Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 9

BÀI 1: ĐỒNG CHÍ

(Chính Hữu)
ĐỀ 1: TRÌNH BÀY CẢM NHẬN CỦA EM VỀ ĐOẠN THƠ SAU:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chăng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đội tri kỉ.
Đồng chí !

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày


Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
(Trích Đồng chí - Chính Hữu, Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo dục, 2008, tr.128)
I. Mở bài
------
II. Thân bài

1. Khái quát chung


-------------
2. Cảm nhận về đoạn thơ
a. Cơ sở hình thành tình đồng chí
Thật vậy, trong 7 câu thơ đầu, nhà thơ lý giải cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng
của những người lính cách mạng.
*Cùng chung cảnh ngộ xuất thân
- Trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, những chiến sĩ dũng cảm, kiên cường chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc không ai khác chính là những người nông dân mặc áo lính. Từ giã quê hương, họ ra đi tình
nguyện đứng trong đội ngũ những người chiến đấu cho một lí tưởng chung cao đẹp, đó là độc lập
tự do cho dân tộc. Mở đầu bài thơ là những tâm sự chân tình về con người và cuộc sống rất bình dị
và cũng rất quen thuộc:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua.
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
- Hai câu đầu với cấu trúc sóng đôi cùng cách xưng hô “anh - tôi” thân mật gần gũi đã thể hiện sự
tương đồng về hoàn cảnh của những người lính. Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện,
tâm sự của hai người đồng đội nhớ lại kỉ niệm về những ngày đầu tiên gặp gỡ. Họ đều là con em
của những vùng quê nghèo khó, là những nông dân ở nơi “nước mặn đồng chua” hoặc ở chốn “đất
cày lên sỏi đá”.
- Đúng như Hồng Nguyên đã viết: “Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ”, họ có người đến từ miền biển,
có người đến từ đồi núi. Nhưng tất cả họ đều lớn lên từ những vùng cơ cực, lớn lên trong cảnh
nghèo khó, lam lũ, vất vả.
- Hình ảnh “quê hương anh” và “làng tôi” hiện lên với biết bao nỗi gian lao vất vả, mặc dù nhà thơ
không chú ý miêu tả. Nhưng chính điều đó lại làm cho hình ảnh vốn chỉ là danh từ chung chung
kia trở nên cụ thể đến mức có thể nhìn thấy được, nhất là dưới con mắt của những người con làng
quê Việt Nam. Thành ngữ dân gian được tác giả vận dụng rất tự nhiên, nhuần nhuỵ khiến người
đọc có thể dễ dàng hình dung được những miền quê nghèo khổ, nơi sinh ra những người lính. Khi
nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc, họ sẵn sàng ra đi và nhanh chóng có mặt trong đoàn quân
chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Hai câu thơ đầu theo cấu trúc sóng đôi, đối ứng: “ Quê anh – làng tôi”
đã diễn tả sự tương đồng về cảnh ngộ.
- Và chính sự tương đồng về cảnh ngộ ấy đã trở thành niềm đồng cảm giai cấp, là cơ sở cho tình
đồng chí, đồng đội của người lính.
* Cùng chung lí tưởng chiến đấu
- Những tưởng hai con người ở hai vùng quê nghèo đói đấy sẽ chẳng bao giờ gặp được nhau, ấy
vậy mà chiến tranh nổ ra, những con người hoàn toàn xa lạ ấy lại “quen nhau”
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
- Những câu thơ mộc mạc, tự nhiên, mặn mà như một lời thăm hỏi. Họ hiểu nhau, thương nhau, tri
kỉ với nhau bằng tình tương thân tương ái vốn có từ lâu giữa những người nghèo, người lao động.
Nhưng “tự phương trời” họ về đây không phải do cái nghèo xô đẩy, mà họ về đây đứng trong
cùng đội ngũ do họ có một lí tưởng chung, cùng một mục đích cao cả: chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc.
Giống như những anh lính trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên:
“Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ
Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một, hai”
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến”
- Hình ảnh : “Anh - tôi” riêng biệt đã mờ nhoà, hình ảnh sóng đôi đã thể hiện sự gắn bó tương
đồng của họ trong nhiệm vụ và lí tưởng chiến đấu:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu”
- “Súng” và “đầu” là hình ảnh đẹp, mang ý nghĩa tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu và lý
tưởng cao đẹp. Điệp từ “súng” và “đầu” được nhắc lại hai lần như nhấn mạnh tình cảm gắn bó
trong chiến đấu của người đồng chí.
