làm quan phát tài mà Đảng từ trong xã hội mà ra hoạt

5
động vì Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Thường xuyên tự chỉnh đốn, do
đó, trở thành một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong xây dựng Đảng. Điều này càng
đặc biệt quan trọng hơn khi Đảng đứng trước những thử thách lớn trong quá trình hoạt
động, chẳng hạn, Hồ Chí Minh nêu ý kiến rằng, ngay sau khi cuộc chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân Việt Nam hoàn thành thắng lợi, “việc cần phải làm trước tiên là
chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm nhiệm vụ đảng
giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công
việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi” .
Thứ năm, Đoàn kết, thống nhất trong Đảng: Đoàn kết trong Đảng là điều kiện để
xây dựng khỏi đại đoàn kết toàn dân tộc; đoàn kết, thống nhất trong Đảng trước hết là
trong cấp uỷ, trong những cán bộ lãnh đạo chủ chốt; đoàn kết trên cơ sở chủ nghũa
Mac - Lênin, trên cơ sở cương lĩnh, đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng.
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ
phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến
nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
Đảng và của dân tộc ta. Các đồng chú từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn
sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”
Thứ sáu, Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam là
một bộ phận của toàn thể dân tộc Việt Nam. Vấn đề mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản
- Giai cấp công nhân - Nhân dân Việt Nam là mối quan hệ khăng khít, máu thịt. Mỗi
một thành tố đều có chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng tất cả những thành tố đó cũng
như sự hoạt động, sự tương tác của chúng đều có tính hướng đích: Độc lập dân tộc và
với chủ nghĩa xã hội, là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh theo ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh là ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành, cũng như theo mong muốn cuối cùng của Hồ Chí
Minh đã ghi trong Di chúc: Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Thứ bảy, Đoàn kết quốc tế. Đảng phải chú trọng giữ vững và tăng cường mối
quan hệ quốc tế trong sáng. Điều này xuất phát từ tính chất quốc tế của giai cấp công

6
nhân mà Mac, Ph. Angghen, V.I.Lênin đã nhiều lần đề cập. Đối với nguyên tắc này
Hồ Chí Minh coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận khắng khít của cách mạng thế
giới và trong Di chúc, Người mong Đảng “sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào
việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mac -
Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”.

c. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên:

Thứ nhất, phải tuyệt đối trung thành với Đảng.


Cán bộ, đảng viên phải tuyệt đối trung thành với Đảng, suốt đời phấn đấu cho lợi
ích của cách mạng, vì mục tiêu lý tưởng của Đảng, những người “đặt lợi ích của Đảng
lên trên hết, lên trước hết, vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc.
Thứ hai, phải là những người nghiêm chính thực hiện Cương lĩnh, đường lối quan
điểm, chủ trương, nghị quyết của Đảng và các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Thứ ba, phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng.
Thứ tư, phải luôn luôn học tập nâng cao trình độ về mọi mặt.
Thứ năm, phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
Phải làm đầy tớ thật trung thành cho nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân; tiên phong, gương mẫu, chịu khổ trước nhân dân và vui sau nhân
dân, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
Thứ sáu, phải luôn luôn chịu trách nhiệm, năng động, sáng tạo.
Không bao giờ thụ động, không bao giờ lười biếng mà phải là những người “thắng
không kiêu bại không nản”, luôn luôn có tinh thần sáng tạo, hăng hái, nêu cao trách
nhiệm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân.
Thứ bảy, phải là những người luôn luôn phòng và chống các tiêu cực.
Trong việc phòng và chống các tiêu cực, phải đặc biệt phòng và chống tham ô,
lãng phí, quan liêu mà Hồ Chí Minh cho đó là giặc nội xâm, là những kẻ địch bên
trong, “mỗi kẻ địch bên trong là một bạn Đảng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên
ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”.
Hồ Chí Minh là người chỉ ra rất sớm, nêu rõ những tiêu cực của cán bộ, đảng viên
và chỉ rõ những giải pháp khắc phục. Có thể đề cập sự thoái hoá, biến chất của cán bộ,
đảng viên trên nhiều mặt: về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống, v.v. nhưng điều

7
thường thấy nhất và trực tiếp nhất là Hồ Chí Minh đề cập là về đạo đức, lối sống, về
tinh thần trách nhiệm trong công việc
2. Thực trạng của công tác cán bộ của Đảng hiện nay:
2.1. Thành tựu:

Thứ nhất, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ từng bước được bổ
sung, hoàn thiện và ngày càng cụ thể, chặt chẽ, sát thực tiễn hơn.

