Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 11

TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI BHXH BẮT BUỘC Ở VN THỜI GIAN QUA (2010 -

2022)

STT HỌ VÀ TÊN MSSV ĐÁNH GIÁ

1 Nguyễn Thị Ngọc Diễm 27202746893

2 Lê Bảo Ngân 27202745477

3 Lê Thị Bảo Ngọc 27202746352

4 Lê Thị Thảo Nguyên 27202743827

5 Đoàn Thị Kiều Oanh 27202443022

6 Phạm Khánh Triều 27212428667

PHẦN 1: CÁC CHẾ ĐỘ BHXH Ở VIỆT NAM


Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao
động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Được chia làm 2 loại: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện
Bảo hiểm xã hội bắt buộc: là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà
người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia. (Khoản 2)
Bảo hiểm xã hội tự nguyện: là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà
người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của
mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội để người tham gia
hưởng chế độ hưu trí và tử tuất. (Khoản 3)
I. Những chế độ bảo hiểm xã hội tại Việt Nam
Căn cứ vào Điều 4 Luật BHXH quy định như sau:
Đối với BHXH bắt buộc:
Sẽ gồm có 5 chế độ Bảo hiểm xã hội đối với BHXH bắt buộc như sau:
1. Chế độ ốm đau (ÔĐ)
Để được hưởng lợi của chế độ này, người tham gia phải căn cứ vào Điều 25,
Chương III, Mục 1 Luật BHXH 2014:
- Người lao động bị ốm đau, tai nạn mà không phải do tai nạn lao động phải nghỉ
việc và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền theo quy định
của Bộ Y Tế
- Người lao động bị ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự hủy hoại sức khỏe, do say
rượu, hoặc sử dụng chất ma túy theo danh mục do Chính phủ quy định thì không được
hưởng chế độ ốm đau
- Phải nghỉ việc để chăm con dưới 07 tuổi bị ốm đau và có xác nhận của cơ sở khám
bệnh có thẩm quyền
2. Chế độ thai sản (TS)
Người lao động thuộc đối tượng trong những trường hợp mà pháp luật đã quy định
tại Điều 30 và Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội 2014: khi người lao động vẫn đang đóng
BHXH vào quỹ ốm đau và thai sản thì sẽ được hưởng chế độ nghỉ thai sản
Lao động nữ có đủ điều kiện để hưởng chế độ thai sản sẽ được hưởng thêm chế độ
khi bị sảy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý; nghỉ hưởng chế độ
sinh con, chế độ khi thực hiện biện pháp tránh thai.
Trường hợp nhờ mang thai hộ hay người mẹ nhờ mang thai hộ, người nhận nuôi
con dưới 06 tháng tuổi nếu đủ điều kiện thì vẫn sẽ được hưởng chế độ trên
Trường hợp nhận con nuôi dưới 06 tháng sẽ được nhận thêm trợ cấp một lần cho
mỗi con theo quy định.
3. Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐ&BNN)
Điều kiện để hưởng chế độ TNLĐ trong những trường hợp sau:
- Tai nạn tại nơi làm việc và trong giờ làm việc
- Ngoài nơi làm việc và ngoài giờ làm việc nhưng thực hiện công việc theo người sử
dụng lao động