*Tình đồng chí nảy nở bền chặt trong sự chan hoà, chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui .
Đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt mà tác giả biểu hiện bằng một hình ảnh thật cụ
thể, giản dị mà hết sức gợi cảm:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.
Cái rét ở rừng Việt Bắc đã nhiều lần vào trong thơ bộ đội chống Pháp vì đó là một thực tế ai cũng
nếm trải trong những năm chinh chiến ấy.
- Đêm Việt Bắc thì quá rét, chăn lại quá nhỏ, loay hoay mãi không đủ ấm. Đắp được chăn thì hở
đầu, đắp được bên này thì hở bên kia. Có điều lạ là câu thơ nói đến cái rét lại gợi cho người đọc
một cảm giác ấm cúng của tình đồng đội, nghĩa đồng bào. Chính trong những ngày thiếu thốn, khó
khăn ấy từ “xa lạ” họ đã trở thành “tri kỉ” của nhau. “Tri kỉ” là người bạn thân thiết hiểu rất rõ về
ta. Vất vả nguy nan đã gắn kết những người đồng chí khiến họ trở thành người bạn tâm giao gắn
bó. Những câu thơ giản dị mà hết sức sâu sắc, như được chắt lọc từ cuộc sống, từ cuộc đời người
lính gian khổ. Bao nhiêu yêu thương được thể hiện qua những hình ảnh vừa gần gũi vừa hàm súc
ấy. Chính Hữu đã từng là một người lính, đã trải qua cuộc đời người lính nên câu thơ bình dị mà
có sức nặng, sức nặng của tình cảm trìu mến, yêu thương với đồng đội. Sự gắn bó mỗi lúc lại càng
thêm sâu sắc: Là súng bên súng đến đầu bên đầu, rồi thân thiết hơn nữa là đắp chung chăn, thành
tri kỉ. Hình ảnh thật giản dị nhưng rất cảm động.
- Để rồi khép lại đoạn thơ đầu là dòng thơ chỉ với một từ “Đồng chí!”. Từ “đồng chí” được đặt
thành cả một dòng thơ ngắn gọn mà ngân vang, giản dị mà thiêng liêng. Từ “đồng chí” với dấu
chấm cảm như một nốt nhấn đặc biệt mang những sắc thái biểu cảm khác nhau, nhấn mạnh sự
thiêng liêng cao cả trong tình cảm mới mẻ này.
- Đồng chí là cùng chí hướng, cùng mục đích. Nhưng trong tình cảm ấy một khi có cái lõi bên
trong là « tình tri kỉ » lại được thử thách, được tôi rèn trong gian khổ thì mới thực sự vững bền.
Không còn anh, cũng chẳng còn tôi, họ đã trở thành một khối đoàn kết, thống nhất gắn bó.
- Như vậy, trong tình đồng chí có tình cảm giai cấp (xuất thân từ nông dân), có tình bạn bè tri kỉ và
có sự gắn bó giữa con người cùng chung lí tưởng, chung mục đích chiến đấu. Và khi họ gọi nhau
bằng tiếng “đồng chí” họ không chỉ còn là người nông dân nghèo đói lam lũ, mà họ đã trở thành
anh em trong cả một cộng đồng với một lý tưởng cao cả vì đất nước quên thân để tạo nên sự hồi
sinh cho quê hương, cho dân tộc. Câu thơ vẻn vẹn có 2 chữ như chất chứa, dồn nén bao cảm xúc
sâu xa từ sáu câu thơ trước và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo. Câu thơ như một nút nhấn
nổi bật trong bản nhạc, là sự thăng hoa và kết tinh của mọi cảm xúc, mọi tình cảm. Quả thật ngôn
từ Chính Hữu thật là hàm súc.
b. Biểu hiện đẹp của tình đồng chí
- Nếu 7 câu đầu tác giả nêu lên cơ sở để hình thành tình đồng chí thì 3 câu tiếp theo tác giả đi tìm
biểu hiện đẹp đầu tiên của tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng sâu nặng này. Biểu hiện đẹp đầu
tiên của tình đồng đội, đồng chí là sự thấu hiểu và chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của nhau. Các
anh đều là những người lính tạm gác tình riêng, để nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc,
dũng cảm ra đi vì nghĩa lớn để lại sau lưng mảnh trời quê hương với biết bao nhiêu trăn trở:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
- Họ vốn gắn bó sâu nặng với ruộng nương, với căn nhà thân thiết, nhưng cũng sẵn sàng rời bỏ tất
cả để ra đi. Nhà thơ đã dùng những hình anh quen thuộc và tiêu biểu của mọi làng quê Việt Nam
như biểu tượng của quê hương những người lính nông dân. Giếng nước, gốc đa không chỉ là cảnh
vật mà còn là làng quê, là dân làng. Cảnh vật ở đây được nhân cách hoá, như có tâm hồn hướng
theo người lính.
