Professional Documents
Culture Documents
Đề cương Lịch sử Việt Nam
Đề cương Lịch sử Việt Nam
Đề cương Lịch sử Việt Nam
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh (1406 - 1407)
a. Cuộc xâm lược của quân Minh và thất bại của nhà Hồ:
- Hoàn cảnh:
+ Cuối thế kỉ XIV, nhận thấy Đại Ngu rơi vào khủng hoảng. Nhà Minh chuẩn bị
lực lượng xâm lược xâm chiếm.
+ Tháng 11/1406, lấy cớ phù Trần, diệt Hồ, hơn 20 vạn quân Minh tiến vào Đại
Ngu.
- Diễn biến:
+ Sau thất bại ở biên giới, quân nhà Hồ lui về thành Đa Bang (Ba Vì, Hà Nội) cố
thủ.
+ Sau khi thành Đa Bang thất thủ (đầu năm 1407), nhà Hồ rút quân về Đông Đô
(Hà Nội), sau đó lui về Tây Đô (Thanh Hóa).
- Do những chính sách của nhà Hồ không được nhân dân ủng hộ.
- Không đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, quá chú trọng phòng tuyến quân
sự và lực lượng quân đội chính quy.
VƯƠNG TRIỀU LÊ SƠ (1428 - 1527)
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, đất nước trở lại thanh bình. Năm Mậu Thân (1428), Lê
Lợi chính thức lên ngôi hoàng đế ở Đông Kinh (Thăng Long), đặt niên hiệu là Thuận Thiên
khôi phục lại tên nước Đại Việt, mở đầu triều đại Lê (thường được gọi là Lê sơ hay Hậu Lê
để phân biệt với thời Tiên Lê của Lê Đại Hành).
Là một thời đại đặc biệt của lịch sử, Vương triều Lê Sơ được đánh giá là ngọn núi cao nhất
trong dãy núi của chế độ phong kiến Việt Nam. Trải qua các triều vua Thái Tổ (1428-1433),
Thái Tông (1434-1442), Nhân Tông (1443-1459), Thánh Tông (1460-1497), đất nước Đại
việt dần dần được hồi phục, củng cố chính quyền và mở rộng lãnh thổ, đưa đất nước phát
triển lên một đỉnh cao mới về tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa – giáo dục.
I. Tình hình chính trị
1. Xây dựng và củng cố chính quyền:
- Ngay sau khi quét sách giặc Minh ra khỏi bờ cõi, Lê Lợi đã bắt tay xây dựng lại đất nước.
Từ lúc đem quân ra Đông Đô, Lê Lợi đã chia nước làm 4 đạo. Năm 1428, lãnh thổ Đại Việt
bao gồm vùng Bắc Bộ và BTB, giáp đến đèo Hải Vân, Lê Lợi chia cả nước làm 5 đạo. Dưới
đạo là trấn, lộ, phủ, huyện, châu, xã. Đứng đầu triều đình là vua, sau vua là các chức tả hữu,
tướng, quốc, tam thái, tam thiếu, tam tư. Dưới là các chức quan thuộc các quan văn, võ. Các
chức văn võ chỉ đạo cho bầy tôi có công (trình độ học vấn của họ không cao).
- (1433-1442) Lê Thánh Tông lên trị vì, sau đó nhanh chóng chấm dứt được tình trạng
xung đột cung đình, lập lại kỷ cương quốc gia, tạo nên dự ổn định chính trị đẩy mạnh sự
nghiệp phục hưng đất nước.