- Trên tuyến đường đi – về từ nơi ở đến nơi làm việc trong tuyến đường đi hợp lý.
- Bị suy giảm khả năng lao động: 5% trở lên
Điều kiện hưởng chế độ BNN:
- Bị mắc một số bệnh thuộc danh mục bệnh nghề nghiệp do Bộ Y Tế và Bộ Lao
Động – Thương Binh và Xã Hội ban hành khi làm việc trong môi trường hoặc nghề
nghiệp có yếu tố gây hại cho sức khỏe và tinh thần
- Bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên.
4. Chế độ hưu trí (HT)
Căn cứ vào Khoản 2, Điều 169 của Bộ luật Lao động 2019 về điều kiện nghỉ chế
độ hưu trí của người lao động sẽ phụ thuộc vào độ tuổi, thời gian tham gia đóng
BHXH (tối thiểu là 20 năm), tùy thuộc vào công việc, mức suy giảm lao động,…
5. Chế độ tử tuất
Với chế độ này, BHXH sẽ hỗ trợ việc trợ cấp mai táng, trợ cấp tuất hàng tháng, trợ
cấp tuất một lần. Bắt đầu từ năm 2022, chế độ tử tuất sẽ áp dụng cho tất cả người lao
động kể cả người lao động nước ngoài khi tham gia BHXH tại Việt Nam.
Căn cứ vào Khoản 1, Điều 67, Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định: những người
tham gia bảo hiểm xã hội, tòa tuyên án tử vong hoặc đang bảo lưu thời gian đóng, thì
khi qua đời, thân nhân sẽ là người được hưởng tiền tuất hàng tháng nhưng phải đáp
ứng các điều kiện sau:
- Đã đóng BHXH đủ 15 năm trở lên nhưng chưa từng được hưởng BHXH
- Đang được hưởng lương hưu
- Chết do tai nạn lao động, hoặc chết do bệnh
- Đang được hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng với mức
suy giảm khả năng lao động trên 60%.
Người được hưởng tiền từ chế độ tử khuất sẽ còn phải căn cứ vào Khoản 2 Điều
67 Luật BHXH. Nếu đáp ứng đủ điều kiện từ bộ luật trên, thì mới có quyền được thừa
hưởng trợ cấp đó.Ngoài ra, mức trợ cấp hàng tháng đó còn phải phụ thuộc vào mức
lương cơ sở, mức trợ cấp tuất một lần tùy thuộc vào thời gian tham gia BHXH và mức
tiền lương bình quân đóng BHXH của người đã khuất.
Đối với BHXH tự nguyện:
Khác với BHXH bắt buộc, đối với BHXH tự nguyện, Nhà nước chỉ ưu ái 2 chế độ
Bảo hiểm xã hội như sau:
1. Chế độ hưu trí
Người lao thuộc đối tượng người tham gia BHXH tự nguyện khi đủ điều kiện về
tuổi thời gian tham gia đóng BHXH sẽ được hưởng chế độ hưu trí. Mức lương hưu
hàng tháng sẽ tùy thuộc vào thời gian công tác và đóng BHXH của người lao động.
2. Chế độ tử khuất
Người lao động tham gia BHXH tự nguyện đóng đầy đủ từ 60 tháng (5 năm) trở
lên và người đang hưởng lương hưu sẽ được nhận trợ cấp 10 lần mức lương cơ sở.
Người tham gia BHXH khi chết, nhân thân của họ sẽ được thừa hưởng tiền trợ cấp
mai táng và tiền trợ cấp tuất theo quy định tại ĐIều 80 và Điều 81, Luật Bảo hiểm xã
hội
PHẦN 2: QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI BHXH BẮT BUỘC Ở VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2010 - 2022:
Số người tham gia BHXH Số tiền thu cho quỹ BHXH
Số tiền chi trả
(người) (tỷ đồng)
NĂM quỹ BHXH (tỷ
Bắt buộc Tự nguyện Bắt buộc Tự nguyện đồng)