- Hình ảnh “gian nhà không” là hình ảnh khá lắng đọng trong tâm trí những người chiến sĩ ấy và
cũng hết sức ám ảnh trong tâm trí người đọc. Gian nhà không không chỉ gợi cái nghèo mà còn diễn
tả nỗi trống trải của lòng người ở lại. Trong câu“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày” nếu ta thay
từ “anh” bằng từ “tôi” thì ý nghĩa câu thơ sẽ thay đổi hẳn. Ruộng nương “tôi”....là lời bộc bạch
tâm trạng của nhân vật trữ tình. Nhưng rõ ràng nhân vật trữ tình trong bài thơ không nói về mình
mà nói về đồng đội của mình. Điều đó nghĩa là họ thấu hiểu cảnh ngộ và mối bận lòng của nhau.
- Từ “mặc kệ” không phải là vô tâm, vô trách nhiệm. “Mặc kệ” là ý chí quyết tâm của họ khi đi
theo cách mạng, làm rắn lòng mình để khỏi mềm lòng khi bước vào trận chiến, là sự lựa chọn dứt
khoát. Tâm trạng ấy cũng được Nguyễn Đình Thi nói tới trong bài “Đất nước”:
“ Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
- Thái độ quyết liệt ấy có vẻ như lạnh lùng nhưng người bạn tri kỉ của anh hiểu được rằng đó chỉ là
những biểu hiện bề ngoài còn trong sâu thẳm tâm hồn người lính vẫn dành cho hậu phương biết
bao yêu mến, vẫn hình dung ra cảnh “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.“Giếng nước, gốc
đa” vốn là những vật vô tri, vô giác nay đã được nhân hóa lên để thể hiện nỗi nhớ thương da diết
của quê hương yêu dấu với những người lính đã rời đi và rất khó để hẹn ngày trở lại. Ngoài ra
giếng nước, gốc đa còn dùng để ám chỉ những người ở lại, những người vợ chờ chồng, mẹ chờ con
luôn nhớ thương, mong ngóng tới ngày người lính trở về. Tại sao người lính đang ở trong chiến
trường mà lại thấu hiểu hết những tâm sự của quê hương, gia đình, ấy là bởi vì chính người lính
cũng đang nhớ về họ da diết, một nỗi nhớ hai chiều, nhớ về quê hương chính là cách để họ vượt
qua khó khăn.
- Đấy chính là vẻ đẹp tâm hồn, những tình cảm chất chứa trong những người chiến sĩ ấy. Ba câu
thơ với các hình ảnh: ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa, hình ảnh nào cũng thân thương,
cũng ăm ắp một tình quê, một nỗi nhớ thương vơi đầy. Nhắc tới nỗi nhớ da diết này, Chính Hữu
đã nói đến sự hi sinh không mấy dễ dàng của người lính. Tâm tư ấy, nỗi nhớ nhung ấy của “anh”
và cũng là của “tôi”, là đồng chí họ thấu hiểu và chia sẻ cùng nhau. Tình đồng chí đã được tiếp
thêm sức mạnh bởi tình yêu quê hương đất nước ấy.
3. Đánh giá, mở rộng
- Bằng ngôn từ cô đọng, hàm súc, vận dụng thành ngữ linh hoạt, hành ảnh chân thực mang tính
khái quát cao, đoạn thơ đã khắc họa được hình ảnh những người lính một cách chân thực, cũng
như tình đồng chí keo sơn gắn bó của họ trong những ngày đầu chống Pháp.
- Từ hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí khiến ta liên tưởng đến hình ảnh của người lính
trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân, hình ảnh người lính trong bài “Nhớ” của
Hồng Nguyên, hay hình ảnh người lính trong bài “Tây tiến” của nhà thơ Quang Dũng… Họ là kết
tinh cao độ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta trong suốt bốn ngàn năm dựng nước và giữ
nước. Họ mãi là hình ảnh đẹp nhất trong thơ, mãi là chân dung đẹp nhất của thời đại chúng ta.
