Chuyên đề lịch sử ấn độ cổ đại

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 17

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN

KHOA : SƯ PHẠM KHOA HỌC XÃ HỘI


NGÀNH: SƯ PHẠM LỊCH SỬ
LỚP: DSU1231
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ THẾ GIỚI CỔ ĐẠI
CHUYÊN ĐỀ 4: LỊCH SỬ ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

* LƯỢC SỬ ẤN ĐỘ
Lịch sử Ấn Độ bắt đầu với thời kỳ Văn minh lưu vực sông Ấn Độ, một nền văn minh phát triển hưng thịnh tại phần Tây Bắc tiểu lục địa Ấn
Độ từ năm 3300 đến 1700 trước công nguyên. Nền văn minh thời đại đồ đá này được nối tiếp bởi thời đại đồ sắt thuộc thời kỳ Vệ Đà, thời kỳ đã
chứng kiến sự nở rộ của những vương quốc lớn được biết đến với cái tên Mahajanapada. Giữa hai giai đoạn này, vào thế kỷ thứ VI trước công
nguyên, Mahavira và Thích-ca Mâu-ni ra đời.
Phần lớn Ấn Độ lục địa nằm dưới sự cai trị của đế quốc Maurya suốt thế kỷ thứ IV và thứ III trước công nguyên. Sau đó nó lại tan vỡ và rất
nhiều phần bị thống trị bởi vô số những vương quốc thời Trung Cổ trong hơn 10 thế kỷ tiếp theo. Những phần phía Bắc được tái hợp một lần
nữa vào thế kỷ thứ IV của Công Nguyên và duy trì được sự thống nhất này trong hai thế kỷ tiếp theo, dưới thời của đế quốc Gupta. Đây được coi
là thời kỳ hoàng kim của Ấn Độ. Trong suốt giai đoạn cùng thời, và vài thế kỷ sau đó, Ấn Độ bị thống trị bởi nhà Chalukya, nhà Chola, nhà
Pallava và nhà Pandya, và trải qua giai đoạn vàng son của mỗi thời kỳ. Cũng trong thời điểm này, Ấn Độ giáo và Phật giáo lan tỏa tới rất nhiều
vùng tại Đông Nam Á.
Hồi giáo du nhập vào đầu thế kỷ thứ VIII cùng với sự xâm lược Baluchistan và Sindh của Muhammad bin Qasim. Những sự xâm lấn của đạo
Hồi từ Trung Á giữa thế kỷ thứ X và XV dẫn đến việc phần lớn Bắc Ấn Độ chịu sự thống trị của Vương quốc Hồi giáo Delhi giai đoạn đầu và
sau đó là đế quốc Mogul. Sự thống trị của đế quốc Mogul, đế chế đã mở ra giai đoạn của thời kỳ thăng hoa và phát triển mạnh mẽ của nghệ
thuật và kiến trúc, đã bao phủ phần lớn phía Bắc tiểu lục địa. Tuy nhiên, một vài quốc gia độc lập, như đế quốc Maratha và đế quốc
Vijayanagara, cũng phát triển hưng thịnh trong cùng giai đoạn tại phía Tây và Bắc Ấn Độ. Mở đầu giai đoạn giữa thế kỷ XVIII và hơn một thế
kỷ sau đó, Ấn Độ dần dần bị công ty Đông Ấn Anh Quốc thôn tính. Nỗi bất mãn với sự cai trị của công ty này đã dấn đến cuộc nổi loạn Ấn Độ
1857, sau đó thì Ấn Độ được điều hành trực tiếp bởi Hoàng Gia Anh Quốc cũng như chứng kiến thời kỳ phát triển mạnh mẽ về cơ sở vật chất
cũng như sự suy thoái về kinh tế.
Trong suốt nửa đầu thế kỷ XX, cuộc đấu tranh độc lập toàn quốc được khởi xướng bởi đảng Quốc Đại Ấn Độ, sau đó được kết hợp bởi đảng liên
đoàn Hồi giáo. Tiểu lục địa giành được độc lập từ vương quốc Anh năm 1947 sau khi bị chia cắt thành hai quốc gia Ấn Độ và Pakistan. Cánh
phía Đông của Pakistan sau đó trở thành quốc gia Bangladesh năm 1971.

1. Thời tiền sử
Những di vật riêng rẽ của người vượn đứng thẳng tại Hathnora, thuộc lưu vực Narmada tại Trung Ấn chứng tỏ rằng Ấn Độ đã có người định cư
ít nhất từ thời trung kỷ pleitoxen, độ khoảng 200.000 đến 500.000 năm trước.[1][2] Thời kỳ đồ đá giữa tại tiểu lục địa Ấn Độ bao phủ một
khoảng thời gian độ 250.000, bắt đầu khoảng 300.000 năm trước. Con người hiện đại có vẻ đã định cư ở tiểu lục địa trước giao đoạn cuối của kỷ
Băng Hà cuối cùng, khoảng chừng 12.000 năm trước. Những sự định cư lâu dài đầu tiên được xác nhận xuất hiện 9.000 năm trước tại hang
đá Bhimbetka, thuộc bang Madhya Pradesh ngày nay. Sự khám phá ra Mehrgarh (7000 năm trước công nguyên trở về trước) là biểu tưởng của
văn hóa thời đầu đồ đá mới, nó thuộc tỉnh Balochistan của Pakistan ngày nay. Những dấu tích của văn hóa của một thời kỳ đồ đá mới đã được
tìm thấy dưới vịnh Khambat, khảo sát niên đại bằng Carbon xác định vào khoảng năm 7500 trước công nguyên.[3] Văn hóa cuối thời kỳ đồ đá
mới xuất hiện ở vùng lưu vực sông Ấn giữa giai đoạn năm 6000 và 2000 trước công nguyên và tại vùng Nam Ấn giữa giai đoạn năm 2800 và
1200 trước công nguyên.