2010 9.441.246 81.319 49.914 - 169.700


2011 10.104.497 96.400 52.042 150 -
2012 10.431.617 133.831 89.263 415 -
2013 10.889.333 168.095 105.018 552 -
2014 11.452.522 193.329 131.440 742,7 117.811
2015 12.072.860 217.669 145.503 827,6 101.201
2016 12.851.833 203.871 170.804 - -
2017 13.591.492 227.506 198.658 - 230.330
2018 14.310.000 277.000 219.810 1.271 201.340
2019 15.200.000 574.000 243.590 2.479 227.869
2020 15.050.944 1.125.236 259.887 4.060 245.906
2021 14.200.000 1.499.000 268.441 5.431 242.231
2022 16.002.000 1.492.000 261.251 6.749 256.309
Bảng số liệu về số người tham gia, số tiền đóng vào quỹ BHXH, số tiền chi trả
BHXH
Nhận xét:
* Số người tham gia BHXH
Nhìn chung, số người tham gia BHXH tại Việt Nam giai đoạn 2010 - 2022 có
xu hướng tăng trưởng ổn định, với mức tăng trung bình hàng năm là 5,3%. Cụ thể, số
người tham gia BHXH bắt buộc tăng từ 9.441.246 người năm 2010 lên 16.002.000
người năm 2022, tăng 66,6%. Số người tham gia BHXH tự nguyện cũng tăng từ
81.319 người năm 2010 lên 1.492.000 người năm 2022, tăng 1.766%.
Có thể thấy, sự tăng trưởng về số người tham gia BHXH là một tín hiệu tích
cực, thể hiện sự quan tâm ngày càng lớn của người dân đối với chính sách an sinh xã
hội của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, số người tham gia BHXH vẫn còn thấp so với lực lượng lao động
trong độ tuổi (năm 2022, tỷ lệ bao phủ BHXH toàn dân đạt 38,08%). Nguyên nhân có
thể là do:
- Tỷ lệ thất nghiệp và số lao động tự do cao: Sự gia tăng của tỷ lệ thất nghiệp và số
lao động tự do có thể làm giảm số người đóng BHXH và góp phần làm suy yếu quỹ
BHXH. Người lao động thất nghiệp hoặc làm việc tự do thường gặp khó khăn trong
việc đáp ứng các yêu cầu đóng BHXH do thu nhập không ổn định hoặc không đủ.
- Nhận thức của người dân về BHXH còn hạn chế: Một số người dân vẫn chưa có
đủ nhận thức về quan trọng của việc tham gia BHXH và đóng tiền bảo hiểm. Họ có
thể không hiểu rõ quyền lợi và lợi ích mà BHXH mang lại, hoặc không nhận thức
được rằng việc tham gia BHXH là một phần quan trọng của việc đảm bảo an sinh xã
hội cho bản thân và gia đình.
- Thủ tục đăng ký tham gia BHXH phức tạp: Quy trình đăng ký tham gia BHXH
có thể gặp phải nhiều thủ tục phức tạp và rườm rà. Điều này có thể làm cho người dân
gặp khó khăn và mất thời gian khi cố gắng đăng ký và đóng tiền bảo hiểm. Những rào
cản bürocratic này có thể làm giảm sự quan tâm và khả năng tham gia của người dân
vào hệ thống BHXH.
* Số tiền thu cho BHXH
Dựa vào bảng số liệu về số người tham gia, số tiền đóng vào quỹ BHXH, số
tiền chi trả, có thể thấy, số tiền thu cho BHXH tại Việt Nam giai đoạn 2010 - 2022
tăng trưởng rất lớn.
Cụ thể, số tiền thu cho BHXH bắt buộc tăng từ 169,7 tỷ đồng năm 2010 lên
261,251 tỷ đồng năm 2022, tăng 1.463,2%. Số tiền thu cho BHXH tự nguyện cũng
tăng từ 117,811 tỷ đồng năm 2010 lên 256,309 tỷ đồng năm 2022, tăng 2.163,3%.
Sự tăng trưởng của số tiền thu cho BHXH là một tín hiệu tích cực, thể hiện sự
quan tâm ngày càng lớn của người dân đối với chính sách an sinh xã hội của Đảng và
Nhà nước. Số tiền thu cho BHXH được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH, như bảo
hiểm hưu trí, bảo hiểm tử tuất, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, bảo hiểm
thất nghiệp, bảo hiểm y tế.
* Tỷ lệ chi trả từ quỹ BHXH
Tỷ lệ chi trả từ quỹ BHXH là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh hiệu quả của
công tác quản lý và sử dụng quỹ BHXH. Tỷ lệ chi trả càng cao thì chứng tỏ quỹ
BHXH được quản lý và sử dụng càng hiệu quả, đảm bảo quyền lợi cho người hưởng
BHXH.
Theo bảng số liệu, số tiền chi trả từ quỹ BHXH của Việt Nam giai đoạn 2010-