Từ khi thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội
VI của Đảng đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khoá
đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế,... về công tác
cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, từng bước hoàn thiện chủ trương, quan điểm của
Đảng về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ; đặc biệt đến Đại hội XII, Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc
rà soát, bổ sung, sửa đổi và ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế,... về
công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ để thực hiện.

Thứ hai, quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán
bộ được bổ sung, phát triển ngày càng cụ thể, toàn diện, đồng bộ hơn.

Nghị quyết số 26-NQ/TW đã bổ sung, phát triển và xác định 5 quan điểm chỉ đạo
về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ để thực hiện trong những năm tới. Đây
là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn và sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta
về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, cụ thể là: một, cán bộ là nhân tố quyết
định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp
chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải
được tiến hành một cách khoa học, thận trọng, thường xuyên, chặt chẽ và hiệu quả;
hai, thực hiện nghiêm, nhất quán việc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện
công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn hóa, siết
chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc
đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì

8
lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền và ràng buộc trách nhiệm; tăng
cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm; ba, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ
phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu,
nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng
của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và kết hợp
chặt chẽ với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao và thu hút, trọng dụng nhân
tài; bốn, quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán
bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử
lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu; giữa “xây” và “chống”; giữa
đức và tài; giữa tính phổ biến và tính đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát
triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể; năm, xây dựng đội ngũ cán bộ
là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức đảng mà
trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ
chức, cán bộ là nòng cốt.

Thứ ba, đội ngũ cán bộ các cấp đã trưởng thành, phát triển về nhiều mặt - nhân tố
quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước.

Qua 20 năm thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, đội ngũ cán bộ các cấp đã có bước trưởng thành, phát triển về nhiều
mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành,
nghề và lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn.. Nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý
được quy hoạch ở các cấp khá dồi dào, bảo đảm sự phát triển lâu dài, bền vững của
đội ngũ cán bộ. Trình độ các mặt của đội ngũ cán bộ các cấp được nâng lên đáng kể,
số người có trình độ đại học và trên đại học chiếm 7,3% dân số cả nước, trong khi
mục tiêu Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII đề ra là 4%.

Nhìn chung, đa số cán bộ có lập trường tư tưởng và bản lĩnh chính trị vững vàng,
đạo đức trong sáng, lối sống giản dị, gương mẫu; có ý thức rèn luyện, phấn đấu, hoàn

9
thành tốt các nhiệm vụ được giao; nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh
với nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường
quốc tế. Hầu hết cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang được rèn luyện, thử thách qua
thực tiễn, trung thành với Đảng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Nhiều cán bộ khoa học
tâm huyết, say mê nghiên cứu, có nhiều đóng góp tích cực cho đất nước. Một số lãnh
đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước đã thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, tổ chức
sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của đất
nước trong những năm qua.

Thứ tư, công tác cán bộ có nhiều đổi mới, ngày càng dân chủ, khách quan, công
khai, minh bạch, chặt chẽ hơn.

Trong mấy nhiệm kỳ Đại hội Đảng vừa qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, kết
luận, sửa đổi, bổ sung nhiều quy định, quy chế liên quan đến công tác cán bộ để khắc
phục những vướng mắc, hạn chế, yếu kém, bất cập trước đây, cụ thể là đã xây dựng
tiêu chuẩn chức danh cán bộ và tiêu chí đánh giá cụ thể đối với từng chức danh, đối
tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý được gắn
kết với các khâu của công tác cán bộ, bảo đảm sự liên thông giữa các cấp trong đội
ngũ cán bộ của hệ thống chính trị và cơ cấu 3 độ tuổi, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cả
trước mắt và lâu dài.; việc đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, nhất
là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp được đẩy mạnh, tạo chuyển biến tích cực
và gắn kết chặt chẽ với công tác quy hoạch, yêu cầu thực tiễn và tiêu chuẩn chức danh
của từng cán bộ; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từng bước được cơ cấu lại theo
hướng nâng cao chất lượng và tinh giản mạnh mẽ biên chế hành chính; công tác tuyển
chọn, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ có nhiều đổi mới để lựa chọn đúng người, bố trí
đúng việc; lấy phiếu tín nhiệm trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và các cơ quan
dân cử. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được coi trọng, tăng cường, với
phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có đặc quyền”. Việc xử
lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm minh đối với những tổ chức, cá nhân vi phạm và công
khai trên các phương tiện thông tin đại chúng đã có tác dụng cảnh tỉnh, cảnh báo, răn
đe và phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng, quan liêu, tiêu cực, làm trong sạch một
10
bước đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân
đối với Đảng.