2. Thời kỳ đồ đồng

Tranh vẽ tường cổ đại tại các hang Ajanta, được làm trong thời kì Gupta
Thời kỳ đồ đồng tại tiểu lục địa Ấn Độ bắt đầu khoảng năm 3300 trước công nguyên với sự mở đầu của văn minh lưu vực sông Ấn.
[4] the Ganges-Yamuna Doab,[5] Gujarat,[6] and northern Afghanistan.[7] Dân cư tại lưu vực sông Ấn cổ đại, người Harappa, phát triển những
kỹ nghệ trong luyện kim, sản xuất đồng đỏ, đồng, chì và thiếc.
2.1. Văn minh lưu vực sông Ấn Độ
2.1.1. Văn minh sông Ấn

Văn minh lưu vực sông Ấn Độ, Văn minh sông Ấn hay Văn hóa sông Ấn, cũng còn được gọi là Văn hóa Harappa theo địa danh của một
trong những nơi khai quật chính, là nền văn minh thời Cổ đại đầu tiên của Ấn Độ phát triển dọc theo sông Ấn, nằm về phía tây bắc của tiểu lục
địa Ấn Độ. Nền văn minh này xuất hiện vào khoảng năm 2.800 trước Công Nguyên và diệt vong vào khoảng năm 1.800 trước Công Nguyên
Một tên gọi khác của nền văn hóa này, nền văn minh Sindhu-Sarasvati, dựa trên thuyết cho rằng nền văn minh này là nền văn minh đã được nhắc
đến trong văn học kinh Vệ-đà của Hindu giáo.

Con dấu của nền văn minh sông Ấn

2.1.1.1 . Tổng quan


Bản đồ các di chỉ của nền văn minh sông Ấn

Chỉ đến năm 1922, khi các nhà khảo cổ học người Anh trên đường đi tìm dấu vết của Alexander Đại đế khám phá những phần còn lại của một
nền văn hóa chưa được biết đến trong lãnh thổ của Pakistan ngày nay, nền văn hóa cổ phát triển cao này mới được biết đến. Nền văn minh này
trải dài gần khắp lãnh thổ Pakistan ngày nay cũng như nhiều phần của Ấn Độ và Afganistan trên một diện tích là 1.250.000 km² và như thế so về
diện tích lớn hơn Ai Cập cổ đại và nền văn minh Lưỡng Hà (Mesopotamia) cộng lại. Bên cạnh hai nền văn hóa này, nền văn minh sông Ấn là
một trong ba nền văn minh lâu đời nhất của thế giới. Ngay từ thời đấy người ta đã biết đến quy hoạch đô thị, chữ viết và kiến trúc.

Cho đến nay có hơn 1.050 di chỉ đã được xác định, phần lớn dọc theo sông Ấn. Trên 140 thành phố và làng mạc đã được tìm thấy. Hai trung tâm
đô thị lớn nhất là Harappa và Mohenjo-Daro, bên cạnh đó còn có nhiều thành phố lớn như Dholavira, Ganweriwala, Lothal và Rakhigarhi. Trong
thời kỳ nở rộ, nền văn hóa sông Ấn được phỏng đoán có trên 5 triệu dân cư. Nguồn tài liệu về văn hóa Harappa, trái ngược với 2 nền văn hóa
tại Ai Cập và Lưỡng Hà, rất đáng tiếc là còn rất mỏng. Chỉ khoảng 10% làng mạc của họ là đã được khai quật, chữ viết chưa được giải mã và
việc nền văn hóa này biến mất đột ngột từ khoảng 1.900 TCN cũng chưa được giải thích hoàn toàn.

2.1.1.2. Khám phá và khảo sát văn hóa sông Ấn


Mặc dầu thành phố Harappa đổ nát đã được biết đến từ lâu và được Charles Masson miêu tả lần đầu tiên vào năm 1844 trong quyển Narrative of
Various Journeys in Balochistan, Afghanistan and The Panja của ông như là "một pháo đài xây bằng gạch nung từ đất sét đã bị phá hủy", tầm
quan trọng của nó chỉ được nhận biết rất lâu sau đó. Năm 1857 trong lúc xây dựng đường tàu hỏa Đông Ấn từ Karatschi đến Lahore người Anh
đã sử dụng gạch tìm thấy trên một cánh đồng đổ nát gần Harappa để củng cố con đường tàu hỏa này. Vì thế mà tình trạng các di chỉ còn lại ở
Harappa xấu hơn rất nhiều so với ở Mohenjo-Daro. Mohenjo-Daro cũng được biết đến từ lâu nhưng ở đấy người ta chỉ quan tâm đến những phần
còn lại của một tu viện Phật giáo từ thế kỷ thứ 2 sau Công Nguyên được xây dựng trên những đống đổ nát cũ. Trong năm 1912 J. Fleet tìm thấy
trong vùng đất thuộc địa Anh ngày xưa nhiều con dấu với chữ viết chưa được biết đến, thu hút sự quan tâm của giới khoa học tại châu Âu. Tiếp
theo đó, trong những năm 1921-1922 nhiều khai quật đã được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Sir John Marshall tại Harappa, Mohenjo-Daro và
nhiều nơi khác. Nét giống nhau của hai thành phố được khai quật đã nhanh chóng cho thấy một nền văn hóa phát triển cao chưa được biết đến
vừa được khám ra. Cho đến 1931 tại Mohenjo-Daro hơn 10 ha của thành phố đã được khai quật, sau đấy chỉ còn những khai quật nhỏ, trong đó
là cuộc khai quật năm 1950 của Sir Mortimer Wheeler. Sau khi thuộc địa Anh được chia cắt năm 1947, khu vực dân cư của văn hóa Harappa
được chia thành một phần thuộc Pakistan và một phần thuộc Ấn Độ. Sau đó, tại Pakistan, người Mỹ, người Pháp, người Anh và người Đức đã
cùng với những nhà khảo cổ học người Pakistan tiếp tục công việc nghiên cứu trong khi tại Ấn Độ là ngành khảo cổ học Ấn. Đã và đang có
nhiều ảnh hưởng lớn đến công cuộc nghiên cứu nền văn hóa song Ấn, bên cạnh những nhà khảo cổ học khác, là người Anh Aurel Stein, người
Ấn Nani Gopal Majumdar và người Đức Michael Jansen.

2.1.1.3. Phát triển

Thành phố Harappa cổ


Các dấu tích lâu đời nhất về hoạt động của con người trên lãnh thổ ngày nay của Pakistan bắt nguồn từ thời kỳ Đồ đá cũ có độ tuổi vào khoảng
500.000 năm. Vào khoảng 8.000 năm TCN việc chuyển đổi từ săn bắn và hái lượm sang trồng trọt và chăn nuôi đã hoàn tất tại đây, kèm theo đó
là việc định cư. Nền văn minh sông Ấn phát triển từ nền văn hóa nông nghiệp lâu đời này, một nền văn hóa nông nghiệp cũng xuất hiện trên các
đồi của vùng Belutschistan trong Pakistan ngày nay. Thành phố được khảo sát tốt nhất của thời gian này là Merhgarh, hình thành khoảng 6.500
TCN. Những người nông dân tại đấy trồng lúa mì và thuần hóa bò và cũng đã sử dụng đồ gốm từ 5.500 năm TCN. Thêm vào đó, từ khoảng
4.000 năm TCN, đậu, vừng, chà là và bông vải đã được trồng và trâu nước, cho đến nay vẫn là động vật thiết yếu cho nông nghiệp Nam Á, được
thuần phục. Vào khoảng 2.600 TCN các làng mạc nhỏ đột ngột biến đổi thành đô thị với hằng ngàn dân cư không còn chủ yếu là làm việc trong
nông nghiệp nữa. Một nền văn hóa hình thành, tạo nên nhiều thành phố được xây dựng giống nhau trong phạm vi 1.000 km. Dường như việc
xuất hiện những thành phố này là kết quả của một nỗ lực có chủ định và có kế hoạch. Một vài thành phố được xây dựng lại hoàn toàn hay được
xây dựng mới từ đầu có thể nhìn thấy thí dụ như tại Mohenjo Daro, nơi không tìm thấy dấu vết nào của một làng mạc trước đó. Việc xây dựng
nhiều thành phố trong thung lũng sông Ấn giống nhau đến mức có thể nói là nền văn minh Harappa là nền văn minh đầu tiên đã phát triển quy
hoạch đô thị. Những học giả trước đây chỉ có thể giải thích sự xuất hiện đột ngột này bằng yếu tố từ bên ngoài như bị xâm chiếm hay di dân. Thế
nhưng nhận biết mới đây đã chứng minh rằng nền văn minh Harappa trong vùng này thật sự hình thành từ nền văn hóa nông nghiệp trước đó.

2.1.1.4. Dân cư và đô thị

Cho đến nay, thành phố lớn nhất được tìm thấy trong thung lũng sông Ấn là Mohenjo Daro, đồi của người chết, nằm trong tỉnh Sindh của
Pakistan ngày nay, ngay cạnh sông Ấn. Cùng với những di chỉ khảo cổ quan trọng khác như Kot Diji, Lothal và Harappa, đặc điểm của Mohenjo
Daro là chất lượng cao đồng nhất trong xây dựng thành phố, đặc biệt là trong hệ thống cung cấp nước và hệ thống nước thải. Các thành phố
được xây dựng tương tự như một bàn cờ, giống thành phố New York ngày nay, chứng minh cho những hiểu biết tiến bộ trong khoa vệ
sinh và quy hoạch đô thị cũng như cho một chính phủ làm việc có hiệu quả.

Đặc trưng xây dựng lấy thí dụ tại Mohenjo Daro


Mohenjo-daro, Pakistan.

Mohenjo-Daro là thành phố được khảo sát tốt nhất của văn hóa sông Ấn. Trong các thập niên 1920 và 1930, cơ quan khảo cổ Anh đã tổ chức
khai quật rộng khắp tại đây và đào lộ thiên nhiều phần lớn của thành phố đã hoàn toàn bị chôn vùi trong bùn lầy của sông Ấn 4.500 năm trước
đó. Thành phố được xây dựng trên một nền nhân tạo làm bằng gạch đất sét và bằng đất, hẳn là để bảo vệ chống lụt. Cạnh một vùng nằm cao hơn,
rộng 200 m và dài 400 m, được xem là thành lũy, là một vùng được coi như là khu dân cư, nơi có nhiều nhà dân. Giữa 2 khu vực này là một
khoảng trống rộng 200 m. Các con đường chính có nhiều ngang 10 m chạy xuyên qua thành phố theo hướng Bắc-Nam và đường nhỏ thẳng góc
với đường lớn theo hướng Đông-Tây, từ đó hình thành các khu nhà cho người dân thành phố. Trong khu thành lũy mà mục đích vẫn chưa rõ có
một bể nước được làm bằng một loại gạch đặc biệt nung từ đất sét, được khám phá trong năm 1925, có độ lớn vào khoảng 7 m x 12 m và có thể
đi lên qua 2 cầu thang. Bể nước được bao bọc bởi một lối đi, có một giếng nước cung cấp riêng trong một phòng cạnh đó. Người ta vẫn chưa rõ
đây là một bể nước để tắm rửa trong nghi lễ hay là một bể bơi công cộng. Cũng trên nền này là một căn nhà lớn làm từ gạch nung được xem như
là kho trữ ngũ cốc mặc dầu chức năng này chưa được chứng minh.