III. Kết bài
Chỉ với 10 câu thơ nhưng Chính Hữu đã giúp người đọc thấy rõ cơ sở hình thành nên tình
đồng đội, đồng chí vững chắc của những người lính cũng như biểu hiện đẹp về tình đồng chí
thiêng liêng, sâu nặng. Từ đó, chúng ta cảm thấy tự hào, yêu mến và kính trọng hơn những người
lính cách mạng đã hy sinh để bảo vệ nền hòa bình của đất nước.

==========================================================
ĐỀ 2: CẢM NHẬN CỦA EM VỀ ĐOẠN THƠ SAU:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
(Trích Đồng chí, Chính Hữu, Ngữ văn 9, tập một)
I. Mở bài
--------------
II. Thân bài
1.Khái quát chung
------------------------
2. Cảm nhận khổ thơ
* Chuyển ý: Nếu 7 câu đầu tác giả nêu lên cơ sở để hình thành tình đồng chí thì 10 câu tiếp theo
tác giả đi tìm những biểu hiện đẹp của tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng sâu nặng này.
+ Luận điểm 1: Trước hết, đồng chí là sự thấu hiểu và chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của
nhau. Các anh đều là những người lính tạm gác tình riêng, để nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của
tổ quốc, dũng cảm ra đi vì nghĩa lớn để lại sau lưng mảnh trời quê hương với biết bao nhiêu trăn
trở:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
- Họ vốn gắn bó sâu nặng với ruộng nương, với căn nhà thân thiết, nhưng cũng sẵn sàng rời bỏ tất
cả để ra đi. Nhà thơ đã dùng những hình anh quen thuộc và tiêu biểu của mọi làng quê Việt Nam
như biểu tượng của quê hương những người lính nông dân. Giếng nước, gốc đa không chỉ là cảnh
vật mà còn là làng quê, là dân làng.
- Cảnh vật ở đây được nhân cách hoá, như có tâm hồn hướng theo người lính. Hình ảnh “gian nhà
không” là hình ảnh khá lắng đọng trong tâm trí những người chiến sĩ ấy và cũng hết sức ám ảnh
trong tâm trí người đọc. Gian nhà không không chỉ gợi cái nghèo mà còn diễn tả nỗi trống trải của
lòng người ở lại. Trong câu“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày” nếu ta thay từ “anh” bằng từ
“tôi” thì ý nghĩa câu thơ sẽ thay đổi hẳn. Ruộng nương “tôi”....là lời bộc bạch tâm trạng của nhân
vật trữ tình. Nhưng rõ ràng nhân vật trữ tình trong bài thơ không nói về mình mà nói về đồng đội
của mình.
- Điều đó nghĩa là họ thấu hiểu cảnh ngộ và mối bận lòng của nhau. Từ “mặc kệ” không phải
là vô tâm, vô trách nhiệm. Mặc kệ là ý chí quyết tâm của họ khi đi theo cách mạng, làm rắn lòng
mình để khỏi mềm lòng khi bước vào trận chiến, là sự lựa chọn dứt khoát. Tâm trạng ấy cũng
được Nguyễn Đình Thi nói tới trong bài “Đất nước”:
“ Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”
- Thái độ quyết liệt ấy có vẻ như lạnh lùng nhưng người bạn tri kỉ của anh hiểu được rằng đó chỉ là
những biểu hiện bề ngoài còn trong sâu thẳm tâm hồn người lính vẫn dành cho hậu phương biết
bao yêu mến, vẫn hình dung ra cảnh “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”.“Giếng nước, gốc
đa” vốn là những vật vô tri, vô giác nay đã được nhân hóa lên để thể hiện nỗi nhớ thương da diết
của quê hương yêu dấu với những người lính đã rời đi và rất khó để hẹn ngày trở lại. Ngoài ra
giếng nước, gốc đa còn dùng để ám chỉ những người ở lại, những người vợ chờ chồng, mẹ chờ con
luôn nhớ thương, mong ngóng tới ngày người lính trở về. Tại sao người lính đang ở trong chiến
trường mà lại thấu hiểu hết những tâm sự của quê hương, gia đình, ấy là bởi vì chính người lính
cũng đang nhớ về họ da diết, một nỗi nhớ hai chiều, nhớ về quê hương chính là cách để họ vượt
qua khó khăn. Đấy chính là vẻ đẹp tâm hồn, những tình cảm chất chứa trong những người chiến sĩ
ấy.