2.2. Hạn chế:

Thứ nhất, việc thực hiện một số nội dung còn hình thức. Đánh giá cán bộ vẫn là
khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể,
không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến. Quy hoạch cán bộ
thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa phương; còn dàn trải,
khép kín, chưa đảm bảo phương châm “động” và “mở”.

Thứ hai, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ
giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh. Luân chuyển
cán bộ và thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh không là người địa phương,
trong đó có bí thư cấp ủy các cấp còn bất cập, chưa đạt yêu cầu.

Thứ ba, việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn
còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm
cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng,
“cánh hẩu” xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội.

Thứ tư, công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, viên chức còn nhiều hạn
chế, chất lượng chưa cao, chưa đồng đều, có nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu cực. Chủ
trương thu hút nhân tài chậm được cụ thể hóa bằng các cơ chế, chính sách phù hợp;
kết quả thu hút trí thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu.

Thứ năm, chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành có mặt còn thiếu thống nhất,
chưa đồng bộ; chính sách tiền lương, nhà ở và việc xem xét thi đua, khen thưởng chưa
thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc.

Thứ sáu, phân cấp quản lý cán bộ chưa theo kịp tình hình, còn tập trung nhiều ở
cấp trên. Một số chủ trương thí điểm chỉ đạo chưa quyết liệt, tổ chức thực hiện thiếu
nhất quán, đồng bộ và chưa kịp thời đánh giá, rút kinh nghiệm.

11
Thứ bảy, việc kiểm tra, giám sát thiếu chủ động, chưa thường xuyên, còn nặng về
kiểm tra, xử lý vi phạm, thiếu giải pháp hiệu quả để phòng ngừa, ngăn chặn sai phạm.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn bị động, chưa theo kịp tình hình, tổ chức bộ máy
thiếu ổn định. Đầu tư xây dựng đội ngũ làm công tác tổ chức, cán bộ chưa tương xứng
với yêu cầu, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy cơ quan tham mưu còn nhiều đầu mối, chức
năng, nhiệm vụ chưa thật sự hợp lý; phẩm chất, năng lực và uy tín của không ít cán bộ
làm công tác tổ chức, cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu.

2.3. Nguyên nhân:

Thứ nhất, nhận thức và ý thức trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, lãnh
đạo cơ quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, về cán bộ và công
tác cán bộ chưa thật sự đầy đủ, sâu sắc, toàn diện. Công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng chưa được coi trọng đúng mức.

Thứ hai, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nội dung nêu trong
các nghị quyết, kết luận của Trung ương về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán
bộ còn thiếu quyết liệt, chưa thường xuyên, nghiêm túc; chậm thể chế hoá, cụ thể hoá;
ít kiểm tra đôn đốc và chưa có chế tài xử lý nghiêm.

Thứ ba, một số nội dung trong công tác cán bộ chậm được đổi mới. Chưa có tiêu
chí, cơ chế hiệu quả để đánh giá đúng cán bộ, tạo động lực, bảo vệ cán bộ và thu hút,
trọng dụng nhân tài; chính sách cán bộ còn bất cập, chưa phát huy tốt tiềm năng của
cán bộ. Công tác quản lý cán bộ có nơi, có lúc bị buông lỏng; chưa có cơ chế sàng lọc,
thay thế kịp thời những người yếu kém, uy tín thấp, không đủ sức khoẻ.

Thứ tư, phân công, phân cấp, phân quyền chưa gắn với ràng buộc trách nhiệm, với
tăng cường kiểm tra, giám sát và chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền
lực. Chưa có biện pháp hữu hiệu để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức,
chạy quyền và những tiêu cực trong công tác cán bộ. Thiếu chặt chẽ, hiệu quả trong
phối hợp kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm. Công tác bảo vệ chính trị nội
bộ chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức.

12
Thứ năm, chưa phát huy đầy đủ vai trò giám sát của cơ quan dân cử; giám sát,
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; thiếu cơ chế phù
hợp để cán bộ, đảng viên gắn bó mật thiết với nhân dân; chưa phát huy có hiệu quả vai
trò, trách nhiệm của các cơ quan truyền thông, báo chí.