2.1.1.5. Nhà cửa

Nhà dân trong các khu phố tại khu vực phía dưới được xây dựng rất hợp lý và được kết cấu từ gạch đất sét nung. Khoảng 50% nhà có diện tích
từ 50 m² đến 100 m², cũng khoảng từng ấy nhà có diện tích giữa 100 m² và 150 m² và một số ít có diện tích lớn từ 210 m² đến 270 m². Thông
thường chúng bao gồm một sân trước nối liền ra đường bằng một phòng ở phía trước, từ đấy có thể đi đến các căn phòng chính, được sắp xếp
chung quanh sân. Sân này chính là nơi sinh hoạt hằng ngày. Trên các căn phòng thường có sân thượng, có cầu thang đi lên. Một căn nhà thông
thường có nhà vệ sinh riêng, nằm nhìn ra đường phố và được kết nối với hệ thống thoát nước công cộng. Nhà có giếng riêng cung cấp nước.
Mức độ cung cấp và thải nước rất cao, vài vùng của Pakistan và Ấn Độ ngày nay vẫn chưa đạt lại được mức độ này.
2.1.1.6. Khoa học

Các thành phố được kế hoạch hóa hoàn hảo và xây dựng có tính kỹ thuật là bằng chứng cho một mức độ phát triển cao của khoa học thời bấy
giờ. Con người của nền văn hóa sông Ấn đạt đến một mức độ chính xác đáng kinh ngạc trong đo lường về chiều dài, khối lượng và thời gian.
Người dân nền văn hóa sông Ấn có lẽ là những người đầu tiên phát triển và sử dụng các trọng lượng và kích thước thống nhất. Đo lường của họ
hết sức chính xác. Đơn vị chiều dài nhỏ nhất được tìm thấy trên một thước đo làm bằng ngà voi tại Lothal tương ứng với khoảng 1,704 mm, là
đơn vị nhỏ nhất trên một thước đo thuộc thời kỳ Đồ đồng đã từng được tìm thấy. Trọng lượng dựa trên đơn vị 0,05; 0,1; 1; 2; 5; 10; 20; 50; 100;
200 và 500, trong đó mỗi đơn vị nặng vào khoảng 28 gram. Hệ thống thập phân cũng đã được biết đến và sử dụng.

Được dùng làm vật liệu xây dựng lần đầu tiên trong lịch sử của loài người là gạch được nung với tỷ lệ kích thước toàn hảo 1:2:4 vẫn còn thông
dụng cho đến ngày nay. Trong luyện kim, nhiều kỹ thuật mới cũng được phát triển, thợ thủ công của nền văn hóa Harappa đã sử dụng những kỹ
thuật này trong lúc gia công đồng, đồng thau (bronze), chì và thiếc.

Các khai quật được tìm thấy trong năm 2001 từ Merhgarh cho thấy ngay cả cơ bản về y học và nha khoa cũng được biết đến.

2.1.1.7. Nghệ thuật

Tượng một nữ thần


So với các nền văn hóa tại Ai Cập và Lưỡng Hà, có rất ít tượng đá được tìm thấy tại lưu vực sông Ấn. Ngoài những vật khác, đầu cũng như
tượng cừu đực ngự trên đế được tìm thấy, chứng tỏ mang ý nghĩa về tế lễ.

Ngược lại, người dân của nền văn hóa sông Ấn sản xuất nhiều loại nữ trang khác nhau. Vật liệu ban đầu bao gồm không những đá quý
như carnelian, mã não, ngọc thạch anh và lapis lazuli cũng như là vàng (ít hơn) và các loại đá khác. Vòng đeo tay, dây chuyền và đồ trang sức
đeo trên đầu được sản xuất với kỷ năng thủ công cao độ, bao gồm mài, đánh bóng và những kỹ năng khác.

Bên cạnh đó nhiều tượng nhỏ làm từ đất sét được tìm thấy, thường là hình tượng phụ nữ mảnh khảnh, có lẽ là biểu tượng cho khả năng sinh sản
và tượng thú vật được chế tạo rất chi tiết.

Vũ thuật, hội họa và âm nhạc cũng được coi trọng, như nhiều hình tượng bằng đồng thau (bronze) và đất sét biểu diễn các hoạt cảnh tương ứng
chứng minh. Trên một con ấn, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy miêu tả của một dụng cụ giống như đàn thụ cầm (tiếng Anh: harp) và trên 2 vật
được tìm thấy từ Lothal đã có thể xác định được là các miêu tả nhạc cụ giây.

2.1.1.8. Kinh tế

Khác với những phỏng đoán trong những năm 50 của thế kỷ 20 và khác với văn hóa tại Lưỡng Hà, tại lưu vực sông Ấn không có kinh tế đền thờ
thống trị. Hơn thế nữa nền kinh tế lúc bấy giờ đa dạng và đặc biệt là dựa trên cơ sở một nền thương mại được ưu đãi bởi nhiều tiến bộ trong kỹ
thuật vận tải. Các tiến bộ này không những bao gồm xe do bò kéo rất giống những loại xe này ngày nay tại Nam Á mà còn cả các loại tàu lớn
nhỏ. Phần lớn những con tàu này được phỏng đoán là tàu buồm có đáy bằng như vẫn còn nhìn thấy trên sông Ấn ngày nay. Các nhà khảo cổ học
đã khám phá ra phần còn lại của một con kênh đào lớn và bến cảng gần Lothal tại bờ biển Ả Rập. Đường thủy chính là trụ cột của hạ tầng cơ sở
vận tải thời đấy.

Đánh giá theo phân bố của đồ tạo tác (tiếng Anh: artefact) nền văn minh sông Ấn, mạng lưới thương mại bao phủ một diện tích rộng lớn, bao
gồm nhiều phần đất của Afghanistan, vùng bờ biển của Iran ngày nay, Bắc và Trung Ấn Độ và vùng Lưỡng Hà. Đặc biệt là đã có trao đổi hàng
hóa thường xuyên với người Sumer, không những bằng đường bộ (qua Iran ngày nay) mà còn bằng đường biển (qua Dilmun, ngày nay
là Bahrain), đã được chứng minh bằng nhiều di chỉ và tài liệu tại Sumer. Thí dụ như trong ngôi mộ của nữ hoàng Puabi sống khoảng 2.500 năm
trước Công Nguyên tại khu vực Lưỡng Hà đã có trang sức làm bằng carnelian từ lưu vực sông Ấn. Thêm vào đó, chữ khắc người Sumer, được
phỏng đoán là nói về nền văn hóa sông Ấn, sử dụng tên Meluha, là manh mối duy nhất cho việc người tại lưu vực sông Ấn đã có thể tự gọi mình
như thế nào. Dường như Mohenjo Daro là trung tâm của thương mại, nơi đã có thể nhận dạng một cấu trúc hành chánh và thương mại.