- Cuộc cải cách hành chính của vua Lê Thánh Tông:
+ Mục đích: thâu tóm quyền lực tập trung vào tay nhà vua
+ Bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương được cải tổ
+ Được tiến hành vào năm 1471, Lê Thánh Tông đơn giản hóa 1 số cơ quan giúp việc, xóa bỏ
các chức quan và các cơ quan trung gian, bãi bỏ các chức như tể tướng, tam tư, dại hành
khiển. Vua tự mình giải quyết mọi việc, thậm chí chức tổng chỉ huy trong quân đội cũng bãi
bỏ và vua trực tiếp chỉ huy quân đội, xóa bỏ kể cả nội mật viện, môn hạ sảnh….làm việc trực
tiếp với 6 bộ (lại, lễ, hộ, binh, hình, công)
+ Bộ phận thanh tra quan lại được tang cường. Ở triều đình là Ngự sử đài. Ngoài ra còn có 6
khoa chịu trách nhiệm theo dõi các bộ.
+ Ở địa phương chia cả nước làm 13 đạo thừa tuyên, tính tam ti:
Đô tổng binh sứ ti (gọi tắt là Đô ti) phụ trách quân đội.
Thừa tuyên sứ ti (gọi tắt là Thừa ti) phụ trách các việc dân sự.
Hiến sát sứ ti (Hiến ti) phụ trách việc thanh tra quan lại trong đạo của mình.
+ Ngoài ra giám sát ngự sử ở 13 đạo
Dưới đạo là phủ, đứng đầu là Tri phủ
Dưới phủ là huyện, châu do Tri huyện, Tri châu đứng đầu
Ở xã, các chức xã quan được gọi là Xã trưởng
+ Ở miền thượng du, các bản mường vẫn được giao cho các tù trưởng cai quản như cũ.
+ Riêng với khu vực biên giới phía Bắc, cử them 1 số tướng giỏi từ miền xuôi lên cai trị, biến
họ thành “phiên thần”, đời đời nối nhau cai quản
+ 1471: 5370 người tổng số quan lại
2755 quan lại ở trung ương
trải qua thi cử và đổ đạt mới làm quan
Để tạo điều kiện cho các quan lại làm việc 1 cách hiệu quả và gắn bó với triều đình. Lê
Thánh Tông đã đặt và quy chế lương bổng, ruộng lộc. Khác với các thời khác, thời Lê không
giao cho chức vụ nếu họ không có tài, học kém và không cho phép lập điền trang, không
phong cho con cháu cai trị khắp nơi.
(Hệ thống hành chính quốc gia thời Lê Sơ so với thời Trần đã thể hiện 1 bước tiến cơ bản
và đạt tới đỉnh cao của mô hình quân chủ chuyên chế quan liêu). Hệ thống hành chính thời Lê
Thánh Tông thể hiện được tính tập trung từ dưới lên trên, từ địa phương đến trung ương, đề
cao quyền hành toàn diện của người đứng đầu đất nước. Lê Thánh Tông còn tự ra đề thi.
Về cơ bản, công cuộc cải tổ của Lê Thánh Tông là nhằm tập trung tuyệt đối quyền lực vào người đứng
đầu nhà nước là nhà vua, tăng cường sức mạnh của bộ máy quan liêu.Lê Thánh Tông đã bãi bỏ một số
chức quan, cơ quan và các cấp chính quyền trung gian, thành lập các cơ quan giám sát để ngăn ngừa sự
lạm quyền giữa các thiết chế trong bộ máy nhà nước. So với thời Lý – Trần – Hồ, thời kỳ này bộ máy
nhà nước hoàn bị hơn hẳn. Sự hoàn bị và được đánh giá cao trong tổ chức chính quyền thời kỳ này
là bên cạnh việc phân công chức năng, nhiệm vụ tương đối rõ ràng giữa các cơ quan còn có cả những
thiết chế giám sát, phản biện như Lục khoa và đặc biệt là cơ quan Ngự sử đài. Nhiều nhà nghiên cứu
đánh giá cao tính chất hoàn bị của mô hình này không chỉ ở chỗ bộ máy thời kỳ này có nhiều chức quan
hơn, được chuyên môn hoá hơn so với thời kỳ trước mà chính ở việc đã có sự xuất hiện của những thiết
chế và cách thức giám sát quyền lực, mặc dù tính chất, mức độ còn rất sơ khai.