Thứ sáu, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ còn
chồng chéo, chậm được đổi mới. Chưa quan tâm đúng mức xây dựng đội ngũ làm
công tác cán bộ; năng lực, phẩm chất, uy tín của một số cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ. Còn coi nhẹ công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học, xây
dựng và phát triển lý luận về cán bộ và công tác cán bộ.

3. Trách nhiệm và sự chuẩn bị của bản thân:

Thứ nhất, không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức
lối sống và phát huy những thế mạnh của mình.

Thứ hai, kiên định với lập trường của bản thân, với mục tiêu chính trị. Làm chủ
những phát ngôn của mình, nhất là những vấn đề nhạy cảm cần đảm bảo tính chính
xác của thông tin.

Thứ ba, bản thân cần phải tích cực trau dồi vốn kiến thức, chủ động tìm kiếm
thông tin, tự rèn luyện bản thân.

Cuối cùng, bản thân cần giải quyết tốt, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình
để trở thành một sinh viên ưu tú góp phần xây dựng xã hội văn minh hơn.

13
III. Kết luận:

Sau khi nghiên cứu đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam.
Liên hệ thực tiễn công tác cán bộ của Đảng ta hiện nay. Bản thân anh chị cần làm gì”,
bản thân nhận thấy:
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, là đại biểu trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; từ đấu tranh
giành độc lập đến xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ quyền của Tổ quốc. Trong mọi
hoạt động của mình, Đảng luôn đặt lợi ích của nhân dân, của dân tộc lên trên hết; luôn
quan tâm, chăm lo chu đáo đến đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của
nhân dân lao động. Đồng thời, Đảng ta luôn nhìn thẳng vào sự thật, sẵn sằng thừa
nhận thiếu sót, hạn chế của mình, liên tục đề ra các chính sách xây dựng và chỉnh đốn
Đảng vì sự phát triển bền vững, thịnh vượng. Đây là phẩm chất quý báu của Đảng ta
mà không phải Đảng nào cũng có thể làm được.
Ngày nay, trong bối cảnh sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đang đi vào chiều
sâu, Việt Nam đang đứng trước thời cơ, vận hội mới cũng như thách thức vươn lên trở
thành một quốc gia công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; đòi hỏi
Ðảng ta phải không ngừng nâng cao năng lực, sức chiến đấu ngang tầm với nhiệm vụ
mới và quản lý nhà nước hiệu lực, hiệu quả; năng lực tổ chức thực hiện của đội ngũ
cán bộ phải được nâng cao về mọi mặt.
Là sinh viên, chúng ta cần phải có ý thức luôn cố gắng học tập, tu dưỡng rèn
luyện, thường xuyên trau dồi đạo đức, phẩm chất cách mạng, tiền phong gương mẫu
trong mọi hoạt động. Ngoài ra, chúng ta tin tưởng và chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ
trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, luôn phấn đấu hoàn thành tốt
mọi nhiệm vụ được giao.

14
IV. Tài liệu tham khảo:

Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh

https://sites.google.com/site/drcongcuu/cau-14

https://www.tapchicongsan.org.vn/media-story/-/asset_publisher/
V8hhp4dK31Gf/content/thanh-tuu-va-kinh-nghiem-ve-cong-tac-can-bo-cua-
dang-trong-nhung-nam-doi-moi

https://dangcongsan.vn/dua-nghi-quyet-trung-uong-6-trung-uong-7-vao-cuoc-
song/hoi-dap/ve-nhung-han-che-yeu-kem-trong-doi-ngu-can-bo-va-cong-tac-
can-bo-497750.html

https://moha.gov.vn/kstthc/baocao/toan-van-nghi-quyet-so-26-nq-tw-ve-cong-
tac-can-bo-38282.html

15
MỤC LỤC:
I. Đặt vấn đề:...................................................................................................1
II. Nội dung:.....................................................................................................2
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản:.........................................2
1.1. Tính tất yếu và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam:. 2
1.2. Đảng phải trong sạch, vững mạnh:................................................3
2. Thực trạng của công tác cán bộ của Đảng hiện nay:..........................8
2.1. Thành tựu:........................................................................................8
2.2. Hạn chế:..........................................................................................11
2.3. Nguyên nhân:.................................................................................12
3. Trách nhiệm và sự chuẩn bị của bản thân:.......................................13
III. Kết luận:...................................................................................................14
IV. Tài liệu tham khảo:.................................................................................15

16

You might also like