Việc phân chia lao động đã được tiến hành triệt để vào thời đấy. Khai quật dọc theo Ghaggra, một con sông ngày nay đã khô cạn nằm về phía
Đông của sông Ấn, cho thấy mỗi một nơi định cư đã chuyên môn về một hay nhiều kỹ thuật sản xuất. Thí dụ như kim loại được chế biến trong
một vài thành phố trong khi nhiều thành phố khác sản xuất bông vải.

2.1.1.8.1. Nông nghiệp

Cho đến nay kỹ thuật của những nhà nông thời đấy phần nhiều vẫn là chưa được biết đến vì chỉ có rất ít thông tin được lưu truyền lại. Điều thực
tế là nền nông nghiệp của văn minh Harappa phải có sản lượng rất cao để nuôi sống hằng ngàn người dân trong thành phố không trực tiếp làm
việc trong nông nghiệp. Cũng rõ ràng là thời đấy không trồng lúa, loại cây trồng vẫn còn chưa được biết đến, mà phần nhiều là lúa mì. Thuộc
vào trong những thành tựu công nghệ đáng kể đã đạt được trước nền văn hóa sông Ấn tại khu vực này là cái cày do trâu kéo. Cũng không còn
được hoài nghi là việc những người nông dân thời đấy đã sử dụng phù sa màu mỡ của sông Ấn, tương tự như những nông dân tại Ai Cập cho
đến khi xây đập Nasser, thế nhưng phương pháp đơn giản này không đủ để nuôi sống thành phố lớn.

Dấu tích về đập nước hay kênh tưới không được tìm thấy cho đến nay; nếu như chúng đã tồn tại trong thời gian đó thì có lẽ là đã bị phá hủy
trong lũ lụt thường hay xảy ra tại vùng này. Từ một thành phố vừa được khám phá tại Ấn Độ người ta biết rằng thời đấy nước mưa đã được thu
thập lại trong các bể nước lớn được đục từ các tảng đá, cung cấp nước cho thành phố trong mùa khô.

Lúa mì, lúa mạch, đậu lăng, đậu tròn và cây lanh được trồng trong nền văn hóa Harappa. Gujarat thuộc vào khu vực chịu ảnh hưởng của nền văn
hóa Harappa nhưng vì không có sông lớn nên chỉ trồng trọt theo mùa mưa và vì thế có nhiều điểm khác nhau lớn trong kinh tế. Tại các di chỉ có
niên đại muộn hơn của văn hóa Harappa như tại Rojdi và Kutasi, cây kê Ấn Độ (Panicum miliaceum) chiếm đa số. Lúa mì và lúa mạch chỉ có rất
ít. Vì tìm được nhiều xương còn lại nên người ta cho rằng gà đã được nuôi như gia cầm từ thời gian cuối của nền văn hóa Harappa.

2.1.1.9. Tiếng nói và chữ viết


Ký tượng trên một mảnh đồ gốm tại Harappa, khoảng 5.500 năm

Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng chữ viết sông Ấn, hoàn toàn không có quan hệ với các chữ viết đã biết, cho đến nay vẫn chưa được dịch mã
một cách chắc chắn. Các dòng chữ khắc đặc trưng thường không dài quá 4 hay 5 ký hiệu. Dòng chữ khắc dài nhất được tìm thấy bao gồm 26 ký
hiệu.

Một vài học giả nghi ngờ rằng chữ viết sông Ấn không phải là một hệ thống chữ viết mà là một phương tiện hỗ trợ cho thương mại thời bấy giờ.

Tiếng nói của nền văn hóa sông Ấn cũng không được biết đến; một phỏng đoán cho rằng tiếng nói này là tiền thân của các thứ tiếng dravidian
trong miền Nam Ấn Độ ngày nay. Thế nhưng từ đấy không thể tự động suy đoán là những người tạo nên nền văn hóa sông Ấn giống như những
người nói tiếnng dravidian ngày nay vì tiếng nói, trái với một lượng dân cư lớn, có thể dịch chuyển rất nhanh.

2.1.1.10. Suy tàn

Người dân của nền văn minh sông Ấn đã sống hơn 700 năm trong giàu có và thịnh vượng, những người thợ thủ công của nền văn minh này đã
hoàn thành nhiều sản phẩm có tính mỹ thuật và chất lượng cao. Nhưng cũng bất thình lình như khi xuất hiện, nền văn hóa này lại biến mất mà
nguyên nhân cho đến nay vẫn chưa rõ.

Dường như từ khoảng năm 2000 trước Công Nguyên xuất hiện nhiều vấn đề lớn. Người dân rời bỏ thành phố, những người còn lại bị thiếu ăn.
Vào khoảng năm 1800 trước Công Nguyên phần lớn các thành phố đều đã bị bỏ hoang. Trong những thế kỷ sau đó, những tưởng nhớ và thành
tựu của nền văn hóa sông Ấn – trái ngược với các nền văn hóa tại Ai Cập và Lưỡng Hà – đã biến mất hoàn toàn. Nền văn hóa Harappa không để
lại những công trình xây dựng to lớn như các kim tự tháp ở Ai Cập hoặc các đền thờ ziggurat ở Lưỡng Hà để chứng minh cho sự tồn tại của họ,
họ cũng không có chữ viết nên không để lại ghi chép lịch sử cho đời sau. Người ta chỉ có thể phỏng đoán rằng việc này là do trong lưu vực sông
Ấn có rất ít các loại đá thích hợp, mặc dù tại Lưỡng Hà tình trạng cũng tương tự. Cũng có thể là con người của nền văn hóa sông Ấn không ưa
thích những dự án xây dựng công trình to lớn.

Mặc dầu vậy văn hóa sông Ấn không hoàn toàn biến mất. Sau khi nền văn hóa này sụp đổ, nhiều nền văn hóa địa phương đã xuất hiện, ít nhiều
đều chịu ảnh hưởng của nền văn hóa sông Ấn. Một số người dân nền văn hóa sông Ấn dường như di dân về phía Đông, đến đồng bằng sông
Hằng. Truyền thống đồ gốm cũng còn tồn tại một thời gian. Không phải là những người sống dọc sông Ấn đã biến mất, mà là nền văn minh của
họ: các thành phố, chữ viết và mạng lưới thương mại.

Giả thuyết phổ biến đặc biệt trong giữa thế kỷ 20 cho rằng sự sụp đổ của nền văn hóa sông Ấn có liên quan đến việc người du mục Arian (tiếng
Anh: Aryan) xuất hiện tại thung lũng sông Ấn, nhưng nó không còn có nhiều người ủng hộ trong thời gian hiện nay. Lý do về khí hậu dường như
có khả năng hơn: đồng bằng sông Ấn có nhiều rừng và thú trong khoảng năm 2600 trước Công Nguyên, ẩm ướt và xanh hơn ngày nay. Vì thế
mà người dân nền văn hóa sông Ấn đã có thể bổ sung nguồn lương thực trong thời gian hạn hán hay lũ lụt bằng cách săn bắn. Người ta biết rằng
vào khoảng 1.800 năm trước Công Nguyên, khí hậu trong lưu vực sông Ấn đã thay đổi, trở nên lạnh và khô hơn. Thế nhưng đơn độc mỗi yếu tố
này thì có lẽ không phải là quyết định cho sự suy tàn của nền văn minh Harappa. Việc phần lớn hệ thống sông Ghaggra-Hakra đã khô cạn có thể
chính là yếu tố quyết định, vì những nguyên nhân về kiến tạo mảng, nguồn nước của hệ thống sông này đã bị chuyển hướng về đồng bằng sông
Hằng. Vì hệ thống sông Ghaggra-Hakra khô cạn nên một phần lớn đất nông nghiệp phì nhiêu đã bị mất đi, điều mà có lẽ nền văn hóa sông Ấn đã
không vượt qua được.

Các thuyết khác cho rằng sự suy tàn của nền văn minh sông Ấn có liên quan đến việc vương quốc người Sumer chấm dứt và các quan hệ buôn
bán với vương quốc này đã không còn nữa, hoặc xung đột quân sự và dịch bệnh đã chấm dứt nền văn hóa này. Nguyên nhân quyết định cho sự
suy vong vẫn chưa được giải thích rõ ràng+
Tượng "vua Priest" thuộc nền văn minh lưu vực sông Ấn
Văn minh lưu vực sông Ấn, nền văn minh phát triển rực rỡ giai đoạn 2600 đến 1900 trước công nguyên, bao gồm các trung tâm đô thị
như Harappa và Mohenjo-daro (tại Pakistan), đánh dầu thời kỳ mở đầu của văn minh đô thị tại tiểu lục địa Ấn Độ. Nó nằm ở trung tâm sông Ấn
và các nhánh sông, và mở rộng tới lưu vực sông Ghaggar-Hakra, sông Ganges-Yamuna Doab, Gujarat, và phía Bắc Afghanistan.
Nền văn minh này nổi bật với việc xây dựng các thành phố bằng gạch, hệ thống cống rãnh thoát nước và những tòa nhà nhiều tầng. Giữa những
khu định cư là những trung tâm đô thị lớn như Harappa và Mohenjo-daro, cũng như Dholavira, Ganweriwala, Lothal, Kalibanga và Rakhigarhi.
Có giả thuyết cho rằng các xáo trộn địa chất cũng như những thay đổi về khí hậu mà hậu quả dẫn đến sự phá rừng chính là nguyên nhân dẫn đến
sự suy sụp của nền văn minh này. Sự suy thoái của nền văn minh sông Ấn cũng bao gồm sự đổ vỡ của xã hội đô thị tại Ấn Độ, cũng như các đặc
trưng của đô thị như sự sử dụng chữ viết và seals.
3. Thời kỳ Vệ Đà

Cột Ashoka
Văn hóa Vệ Đà là văn hóa Ấn-Aryan có liên kết với kinh Vệ Đà, một trong những văn bản chữ viết cổ nhất còn tồn tại, được soạn truyền miệng
bằng tiếng Phạn. Nó kéo dài từ khoảng năm 1500 đến năm 500 trước công nguyên. Lối giao tiếp (nói) chính thống, trong 500 năm đầu tiên (1500
- 1000 trước CN) của thời kỳ Vệ Đà tương tự với thời kỳ đồ đồng Ấn Độ, và trong 500 năm tiếp theo (1000 - 500 trước CN) thì tương tự với thời
kỳ đồ sắt Ấn Độ. Rất nhiều học giả ngày nay đặt giả thuyết rằng đã có một sự di cư của người Ấn-Aryan vào Ấn Độ và cho rằng những bộ tộc
nói tiếng Ấn-Aryan thời đầu di cư vào phần Tây Bắc của tiểu lục địa vào đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên. Phần lớn các học giả cho
rằng các bộ tộc Ấn-Aryan này có nguồn gốc từ Ba Tư, Kurdistan và Tiểu Á, những nơi mà họ di cư qua phía đông vào Ấn Độ, qua phía Tây vào
châu Âu, vượt qua những người châu Âu bản địa phương Bắc rồi đồng hóa với người bản địa tại các vùng họ di cư tới, đồng thời phát tán văn
hóa và ngôn ngữ của họ tại đó.
Xã hội đầu thời Vệ Đà bao gồm những bộ tộc dân du mục thảo nguyên bởi giai đoạn đô thị hóa muộn màng bị bỏ rơi bởi những lý do không
được biết đến.[8]
Sau Rigveda, xã hội Aryan ngày càng trở thành một xã hội nông nghiệp, nó được tổ chức xung quanh bốn Varnas. Bổ sung cho các tài liệu của
Ấn Độ giáo (kinh Vệ Đà), những thiên anh hùng ca (như Ramayana và Mahabharata) được cho rằng có nguồn gốc từ thời kỳ này.[9] Sự xuất
hiện của người Ấn-Aryan thời đầu, cũng khớp với sự xuất hiện của đồ gốm làm bằng đất màu phát hiện tại các di chỉ khảo cổ.[10]
Vaishali là thủ đô của "Licchavi," nước cộng hòa thứ hai trên thế giới chỉ sau Arwad.[11] Vương quốc của bộ tộc Karus[12], được cho rằng là sự
khởi đầu của văn hóa đồ gốm đen và đỏ cũng như sự bắt đầu của thời kỳ đồ sắt tại Tây Bắc Ấn Độ, khoảng năm 1000 trước công nguyên (cùng
thời với sự ra đời của Atharvaveda, văn bản Ấn Độ đầu tiên đề cập đến sắt, như là śyāma ayas, có nghĩa "Kim loại đen"). Văn hóa gốm mỹ nghệ
trải rộng rất nhiều vùng Bắc Ấn Độ đã phát triển mạnh mẽ từ khoảng năm 1100 đến 600 trước công nguyên.[10] Thời kỳ sau này cũng tương
ứng với một sự thay đổi trong viễn cảnh về hệ thống sinh sống kiểu bộ lạc đã dẫn đến sự thành lập các vương quốc gọi là Mahajanapadas.

4. Thiết lập của Mahajanapadas


Bài chi tiết: Mahajanapadas

Ấn Độ năm 600 TCN


Mahajanapadas là 16 vương quốc và nước cộng hòa mạnh nhất của thời đại, nằm chủ yếu trải trên đồng bằng Ấn-Hằng phì nhiêu, tuy nhiên có
một số vương quốc nhỏ hơn trải khắp chiều dài và chiều rộng của Ấn Độ
Trong thời đại theo sau thời đại Vệ Đà, một số vương quốc hay thành phố nhỏ hơn bao khắp tiểu lục địa, được nhắc đến trong văn bản Vệ Đà
xưa đến năm 1000 TCN. Cho tới 600 TCN, 16 vương quốc và 'cộng hòa' được biết
là Mahajanapadas — Kasi, Kosala, Anga, Magadha, Vajji (hay Vriji), Malla, Chedi, Vatsa (hay Vamsa), Kuru, Panchala, Machcha (hay
Matsya), Surasena, Assaka, Avanti, Gandhara, Kamboja — trải khắp đồng bằng Ấn-Hằng từ vùng bây giờ là Afghanistan cho đến Bengal và
Maharastra..
Đây là đợt đô thị hóa lớn thứ hai ở Ấn Độ sau văn minh thung lũng Ấn Độ. Nhiều bộ tộc nhỏ hơn được nhắc đến trong các văn bản cổ xưa
dường như đã có mặt khắp tiểu lục địa. Một vài vua này là cha truyền con nối, trong khi các thành phố khác bầu lên lãnh đạo của họ. Ngôn ngữ
của tầng lớp có giáo dục vào thời điểm đó là tiếng Phạn, trong khi tiếng nói của đại đa số dân chúng ở phía bắc Ấn Độ được gọi là Prakrit. Mười
sáu vương quốc này đã giảm xuống còn bốn vào năm 500 TCN, đó là thời kỳ của Tất-đạt-đa Cồ-đàm, có lẽ là do xâm chiếm lẫn nhau. Bốn nước
còn lại là Vatsa, Avanti, Kosala và Magadha.[13]

5. Cuộc xâm lăng của Ba Tư và Hy Lạp

Những cuộc chinh phạt của Alexandros đã vươn tới vùng viễn Bắc của Ấn Độ, quanh khu vực sông Indus ở
Pakistan ngày nay.
Phần lớn vùng Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ (ngày nay thuộc vùng Đông Afghanistan và Pakistan phía Tây sông Ấn) chịu sự thống trị của đế quốc
Ba Tư vào năm 520 trước CN trong suốt triều đại của Darius Đại đế và vùng đất này bị duy trì sự cai trị trong 2 thế kỷ sau đó.[14] Năm 334
trước CN, Alexandros Đại đế tiêu diệt vương triều Achaemenes, xâm lược một phần nhỏ châu Á và đế quốc Ba Tư, ông xuống tới tận biên giới
Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ, tại đó ông đánh bại vua Porus trong trận Hydaspes (gần Jhelum ngày nay ở Pakistan) và xâm chiếm phần
lớn Punjab.[15] Tuy nhiên, quân đội của Alexandros từ chối vượt sông Hyphases (Beas) gần Jalandhar, Punjab. Alexandros bỏ rất nhiều chiến
binh Macedonia tại các vùng bị xâm chiếm; còn ông thì quay lại và hành quân xuống phía Tây Nam.
Cuộc xâm chiếm của Ba Tư và Hy Lạp đã có những tác động lớn đến nền văn minh Ấn Độ. Hệ thống chính trị của người Ba Tư đã ảnh hưởng
tới sự hình thành nền thống trị trên tiểu lục địa trong tương lai, bao gồm sự điều hành của triều đại Maurya. Thêm vào đó, vùng Gandhara, thuộc
Tây Afghanistan và Tây Bắc Pakistan ngày nay, trở thành một nơi pha trộn của văn hóa Ấn Độ, văn hóa Trung Á, văn hóa Ba Tư và văn hóa Hy
Lạp và đã vươn lên trở thành nền văn hóa lai căng, Hy-Phật giáo, loại hình văn hóa kết hợp giữa đạo Phật và văn hóa Hy Lạp đã duy trì cho đến
tận thế kỷ thứ V CN và có ảnh hưởng đến sự phát triển nghệ thuật của phật giáo Đại Thừa.

6. Thời kì Maurya
Đế quốc Maurya là một thế lực hùng mạnh trên một diện tích rộng lớn vào thời Ấn Độ cổ đại, do vương triều Maurya cai trị từ năm 321 đến
185 TCN. Đế quốc Maurya bắt nguồn từ vùng Magadha tại đồng bằng hạ du sông Hằng (nay là Bihar, phía đông Uttar Pradesh và Bengal) ở mặt
phía đông của tiểu lục địa Ấn Độ, đế quốc có kinh đô đặt tại Pataliputra (nay là Patna).[21][22] Đế quốc được Chandragupta Maurya thành lập
vào năm 322 TCN, ông đã lật đổ vương triều Nanda và nhanh chóng mở rộng thế lực của mình về phía tây đến vùng trung và tây Ấn Độ do tận
dụng được lợi thế là các thế lực địa phương ở các vùng này đang xâu xé lẫn nhau sau khi các đội quân Hy Lạp và Ba Tư của Alexandros Đại
đế rút lui về phía tây. Năm 320 TCN, đế quốc đã hoàn toàn kiểm soát được vùng tây bắc bắc Ấn Độ, đánh bại và chinh phục các satrap do
Alexandros để lại.[23]
Với một diện tích 5.000.000 km², Maurya là một trong các đế quốc lớn nhất trên thế giới vào thời gian mà nó tồn tại, và là đế quốc lớn nhất từng
tồn tại trên tiểu lục địa Ấn Độ. Vào lúc rộng nhất, đế quốc này mở rộng về phía bắc dọc theo ranh giới tự nhiên của dãy Himalaya, và mở rộng
về phía đông đến vùng này là Assam. Ở phía tây, Maurya chinh phục chinh phục các vùng phía ngoài của Pakistan ngày nay, thôn
tính Balochistan, các phần đông nam của Iran và nhiều phần của Afghanistan ngày nay, bao gồm cả các tỉnh Herat[23] và Kandahar. Đế quốc
mở rộng đến các vùng miền trung và miền nam dưới thời các hoàng đế Chandragupta và Bindusara, song không bao gồm một phần nhỏ vùng đất
của các bộ lạc chưa được thám hiểm và các khu vực rừng gần Kalinga (nay là Orissa), cho đến khi chúng bị A Dục Vương (Ashoka) chinh phục.
Đế quốc bắt đầu suy sụp từ 60 năm sau thời kỳ trị vì của A Dục Vương, và tan rã vào năm 185 TCN với sự hình thành của vương triều Sunga tại
Magadha.
Dưới thời Chandragupta, đế quốc Maurya đã chinh phục vùng Ngoại-Ấn, đang nằm dưới quyền cai quản của người Macedonia. Chandragupta
sau đó đã đánh bại cuộc xâm lược do Seleukos I lãnh đạo (một tướng người Hy Lạp trong quân đội của Alexandros Đại đế). Dười thời cai trị của
Chandragupta vè những người kế vị, nội thương và ngoại thương, các hoạt động nông nghiệp và thương mại, tất cả đều phát triển mạnh và mở
rộng ra khắp Ấn Độ nhờ việc tạo ra một hệ thống đơn nhất về tài chính, quản trị và an ninh.
Sau chiến tranh Kalinga, đế quốc Maurya đã trải qua nửa thế kỷ hòa bình và an ninh dưới sự cai trị của A Dục vương. Ấn Độ dười thới Maurya
cũng bước vào một kỷ nguyên của hòa hợp xã hội, biến đổi tôn giáo, và sự mở rộng của khoa học và kiến thức. Đường hướng Kỳ Na giáo của
Chandragupta Maurya đã làm gia tăng các đổi mới và cải cách xã hội cùng tôn giáo, trong khi đường hướng Phật giáo của A Dục vương đã tạo
nên nền tảng của triều đại là xã hội và chính trị thái bình và khắp Ấn Độ không có bạo lực. A Dục vương cũng hỗ trợ cho việc truyền bá các tư
tưởng của Phật giáo đến Sri Lanka, Đông Nam Á, Tây Á và châu Âu Địa Trung Hải.[23]
Dân số của đế quốc Maurya được ước tính là khoảng 50-60 triệu người mà nó đã khiến cho đế quốc này trở thành một trong những đế quốc đông
dân nhất trong lịch sử.[24][25] Arthashastra và các sắc lệnh của A Dục vương là những nguồn chính trong các sử liệu về thời kỳ Maurya.

7. Thời kỳ hoàng kim


Lãnh thổ của vương triều Chalukya
Thời kỳ trung cổ của Ấn Độ là một giai đoạn phát triển văn hóa nổi bật. Satavahanas, hay còn gọi Andhras, là vương triều đã cai trị khắp vùng
Nam và Trung tiểu lục địa Ấn Độ từ khoảng năm 230 TCN. Satakarni, vị vua thứ sáu của vương triều Satvahana, đã đánh bại vương triều Sunga
ở Bắc Ấn Độ. Satvahana còn có một đế vương vĩ đại nữa, đó là Gautamiputra Satakarni. Vương quốc Kuninda là một quốc gia nhỏ ở Himalaya
tồn tại từ khoảng thế kỷ thứ II TCN đến khoảng thế kỷ thứ III. Đế quốc Kushan từ Trung Á đã xâm nhập miền Tây Bắc Ấn Độ vào khoảng giữa
thế kỷ thứ I, lập nên những đế quốc mà sau này trải dài từ Peshawar tới vùng trung lưu sông Hằng và có thể đến cả vịnh Bengal. Nó bao gồm cả
nhà nước Bactria cổ đại (ở miền Bắc Afganistan ngày nay) và Nam Tajikistan. Các Tây Satrap (35-405) đã thống trị vùng Tây và Trung Ấn Độ.
Họ kế tục các nhà nước Ấn-Scythia và cùng thời với các nhà nước Kusha ở miền Bắc tiểu lục địa Ấn Độ, và Satavahana (Andhra) ở miền Trung
Ấn Độ.
Các đế quốc khác nhau như Vương quốc Pandya, Vương triều Chola, Vương triều Chera, Vương triều Kadamba, Vương triều Tây Ganga, các
vương triều Pallava và Chalukya thay nhau thống trị miền Nam bán đảo Ấn Độ. Một vài vương quốc nữa đã hình thành ở vùng biển Đông Nam.
Các nhà nước này đã tiến hành chiến tranh với nhau và với các nhà nước Decan để giành quyền bá chủ miền Nam. Kalabhras, một vương quốc
theo đạo Phật, đã có lúc lấn át cả các vương triều hùng mạnh Chola, Chera and Pandya ở Nam Ấn.

You might also like