Professional Documents
Culture Documents
ĐỒNG CHÍ
ĐỒNG CHÍ
(Chính Hữu)
ĐỀ 1: TRÌNH BÀY CẢM NHẬN CỦA EM VỀ ĐOẠN THƠ SAU:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chăng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đội tri kỉ.
Đồng chí !
==========================================================
ĐỀ 2: CẢM NHẬN CỦA EM VỀ ĐOẠN THƠ SAU:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
(Trích Đồng chí, Chính Hữu, Ngữ văn 9, tập một)
I. Mở bài
--------------
II. Thân bài
1.Khái quát chung
------------------------
2. Cảm nhận khổ thơ
* Chuyển ý: Nếu 7 câu đầu tác giả nêu lên cơ sở để hình thành tình đồng chí thì 10 câu tiếp theo
tác giả đi tìm những biểu hiện đẹp của tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng sâu nặng này.
+ Luận điểm 1: Trước hết, đồng chí là sự thấu hiểu và chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của
nhau. Các anh đều là những người lính tạm gác tình riêng, để nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của
tổ quốc, dũng cảm ra đi vì nghĩa lớn để lại sau lưng mảnh trời quê hương với biết bao nhiêu trăn
trở:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
- Họ vốn gắn bó sâu nặng với ruộng nương, với căn nhà thân thiết, nhưng cũng sẵn sàng rời bỏ tất
cả để ra đi. Nhà thơ đã dùng những hình anh quen thuộc và tiêu biểu của mọi làng quê Việt Nam
như biểu tượng của quê hương những người lính nông dân. Giếng nước, gốc đa không chỉ là cảnh
vật mà còn là làng quê, là dân làng.
- Cảnh vật ở đây được nhân cách hoá, như có tâm hồn hướng theo người lính. Hình ảnh “gian nhà
không” là hình ảnh khá lắng đọng trong tâm trí những người chiến sĩ ấy và cũng hết sức ám ảnh
trong tâm trí người đọc. Gian nhà không không chỉ gợi cái nghèo mà còn diễn tả nỗi trống trải của
lòng người ở lại. Trong câu“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày” nếu ta thay từ “anh” bằng từ
“tôi” thì ý nghĩa câu thơ sẽ thay đổi hẳn. Ruộng nương “tôi”....là lời bộc bạch tâm trạng của nhân
vật trữ tình. Nhưng rõ ràng nhân vật trữ tình trong bài thơ không nói về mình mà nói về đồng đội
của mình.
- Điều đó nghĩa là họ thấu hiểu cảnh ngộ và mối bận lòng của nhau. Từ “mặc kệ” không phải
là vô tâm, vô trách nhiệm. Mặc kệ là ý chí quyết tâm của họ khi đi theo cách mạng, làm rắn lòng
mình để khỏi mềm lòng khi bước vào trận chiến, là sự lựa chọn dứt khoát. Tâm trạng ấy cũng
được Nguyễn Đình Thi nói tới trong bài “Đất nước”:
“ Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
- Thái độ quyết liệt ấy có vẻ như lạnh lùng nhưng người bạn tri kỉ của anh hiểu được rằng đó chỉ là
những biểu hiện bề ngoài còn trong sâu thẳm tâm hồn người lính vẫn dành cho hậu phương biết
bao yêu mến, vẫn hình dung ra cảnh “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.“Giếng nước, gốc
đa” vốn là những vật vô tri, vô giác nay đã được nhân hóa lên để thể hiện nỗi nhớ thương da diết
của quê hương yêu dấu với những người lính đã rời đi và rất khó để hẹn ngày trở lại. Ngoài ra
giếng nước, gốc đa còn dùng để ám chỉ những người ở lại, những người vợ chờ chồng, mẹ chờ con
luôn nhớ thương, mong ngóng tới ngày người lính trở về. Tại sao người lính đang ở trong chiến
trường mà lại thấu hiểu hết những tâm sự của quê hương, gia đình, ấy là bởi vì chính người lính
cũng đang nhớ về họ da diết, một nỗi nhớ hai chiều, nhớ về quê hương chính là cách để họ vượt
qua khó khăn. Đấy chính là vẻ đẹp tâm hồn, những tình cảm chất chứa trong những người chiến sĩ
ấy.
