Đề cương Lịch sử Việt Nam

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 21

Lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X - trước 1858

1.Vương triều Trần


Có thể nói việc chuyển giao nhà Lý sang nhà Trần là một cuộc chuyển giao quyền
lực nhẹ nhàng nhất trong lịch sử phong kiến nước ta. Bởi nhà Lý đã suy yếu,
không thể tiếp tục sứ mệnh lãnh đạo đất nước của mình. Năm 1225, Trần Cảnh lên
ngôi mở đầu cho vương triều nhà Trần.
Mở đầu chế độ Thái thượng hoàng trong lịch sử Việt Nam
Người mở đầu triều Trần là Trần Thái Tông, lúc lên ngôi chỉ mới 8 tuổi. Thái sư
Trần Thủ Độ vì thế đã đề nghị cha của Trần Thái Tông là Trần Thừa giữ vai Thái
Thượng hoàng để điều khiển các việc trọng đại. Chế độ Thái Thượng hoàng bắt
đầu như vậy và được các đời hoàng đế kế vị nhất mực tuân thủ. Các hoàng đế chỉ ở
ngôi trong khoảng thời gian nhất định (đến tuổi 40) rồi truyền ngôi cho Thái tử,
bản than trở thành Thái Thượng hoàng, cùng vua con cai quản việc nước. Các Thái
Thượng hoàng nhà Trần thường lui về sống tại hành cung Thiên Trường và có bộ
máy quan chức giúp việc gồm đủ các bộ phận như tại triều đình. Thái Thượng
hoàng có quyền lực rất lớn, có thể phế truất và lập mới hoàng đế khi cần.
Việc này giúp cho các vị vua trẻ có thời gian tập dượt việc điều hành đất nước,
đồng thời chọn ra 1 vị vua xứng đáng để trị vì đất nước.
Triều đại của quý tộc, tôn thất
Xây dựng nền chuyên chính quân chủ quý tộc dòng họ, tầng lớp tôn thất nắm độc
quyền lãnh đạo quốc gia. Tôn thất là dòng họ nhà vua. Nhà Trần thường giao các
chức vụ quan trọng về văn, võ cho những người trong dòng họ. Quý tộc, tôn thất
nhà Trần được phong các tước vương, hầu, có điền trang, thái ấp riêng và được
hưởng nhiều ưu đãi đặc biệt. Quý tộc họ Trần nắm giữ chính quyền là nét độc đáo
của triều đại này. Triều Lý trước đó cũng đã có hiện tượng trên nhưng không duy
trì thường xuyên. Các triều đại sau nhà Trần không tiếp tục chế độ này nữa. Nhà
Trần do đó còn được gọi là triều đại quân chủ quý tộc, tôn thất.
Nhiều tôn thất họ Trần đã trở thành các danh nhân của nước nhà như Trần Quốc
Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nguyên Đán…
 Nhằm đảm bảo sự trung thành tuyệt đối với triều đại.
Vương quyền duy nhất thực hiện chế độ hôn nhân nội tộc
Nhà Trần là triều đại duy nhất trong lịch sử nước ta tiến hành chế độ hôn nhân nội
tộc, nghĩa là những người cùng huyết thống họ Trần chỉ cần không phải anh em
ruột sẽ được kết hôn với nhau. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó
có việc mưu tính sâu xa để ngai vàng không rơi vào tay người ngoại tộc như
trường hợp của nhà Lý.
Từ hoàng đế đến các quý tộc, tôn thất họ Trần đều nhất mực tuân thủ chế độ này.
Với các hoàng đế, họ có quyền lập nhiều phi tần, nhưng ngôi vị hoàng hậu thì phải
do người trong họ nắm giữ. Bởi điều này nên hoàng hậu của Trần Thánh Tông là
con gái của An Sinh Vương Trần Liễu, tức là chị con nhà bác của Thánh Tông,
hoàng hậu của Trần Nhân Tông (con Thánh Tông) là con gái của Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn (con Trần Liễu)…
Giới quý tộc, tôn thất cũng được lấy nhiều thê thiếp khác họ, nhưng người chính
thất (vợ cả) vẫn phải là người họ Trần. Bởi quy định này mà chính thất của Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cũng chính là cô ruột của ông.
Cuộc hôn nhân mở rộng cương giới
Nửa sau thế kỷ XIII, quan hệ giữ Đại Việt và Chiêm Thành rất hữu hảo. Khi quân
Nguyên xâm lược Chiêm Thành, nhà Trần đã điều binh giúp đỡ vua Chiêm Thành.
Trong chuyến đi hữu nghị vua Trần sang thăm Chiêm Thành, Thượng hoàng Trần
Nhân Thông đã hứa gả công chúa Huyền Trân – con gái út của mình cho Chế Mân
(Thái tử Chiêm Thành). Chế Mân đã xin dâng hai vùng đất cho Đại Việt xem như
sính lễ hỏi cưới công chúa. Năm 1306, công chúa Huyền Trân lên xe hoa về Chiêm
Thành rồi được lập thành hoàng hậu. Hai vùng đất đó chính thức thuộc về lãnh thổ
ta, tương ứng với Nam Quảng Trị và toàn bộ Thừa Thiên Huế.
2.Nhân vật Trần Hưng Đạo
Trần Hưng Đạo còn được gọi là Hưng Đạo đại vương là một anh hùng dân tộc kiệt
xuất, một nhà chính trị, nhà văn cũng như là Tư lệnh tối cao chỉ huy quân đội toàn
quốc của Đại Việt thời nhà Trần.
Ông nổi tiếng trong lịch sử nước Việt với vai trò chỉ huy quân đội Đại Việt ba lần
đẩy lùi quân Nguyên - Mông trong thế kỷ 13 (1258-1288). Chiến thắng của ông
trước đội quân Nguyên - Mông dưới thời Hốt Tất Liệt được đánh giá là một trong
những chiến công vĩ đại của lịch sử quân sự thế giới. Được coi là một trong những
nhà quân sự kiệt xuất nhất trong lịch sử dân tộc.Tư tưởng quân sự của ông đã được
thể hiện rõ trong các luận thuyết, tác phẩm của mình.
Xuất thân
Ông con trai thứ ba của Khâm Minh đại vương Trần Liễu, gọi Trần Thái
Tông bằng chú ruột. Năm sinh của ông không rõ ràng, có tài liệu cho rằng là năm
1228, nhưng cũng có tài liệu cho là năm 1230, hay 1231. Nhưng điều đó cũng cho
thấy khi ông sinh ra thì triều đại nhà Trần cũng vừa mới thành lập được không lâu
(thành lập năm 1225).
Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người có dung mạo khôi ngô, thông minh hơn
người, nhờ được những người tài giỏi đến giảng dạy mà ông sớm trở thành người
đọc thông hiểu rộng, có tài văn võ.
Biến động gia đình
Do chú ông là Trần Thái Tông lên ngôi và kết hôn đã lâu nhưng chưa có con nối
dõi, Thái sư Trần Thủ Độ đang nắm thực quyền phụ chính ép cha ông là Trần
Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên công chúa (chị của Lý Chiêu Hoàng)
cho Trần Thái Tông dù bà đang mang thai với Trần Liễu được ba tháng, đồng thời
giáng Lý hoàng hậu xuống làm công chúa.
Phẫn uất, Trần Liễu họp quân chống lại nhưng không làm gì được, phải xin đầu
hàng. Vì Thái Tông cũng thương anh nên xin với Trần Thủ Độ tha tội cho Trần
Liễu, nhưng quân lính đều bị giết . Mang lòng hậm hực, Trần Liễu tìm người tài
nghệ để dạy văn, võ cho Trần Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, Trần Liễu cầm tay Trần
Quốc Tuấn, trăng trối: "Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối
vàng cũng không nhắm mắt được". Trần Quốc Tuấn ghi để trong lòng, nhưng
không cho là phải.
Trần Quốc Tuấn là người gạt đi mối thù riêng, để lo cho vận mệnh chung của dân
tộc. Chữ hiếu đối với ông, có lẽ không đơn thuần là việc trả thù, chữ Hiếu ấy, trước
hết phải là Hiếu với quốc gia, dân tộc, với sự trường tồn của non sông gấm vóc,
sau là Hiếu với vua để trọn đạo quân thần. Đó phải chăng cũng là giúp người cha
làm vẹn tròn chữ Hiếu.
Bối cảnh lịch sử
Vào đầu thế kỷ XIII, ở phương Bắc trên đất nước Mông Cổ hình thành một quốc
gia quân sự hùng mạnh cùng những đạo kỵ binh thiện chiến khét tiếng tàn bạo. Vó
ngựa Mông Cổ đi đến đâu cỏ không mọc được đến đó. Thành Cát Tư Hãn và vua
chúa Mông Cổ đã chinh phục hết quốc gia này đến quốc gia khác thành lập nên
một đế quốc rộng lớn. Năm 1257, quân Mông Cổ muốn chiếm Đại Việt ta để tấn
công Nam Tống từ phía Nam.
Sự nghiệp Trần Hưng Đạo: Ba lần chống quân Nguyên Mông
Lần thứ nhất 1258
Ông giao trách nhiệm phòng thủ biên giới trước thời điểm quân Mông Cổ xâm
lược vào tháng 12 năm 1257. Viết về cuộc chiến này, các bộ sử của hai bên như
Đại Việt Sử ký Toàn thư, Nguyên sử, An Nam chí lược đều không đề cập chi tiết
gì về vai trò của Hưng Đạo vương trong các trận đánh lớn của cuộc chiến. Các
ngày 17-18 tháng 1 năm 1258, quân Mông Cổ đánh bại quân Đại Việt do vua Trần
Thái Tông đích thân chỉ huy ở Bình Lệ Nguyên và Phù Lỗ. Thái Tông rời bỏ kinh
đô, lui về giữ sông Thiên Mạc. Quân Mông Cổ vào Thăng Long nhưng thiếu lương
thực trầm trọng, phải chia nhau đi cướp lương thực và bị chặn đánh quyết liệt.
Ngày 28 tháng 1 năm 1258, vua Trần Thái Tông cùng thái tử 18 tuổi Trần
Hoảng ngự lâu thuyền tiến quân đến Đông Bộ Đầu, đánh tan quân Mông Cổ, giải
phóng Thăng Long. Chiến tranh kết thúc, Quốc Tuấn vẫn giữ nguyên tước cũ và
trở về thái ấp ở Vạn Kiếp. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Theo quy chế nhà
Trần, các vương hầu đều ở phủ đệ nơi hương ấp của mình, khi chầu hầu thì đến
kinh đô, xong việc lại về phủ đệ. Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc
Hương, Quốc Chẩn ở Chí Linh đều thế cả". Sau chiến thắng quân Mông Cổ, vua
Thái Tông nhường ngôi cho con là Trần Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông. Thánh
Tông phong em là Trần Quang Khải là Thái úy, tước Đại vương.
Lần thứ hai (1285)
Tuy bị đánh bại nhưng Mông Cổ vẫn lớn mạnh ở phía bắc, thành lập nhà
Nguyên và tiêu diệt Nam Tống vào năm 1279, tiếp giáp với biên giới Đại Việt.
Trước sự bành trường của nhà Nguyên, nhà Trần đã đề phòng, chuẩn bị kháng
cự. Trần Quốc Tuấn mở trường dạy võ, dạy con em hoàng tộc và những người tài
giỏi trong nước. Ông thường đi khắp các lộ, kiểm soát các giảng võ đường địa
phương, thu dụng nhiều người tài giỏi trong nước như Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm
Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa, Đỗ Hành... .
Khi ấy, Trần Quang Khải và Trần Quốc Tuấn vốn không ưa nhau, nhưng sau đó
Trần Quốc Tuấn chủ động gạt bỏ hiềm khích với Trần Quang Khải vì việc nước.
Năm 1282, nhà Nguyên sai Toa Đô mang quân vượt biển đánh Chiêm Thành ở
phía nam Đại Việt. Chiến tranh giữa Đại Việt với nhà Nguyên đến gần. Tháng
Mười (âm lịch) năm 1283, để chuẩn bị kháng chiến lần hai, Trần Hưng Đạo được
thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông phong làm Quốc công tiết
chế thống lĩnh chư quân. Ông chọn các quân hiệu tài giỏi, cho chia nhau chỉ huy
các đơn vị quân đội. Tháng Tám (âm lịch) năm sau (1284), đọc bài "Hịch tướng sĩ"
nổi tiếng, rồi chia quân đóng giữ Bình Than và các nơi hiểm yếu khác. Hịch tướng
sĩ là áng thiên cổ hùng văn, tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường
chống giặc ngoại xâm. Trần Quốc Tuấn đã sử dụng Hịch tướng sĩ để khích lệ tinh
thần quân dân.
Bài Hịch viết về các bậc anh hùng trung nghĩa đã lấy thân mình chết thay vua để
răn dạy quân sĩ, tội ác của quân Nguyên Mông, nỗi căm thù giặc của Trần Quốc
Tuấn đến mức “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, nước mắt đầm đìa, ruột đau như
cắt…”. Đồng thời cũng phê phán nghiêm khắc thói ăn chơi hưởng lạc, thái độ bàng
quan của một số tướng sĩ.
Đầu năm 1285, quân Nguyên Mông lại ào ạt tiến công vào phía bắc và vùng Thanh
Hóa-Nghệ An. Hưng Đạo vương đốc các quân đánh chặn ở biên giới nhưng thất
bại, quân Đại Việt bị tổn thất. Trần Hưng Đạo phải thu quân về Vạn Kiếp. Theo
Đại Việt sử ký toàn thư, quân Đại Việt đã tan vỡ; Trần Quốc Tuấn thoát được là
nhờ có Yết Kiêu kiên quyết giữ thuyền đợi chủ tướng.
Thủy quân Nguyên do Ô Mã Nhi chỉ huy tấn công vào Vạn Kiếp, quân Nguyên
vây quân của Trần Quốc Tuấn. Một trận thủy chiến lớn giữa 2 bên đã diễn ra. Vua
Trần đã đem quân đến trợ chiến cho Trần Quốc Tuấn. Ô Mã Nhi đã không ngăn
nổi quân Đại Việt rút lui. Toàn bộ quân Đại Việt rút khỏi Vạn Kiếp, Phả Lại, Bình
Than về dàn trận bên bờ sông Hồng gần thành Thăng Long. Quân Nguyên tiến
theo đường bộ về Thăng Long. Để bảo toàn lực lượng và thực hiện kế "thanh dã"
(vườn không nhà trống), Trần Hưng Đạo ra lệnh rút quân.
Quân xâm lược vào Thăng Long rồi tiến xuống Thiên Trường (vùng Nam Định)
đuổi theo vua Trần. Thượng hoàng Thánh Tông lo ngại, vờ hỏi ông xem có nên
hàng không. Ông khảng khái trả lời "Bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng"
Tháng 5 (dương lịch) năm 1285, ông vạch kế hoạch tổng phản công. Chỉ sau một
tháng chiến đấu quyết liệt với quân Nguyên, đã giành được rất nhiều thắng lợi
quân dân Đại Việt đã tiến vào Thăng Long, Thoát Hoan bỏ chạy. Quân Nguyên đại
bại rút chạy về phía Bắc. Quân Đại Việt do con Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Hiến
chỉ huy truy kích đến tận biên giới, quân Nguyên phải giấu Thoát Hoan trong ống
đồng để chạy trốn. Trong cuộc chiến này, quân Đại Việt giết được tướng Nguyên là
Toa Đô và Lý Hằng.
Lần thứ ba (cuối năm 1287)
Năm 1286, nhà Nguyên mượn danh nghĩa đưa phản thần nhà Trần là Trần Ích
Tắc về làm An Nam Quốc vương. Trong khi đó lại chuẩn bị binh lính tấn công Đại
Việt. Vua Trần Nhân Tông cử Hưng Đạo vương thống lĩnh vương hầu luyện tập
binh sĩ, sửa sang khí giới, đóng thuyền chiến.
Khác với lần trước, Trần Hưng Đạo không bỏ kinh đô mà tổ chức phòng thủ ở
Thăng Long. Tháng 2 năm 1288, quân Nguyên đánh thành, quân Đại Việt nấp
trong thành bắn tên đạn ra. Trần Quốc Tuấn sai Trần Cao vài lần đến trại Thoát
Hoan xin giảng hoà, nhưng ban đêm thường kéo ra từng toán nhỏ đánh lén vào trại
quân Nguyên, đốt phá lương thực rồi rút lui. Thoát Hoan điều quân ra ngoài truy
kích, nhưng quân Đại Việt thường ẩn nấp khó phát hiện ra. Quân Nguyên bao vây
tấn công vài lần không có kết quả, cuối cùng phải rút lui.
Trong khi đó, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ bị Trần Khánh Dư chặn
đánh tiêu diệt ở Vân Đồn. Thoát Hoan bỏ Thăng Long về hành dinh Vạn Kiếp. Do
bị thiếu lương và bệnh dịch, Thoát Hoan buộc phải rút lui, một ngả của thủy quân
do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy, một ngả của bộ binh do Thoát Hoan chỉ huy.
Trần Hưng Đạo bố trí lực lượng mai phục ở cửa sông Bạch Đằng trực tiếp tổ chức
chiến trường tiêu diệt toàn bộ binh thuyền của Ô Mã Nhi, bắt sống Ô Mã Nhi,
Phàn Tiếp và Tích Lệ Cơ. Thoát Hoan dẫn quân bộ tháo chạy theo đường Lạng
Sơn, dọc đường bị quân Việt đón đánh.
Trận Bạch Đằng (1288)
Trận đánh nổi bật nhất trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ
ba, mang tính chất khẳng định cũng là lần cuối cùng quân Nguyên - Mông xâm
lược Đại Việt.
Thuỷ quân Mông Cổ vốn không biết về chu trình thuỷ triều của sông. Trước ngày
diễn ra trận đánh quyết định này, ông đã đoán tuyến đường tháo chạy của chúng và
nhanh chóng cho quân cắm cọc gỗ vót nhọn ở đáy sông, tạo thành thế trận cọc
ngầm độc đáo giống như hồi thời Ngô Quyền, Lê Hoàn. Khi Ô Mã Nhi cho quân
vào sông, quân ta cử các tàu nhỏ vào nhử chúng khi nước còn lên cao che hết cọc
gỗ. Khi nước xuống, thuyền giặc liền bị mắc kẹt, "không tiến cũng không lui
được", ngay lập tức quân Trần Hưng Đạo xông ra tấn công. Cuối cùng, 400 thuyền
Mông Cổ bị đốt cháy hết. Toàn bộ hạm đội giặc bị phá tan nát, Ô Mã Nhi bị bắt
sống.
 Do đã có những công lao to lớn trên con đường vệ quốc, gìn giữ độc lập,
Vua đã trao cho ông vị trí tối cao toàn quyền chỉ huy quân đội toàn quốc,
đồng thời cho phép ông phong tước, hiệu cho bất kỳ ai mà ông muốn.
Nhưng trong suốt cuộc đời, ông không hề sử dụng đặc quyền này. Điều này
chứng tỏ ông là người không màng tới công danh ông luôn đề cao phận sự
đất nước lên trên hết.
Nhận xét
Dưới sự lãnh đạo của Trần Hưng Đạo, quân đội nhà Trần đã vượt qua vô vàn khó
khăn và nguy hiểm, chỉ với số đội quân ít thiện chiến, yếu hơn so quân giặc lại ba
lần đánh tan hàng vạn quân Mông Nguyên xâm lược hùng mạnh, giành thắng lợi
lẫy lừng. Đây là minh chứng cho việc ông chính là một bậc thầy về chiến lược
quân sự. Ông nổi tiếng với chiến lược "tấn công và rút lui". Ngoài ra, ông còn đặc
biệt có một lòng tin sắt đá vào sức mạnh và ý chí của nhân dân, của tướng sĩ, nên
Trần Hưng Đạo đã đề ra một đường lối kháng chiến ưu việt, tiêu biểu là các cuộc
rút lui chiến lược khỏi kinh thành Thăng Long, để bảo toàn lực lượng.
Là một người có tài dụng người, dụng binh thao lược, ông tiến cử người tài giỏi
giúp nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông đã có công đánh dẹp Ô Mã
Nhi, Toa Đô. Các người nổi tiếng khác như Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương
Hán Siêu,… vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng về văn chương và chính sự,
bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn người trung nghĩa nên
đã giữ được những nhân tài chung quanh ông. Ví dụ như khi vua Trần Thánh Tông
vờ bảo với Trần Quốc Tuấn rằng: “Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi”. Trần
Quốc Tuấn trả lời: “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng giặc”. Nhân dân Việt
Nam vô cùng kính trọng ông và tôn ông là vị anh hùng dân tộc có công trạng lớn
vào hàng bậc nhất đối với tổ quốc và là tấm gương uy vũ sáng ngời cho nhiều thế
hệ mai sau.
Có thể nói tư tưởng quán xuyến suốt đời của Trần Hưng Đạo, là một tấm lòng tận
tụy đối với đất nước, là ý muốn đoàn kết mọi tầng lớp trong dân tộc thành một lực
lượng thống nhất, là tinh thần yêu thương dân. Cho nên trước khi mất, ông vẫn còn
dặn vua Trần Anh Tông rằng: "Phải khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc"
cho sự nghiệp lâu dài của nước nhà.
*CẢI CÁCH HỒ QUÝ LY
Hồ Quý Ly dòng dõi Hồ Hưng Dật ở Triết Giang TQ sang VN thế kỉ X
-Có 2 bà cô là vợ vua Minh Tông , mẹ của 3 vua Hiến Tông, Nghệ Tông, Duệ
Tông
-Dựa vào chức quyền và sự tin yêu của Nghệ Tông, Hồ Qúy Ly đưa dần người
trong họ và bè phái vào nắm chức quan trong triều đình và quân đội.
Về chính trị
-1375, Hồ Quý Ly được giao chức tham mưu quân sự
-1397, Đổi các đơn vị hành chính : đổi trấn Thanh Hóa làm trấn Thanh Đồ, trấn
Quốc Oai làm trấn Quảng Oai....
-1400, sau khi lên ngôi HQL đặt lệ cử quan ở Tam Quán và Nội nhân đi về các lộ
thăm hỏi cuộc sống của nhân dân và tình hình quan lại để thăng giáng.
1401, HQL nhường ngôi cho con là Hán Thương và tự xưng là Thái Thượng
Hoàng
Về kinh tế
-1397, vua Trần xuống chiếu hạn định số ruộng tư
-1398, HQL cho các quan về địa phương làm lại sổ ruộng đất
Về tài chính
*Ban hành tiền giấy, thu hồi hết tiền đồng
-1396, HQL cho lưu hành tiền giấy gọi là “thông bảo hội sao “,nhà nước cũng quy
định ai làm tiền giả phải tội chết, 1 quan đồng đổi được 1 quan hai tiền giấy,ai còn
dùng tiền đồng bị bắt cũng phải tội như làm giả.
-1402, nhà Hồ định lại biểu thuế đinh và thuế ruộng ,thuế đinh chỉ đánh vào người
có ruộng được cho,người không có ruộng,trẻ mồ côi,đàn bà góa không phải nộp .
-1403, trước phản ứng của nhân dân nhà Hồ ban điều luật về tội không tiêu tiền
giấy,nâng giá hàng hay đóng cửa hàng
Về xã hội
-1401, nhà Hồ quy định các quan lại ,quý tộc theo chiếu phẩm cấp chỉ được nuôi
một số nô tì, nông nô nhất định ( chính sách hạn chế nô tỳ)
Cùng năm đó nhà Hồ cho làm lại sổ hộ, biên hết tên những người từ 2 tuổi trở lên.
Nhân dân phiêu tán bị loại ra ngoài sổ....
-1403, nhà Hồ đưa “những người có của mà không có ruộng” vào biên làm quân
ngũ, ở lại trấn giữ lâu dài. Sau đó kêu gọi nhà giàu nộp trâu để đưa vào đây.
-1405, nạn đói xảy ra, nhà Hồ lệnh các quan đi khám xét nhà giàu có thừa thóc, bắt
phải bán cho dân đói theo thời giá. Đặt Quảng tế thự để chữa bệnh cho dân.
Về văn hóa – giáo dục
-1392, HQL soạn sách “Minh đạo” phê phán Khổng tử ,chê trách các nhà Tống
Nho, đề cao Chu Công
-1396, HQL bắt tất cả nhà sư chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục và tổ chức thi về giáo
lý nhà Phật, ai thông hiểu mới được ở lại làm sư.
-Ngăn cấm và xử phạt những người làm nghề phương thuật.
-1396, HQL cho sửa đổi chế độ thi cử, đặt kì thi Hương ở địa phương và thi Hội ở
kinh thành .
-1404 đặt thêm trường thứ 5 thi chữ và toán.
-1397, HQL đề nghị nhà nước đặt học quan ở các lộ Sơn Nam ,kinh bắc,hải đông
và cấp ruộng cho các phủ,châu,tiếc rằng chủ trương này không được thực hiện.
-1397, cho nhân dân xây kinh đô mới ở An Tôn.
=>Cuộc khủng hoảng xã hội ở nửa sau thế kỉ XIV đã phản ánh tình trạng suy
thoái của nhà Trần cũng như tính chất lỗi thời về cấu trúc nhà nước đương
thời.
Mặt Tích cực
-Hồ Quý Ly mong muốn cứu vãn tình thế đặc biệt khó khăn, phức tạp đó và ông
đã kiên quyết thực hiện cuộc cải cách.
-Thông qua các cuộc cải cách, HQL dự định xóa bỏ đặc quyền về thế lực của tầng
lớp quý tộc, xây dựng một nhà nước quan liêu không đẳng cấp, quyền lực tập
trung, để giải quyết những khó khăn trong nước và chống lại các thế lực xâm
chiếm từ bên ngoài.
Hạn chế
-Cuộc cải cách có chỗ quá mạnh so với thời đó như phép hạn điền
-Chưa triệt để vấn đề gia nô, nô tì không được giải phóng
-Chính sách tiền tệ nhằm thu lại và hạn chế việc sử dụng đồng trong chi dùng hằng
ngày, tập trung nguyên vật liệu phục vụ quốc phòng – một nhu cầu bức thiết.
-Lưu hành tiền giấy là 1 vấn đề hoàn toàn mới mẻ đối với nước ta lúc bấy giờ,
không đáp ứng đúng thực tiễn phát triển của kinh tế hàng hóa cuối tk XIV.
-Một số việc làm của HQL gây thêm mâu thuẫn trong nội bộ, ảnh hưởng sâu sắc
đến ý thức đoàn kết, thống nhất của nhân dân khi xảy ra nạn ngoại xâm.

Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Minh (1406 - 1407)

a. Cuộc xâm lược của quân Minh và thất bại của nhà Hồ:

- Hoàn cảnh:

+ Cuối thế kỉ XIV, nhận thấy Đại Ngu rơi vào khủng hoảng. Nhà Minh chuẩn bị
lực lượng xâm lược xâm chiếm.

+ Tháng 11/1406, lấy cớ phù Trần, diệt Hồ, hơn 20 vạn quân Minh tiến vào Đại
Ngu.

- Diễn biến:

+ Sau thất bại ở biên giới, quân nhà Hồ lui về thành Đa Bang (Ba Vì, Hà Nội) cố
thủ.

+ Sau khi thành Đa Bang thất thủ (đầu năm 1407), nhà Hồ rút quân về Đông Đô
(Hà Nội), sau đó lui về Tây Đô (Thanh Hóa).

+ Tháng 6/1407 Hồ Qúy Ly và các con bị bắt.

- Kết quả: cuộc kháng chiến thất bại

b. Nguyên nhân thất bại:

- Do những chính sách của nhà Hồ không được nhân dân ủng hộ.

- Không đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn, quá chú trọng phòng tuyến quân
sự và lực lượng quân đội chính quy.
VƯƠNG TRIỀU LÊ SƠ (1428 - 1527)
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, đất nước trở lại thanh bình. Năm Mậu Thân (1428), Lê
Lợi chính thức lên ngôi hoàng đế ở Đông Kinh (Thăng Long), đặt niên hiệu là Thuận Thiên
khôi phục lại tên nước Đại Việt, mở đầu triều đại Lê (thường được gọi là Lê sơ hay Hậu Lê
để phân biệt với thời Tiên Lê của Lê Đại Hành).
Là một thời đại đặc biệt của lịch sử, Vương triều Lê Sơ được đánh giá là ngọn núi cao nhất
trong dãy núi của chế độ phong kiến Việt Nam. Trải qua các triều vua Thái Tổ (1428-1433),
Thái Tông (1434-1442), Nhân Tông (1443-1459), Thánh Tông (1460-1497), đất nước Đại
việt dần dần được hồi phục, củng cố chính quyền và mở rộng lãnh thổ, đưa đất nước phát
triển lên một đỉnh cao mới về tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa – giáo dục.
I. Tình hình chính trị
1. Xây dựng và củng cố chính quyền:
- Ngay sau khi quét sách giặc Minh ra khỏi bờ cõi, Lê Lợi đã bắt tay xây dựng lại đất nước.
Từ lúc đem quân ra Đông Đô, Lê Lợi đã chia nước làm 4 đạo. Năm 1428, lãnh thổ Đại Việt
bao gồm vùng Bắc Bộ và BTB, giáp đến đèo Hải Vân, Lê Lợi chia cả nước làm 5 đạo. Dưới
đạo là trấn, lộ, phủ, huyện, châu, xã. Đứng đầu triều đình là vua, sau vua là các chức tả hữu,
tướng, quốc, tam thái, tam thiếu, tam tư. Dưới là các chức quan thuộc các quan văn, võ. Các
chức văn võ chỉ đạo cho bầy tôi có công (trình độ học vấn của họ không cao).
- (1433-1442) Lê Thánh Tông lên trị vì, sau đó nhanh chóng chấm dứt được tình trạng
xung đột cung đình, lập lại kỷ cương quốc gia, tạo nên dự ổn định chính trị đẩy mạnh sự
nghiệp phục hưng đất nước.
- Cuộc cải cách hành chính của vua Lê Thánh Tông:
+ Mục đích: thâu tóm quyền lực tập trung vào tay nhà vua
+ Bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương được cải tổ
+ Được tiến hành vào năm 1471, Lê Thánh Tông đơn giản hóa 1 số cơ quan giúp việc, xóa bỏ
các chức quan và các cơ quan trung gian, bãi bỏ các chức như tể tướng, tam tư, dại hành
khiển. Vua tự mình giải quyết mọi việc, thậm chí chức tổng chỉ huy trong quân đội cũng bãi
bỏ và vua trực tiếp chỉ huy quân đội, xóa bỏ kể cả nội mật viện, môn hạ sảnh….làm việc trực
tiếp với 6 bộ (lại, lễ, hộ, binh, hình, công)
+ Bộ phận thanh tra quan lại được tang cường. Ở triều đình là Ngự sử đài. Ngoài ra còn có 6
khoa chịu trách nhiệm theo dõi các bộ.
+ Ở địa phương chia cả nước làm 13 đạo thừa tuyên, tính tam ti:
Đô tổng binh sứ ti (gọi tắt là Đô ti) phụ trách quân đội.
Thừa tuyên sứ ti (gọi tắt là Thừa ti) phụ trách các việc dân sự.
Hiến sát sứ ti (Hiến ti) phụ trách việc thanh tra quan lại trong đạo của mình.
+ Ngoài ra giám sát ngự sử ở 13 đạo
Dưới đạo là phủ, đứng đầu là Tri phủ
Dưới phủ là huyện, châu do Tri huyện, Tri châu đứng đầu
Ở xã, các chức xã quan được gọi là Xã trưởng
+ Ở miền thượng du, các bản mường vẫn được giao cho các tù trưởng cai quản như cũ.
+ Riêng với khu vực biên giới phía Bắc, cử them 1 số tướng giỏi từ miền xuôi lên cai trị, biến
họ thành “phiên thần”, đời đời nối nhau cai quản
+ 1471: 5370 người tổng số quan lại
2755 quan lại ở trung ương
trải qua thi cử và đổ đạt mới làm quan
 Để tạo điều kiện cho các quan lại làm việc 1 cách hiệu quả và gắn bó với triều đình. Lê
Thánh Tông đã đặt và quy chế lương bổng, ruộng lộc. Khác với các thời khác, thời Lê không
giao cho chức vụ nếu họ không có tài, học kém và không cho phép lập điền trang, không
phong cho con cháu cai trị khắp nơi.
 (Hệ thống hành chính quốc gia thời Lê Sơ so với thời Trần đã thể hiện 1 bước tiến cơ bản
và đạt tới đỉnh cao của mô hình quân chủ chuyên chế quan liêu). Hệ thống hành chính thời Lê
Thánh Tông thể hiện được tính tập trung từ dưới lên trên, từ địa phương đến trung ương, đề
cao quyền hành toàn diện của người đứng đầu đất nước. Lê Thánh Tông còn tự ra đề thi.
Về cơ bản, công cuộc cải tổ của Lê Thánh Tông là nhằm tập trung tuyệt đối quyền lực vào người đứng
đầu nhà nước là nhà vua, tăng cường sức mạnh của bộ máy quan liêu.Lê Thánh Tông đã bãi bỏ một số
chức quan, cơ quan và các cấp chính quyền trung gian, thành lập các cơ quan giám sát để ngăn ngừa sự
lạm quyền giữa các thiết chế trong bộ máy nhà nước. So với thời Lý – Trần – Hồ, thời kỳ này bộ máy
nhà nước hoàn bị hơn hẳn. Sự hoàn bị và được đánh giá cao trong tổ chức chính quyền thời kỳ này
là bên cạnh việc phân công chức năng, nhiệm vụ tương đối rõ ràng giữa các cơ quan còn có cả những
thiết chế giám sát, phản biện như Lục khoa và đặc biệt là cơ quan Ngự sử đài. Nhiều nhà nghiên cứu
đánh giá cao tính chất hoàn bị của mô hình này không chỉ ở chỗ bộ máy thời kỳ này có nhiều chức quan
hơn, được chuyên môn hoá hơn so với thời kỳ trước mà chính ở việc đã có sự xuất hiện của những thiết
chế và cách thức giám sát quyền lực, mặc dù tính chất, mức độ còn rất sơ khai.
Về ưu điểm, bộ máy nhà nước thời Lê Sơ có thể được coi là bộ máy nhà nước tân tiến nhất,
phát triển đến mức hoàn chỉnh trong các bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam. Dưới thời
Lê Sơ, đặc biệt là thời gian Lê Thánh Tông trị vì, Việt Nam phát triển toàn diện về mọi mặt,
trở thành một cường quốc trong khu vực lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, trong bộ máy nhà nước vẫn còn tồn tại một số nhược điểm. Bộ máy nhà nước thời
Lê Sơ mang tính quan liêu, tập quyền, thiếu tính đại diện và do đó chưa thực sự lắng nghe
nguyện vọng của nhân dân. Bên cạnh đó, bộ máy nhà nước mang tính tản quyền khi xóa bỏ
toàn bộ các cơ quan trung gian, mọi quyền lực đều tập trung trong tay vua. Do đó, khi vua
làm chưa hay, chưa phải, sự can gián từ quan lại, triều đình khó đến kịp lúc.
2. Quân đội và quốc phòng:
- Không chỉ tập trung tiến hành cải cách hệ thống hành chính từ trung ương tới địa phương,
LTT còn dành nhiều tâm huyết cho việc xây dựng 1 tổ chức quân đội tập trung và tinh nhuệ
từ năm 1466. Tổ chức quân đội được xây dựng theo quy cũ tiếp tục áp dụng chế độ “ngụ binh
ư nông”.
- 1466, LTT cải tổ hệ thống tổ chức quân đội
- Quân đội được chia ra làm 2 loại: + thân binh ̣(cấm binh/lính bảo vệ thành)
+ ngoại binh (ở địa phương)
- Theo chế độ tuyển quân, cử 3 đinh lấy 1 lính thường trực (tráng hạng) và 1 lính trù bị
(quân hạng). Có các loại quân thủy, bộ, tượng, kỵ. Vũ khí ngoài giáo mác, cung tên, có hỏa
pháo và hỏa đồng.
- Nhà Lê rất chú ý đến việc rèn luyện quân đội. Hằng năm đều có ngày duyệt tập ở kinh
thành hay địa phương. Các phiên túc trực thường xuyên luyện tập. Tất cả các hạng quân đều
được cấp ruộng đất theo thứ bổng các võ quan thì được cấp cả lộc điền và cả tiền lương. Gồm
các bộ binh, thủy binh, tượng binh và kỵ binh.
 Cũng như các triều đại trước, nhà Lê Sơ vẫn áp dụng chế độ “ngụ binh ư nông”. Đây là
nét đặc sắc trong nghệ thuật tổ chức và xây dựng lực lượng vũ trang của thời phong kiến nước
ta. Bắt đầu vào thời Lý, chính sách này đã được xây dựng và đi vào thực tế. Chế độ này giúp
cho người lính vừa đảm bảo công việc ở triều đình vừa cung cấp được lương thực cho địa
phương, cho gia đình và cho chính bản than họ. Việc này đã tạo 1 không khí phấn khởi trong
toàn quân. Vì thế đã có câu: “Đời vua Thái Tổ, Thái Tông, thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buôn
ăn”. Chứng tỏ chế độ ngụ binh ư nông rất có tác dụng, rất có lợi trong quân dân.
 Có thể nói, mọi chính sách xây dựng phát triển đất nước của nhà Lê Sơ đều đem lại quyền
lợi cho nhân dân, đây là điều không phải triều đại phong kiến nào làm được. Do vậy, dưới
thời Lê Thánh Tông, Đại Việt bước vào thời kỳ phát triển thịnh vượng được coi là hoàng kim
của chế độ phong kiến Việt Nam.
3. Luật pháp:
- Sau khi lên ngôi vua, Thái Tổ đã lo ngay đến việc đặt luật pháp. Năm 1488, Thánh Tông
quyết định triệu tập các đại thần biên soạn 1 bộ luật chính thức của triều đại mình, thường
được gọi là “Luật Hồng Đức”. Được sử dụng, bổ sung vào thời Lê – Trịnh tên gọi chung là
“Lê triều hình luật”, tư tưởng chủ đạo của nó là nhằm bảo vệ nhà nước trung ương tập quyền,
bảo vệ trật tự đẳng cấp.
- Bộ luật có 722 điều chia làm 6 quyển, 16 chương.
- Luật Hồng Đức thể hiện rõ nét ý thức giai cấp của nhà Lê trong các mối quan hệ nhưng
cũng phản ánh khá rõ nét tính dân tộc. Ở đây nổi lên ý thức bảo vệ quyền lợi của người phụ
nữ, của người dân tự do, cũng như ý thức bảo vệ dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ. (cho phép được
sử dụng luật để xét xử các vụ án đối với dân tộc ít người miền núi).
- Bộ luật đánh dấu 1 trình độ phát triển cao của tư tưởng pháp lí của dân tộc Đại Việt và
khá hoàn chỉnh, do đó được sử dụng trong 4 thế kỉ thời Lê (tkXV-XVIII).
4. Củng cố chính quyền dân tộc:
- Với long tự hào dân tôc, các vua thời Lê Sơ đã không ngừng củng cố, phát triển quốc gia
dân tộc thống nhất. Lê Thánh Tông nói: “Quyết không để 1 tấc đất, 1 thước song của Thái Tổ
lọt vào tay kẻ khác”. Các vua Lê đã thi hành 1 sô chính sách hòa hoãn nhưng kiên quyết với
nhà Minh trong vấn đề biên giới, phát triển lãnh thổ về phía tây và phía nam. Năm 1471, Lê
Thánh Tông cất quân đánh Chăm Pa, chiếm thành Đồ Bàn (Bình Định), lấy vùng đất mới lập
thành thừa tuyên Quảng Nam. Các nước trong khu vực (như Xiêm La, Miến Điện) đều đến
triều cống.
- Để nắm chắc và khống chế các tù trưởng thiểu số, triều đình nhà Lê đã áp dụng những
biện pháp kết hợp trấn áp với phủ dụ (như trường hợp đối với Đèo Cát Hãn, tù trưởng thái ở
Lai Châu). Nhà vua cũng cho điều tra và lập sổ hộ tịch, khảo sát địa hình, lập bản đồ hành
chính quốc gia (bản đồ Hồng Đức năm 1469), đề cao, tôn vinh truyền thống dân tộc và các
danh nhân lịch sử - văn hóa. Ở thế kỷ XV, Đại Việt đã trở tahnhf 1 quốc gia có uy thế trong
khu vực ĐNA.
II. Tình hình kinh tế - xã hội:
Chế độ đô hộ của nhà Minh và cuộc chiến tranh giải phóng Tổ quốc đã tàn phá nghiêm trọng
nền kinh tế nước ta vốn đã suy yếu rong những thập kỉ cuối Trần. Đồng ruộng, làng xóm điêu
tàn, nhân dân phiêu tán. Thủ công, thương nghiệp suy sụp. Đất nước trở lại độc lập, nhà nước
và nhân dân với ý thức tự hào dân tộc sâu sắc đang vươn cao, đã họp sức cùng nhau nhanh
chóng khôi phục sản xuất, hàn gắn vết thương chiến tranh và sau đó đưa nền kinh tế phát triển
lên 1 giai đoạn mới ở nửa sau TK XV.
1. Nông nghiệp:
- Cho 25 vạn quân lính về quê làm ruộng và kêu gọi nhân dân phiêu tán về xây dựng xóm
làng.
- Chia ruộng đất theo phép quân điền; đặt cơ quan chuyên trách nông nghiệp như khuyến
nông sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ
- Ban lệnh cấm giết trâu bò, cấm điều phu vào lúc gặt, cấy .
=> Nông nghiệp phục hồi và phát triển một cách nhanh chóng

2. Công thương nghiệp

- Nghề thủ công truyền thống như kéo tơ, dệt lụa, làm đồ gốm,rèn sắt,… phát triển mạnh mẽ,
nhiều làng thủ công ra đời, đặc biệt là Thăng Long với 36 phường thủ công .
- Các làng, phường thủ công chuyên nghiệp nghiệp ra đời như: đồ gốm Bát Tràng, đúc đồng ở
Đại Bái; rèn sắt ở Văn Chàng ; dệt vải lụa ở Nghi Tâm; làm giấy ở Yên Thái; nhuộm điều ở
phường Hàng Đào.Xưởng thủ công nhà nước gọi là Bách tác chuyên sản xuất đồ dùng cho
nhà vua, vũ khí, đóng thuyền, đúc tiền đồng .

- Buôn bán: khuyến khích lập chợ mới, giao thương với người nước ngoài ở Vân Đồn, Vạn
Ninh (Quảng Ninh), Hội Thống (Nghệ An), Lạng Sơn, Tuyên Quang
=> Với chính sách và biện pháp khuyến khích phát triển của nhà nước, nhân dân cần cù lao
động, nền kinh tế của nước đại việt ta dần được khôi phục và phát triển

III. Tình hình xã hội:

Thời Lê sơ có các giai cấp chính là :

- Phong kiến gồm vua, quan , địa chủ .


- Giai cấp nông dân chiếm đại đa số có rất ít hoặc không có ruộng đất, phải cày thuê cho
quan lại địa chủ
- Các tầng lớp khác thợ thủ công, thương nhân, nô tì,… trong xã hội giảm dần và bị xóa bỏ.
IV. Tình hình văn hóa – giáo dục:
1. Giáo dục:

Nhà nước Đại Việt thời Lê Sơ rất quan tâm đến giáo dục đào tạo nhân tài thể hiện ở:

- Cho dựng lại Quốc Tử Giám ở Thăng Long, mở trường các lộ, mọi người đều có thể học
và đi thi
- Tuyển chọn những người có tài, có đạo đức để làm thầy giáo
- Học đạo nho, Nho giáo chiếm địa vị độc tôn.
- Mở các khoa thi hàng để chọn người tài ra làm quan. Người đỗ tiến sĩ được vua ban mũ,
áo, phẩm tước, khắc tên vào bia tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

 Có thể xem thời Lê Sơ, đặc biệt là triều vua Lê Thánh Tông, là thời kỳ phát triển cực
thịnh của giáo dục, thi cử phong kiến. Từ giáo dục, khoa cử đã xuất hiện nhiều nhà Nho, nhà
chính trị, ngoại giao, nhà sử học nổi tiếng làm rạng danh đất nước 1 thời.
2. Tôn giáo, tín ngưỡng:
- Từ cuối thời Trần, Nho giáo đã lấn át Phật giáo. Ở thời Lê sơ, Nho giáo chiếm địa vị độc
tôn. Sự phát triển của giáo dục góp phần quan trọng vào việc phổ cập Nho giáo.
- Trước đây, bọn phong kiến nhà Minh trong thời gian đô hộ đã lợi dụng Phật giáo và Đạo
giáo để mê hoặc nhân dân. => Khi Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, đã đặt lệ thi tang nhân, buộc các
nhà sư phải trên 50 tuổi, thông hiểu kinh Phật và qua 1 kỳ khảo hạch mới được nhà nước
công nhận, ngoài ra đều phải hoàn tục.

NHÂN VẬT LÊ THÁNH TÔNG

Tiểu sử:

Lê Thánh Tông là ông vua thứ 5 nhà Hậu Lê, trị vì 38 năm (1460-1497) là ông vua ở ngôi lâu
nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Ông sinh ngày 25/08/1442, con thứ 4 của vua
Lê Thái Tông và bà phi Ngô Thị Ngọc Giao (Ngô Thị Ngọc Giao là con của Ngô Từ, một
khai quốc công thần của nhà Lê, giúp Lê Lợi từ thủa cơ hàn). Năm 18 tuổi lên ngôi vua, lấy
hiệu Quang Thuận(1460-1469) và Hồng Đức (1470-1497). Lê Thánh Tông là vị vua duy nhất
được sinh ra trong chùa, đó là chùa Huy Văn (nay thuộc ngõ Văn Chương, quận Đống Đa, Hà
Nội).

Cuối năm 1459, Nghi Dân cùng với phe Đảng giết mẹ con Nhân Tông và đoạt ngôi vua. Giữa
năm 1460 các đại thần đã làm cuộc chính biến giết Nghi Dân và đưa Lê Tư Thành lên làm
vua, đế hiệu là Thánh Tông. Với 37 năm trị vì (1460-1497) Lê Thánh Tông là một trong
những vị vua ở ngôi lâu nhất trong số các vị vua Việt Nam .

Có thể nói Lê Lợi là người dành lại đất nước, đến Lê Thánh Tông là người đưa nhà Lê đến
giai đoạn thịnh trị nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Ông hoạt động trên nhiều
lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa… và để lại dấu ấn sâu sắc – triều đại Lê Thánh
Tông.
Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá vào thế kỷ 16 – 18
I/. Hoàn cảnh lịch sử: (làm phòng hờ sợ cô hỏi)
- Đất nước có nhiều biến động lớn nhưng kinh tế có nhiều biểu hiện phát triển về
mọi mặt.
- Lãnh thổ Đàng Trong mở rộng tạo nên một vựa thóc lớn, góp phần quan trọng ổn
định tình hình xã hội.
- Kinh tế hàng hóa do nhiều tác nhân khác nhau gồm chủ quan và khách quan đã
phát triển mạnh mẽ, tạo điều kiện cho sự hình thành và phồn vinh của một số đô thị
trên cả ba miền đất nước.
- Mặc dầu vào nửa sau thế kỷ XVIII, nền kinh tế của cả hai miền đều suy thoái
nhưng sự phát triển của nó, đặc biệt là kinh tế hàng hoá ở các thế kỷ trước đã ảnh
hưởng đến nhiều mặt của xã hội.
II/. Nguyên nhân phát triển: (Phần này cũng làm phòng hờ, không học cũng
được)
- Do chính sách mở của của chính quyền Trịnh, Nguyễn

- Do các nghề thủ công phát triển mạnh mẽ, sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều.

- Do nước ta có vị trí địa lý thuận lợi cho giao thông đi lại, nhất là bằng đường
biển, tạo điều kiện thu hút thương nhân các nước.

- Do các cuộc phát kiến địa lý tạo điều kiện giao lưu Đông - Tây.

III/. Sự phát triển của nền kinh tế:


1. Tình hình nông nghiệp ở các thế kỷ XVI–XVIII:
 Ở Đàng Ngoài:
- Nửa đầu thế kỉ XVI, nền sản xuất nông nghiệp bị sa sút nghiêm trọng, ruộng
công thành ruộng tư ngày càng phổ biến. Tình trạng thiên tai, mất mùa, đói kém,...
khiến nông dân nghèo ở nhiều địa phương phải bỏ làng đi phiêu tán. Người nông
dân mất ruộng đất, buộc phải lĩnh canh, nộp tô cho địa chủ, nộp thuế cho Nhà nước
và thực hiện nhiều nghĩa vụ nặng nề khác.
- Do sự suy yếu của nhà nước trung ương và chiến tranh phong kiến đã tạo điều
kiện cho bọn địa chủ, cường hào địa phương thoả sức hoành hành khiến cho đời
sống nông dân trước đã khổ nay lại bị chèn ép đến cùng cực.
- Nhiều kinh nghiệm, kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp được đúc kết và truyền
tụng, tuy nhiên do khoa học – kỹ thuật không được quan tâm nên người nông dân
không có điều kiện có được những giống lúa cao sản hay cách sản xuất nhằm nâng
cao năng suất.
- Đến nửa sau thế kỉ XVII nền nông nghiệp mới dần ổn định. Nhân dân tiếp tục
khai hoang mở rộng diện tích đất canh tác, tích cực phát triển thuỷ lợi và quan tâm
đến đê điều.
 Ở Đàng Trong:
- Chúa Nguyễn khuyến khích khai hoang mở rộng lãnh thổ vào phía Nam: nông
nghiệp phát triển dễ dàng, giúp Đàng Trong ổn định, giải quyết các mâu thuẫn xã
hội. Nông nghiệp phát triển rõ rệt, nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long biến
vùng này thành vựa lúa lớn nhất nước.
- Kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất phát triển có nhiều giống mới và cho năng suất
cao.
- Tình trạng nông dân bị bần cùng hoá do mất ruộng đất chưa nghiêm trọng như ở
Đàng Ngoài do điều kiện tự nhiên ở Đàng Trong ôn hoà, dễ chịu, đất đai màu mỡ
và ít gặp thiên tai. Nhân dân nghèo đói đi lưu vong có thể tìm đến các vùng đất
hoang, khai khẩn, lập nghiệp và sống một cuộc đời ít nhiều tự do mặc dù không
phải lúc nào cũng tốt đẹp, thuận lợi.

- Hình thành tầng lớp địa chủ lớn, nhất là vùng đất Gia Định có những địa chủ lớn
có rất nhiều ruộng đất.

=> Diện tích ruộng đất cả nước tăng nhanh, người dân hai miền tăng gia sản
xuất, bồi đắp đê điều, nạo vét mương máng. Tuy nhiên ở cả hai miền, ruộng
đất ngày càng tập trung vào tay giai cấp địa chủ và tình trạng tham nhũng
trong tầng lớp quan lại càng nhiều dẫn đến các cuộc khủng hoảng xã hội ở cả
2 miền.
2. Sự phát triển của thủ công nghiệp và thương nghiệp:
 Thủ công nghiệp:
- Ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, các chính quyền vẫn duy trì hoạt động của các
quan xưởng để sản xuất vũ khí cho quân đội, may trang phục, làm đồ trang sức cho
quan lại và đúc tiền,...

- Các nghề thủ công mới xuất hiện: khắc in bản gỗ, làm đường, đúc súng, làm đồng
hồ, tranh sơn mài…
- Các nghề thủ công cổ truyền ngày càng phát triển và đạt trình độ cao như: dệt vải
lụa, đồ gốm, rèn sắt, đúc đồng, dệt chiếu, làm giấy,... đặc biệt là làm gốm và dệt
lụa. Nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng như: làng gốm Thổ Hà (Bắc Giang), Bát
Tràng (Hà Nội); làng dệt La Khê (Hà Nội); các làng rèn sắt ở Nho Lâm (Nghệ An),
Hiền Lương, Phú Bài (Huế); làng làm đường mía ở Quảng Nam;...nhưng tổ chức
sản xuất chủ yếu mang tính chất gia đình.
- Nhà nước ra những chính sách thuế má, lao dịch, hạn chế về khổ vải, độc quyền
thu mua tơ và bán tơ cho thương nhân nước ngoài đã làm cho nghề dệt không phát
triển mạnh lên để chuyển sang một phương thức sản xuất mới.

=>Thủ công nghiệp vừa mở rộng, vừa phát triển, đáp ứng ở một mức độ nhất
định nhu cầu của nhân dân trong nước và thương nhân nước ngoài, đi sâu
hơn vào nền kinh tế thị trường có tính quốc tế. Bên cạnh đó với tình trạng
nghèo nàn và tâm lí sính ngoại của cư dân không cho phép các ngành nghề
thủ công phát triển khi nhu cầu bên ngoài giảm xuống.

- Ngành khai mỏ phát triển mạnh, nhiều tư nhân Hoa & Việt nhận thầu khai thác
mỏ như: mỏ đồng ở Tụ Long (Hà Giang), mỏ bạc ở Tuyên Quang, mỏ thiếc ở Cao
Bằng,….
=>Khai thác mỏ đã trở thành một bộ phận quan trọng của thủ công nghiệp.
Do tính chất của công việc, ở đây đã hình thành một phương thức sản xuất
tập trung, thuê mướn có tính tư nhân.
 Thương nghiệp:
- Nội thương: phát triển mạnh, chợ làng, chợ huyện, chợ phủ mọc lên khắp
nơi, Bước đầu xuất hiện một số làng buôn hay trung tâm buôn bán lớn.
- Ngoại thương: Phát triển mạnh: quan hệ buôn bán với các thương nhân Trung
Quốc, Nhật Bản, Bồ Đào Nha, Pháp, Anh…. …Xuất hiện nhiều phố xá, hiệu buôn
của người nước ngoài lập để buôn bán lâu dài
+ Trong thế kỉ XVII, nhiều thương nhân Châu Á và Châu Âu đến Đại Việt buôn
bán, lập thương điếm. Sản phẩm trao đổi đa dạng như len, dạ, đồ trang sức, tơ tằm,
trầm hương, ngà voi, đường, hương liệu quý,…
+ Từ khoảng đầu thế kỉ XVIII, hoạt động trao đổi, buôn bán giữa Đại Việt với các
nước phương Tây dần sa sút. Đại Việt chủ yếu duy trì buôn bán với thương nhân
Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á.
=> Chính sách của nhà nước, sự nhũng nhiễu, cướp đoạt tuỳ tiện của bọn
quan lại phụ trách quan thuế, tàu vụ và tình hình xã hội Đại Việt cuối thế kỉ
XVIII đã làm suy sụp nền thương nghiệp.
- Xuất hiện nhiều đô thị mới như:
+ Đàng Ngoài: Thăng Long( Kẻ Chợ), Phố Hiến ( Hưng Yên)
+ Đàng Trong: Thanh Hà( Thừa Thiên Huế), Hội An( Quảng Nam), Gia
Định(TpHCM)
=> Thế kỷ XVIII, hoạt động ngoại thương suy yếu dần do chế độ thuế khóa
phức tạp, quan lại khám xét phiền phức… làm cho các thành thị suy tàn
IV/.KẾT LUẬN:
- Sự chuyển biến trong nông nghiệp, sự phát triển của kinh tế công thương nghiệp
cùng với sự hình thành và hoạt động nhộn nhịp của các đô thị trong các thế kỉ XVI
– XVIII tuy chưa rầm rộ, tự do liên tục hay vượt qua mọi ràng buộc để tự mình
vươn lên song đã có những tác động quan trọng đến tính chất của nền sản xuất cổ
truyền nông nghiệp tự cung, tự cấp, mở ra một thời kì mới cho sự phát triển của
chế độ phong kiến Đại Việt.

You might also like