2022 tăng trưởng đều qua các năm, từ 169,7 tỷ đồng năm 2010 lên 256,3 tỷ đồng năm
2022, tăng 86,6 tỷ đồng, tương đương 51,6%.
Nhìn chung, số tiền chi trả từ quỹ BHXH của Việt Nam đã tăng đáng kể trong
giai đoạn 2010-2022. Điều này cho thấy, chính sách BHXH của Việt Nam đang được
triển khai hiệu quả, góp phần đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động.
Tuy nhiên, tỷ lệ chi trả từ quỹ BHXH của Việt Nam vẫn còn thấp. Tỷ lệ chi trả
bình quân giai đoạn 2010-2022 đạt 60,4%. Trong đó, tỷ lệ chi trả từ quỹ BHXH bắt
buộc bình quân giai đoạn 2010-2022 đạt 60,8%. Tỷ lệ chi trả từ quỹ BHXH tự nguyện
bình quân giai đoạn 2010-2022 đạt 50,8%.
PHẦN 3: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ HẠN CHẾ TRONG VIỆC TRIỂN KHAI
BHXH BẮT BUỘC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
3.1. Kết quả đạt được trong việc triển khai BHXH BB
Một là, ngành BHXH Việt Nam hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu nhiệm vụ
được giao, lập thành tích chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng.
Trong bối cảnh khó khăn chung do dịch bệnh COVID-19 và bão lũ liên tiếp tại
miền Trung - Tây Nguyên đã tác động sâu sắc, toàn diện tới mọi mặt đời sống kinh tế
- xã hội, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Chính phủ, ngành BHXH Việt Nam đã
đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động, thực hiện quyết liệt, hiệu quả các
giải pháp, luôn đổi mới sáng tạo hoàn thành tốt các chỉ tiêu nhiệm vụ được Đảng,
Chính phủ giao.
Diện bao phủ BHXH được mở rộng với hơn 16,1 triệu người tham gia, đạt 32,6%
lực lượng lao động trong độ tuổi, trong đó, số người tham gia BHXH gần 1,1 triệu
người, tăng 90% so với năm 2019, tăng 1,2% so với chỉ tiêu tại Nghị quyết số 28 của
Đảng và tăng gấp 5 lần so với năm 2015. Đến hết tháng 06/2022, thực hiện 03 chính
sách hỗ trợ NLĐ và NSDLĐ theo Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 và Nghị
quyết số 154/NQ-CP, Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021, Nghị quyết số
116/NQ-CP ngày 24/9/2021 của Chính phủ, toàn ngành BHXH Việt Nam đã thực hiện
giảm đóng vào các quỹ BHXH, BHTN và chi hỗ trợ từ nguồn quỹ BHTN với tổng
kinh phí trên 45.444 tỷ đồng cho NLĐ và NSDLĐ, đảm bảo kịp thời, công khai, minh
bạch, đúng đối tượng, trong đó: riêng chi trả chế độ hỗ trợ bằng tiền cho gần 12,968
triệu lao động với số tiền 30.804 tỷ đồng
Hai là, công tác đảm bảo quyền lợi người tham gia và thụ hưởng chính sách
luôn được thực hiện chính xác, kịp thời, linh hoạt, thuận tiện.
Đảm bảo quyền lợi người tham gia và thụ hưởng BHXH được xác định là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm và luôn được Ngành thực hiện chính xác, kịp thời,
linh hoạt và thuận tiện.
Đặc biệt, năm 2020, trước tình hình dịch bệnh, thiên tai phức tạp, để quyền lợi
người tham gia, thụ hưởng chính sách được đảm bảo tốt nhất, BHXH Việt Nam luôn
trăn trở, theo sát diễn biến tình hình thực tế, kịp thời thực hiện các giải pháp linh hoạt
trong giải quyết, chi trả các chế độ BHXH.
Trong 6 tháng đầu năm, toàn ngành đã giải quyết 38.810 hồ sơ hưởng lương hưu
và trợ cấp BHXH hàng tháng; 590.844 người hưởng trợ cấp 1 lần (trong đó 481.677
người nghỉ việc hưởng BHXH một lần); giải quyết 5.998.841 lượt người hưởng chế
độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức, phục hồi sức khỏe. Phối hợp với ngành Lao động-
Thương binh và Xã hội giải quyết cho 443.457 người hưởng các chế độ BHTN; trong
đó 434.162 người hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp và 9.295 người hưởng chế độ hỗ
trợ học nghề.
Việc giải quyết chế độ ốm đau đối với người lao động tăng 47,42% so với cùng kỳ
năm trước chủ yếu là do số lượng đề nghị giải quyết chế độ cho người lao động mắc
Covid-19 tăng. Tổng số lượt người được giải quyết hưởng chế độ ốm đau do Covid -
19 từ năm 2021 tính đến 24/6/2022 là 2.318.567 lượt người với tổng số tiền là 3.081
tỷ đồng.
Ba là, BHXH Việt Nam công bố “Ứng dụng VssID - Bảo hiểm xã hội số” trên
nền tảng thiết bị di động.
Thực hiện Nghị quyết số 28 của Ban Chấp hành Trung ương, hướng tới xây dựng
ngành BHXH Việt Nam hiện đại, chuyên nghiệp, vì sự hài lòng của người tham gia,
thụ hưởng chính sách, BHXH Việt Nam luôn quyết liệt đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin, thực hiện số hóa trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của ngành.
Nhằm tiếp tục cung cấp những dịch vụ tiện ích nhất phục vụ người dân, ngày
16/11/2020, BHXH Việt Nam chính thức công bố ứng dụng VssID - Bảo hiểm xã hội
số trên thiết bị di động. Đây chính là bước đi quan trọng, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình
chuyển đổi số của ngành BHXH Việt Nam, góp phần xây dựng quốc gia số, xã hội số
của Chính phủ.
3.2. Hạn chế trong việc triển khai BHXH BB
Những hạn chế khi triển khai BHXH bắt buộc ở Việt Nam thời gian qua:
Việc chưa quản lý chặt chẽ đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Các
giải pháp xử lý tình trạng chậm, trốn đóng BHXH chưa đạt được hiệu quả như kỳ
vọng.
Phát triển đối tượng BHXH còn dưới mức tiềm năng, còn nhiều đối tượng thuộc
diện tham gia BHXH bắt buộc nhưng chưa tham gia. Số lượng hưởng BHXH một lần
tăng nhanh chóng dẫn tới độ bao phủ BHXH tăng chậm .
Việc thực thi pháp luật về trách nhiệm tham gia BHXH chưa đạt hiệu quả cao. So
sánh giữa tỷ lệ số người lao động tham gia BHXH với số lao động tham gia BHXH
bắt buộc thì gần đây nhất có thể thấy được khoảng thời gian từ năm 2016 – 2020 có
gần 60% số lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc thế nên tổng số phần trăm
còn lại vẫn bị hạn chế.
Tính đến năm 2020, mới chỉ có gần 33,5% lực lượng lao động trong độ tuổi tham
gia BHXH, vẫn còn gần 32 triệu người trong lực lượng lao động trong độ tuổi lao
động (khoảng 66,5%) chưa tham gia BHXH.
Nếu so sánh giữa số lao động giải quyết hưởng BHXH một lần với số lao động
tham gia BHXH tăng mới, thì tỷ lệ này tương đối cao (từ 2016 - 2019, mỗi năm xấp xỉ
45%, năm 2020, tỷ lệ này tăng lên 73,3%). Điều này ảnh hưởng rất lớn tới việc phát
triển đối tượng tham gia BHXH.
BHXH bắt buộc còn bỏ sót một số nhóm đối tượng có nhu cầu và có khả năng
nhưng chưa được luật hóa để tham gia như chủ hộ kinh doanh cá thể; người quản lý
doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương, người lao
động làm việc theo chế độ linh hoạt.
• Như vậy, so với tiềm năng, đối tượng tham gia BHXH còn hạn chế là do một số
nguyên nhân sau:
- Nhận thức của người lao động về lợi ích của BHXH còn hạn chế, nhiều người
chưa có hiểu biết rõ ràng về chính sách BHXH; mặt khác, thói quen phòng ngừa rủi ro
chưa được hình thành, người lao động chỉ thực sự thấy cần bảo hiểm khi rủi ro hoặc
sự cố xảy ra.
- Ý thức tuân thủ pháp luật của người lao động và người sử dụng lao động chưa
cao, chưa coi việc tham gia BHXH là trách nhiệm bắt buộc phải thực hiện, Nhiều
người sử dụng lao động trốn đóng BHXH để cắt giảm chi phí.
- Chính sách BHXH có nhiều sự thay đổi, ảnh hưởng tới quyền lợi của người
tham gia, điều đó ảnh hưởng tới niềm tin của người dân vào chính sách.
- Sự cạnh tranh của các sản phẩm bảo hiểm thương mại. Ngoài chế độ hưu trí
của loại hình BHXH tự nguyện, nhiều doanh nghiệp bảo hiểm cũng cung cấp cho
người lao động các sản phẩm bảo hiểm cho tuổi già.
- Tiền lương/thu nhập của người lao động thấp, năm 2019, tiền lương bình
quân của người làm công hưởng lương là 6,64 triệu đồng/tháng, thu nhập bình quân
đầu người đạt 4,2 triệu đồng/tháng…Chính vì thu nhập thấp thế nên việc người lao
động khó khăn trong việc tham gia BHXH là một trong những yếu tố không thể đồng
bộ hóa BHXH.
PHẦN 4: NHẬN XÉT CỦA NHÓM VỀ TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI BHXH BẮT
BUỘC
Trong suốt thập kỷ qua, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của hệ
thống bảo hiểm xã hội bắt buộc tại Việt Nam. Các chính sách và quy định mới đã
được triển khai nhằm mở rộng phạm vi bảo hiểm, tăng cường quản lý và nâng cao
chất lượng dịch vụ.
Từ năm 2010, chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm mở rộng
phạm vi bảo hiểm xã hội, bao gồm việc giảm mức đóng góp tối thiểu và mở rộng danh
sách các nhóm lao động được hưởng bảo hiểm. Điều này đã giúp tăng số lượng người
tham gia bảo hiểm xã hội, đặc biệt là trong các nhóm lao động có thu nhập thấp và lao
động tự do.
Tuy nhiên, việc triển khai bảo hiểm xã hội bắt buộc cũng gặp phải một số thách
thức. Một trong những thách thức lớn nhất là việc đảm bảo việc thực hiện đầy đủ và
kịp thời các nghĩa vụ đóng góp bảo hiểm. Nhiều doanh nghiệp và cá nhân vẫn chưa
thực hiện đúng quy định về việc đóng góp bảo hiểm xã hội, gây ra rủi ro cho quỹ bảo
hiểm và ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động.
Nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận những thành tựu đáng kể mà Việt Nam
đã đạt được trong việc triển khai bảo hiểm xã hội bắt buộc. Số lượng người tham gia
bảo hiểm xã hội đã tăng đáng kể, cùng với việc cải thiện chất lượng dịch vụ và quản lý
quỹ bảo hiểm.
Nhìn lại quá trình triển khai bảo hiểm xã hội bắt buộc từ năm 2010 đến nay, chúng
ta có thể thấy rằng, dù còn nhiều thách thức, nhưng với những nỗ lực không ngừng
nghỉ, Việt Nam đã và đang từng bước hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội của mình,
góp phần bảo vệ quyền lợi của người lao động và đóng góp vào sự phát triển bền vững
của xã hội.
PHẦN 5: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CẢI THIỆN TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI
BHXH BẮT BUỘC Ở VIỆT NAM:
Trong bối cảnh tình hình triển khai bảo hiểm xã hội bắt buộc ở Việt Nam còn gặp
nhiều khó khăn và thách thức, nhóm chúng em xin đề xuất một số giải pháp như sau:
Đầu tiên, chúng ta cần tăng cường các hoạt động giáo dục và tuyên truyền để nâng
cao nhận thức của người lao động về tầm quan trọng của việc tham gia bảo hiểm xã
hội. Điều này không chỉ giúp người lao động hiểu rõ hơn về quyền lợi của mình khi
tham gia bảo hiểm xã hội, mà còn góp phần khuyến khích họ thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ đóng góp.
Thứ hai, chúng ta cần cải thiện quy trình và hệ thống quản lý bảo hiểm xã hội.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giám sát việc thực hiện nghĩa vụ
đóng góp bảo hiểm xã hội sẽ giúp giảm thiểu tình trạng trốn đóng, nợ đóng, đồng thời
nâng cao hiệu quả quản lý của cơ quan bảo hiểm.
Thứ ba, chúng ta cần tiếp tục mở rộng phạm vi bảo hiểm xã hội, đặc biệt là đối với
những nhóm lao động có thu nhập thấp, lao động tự do. Việc này đòi hỏi sự linh hoạt
trong việc xây dựng và điều chỉnh các chính sách bảo hiểm, nhằm đảm bảo quyền lợi
tối đa cho người lao động.
Thứ tư, chúng ta cần nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm xã hội. Việc giảm thời
gian giải quyết các yêu cầu, thủ tục của người lao động sẽ góp phần tạo niềm tin và
khuyến khích họ tham gia bảo hiểm xã hội.
Cuối cùng, chúng ta cần tăng cường hợp tác quốc tế, học hỏi và áp dụng những
kinh nghiệm, mô hình quản lý bảo hiểm xã hội hiệu quả từ các nước phát triển.

You might also like