- Ba câu thơ với các hình ảnh: ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa, hình ảnh nào cũng thân
thương, cũng ăm ắp một tình quê, một nỗi nhớ thương vơi đầy. Nhắc tới nỗi nhớ da diết này,
Chính Hữu đã nói đến sự hi sinh không mấy dễ dàng của người lính. Tâm tư ấy, nỗi nhớ nhung ấy
của “anh” và cũng là của “tôi”, là đồng chí họ thấu hiểu và chia sẻ cùng nhau. Tình đồng chí đã
được tiếp thêm sức mạnh bởi tình yêu quê hương đất nước ấy. Cùng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài
thơ "Bao giờ trở lại", Hoàng Trung Thông viết:
"Bấm tay tính buổi anh đi,
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê,
Anh đi là để giữ quê quán mình.
Cây đa bến nước sân đình,
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.
Hoa cau thơm ngát đầu nương,
Anh đi là giữ tình thương dạt dào.
(...) Anh đi chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?"
Luận điểm 2: Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, sự sẻ chia những gian lao thiếu
thốn của cuộc đời người lính:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
- Bằng những hình ảnh tả thực, các câu thơ có cấu trúc sóng đôi: áo anh, rách vai, quần tôi, mảnh
vá, miệng cười buốt giá, chân không giày, tác giả đã tái hiện chân thực những khó khăn thiếu thốn
trong buổi đầu kháng chiến: thiếu lương thực, thiếu vũ khí, quân trang, thiếu thuốc men…Người
lính phải chịu “từng cơn ớn lạnh”, những cơn sốt rét rừng hành hạ như cơm bữa. * Liên hệ mở
rộng: Nhà thơ Quang Dũng cũng nhói lòng nhắc về hình tượng người lính đang mắc phải căn bệnh
sốt rét trong bài thơ “Tây Tiến”:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.
Hay trong bài “Dấu chân qua trảng cỏ”, nhà thơ Thanh Thảo cũng từng viết:
“Những người sốt rét đương cơn
Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe”.
- Chỉ như vậy thôi cũng đủ để hiểu, người lính phải gian khổ ra sao. Căn bệnh sốt rét- nỗi kinh
hoàng ám ảnh của người lính trong chiến tranh đã hành hạ họ khiến họ tiều tụy, xanh xao, vàng da,
tóc rụng. Vì thế lúc này chỉ có tình thương yêu, đùm bọc mới là liều thuốc bổ tinh thần giúp họ
vượt qua bệnh tật. Cái đọng lại trong câu thơ là từ “biết”.
- Người lính không nói tôi “biết” mà là tôi với anh “biết” từng cơn ớn lạnh. Nghĩa là họ cùng
nếm trải, cùng chịu đựng, cùng trải qua. Họ đã đồng cam cộng khổ, chia ngot xẻ bùi trong khó
khăn gian khổ. Tất cả những khó khăn gian khổ được tái hiện bằng những chi tiết hết sức thật,
không một chút tô vẽ. Không dừng lại ở đó người lính ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng
chiến, bộ đội ta thiếu thốn đủ đường, quần áo rách bươm phải buộc túm lại nên người lính vệ quốc
còn được gọi là “vệ túm”. Những hình ảnh “áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày” đã
nói lên điều đó.
Luận điểm 3: Lạc quan, yêu đời.