- Ba câu thơ với các hình ảnh: ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa, hình ảnh nào cũng thân
thương, cũng ăm ắp một tình quê, một nỗi nhớ thương vơi đầy. Nhắc tới nỗi nhớ da diết này,
Chính Hữu đã nói đến sự hi sinh không mấy dễ dàng của người lính. Tâm tư ấy, nỗi nhớ nhung ấy
của “anh” và cũng là của “tôi”, là đồng chí họ thấu hiểu và chia sẻ cùng nhau. Tình đồng chí đã
được tiếp thêm sức mạnh bởi tình yêu quê hương đất nước ấy. Cùng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài
thơ "Bao giờ trở lại", Hoàng Trung Thông viết:
"Bấm tay tính buổi anh đi,
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê,
Anh đi là để giữ quê quán mình.
Cây đa bến nước sân đình,
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.
Hoa cau thơm ngát đầu nương,
Anh đi là giữ tình thương dạt dào.
(...) Anh đi chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?"
Luận điểm 2: Tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, sự sẻ chia những gian lao thiếu
thốn của cuộc đời người lính:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
- Bằng những hình ảnh tả thực, các câu thơ có cấu trúc sóng đôi: áo anh, rách vai, quần tôi, mảnh
vá, miệng cười buốt giá, chân không giày, tác giả đã tái hiện chân thực những khó khăn thiếu thốn
trong buổi đầu kháng chiến: thiếu lương thực, thiếu vũ khí, quân trang, thiếu thuốc men…Người
lính phải chịu “từng cơn ớn lạnh”, những cơn sốt rét rừng hành hạ như cơm bữa. * Liên hệ mở
rộng: Nhà thơ Quang Dũng cũng nhói lòng nhắc về hình tượng người lính đang mắc phải căn bệnh
sốt rét trong bài thơ “Tây Tiến”:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.
Hay trong bài “Dấu chân qua trảng cỏ”, nhà thơ Thanh Thảo cũng từng viết:
“Những người sốt rét đương cơn
Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe”.
- Chỉ như vậy thôi cũng đủ để hiểu, người lính phải gian khổ ra sao. Căn bệnh sốt rét- nỗi kinh
hoàng ám ảnh của người lính trong chiến tranh đã hành hạ họ khiến họ tiều tụy, xanh xao, vàng da,
tóc rụng. Vì thế lúc này chỉ có tình thương yêu, đùm bọc mới là liều thuốc bổ tinh thần giúp họ
vượt qua bệnh tật. Cái đọng lại trong câu thơ là từ “biết”.
- Người lính không nói tôi “biết” mà là tôi với anh “biết” từng cơn ớn lạnh. Nghĩa là họ cùng
nếm trải, cùng chịu đựng, cùng trải qua. Họ đã đồng cam cộng khổ, chia ngot xẻ bùi trong khó
khăn gian khổ. Tất cả những khó khăn gian khổ được tái hiện bằng những chi tiết hết sức thật,
không một chút tô vẽ. Không dừng lại ở đó người lính ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng
chiến, bộ đội ta thiếu thốn đủ đường, quần áo rách bươm phải buộc túm lại nên người lính vệ quốc
còn được gọi là “vệ túm”. Những hình ảnh “áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày” đã
nói lên điều đó.
Luận điểm 3: Lạc quan, yêu đời.
- Nhưng trên hết họ vẫn lạc quan, yêu đời “Miệng cười buốt giá”giữa chiến trường bom rơi đạn
lửa. Chính nụ cười ấy đã xóa tan cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ đùa vui trong gian khổ
thiếu thốn, động viên nhau qua ánh mắt, nụ cười. Dù đó chỉ là nụ cười gượng gạo trong “buốt
giá” nhưng vẫn chứa chan tình cảm cho thấy sự lạc quan, mạnh mẽ trong cuộc sống chiến đấu. Nó
gợi cho ta nhớ cái cười âm vang cả Trường Sơn của những người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” của Phạm Tiến Duật “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
Luận điểm 4: Là niềm yêu thương gắn bó sâu nặng dành cho nhau (Sức mạnh của tình đoàn
kết)
- Nếu điểm nhấn ở khổ thơ đầu là câu thơ “Đồng chí” thì điểm nhấn ở khổ thơ thứ hai là câu thơ:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” là hình ảnh giàu sức gợi.
Trong cái buốt giá gian lao, những bàn tay tìm đến với nhau để siết chặt đội ngũ; để truyền hơi ấm
cho nhau; để động viên, cảm thông, chia sẻ mọi khó khăn; để hứa hẹn lập công. Bàn tay giao cảm
thay cho lời nói. Nhà thơ Lưu Quang Vũ cũng từng viết:
“Lúc chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay đã nói”.
- Người ta bảo bàn tay biết nói là thế. Một sự cảm thông, chia sẻ vừa chân thành, vừa tha thiết làm
sao. Câu thơ ấm áp trong ngọn lửa tình cảm thân thương! Nếu như trong thơ Phạm Tiến Duật,
người lính “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” để gần nhau hơn trên chặng đường dài thì với
Chính Hữu cái nắm tay kia là biểu tượng cao đẹp, nồng ấm và thiêng liêng của tình đồng chí.
- Chiến tranh có thể tàn phá, cướp đi tất cả nhưng không thể giết chết mối liên kết ấy. Chất liệu
hiện thực sinh động chỉ là cái nền để tôn lên vẻ đẹp sâu lắng và sức mạnh của tình đồng chí- tình
cảm đã giúp tác giả và những người lính khác sống qua những tháng ngày bom rơi đạn lửa.
3. Đánh giá, mở rộng
- Với thể thơ tự do, bút pháp tả thực, lời thơ giản dị, mộc mạc, cô đọng; hình ảnh thơ gợi cảm, giàu
ý nghĩa…, đoạn thơ khắc họa chân thực mà sinh động tình đồng chí gắn bó keo sơn của những
người lính vệ quốc trong những ngày đầu kháng chiến, đồng thời thể hiện tài năng của tác giả.
- Cùng với các tác phẩm khác như "Tây Tiến" của Quang Dũng, "Nhớ" của Hồng Nguyên,...
"Đồng chí" của Chính Hữu đã góp phần làm phong phú hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ trong thơ ca
hiện đại. Bài thơ đã mở ra một hướng đi mới cho văn học kháng chiến viết về người lính cách
mạng: Cảm hứng thơ đi lên từ hiện thực đời thường mà vẫn dạt dào lãng mạn.
III. Kết bài
“Đồng chí” là một bài thơ hay. Và đặc biệt là mười câu giữa đã khắc họa thành công những
biểu hiện đẹp của tình đồng đội, đồng chí cao đẹp, thiêng liêng của anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu
kháng chiến chống Pháp. Đoạn thơ không chỉ cho ta thấy được những gian khổ cuộc đời người
lính mà còn làm cho ta yêu thêm những vẻ đẹp của họ. Đọc bài thơ nói chung và đoạn thơ nói
riêng khiến cho chúng ta tự hứa với lòng mình phải sống xứng đáng với những gì mà cha ông ta đã
hi sinh vì độc lập tự do.
ĐỀ 3: CẢM NHẬN VỀ HÌNH ẢNH NGƯỜI LÍNH QUA ĐOẠN THƠ SAU:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Đêm nay rừng hoang sương muối


Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
(Đồng chí, Chính Hữu, Ngữ văn 9, tập 1. NXBGDVN, 2014)
I. Mở bài
-------------
II. Thân bài
1.Khái quát chung
---------------------------
2. Cảm nhận đoạn thơ
a. Biểu hiện của tình đồng chí:
+ Luận điểm 1: Là sự đồng cam, cộng khổ trong cuộc đời người lính
* Dẫn dắt: Trước hết, tình đồng chí còn là sự đồng cam cộng khổ, sự sẻ chia những gian lao thiếu
thốn của cuộc đời người lính:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
- Bằng những hình ảnh tả thực, các câu thơ có cấu trúc sóng đôi: áo anh, rách vai, quần tôi, mảnh
vá, miệng cười buốt giá, chân không giày, tác giả đã tái hiện chân thực những khó khăn thiếu thốn
trong buổi đầu kháng chiến: thiếu lương thực, thiếu vũ khí, quân trang, thiếu thuốc men…Người
lính phải chịu “từng cơn ớn lạnh”, những cơn sốt rét rừng hành hạ như cơm bữa. * Liên hệ mở
rộng: Chính nhà thơ Quang Dũng cũng nhói lòng nhắc về hình tượng người lính đang mắc phải
căn bệnh sốt rét trong bài thơ “Tây Tiến”:
“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”.
- Hay trong bài “Dấu chân qua trảng cỏ”, nhà thơ Thanh Thảo cũng từng viết:
“Những người sốt rét đương cơn
Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe”.
- Chỉ như vậy thôi cũng đủ để hiểu, người lính phải gian khổ ra sao. Căn bệnh sốt rét- nỗi kinh
hoàng ám ảnh của người lính trong chiến tranh đã hành hạ họ khiến họ tiều tụy, xanh xao, vàng da,
tóc rụng. Vì thế lúc này chỉ có tình thương yêu, đùm bọc mới là liều thuốc bổ tinh thần giúp họ
vượt qua bệnh tật. Cái đọng lại trong câu thơ là từ “biết”. Người lính không nói tôi “biết” mà là
tôi với anh “biết” từng cơn ớn lạnh. Nghĩa là họ cùng nếm trải, cùng chịu đựng, cùng trải qua.
Họ đã đồng cam cộng khổ, chia ngot xẻ bùi trong khó khăn gian khổ. Tất cả những khó khăn gian
khổ được tái hiện bằng những chi tiết hết sức thật, không một chút tô vẽ. Không dừng lại ở đó
người lính ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến, bộ đội ta thiếu thốn đủ đường, quần áo
rách bươm phải buộc túm lại nên người lính vệ quốc còn được gọi là “vệ túm”. Những hình ảnh
“áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày” đã nói lên điều đó.
+ Luận điểm 2: Lạc quan, yêu đời.
- Nhưng trên hết họ vẫn lạc quan, yêu đời “Miệng cười buốt giá”giữa chiến trường bom rơi đạn
lửa. Chính nụ cười ấy đã xóa tan cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ đùa vui trong gian khổ
thiếu thốn, động viên nhau qua ánh mắt, nụ cười. Dù đó chỉ là nụ cười gượng gạo trong “buốt
giá” nhưng vẫn chứa chan tình cảm cho thấy sự lạc quan, mạnh mẽ trong cuộc sống chiến đấu. Nó
gợi cho ta nhớ cái cười âm vang cả Trường Sơn của những người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” của Phạm Tiến Duật “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
+ Luận điểm 3: Là niềm yêu thương gắn bó sâu nặng dành cho nhau (Sức mạnh của tình
đoàn kết)
- Nếu điểm nhấn ở khổ thơ đầu là câu thơ “Đồng chí” thì điểm nhấn ở khổ thơ thứ hai là câu thơ:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
- Hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” là hình ảnh giàu sức gợi. Trong cái buốt giá gian lao, những bàn
tay tìm đến với nhau để siết chặt đội ngũ; để truyền hơi ấm cho nhau; để động viên, cảm thông,
chia sẻ mọi khó khăn; để hứa hẹn lập công. Bàn tay giao cảm thay cho lời nói. Nhà thơ Lưu Quang
Vũ cũng từng viết:
“Lúc chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói bàn tay đã nói”
- Người ta bảo bàn tay biết nói là thế. Một sự cảm thông, chia sẻ vừa chân thành, vừa tha thiết làm
sao. Câu thơ ấm áp trong ngọn lửa tình cảm thân thương! Nếu như trong thơ Phạm Tiến Duật,
người lính “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” để gần nhau hơn trên chặng đường dài thì với
Chính Hữu cái nắm tay kia là biểu tượng cao đẹp, nồng ấm và thiêng liêng của tình đồng chí.
Chiến tranh có thể tàn phá, cướp đi tất cả nhưng không thể giết chết mối liên kết ấy. Chất liệu hiện
thực sinh động chỉ là cái nền để tôn lên vẻ đẹp sâu lắng và sức mạnh của tình đồng chí- tình cảm
đã giúp tác giả và những người lính khác sống qua những tháng ngày bom rơi đạn lửa.
b. Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí
- Hình ảnh người lính và tình đồng chí của họ đã kết tinh, tỏa sáng trong ba câu thơ cuối của bài:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
- Ba câu thơ cuối vừa giàu chất hiện thực lại vừa đậm đà chất lãng mạn bay bổng, vừa gợi tả bức
tranh không gian toàn cảnh của núi rừng, lại vừa đặc tả tình cảm ấm áp của những người lính trong
chiến tranh. Đây là biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng đội, đồng chí. Đó là khoảng thời gian
“đêm nay” rất cụ thể với khung cảnh “rừng hoang sương muối” hiu quạnh, lạnh lẽo và khắc
nghiệt.
- Tuy nhiên, người lính vẫn đứng cạnh bên nhau để “chờ giặc tới”. Động từ “chờ” cho thấy được
tư thế chủ động và hết sức đề cao cảnh giác của người lính trong khi làm nhiệm vụ. Nghệ thuật
tương phản đối lập được tạo ra rất cân đối giữa một bên là không gian núi rừng lạnh lẽo, hoang vu,
vắng lặng với một bên là tư thế chủ động mạnh mẽ như lấn át cả không gian toàn cảnh của người
lính. Chính sức mạnh của tình đồng chí đã làm cho người lính vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt
đó.
- Các từ gần nghĩa “cạnh”-“bên” cho thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết, gắn bó luôn có nhau
của người lính. Trên cao là ánh trăng treo lơ lửng trên bầu trời, dưới cái nhìn lãng mạn hóa của
Chính Hữu, ánh trăng như đang treo ở đầu mũi súng. Đêm khuya, trăng trên vòm trời cao đã sà
xuống thấp dần, ở vào một vị trí và tầm nhìn nào đó, vầng trăng như treo trên đầu mũi súng của
người chiến sĩ đang phục kích chờ giặc. Và “trăng” theo đó đã trở thành người bạn vừa chứng
minh cho tình cảm đồng chí keo sơn của người lính, vừa sáng soi và sưởi ấm cho không gian của
rừng đêm sương muối lạnh lẽo bên trên.
- Hình ảnh “súng”-“trăng” được đặt bên nhau khiến người đọc có nhiều liên tưởng giữa thực tại-
mơ mộng, chiến tranh hòa bình, chiến sĩ-thi sĩ. Sự đan cài giữa hiện thực và lãng mạn ấy vừa
cho thấy được hiện thực chiến tranh khó khăn, vất vả; lại vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người
lính: họ vừa là chiến sĩ vừa là thi sĩ, họ cầm súng chiến đấu để bảo vệ quê hương, đem lại nền độc
lập, tự do cho Tổ quốc thân yêu.
=> Có thể nói, ba câu thơ cuối là một bức tranh đẹp, như một bức tượng đài sừng sững của hình
ảnh người lính cách mạng với tình đồng chí thiêng liêng sâu sắc. Chính tình cảm đồng chí đã làm
nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ.
Như vậy tình đồng chí trong bài thơ là tình cảm cao đẹp và thiêng liêng của những con người
gắn bó keo sơn trong cuộc chiến đấu vĩ đại vì một lý tưởng chung. Đó là mối tình có cơ sở hết sức
vững chắc: sự đồng cảm của những người chiến sĩ vốn xuất thân từ những người nông dân hiền
lành chân thật gắn bó với ruộng đồng. Tình cảm ấy được hình thành trên cơ sở tình yêu Tổ Quốc,
cùng chung lí tưởng và mục đích chiến đấu. Hoàn cảnh chiến đấu gian khổ và ác liệt lại tôi luyện
thử thách làm cho mối tình đồng chí đồng đội của những người lính càng gắn bó, keo sơn. Mối
tình thiêng liêng sâu nặng, bền chặt đó đã tạo nên nguồn sức mạnh to lớn để những người lính “áo
rách vai”, “chân không giầy” vượt lên mọi gian nguy để đi tới và làm nên thắng trận để viết lên
những bản anh hùng ca Việt Bắc, Biên giới, Hoà Bình, Tây Bắc…. tô thắm thêm trang sử vàng
chống Pháp hào hùng của dân tộc.
3. Đánh giá, mở rộng
- Bằng nhiều hình ảnh sóng đôi cùng nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc
như tiếng nói của người lính đang tâm sự, tâm tình, vận dụng tục ngữ, thành ngữ linh hoạt, tạo nên
chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà đặc biệt là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn,
đoạn thơ đã khắc họa thành công bức tượng đài về người nông dân mặc áo lính rất đẹp, tráng lệ,
hào hùng của thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.
-Từ hình ảnh người lính trong bài thơ Đồng chí khiến ta liên tưởng đến hình ảnh của người lính
trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân hay hình ảnh người lính trong bài “Nhớ”
của Hồng Nguyên, hay hình ảnh người lính trong bài “Tây tiến” của nhà thơ Quang Dũng… Họ là
kết tinh cao độ tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng trong hai cuộc kháng chiến. Họ mãi là biểu
tượng đẹp của dân tộc, là những người con anh hùng của Tổ quốc.
III. Kết bài
Đoạn thơ thể hiện chân thực, cảm động một tình cảm lớn mang tính thời đại, đó là tình
đồng chí bền chặt, thiêng liêng của những người lính cách mạng. Qua đó tác giả đã khắc họa thành
công hình ảnh đẹp về người lính thời kì đầu chống Pháp. Đoạn thơ như một lời nhắn nhủ tới thế hệ
mai sau: hãy biết nâng niu và trân trọng, gìn giữ những tình cảm đẹp trong cuộc sống, phải biết
kính trọng, biết ơn những người lính đã hi sinh vì sự độc lập của dân tộc.

You might also like