Về ưu điểm, bộ máy nhà nước thời Lê Sơ có thể được coi là bộ máy nhà nước tân tiến nhất,
phát triển đến mức hoàn chỉnh trong các bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam. Dưới thời
Lê Sơ, đặc biệt là thời gian Lê Thánh Tông trị vì, Việt Nam phát triển toàn diện về mọi mặt,
trở thành một cường quốc trong khu vực lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, trong bộ máy nhà nước vẫn còn tồn tại một số nhược điểm. Bộ máy nhà nước thời
Lê Sơ mang tính quan liêu, tập quyền, thiếu tính đại diện và do đó chưa thực sự lắng nghe
nguyện vọng của nhân dân. Bên cạnh đó, bộ máy nhà nước mang tính tản quyền khi xóa bỏ
toàn bộ các cơ quan trung gian, mọi quyền lực đều tập trung trong tay vua. Do đó, khi vua
làm chưa hay, chưa phải, sự can gián từ quan lại, triều đình khó đến kịp lúc.
2. Quân đội và quốc phòng:
- Không chỉ tập trung tiến hành cải cách hệ thống hành chính từ trung ương tới địa phương,
LTT còn dành nhiều tâm huyết cho việc xây dựng 1 tổ chức quân đội tập trung và tinh nhuệ
từ năm 1466. Tổ chức quân đội được xây dựng theo quy cũ tiếp tục áp dụng chế độ “ngụ binh
ư nông”.
- 1466, LTT cải tổ hệ thống tổ chức quân đội
- Quân đội được chia ra làm 2 loại: + thân binh ̣(cấm binh/lính bảo vệ thành)
+ ngoại binh (ở địa phương)
- Theo chế độ tuyển quân, cử 3 đinh lấy 1 lính thường trực (tráng hạng) và 1 lính trù bị
(quân hạng). Có các loại quân thủy, bộ, tượng, kỵ. Vũ khí ngoài giáo mác, cung tên, có hỏa
pháo và hỏa đồng.
- Nhà Lê rất chú ý đến việc rèn luyện quân đội. Hằng năm đều có ngày duyệt tập ở kinh
thành hay địa phương. Các phiên túc trực thường xuyên luyện tập. Tất cả các hạng quân đều
được cấp ruộng đất theo thứ bổng các võ quan thì được cấp cả lộc điền và cả tiền lương. Gồm
các bộ binh, thủy binh, tượng binh và kỵ binh.
Cũng như các triều đại trước, nhà Lê Sơ vẫn áp dụng chế độ “ngụ binh ư nông”. Đây là
nét đặc sắc trong nghệ thuật tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang của thời phong kiến nước
ta. Bắt đầu vào thời Lý, chính sách này đã được xây dựng và đi vào thực tế. Chế độ này giúp
cho người lính vừa đảm bảo công việc ở triều đình vừa cung cấp được lương thực cho địa
phương, cho gia đình và cho chính bản than họ. Việc này đã tạo 1 không khí phấn khởi trong
toàn quân. Vì thế đã có câu: “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông, thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buôn
ăn”. Chứng tỏ chế độ ngụ binh ư nông rất có tác dụng, rất có lợi trong quân dân.
Có thể nói, mọi chính sách xây dựng phát triển đất nước của nhà Lê Sơ đều đem lại quyền
lợi cho nhân dân, đây là điều không phải triều đại phong kiến nào làm được. Do vậy, dưới
thời Lê Thánh Tông, Đại Việt bước vào thời kỳ phát triển thịnh vượng được coi là hoàng kim
của chế độ phong kiến Việt Nam.
3. Luật pháp:
- Sau khi lên ngôi vua, Thái Tổ đã lo ngay đến việc đặt luật pháp. Năm 1488, Thánh Tông
quyết định triệu tập các đại thần biên soạn 1 bộ luật chính thức của triều đại mình, thường
được gọi là “Luật Hồng Đức”. Được sử dụng, bổ sung vào thời Lê – Trịnh tên gọi chung là
“Lê triều hình luật”, tư tưởng chủ đạo của nó là nhằm bảo vệ nhà nước trung ương tập quyền,
bảo vệ trật tự đẳng cấp.
- Bộ luật có 722 điều chia làm 6 quyển, 16 chương.
- Luật Hồng Đức thể hiện rõ nét ý thức giai cấp của nhà Lê trong các mối quan hệ nhưng
cũng phản ánh khá rõ nét tính dân tộc. Ở đây nổi lên ý thức bảo vệ quyền lợi của người phụ
nữ, của người dân tự do, cũng như ý thức bảo vệ dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. (cho phép được
sử dụng luật để xét xử các vụ án đối với dân tộc ít người miền núi).
- Bộ luật đánh dấu 1 trình độ phát triển cao của tư tưởng pháp lí của dân tộc Đại Việt và
khá hoàn chỉnh, do đó được sử dụng trong 4 thế kỉ thời Lê (tkXV-XVIII).
4. Củng cố chính quyền dân tộc:
- Với long tự hào dân tôc, các vua thời Lê Sơ đã không ngừng củng cố, phát triển quốc gia
dân tộc thống nhất. Lê Thánh Tông nói: “Quyết không để 1 tấc đất, 1 thước song của Thái Tổ
lọt vào tay kẻ khác”. Các vua Lê đã thi hành 1 sô chính sách hòa hoãn nhưng kiên quyết với
nhà Minh trong vấn đề biên giới, phát triển lãnh thổ về phía tây và phía nam. Năm 1471, Lê
Thánh Tông cất quân đánh Chăm Pa, chiếm thành Đồ Bàn (Bình Định), lấy vùng đất mới lập
thành thừa tuyên Quảng Nam. Các nước trong khu vực (như Xiêm La, Miến Điện) đều đến
triều cống.
- Để nắm chắc và khống chế các tù trưởng thiểu số, triều đình nhà Lê đã áp dụng những
biện pháp kết hợp trấn áp với phủ dụ (như trường hợp đối với Đèo Cát Hãn, tù trưởng thái ở
Lai Châu). Nhà vua cũng cho điều tra và lập sổ hộ tịch, khảo sát địa hình, lập bản đồ hành
chính quốc gia (bản đồ Hồng Đức năm 1469), đề cao, tôn vinh truyền thống dân tộc và các
danh nhân lịch sử - văn hóa. Ở thế kỷ XV, Đại Việt đã trở tahnhf 1 quốc gia có uy thế trong
khu vực ĐNA.
II. Tình hình kinh tế - xã hội:
Chế độ đô hộ của nhà Minh và cuộc chiến tranh giải phóng Tổ quốc đã tàn phá nghiêm trọng
nền kinh tế nước ta vốn đã suy yếu rong những thập kỉ cuối Trần. Đồng ruộng, làng xóm điêu
tàn, nhân dân phiêu tán. Thủ công, thương nghiệp suy sụp. Đất nước trở lại độc lập, nhà nước
và nhân dân với ý thức tự hào dân tộc sâu sắc đang vươn cao, đã họp sức cùng nhau nhanh
chóng khôi phục sản xuất, hàn gắn vết thương chiến tranh và sau đó đưa nền kinh tế phát triển
lên 1 giai đoạn mới ở nửa sau TK XV.
1. Nông nghiệp:
- Cho 25 vạn quân lính về quê làm ruộng và kêu gọi nhân dân phiêu tán về xây dựng xóm
làng.
- Chia ruộng đất theo phép quân điền; đặt cơ quan chuyên trách nông nghiệp như khuyến
nông sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ
- Ban lệnh cấm giết trâu bò, cấm điều phu vào lúc gặt, cấy .
=> Nông nghiệp phục hồi và phát triển một cách nhanh chóng
- Nghề thủ công truyền thống như kéo tơ, dệt lụa, làm đồ gốm,rèn sắt,… phát triển mạnh mẽ,
nhiều làng thủ công ra đời, đặc biệt là Thăng Long với 36 phường thủ công .
- Các làng, phường thủ công chuyên nghiệp nghiệp ra đời như: đồ gốm Bát Tràng, đúc đồng ở
Đại Bái; rèn sắt ở Văn Chàng ; dệt vải lụa ở Nghi Tâm; làm giấy ở Yên Thái; nhuộm điều ở
phường Hàng Đào.Xưởng thủ công nhà nước gọi là Bách tác chuyên sản xuất đồ dùng cho
nhà vua, vũ khí, đóng thuyền, đúc tiền đồng .
- Buôn bán: khuyến khích lập chợ mới, giao thương với người nước ngoài ở Vân Đồn, Vạn
Ninh (Quảng Ninh), Hội Thống (Nghệ An), Lạng Sơn, Tuyên Quang
=> Với chính sách và biện pháp khuyến khích phát triển của nhà nước, nhân dân cần cù lao
động, nền kinh tế của nước đại việt ta dần được khôi phục và phát triển
Nhà nước Đại Việt thời Lê Sơ rất quan tâm đến giáo dục đào tạo nhân tài thể hiện ở:
- Cho dựng lại Quốc Tử Giám ở Thăng Long, mở trường các lộ, mọi người đều có thể học
và đi thi
- Tuyển chọn những người có tài, có đạo đức để làm thầy giáo
- Học đạo nho, Nho giáo chiếm địa vị độc tôn.
- Mở các khoa thi hàng để chọn người tài ra làm quan. Người đỗ tiến sĩ được vua ban mũ,
áo, phẩm tước, khắc tên vào bia tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Có thể xem thời Lê Sơ, đặc biệt là triều vua Lê Thánh Tông, là thời kỳ phát triển cực
thịnh của giáo dục, thi cử phong kiến. Từ giáo dục, khoa cử đã xuất hiện nhiều nhà Nho, nhà
chính trị, ngoại giao, nhà sử học nổi tiếng làm rạng danh đất nước 1 thời.
2. Tôn giáo, tín ngưỡng:
- Từ cuối thời Trần, Nho giáo đã lấn át Phật giáo. Ở thời Lê sơ, Nho giáo chiếm địa vị độc
tôn. Sự phát triển của giáo dục góp phần quan trọng vào việc phổ cập Nho giáo.
- Trước đây, bọn phong kiến nhà Minh trong thời gian đô hộ đã lợi dụng Phật giáo và Đạo
giáo để mê hoặc nhân dân. => Khi Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, đã đặt lệ thi tang nhân, buộc các
nhà sư phải trên 50 tuổi, thông hiểu kinh Phật và qua 1 kỳ khảo hạch mới được nhà nước
công nhận, ngoài ra đều phải hoàn tục.
Tiểu sử:
Lê Thánh Tông là ông vua thứ 5 nhà Hậu Lê, trị vì 38 năm (1460-1497) là ông vua ở ngôi lâu
nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Ông sinh ngày 25/08/1442, con thứ 4 của vua
Lê Thái Tông và bà phi Ngô Thị Ngọc Giao (Ngô Thị Ngọc Giao là con của Ngô Từ, một
khai quốc công thần của nhà Lê, giúp Lê Lợi từ thủa cơ hàn). Năm 18 tuổi lên ngôi vua, lấy
hiệu Quang Thuận(1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497). Lê Thánh Tông là vị vua duy nhất
được sinh ra trong chùa, đó là chùa Huy Văn (nay thuộc ngõ Văn Chương, quận Đống Đa, Hà
Nội).
Cuối năm 1459, Nghi Dân cùng với phe Đảng giết mẹ con Nhân Tông và đoạt ngôi vua. Giữa
năm 1460 các đại thần đã làm cuộc chính biến giết Nghi Dân và đưa Lê Tư Thành lên làm
vua, đế hiệu là Thánh Tông. Với 37 năm trị vì (1460-1497) Lê Thánh Tông là một trong
những vị vua ở ngôi lâu nhất trong số các vị vua Việt Nam .
Có thể nói Lê Lợi là người dành lại đất nước, đến Lê Thánh Tông là người đưa nhà Lê đến
giai đoạn thịnh trị nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Ông hoạt động trên nhiều
lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa… và để lại dấu ấn sâu sắc – triều đại Lê Thánh
Tông.
Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá vào thế kỷ 16 – 18
I/. Hoàn cảnh lịch sử: (làm phòng hờ sợ cô hỏi)
- Đất nước có nhiều biến động lớn nhưng kinh tế có nhiều biểu hiện phát triển về
mọi mặt.
- Lãnh thổ Đàng Trong mở rộng tạo nên một vựa thóc lớn, góp phần quan trọng ổn
định tình hình xã hội.
- Kinh tế hàng hóa do nhiều tác nhân khác nhau gồm chủ quan và khách quan đã
phát triển mạnh mẽ, tạo điều kiện cho sự hình thành và phồn vinh của một số đô thị
trên cả ba miền đất nước.
- Mặc dầu vào nửa sau thế kỷ XVIII, nền kinh tế của cả hai miền đều suy thoái
nhưng sự phát triển của nó, đặc biệt là kinh tế hàng hoá ở các thế kỷ trước đã ảnh
hưởng đến nhiều mặt của xã hội.
II/. Nguyên nhân phát triển: (Phần này cũng làm phòng hờ, không học cũng
được)
- Do chính sách mở của của chính quyền Trịnh, Nguyễn
- Do các nghề thủ công phát triển mạnh mẽ, sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều.
- Do nước ta có vị trí địa lý thuận lợi cho giao thông đi lại, nhất là bằng đường
biển, tạo điều kiện thu hút thương nhân các nước.
- Do các cuộc phát kiến địa lý tạo điều kiện giao lưu Đông - Tây.
- Hình thành tầng lớp địa chủ lớn, nhất là vùng đất Gia Định có những địa chủ lớn
có rất nhiều ruộng đất.
=> Diện tích ruộng đất cả nước tăng nhanh, người dân hai miền tăng gia sản
xuất, bồi đắp đê điều, nạo vét mương máng. Tuy nhiên ở cả hai miền, ruộng
đất ngày càng tập trung vào tay giai cấp địa chủ và tình trạng tham nhũng
trong tầng lớp quan lại càng nhiều dẫn đến các cuộc khủng hoảng xã hội ở cả
2 miền.
2. Sự phát triển của thủ công nghiệp và thương nghiệp:
Thủ công nghiệp:
- Ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, các chính quyền vẫn duy trì hoạt động của các
quan xưởng để sản xuất vũ khí cho quân đội, may trang phục, làm đồ trang sức cho
quan lại và đúc tiền,...
- Các nghề thủ công mới xuất hiện: khắc in bản gỗ, làm đường, đúc súng, làm đồng
hồ, tranh sơn mài…
- Các nghề thủ công cổ truyền ngày càng phát triển và đạt trình độ cao như: dệt vải
lụa, đồ gốm, rèn sắt, đúc đồng, dệt chiếu, làm giấy,... đặc biệt là làm gốm và dệt
lụa. Nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng như: làng gốm Thổ Hà (Bắc Giang), Bát
Tràng (Hà Nội); làng dệt La Khê (Hà Nội); các làng rèn sắt ở Nho Lâm (Nghệ An),
Hiền Lương, Phú Bài (Huế); làng làm đường mía ở Quảng Nam;...nhưng tổ chức
sản xuất chủ yếu mang tính chất gia đình.
- Nhà nước ra những chính sách thuế má, lao dịch, hạn chế về khổ vải, độc quyền
thu mua tơ và bán tơ cho thương nhân nước ngoài đã làm cho nghề dệt không phát
triển mạnh lên để chuyển sang một phương thức sản xuất mới.
=>Thủ công nghiệp vừa mở rộng, vừa phát triển, đáp ứng ở một mức độ nhất
định nhu cầu của nhân dân trong nước và thương nhân nước ngoài, đi sâu
hơn vào nền kinh tế thị trường có tính quốc tế. Bên cạnh đó với tình trạng
nghèo nàn và tâm lí sính ngoại của cư dân không cho phép các ngành nghề
thủ công phát triển khi nhu cầu bên ngoài giảm xuống.
- Ngành khai mỏ phát triển mạnh, nhiều tư nhân Hoa & Việt nhận thầu khai thác
mỏ như: mỏ đồng ở Tụ Long (Hà Giang), mỏ bạc ở Tuyên Quang, mỏ thiếc ở Cao
Bằng,….
=>Khai thác mỏ đã trở thành một bộ phận quan trọng của thủ công nghiệp.
Do tính chất của công việc, ở đây đã hình thành một phương thức sản xuất
tập trung, thuê mướn có tính tư nhân.
Thương nghiệp:
- Nội thương: phát triển mạnh, chợ làng, chợ huyện, chợ phủ mọc lên khắp
nơi, Bước đầu xuất hiện một số làng buôn hay trung tâm buôn bán lớn.
- Ngoại thương: Phát triển mạnh: quan hệ buôn bán với các thương nhân Trung
Quốc, Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Pháp, Anh…. …Xuất hiện nhiều phố xá, hiệu buôn
của người nước ngoài lập để buôn bán lâu dài
+ Trong thế kỉ XVII, nhiều thương nhân Châu Á và Châu Âu đến Đại Việt buôn
bán, lập thương điếm. Sản phẩm trao đổi đa dạng như len, dạ, đồ trang sức, tơ tằm,
trầm hương, ngà voi, đường, hương liệu quý,…
+ Từ khoảng đầu thế kỉ XVIII, hoạt động trao đổi, buôn bán giữa Đại Việt với các
nước phương Tây dần sa sút. Đại Việt chủ yếu duy trì buôn bán với thương nhân
Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á.
=> Chính sách của nhà nước, sự nhũng nhiễu, cướp đoạt tuỳ tiện của bọn
quan lại phụ trách quan thuế, tàu vụ và tình hình xã hội Đại Việt cuối thế kỉ
XVIII đã làm suy sụp nền thương nghiệp.
- Xuất hiện nhiều đô thị mới như:
+ Đàng Ngoài: Thăng Long( Kẻ Chợ), Phố Hiến ( Hưng Yên)
+ Đàng Trong: Thanh Hà( Thừa Thiên Huế), Hội An( Quảng Nam), Gia
Định(TpHCM)
=> Thế kỷ XVIII, hoạt động ngoại thương suy yếu dần do chế độ thuế khóa
phức tạp, quan lại khám xét phiền phức… làm cho các thành thị suy tàn
IV/.KẾT LUẬN:
- Sự chuyển biến trong nông nghiệp, sự phát triển của kinh tế công thương nghiệp
cùng với sự hình thành và hoạt động nhộn nhịp của các đô thị trong các thế kỉ XVI
– XVIII tuy chưa rầm rộ, tự do liên tục hay vượt qua mọi ràng buộc để tự mình
vươn lên song đã có những tác động quan trọng đến tính chất của nền sản xuất cổ
truyền nông nghiệp tự cung, tự cấp, mở ra một thời kì mới cho sự phát triển của
chế độ phong kiến Đại Việt.