- Nhưng trên hết họ vẫn lạc quan, yêu đời “Miệng cười buốt giá”giữa chiến trường bom rơi đạn
lửa. Chính nụ cười ấy đã xóa tan cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ đùa vui trong gian khổ
thiếu thốn, động viên nhau qua ánh mắt, nụ cười. Dù đó chỉ là nụ cười gượng gạo trong “buốt
giá” nhưng vẫn chứa chan tình cảm cho thấy sự lạc quan, mạnh mẽ trong cuộc sống chiến đấu. Nó
gợi cho ta nhớ cái cười âm vang cả Trường Sơn của những người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” của Phạm Tiến Duật “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
Luận điểm 4: Là niềm yêu thương gắn bó sâu nặng dành cho nhau (Sức mạnh của tình đoàn
kết)
- Nếu điểm nhấn ở khổ thơ đầu là câu thơ “Đồng chí” thì điểm nhấn ở khổ thơ thứ hai là câu thơ:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” là hình ảnh giàu sức gợi.
Trong cái buốt giá gian lao, những bàn tay tìm đến với nhau để siết chặt đội ngũ; để truyền hơi ấm
cho nhau; để động viên, cảm thông, chia sẻ mọi khó khăn; để hứa hẹn lập công. Bàn tay giao cảm
thay cho lời nói. Nhà thơ Lưu Quang Vũ cũng từng viết:
“Lúc chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay đã nói”.
- Người ta bảo bàn tay biết nói là thế. Một sự cảm thông, chia sẻ vừa chân thành, vừa tha thiết làm
sao. Câu thơ ấm áp trong ngọn lửa tình cảm thân thương! Nếu như trong thơ Phạm Tiến Duật,
người lính “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” để gần nhau hơn trên chặng đường dài thì với
Chính Hữu cái nắm tay kia là biểu tượng cao đẹp, nồng ấm và thiêng liêng của tình đồng chí.
- Chiến tranh có thể tàn phá, cướp đi tất cả nhưng không thể giết chết mối liên kết ấy. Chất liệu
hiện thực sinh động chỉ là cái nền để tôn lên vẻ đẹp sâu lắng và sức mạnh của tình đồng chí- tình
cảm đã giúp tác giả và những người lính khác sống qua những tháng ngày bom rơi đạn lửa.
3. Đánh giá, mở rộng
- Với thể thơ tự do, bút pháp tả thực, lời thơ giản dị, mộc mạc, cô đọng; hình ảnh thơ gợi cảm, giàu
ý nghĩa…, đoạn thơ khắc họa chân thực mà sinh động tình đồng chí gắn bó keo sơn của những
người lính vệ quốc trong những ngày đầu kháng chiến, đồng thời thể hiện tài năng của tác giả.
- Cùng với các tác phẩm khác như "Tây Tiến" của Quang Dũng, "Nhớ" của Hồng Nguyên,...
"Đồng chí" của Chính Hữu đã góp phần làm phong phú hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ trong thơ ca
hiện đại. Bài thơ đã mở ra một hướng đi mới cho văn học kháng chiến viết về người lính cách
mạng: Cảm hứng thơ đi lên từ hiện thực đời thường mà vẫn dạt dào lãng mạn.
III. Kết bài
“Đồng chí” là một bài thơ hay. Và đặc biệt là mười câu giữa đã khắc họa thành công những
biểu hiện đẹp của tình đồng đội, đồng chí cao đẹp, thiêng liêng của anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu
kháng chiến chống Pháp. Đoạn thơ không chỉ cho ta thấy được những gian khổ cuộc đời người
lính mà còn làm cho ta yêu thêm những vẻ đẹp của họ. Đọc bài thơ nói chung và đoạn thơ nói
riêng khiến cho chúng ta tự hứa với lòng mình phải sống xứng đáng với những gì mà cha ông ta đã
hi sinh vì độc lập tự do.
ĐỀ 3: CẢM NHẬN VỀ HÌNH ẢNH NGƯỜI LÍNH QUA ĐOẠN THƠ SAU:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay