Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 21

1 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

PHÂN TÍCH “TÂY TIẾN” (Quang Dũng) BUỔI 01 + 02


<mình sẽ học thêm buổi 03 ngoài lịch học chính, cô sẽ thông báo khi
xếp được lịch nhá>

Bình luận một bài học/một thông điệp mà bạn cảm nhận được sau khi đọc “Tây
Tiến”.
Thơ: tiếng lòng của người cầm bút. → thể hiện những rung động, những xúc
cảm trong trái tim người nghệ sĩ.
- Những người lính TT hầu hết đều ở độ tuổi 18 – 20, là những chàng
sinh viên sẵn sàng nói lời tạm biệt với bút nghiên giảng đường để
hành quân ra trận, sẵn sàng gác lại những giấc mơ riêng tư của một
thời tuổi trẻ sôi nổi nhất để hiến dâng thanh xuân, cuộc đời cho Tổ
quốc.
- Chính nhờ những người trẻ đã để lại tuổi hai mươi của mình mãi
mãi nơi ấy, mà ta mới có cơ hội để được sống trong hòa bình hôm
nay, được mơ những giấc mơ của mình, được sống một cuộc đời
trọn vẹn nhất. → Trân trọng và nâng niu quá khứ cũng chính là một
nền tảng quan trọng để ta sống hết mình với hiện tại.

I. KHÁI QUÁT TÁC GIẢ, TÁC PHẨM


1. Tác giả:
• Là một nhà thơ – người lính → là một thi sĩ khoác màu áo chiến sĩ,
vì thế, nhà thơ QD không chỉ viết về thời kì mưa bom bão đạn bằng
sự tưởng tượng, hình dung qua lời kể của người khác; mà ông sáng
tác bằng chính những trải nghiệm và xúc cảm chân thật từ trái tim
mình.
• Ông còn là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến, có sự kết nối
thân thiết với tất cả các thành viên trong đơn vị.
• Là một người nghệ sĩ đa tài → vừa là thi sĩ, vừa là họa sĩ, vừa là
nhạc sĩ → thơ ông vừa có tính nhạc lại vừa có tính họa (tính nhạc:
thơ có giai điệu, nhịp điệu, thủ thỉ bằng lời ca; tính họa: thơ phác họa
được các hình ảnh bằng đường nét, màu sắc, “kể chuyện” với ngôn
ngữ sống động) → Độc giả đọc thơ QD như đang nghe một bản
nhạc, như đang thưởng một bức tranh.

Trang 1
2 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

• PCST: Ngòi bút phóng khoáng, hào hoa – hòa quyện giữa cảm
hứng lãng mạn (vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ vượt lên trên cả thực
tại khó khăn, khắc nghiệt) và bút pháp hiện thực (tác giả khắc họa một
cách chân thực những nhọc nhằn, thiếu thốn, vất vả của những người lính
trên con đường hành quân).

2. Tác phẩm:
• HCST: Được sáng tác năm 1948 – ở Phù Lưu Chanh, bên dòng sông
Đáy hiền hòa và thơ mộng; ở thời điểm nhà thơ không còn đồng
hành cùng binh đoàn Tây Tiến → Nỗi nhớ chính là cảm xúc chủ đạo
được thể hiện xuyên suốt trong toàn bộ văn bản.
• Mở rộng: Nhan đề: “Nhớ Tây Tiến” → “Tây Tiến” → nhà thơ muốn
cất giữ chữ “nhớ” ấy cho riêng mình, và cũng bởi bản thân thi phẩm
đã ngập tràn nỗi nhớ mãnh liệt, không cần phải cụ thể hóa bằng chữ
“nhớ” trong nhan đề nữa. Bên cạnh đó, chữ “nhớ” thường đi liền
với những gì chỉ thuộc về quá khứ, nên đã vô tình đẩy Tây Tiến về
một miền dĩ vãng xa vời trong tâm trí người cầm bút.
➔ Khi lược bỏ chữ “nhớ”, nhà thơ như muốn khẳng định rằng Tây
Tiến luôn luôn nằm trọn vẹn một góc quan trọng trong trái tim
mình, là một cảm xúc thường trực chứ không phải một kí ức đã qua.
(Có thể đưa ý này vào đoạn khái quát tác giả tác phẩm, hoặc linh hoạt đưa
xuống phần phân tích đoạn trích đề cho, với những đoạn nói về nỗi nhớ sẽ
khá phù hợp)

3. Một số tác phẩm cô khuyên đọc thêm để liên hệ - mở rộng:


Cô gợi ý: Có thể liên hệ mở rộng các tác phẩm theo 3 tiêu chí lớn:
+ Các tác phẩm cùng giai đoạn sáng tác (TT: đọc thêm các tác phẩm cùng
giai đoạn kháng chiến chống Pháp nói riêng và thi ca chiến tranh nói chung)
+ Các tác phẩm cùng chủ đề/hình tượng (TT: hình tượng người lính, nỗi
nhớ trong chiến tranh, …)
+ Các tác phẩm của cùng tác giả

- “Đồng chí” – Chính Hữu


- “Đôi mắt người Sơn Tây” – Quang Dũng
- “Việt Bắc” – Tố Hữu
- “Dáng đứng Việt Nam” – Lê Anh Xuân

Trang 2
3 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

- “Những người đi tới biển” – Thanh Thảo


II. PHÂN TÍCH CHI TIẾT


**Các ý phân tích nâng cao, mở rộng cô viết chữ nghiêng màu đỏ nha.

1. 14 câu thơ đầu: Nỗi nhớ da diết của người lính về những cuộc
hành quân gian khổ cùng binh đoàn Tây Tiến nơi núi rừng hoang
vu, hiểm trở
➔ (mạch cảm xúc: từ hiện tại nhớ về quá khứ đã qua)
a. 4 câu thơ đầu:
Nỗi nhớ về Tây Tiến và những cuộc hành quân gian khổ đã được gợi
dậy trong tâm trí nhà thơ – người lính một cách thật bình dị mà mãnh
liệt vô cùng:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
- Bài thơ bắt đầu với một câu cảm thán, một tiếng gọi tha thiết từ
hiện tại tìm về với quá khứ đã qua. Đó hẳn phải là một lời gọi da
diết từ đáy sâu tâm hồn của người cầm bút, về những kí ức người
đại đội trưởng năm ấy chưa bao giờ lãng quên…
+ Nhà thơ gọi tên sông Mã, dòng sông đã đồng hành cùng những cuộc
hành quân nơi núi rừng hoang vu, hiểm trở của những người lính Tây
Tiến. Sông Mã chính là một người đồng đội của thiên nhiên, đã chứng
kiến bao kí ức buồn, vui của những chàng trai trẻ năm nào.
+ Ngăn cách giữa dòng sông ấy và Tây Tiến là hai chữ “xa rồi”, như một
bức tường thành khó có thể vuợt qua, dựng lên sừng sững giữa quá khứ
và hiện tại. Làm sao ta có thể lội ngược dòng thời gian để trở về những
tháng năm ấy? Làm sao ta có thể xoay chuyển cả tạo hóa để tìm về những
gì đã qua? Chỉ có một cách duy nhất là phải đi qua nỗi nhớ.
➔ Chính nỗi nhớ là con đường duy nhất để trái tim được quay về
nương náu trong những kỉ niệm cũ, để nhà thơ – người lính Quang
Dũng được sống trong những hoài ức với đồng đội của mình.
- Câu thơ thứ hai ngập tràn nỗi nhớ. Chỉ bảy chữ thôi mà tác giả lặp
lại tới hai chữ “nhớ” như để nhấn mạnh những cuộn trào xúc cảm
trong tâm hồn của mình khi nhắc về Tây Tiến.

Trang 3
4 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

+ Thứ nhất, nỗi nhớ hướng về không gian rừng núi – là nơi họ đã cùng
chia sẻ những ngày tháng đẹp nhất của tuổi trẻ. Dẫu cho đó là nơi vô cùng
nguy hiểm, nơi “rừng thiêng nước độc” đã đem đến bao khó khăn cho
những người lính, thế nhưng, Quang Dũng vẫn nâng niu, trân trọng cả
những gập ghềnh trên con đường hành quân năm đó.
+ Cây bút còn đặt tên cho nỗi nhớ mênh mang trong cõi lòng bằng một
từ láy giàu sức gợi: “nhớ chơi vơi”. “Chơi vơi” là một trạng thái như lơ
lửng giữa một không gian ngập tràn xúc cảm, như thể giữa biết bao mảnh
ghép của hoài niệm, Quang Dũng đã chủ động tìm về với kí ức mang tên
“Tây Tiến”. Vượt qua dòng chảy thời gian, nhà thơ đã chạm vào những
hồi ức mà ông không bao giờ muốn quên trên chặng đường trưởng thành
của mình. Phải chăng, để đi từ hiện tại về quá khứ, con người ta phải đi
qua những miền tâm tưởng như giao giữa hai bờ thời gian như thế?
+ Thế nhưng, đâu phải ai đi qua những khó khăn cũng sẽ luôn trọn vẹn dành nỗi
lòng để nhớ về quá khứ, nhớ về nhau. Như trong “Ánh trăng”, nhà thơ Nguyễn
Duy đã khắc họa nhân vật trữ tình sau khi trở về với ánh điện, cửa gương rực
rỡ, đã vội vã quên lãng quá khứ hồn nhiên như cây cỏ cùng vầng trăng. Ánh
trăng là người bạn tâm tình năm xưa, nay bỗng chỉ còn là “người dưng qua
đường” … Nếu như “Ánh trăng” khắc họa sự dửng dưng, hờ hững, vô tâm quên
lãng của con người; thì “Tây Tiến” lại bộc bạch một nỗi niềm thủy chung, ân
nghĩa vẹn toàn.

Nếu như ở hai câu thơ đầu, nhà thơ bâng khuâng từ hiện tại tìm về quá
khứ, thì đến với hai câu thơ sau – những hoài niệm đã quay trở về thật
rõ nét trong tâm trí người cầm bút:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
- Nỗi nhớ đến đây được gọi tên thật cụ thể bằng những địa danh
trong địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến: Sài Khao,
Mường Lát. Đó hẳn là những cái tên thật xa lạ với các chàng trai trẻ
Hà Thành lúc ban đầu khi mới nhận nhiệm vụ, nhưng giờ đây, đó
lại trở thành điểm quay về của nỗi nhớ, khi cất giữ bao kỉ niệm trên
chặng đường hành quân. → Đó không chỉ là những địa danh trên
bản đồ địa lý, mà thực sự trở thành những địa danh trong tấm bản
đồ đặc biệt được dệt nên bởi nỗi nhớ trong tâm hồn…

Trang 4
5 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

- Chặng đường hành quân đâu phải một hành trình dễ dàng, bằng
phẳng, êm ái. Đó là một con đường với biết bao thử thách khắc
nghiệt, là những nhọc nhằn từ thiên nhiên, là những hiểm nguy rình
rập từ quân thù. Nhà thơ nhớ về những ngày hành quân “sương
lấp đoàn quân mỏi”.
+ Tác giả khắc họa yếu tố thời tiết đầy khó khăn với động từ “lấp” để
miêu tả màn sương dày đặc che kín con đường hành quân của những
người lính. Không phải là màn sương giăng dịu dàng đong đầy xúc cảm như
một nàng thơ của tạo hóa, không phải là “sương chùng chình qua ngõ” để xốn
xao đón thu sang như cách thi nhân Hữu Thỉnh khắc họa; màn sương trong ngòi
bút của Quang Dũng thậm chí khiến những người lính không thể nhìn thấy
đường đi, thế nhưng họ vẫn chưa bao giờ lùi bước.
+ Nhà thơ không lãng mạn hóa khung cảnh của những chặng đường gập
ghềnh đó, ông viết một cách thật giản dị về trạng thái của những người
lính bằng tính từ “mỏi”. Thế nhưng, ta tin rằng, họ có thể rệu rã một chút
trên đôi chân của mình sau nhiều ngày đi đường, nhưng trái tim họ, tinh
thần của họ thì luôn luôn vững chãi. Chính sức mạnh nội tâm mãnh liệt
đã đưa họ vượt qua mọi gian khó để kiên trì hướng tới mục tiêu của đoàn
quân.
- Ngay sau đó, nhà thơ lại sử dụng cây cọ ngôn từ của mình để vẽ
nên một hình ảnh thật dịu dàng, lãng mạn, như xoa dịu chính
những nhọc nhằn trước đó: “hoa về trong đêm hơi”.
+ Ta có thể hình dung đó là hình ảnh của những bông hoa đang nở rộ,
tỏa hương sắc rực rỡ như vỗ về những khó khăn của những người lính.
Những bông hoa ấy tạo nên một khung cảnh thật trữ tình, thơ mộng, đối
lập với màn sương dày đặc đầy khắc nghiệt trước đó.
+ Đó cũng có thể là những ngọn đuốc soi sáng trong đêm khuya tăm tối,
là đuốc mà những chàng trai trẻ cầm trên tay hoặc là đuốc do người dân
thắp lên để soi sáng đường đi cho người lính, để đón họ trở về nghỉ chân.
+ Hay, tác giả đang ẩn dụ “hoa” ở đây chính là những người lính? Họ
cũng mang trái tim nở rộ như những bông hoa đẹp nhất, họ cũng sẵn sàng
hiến dâng hương sắc của mình cho cuộc đời chứ không chỉ sống vì bản
thân mình, tâm hồn họ “nở hoa” thật đẹp khi lựa chọn sống vì nhân dân,
vì Tổ quốc… Nhà thơ không dùng từ “hoa nở” mà viết “hoa về” hẳn cũng bởi
như thế. Bên cạnh đó, phải chăng cây bút không muốn nói tới sự tàn phai nhất
định sẽ tới của những bông hoa thiên nhiên, nên mới dùng động từ “về” để khắc

Trang 5
6 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

họa vẻ đẹp tâm hồn của những “bông hoa người lính”? Hoa của thiên nhiên rồi
cũng sẽ khép lại vòng đời ngắn ngủi của mình, nhưng những người lính chỉ cần
đã lựa chọn sống cho quê hương, dẫu cho sau này họ tạm biệt nhân gian, họ vẫn
sẽ luôn được nhớ đến theo một cách đặc biệt nhất. Như nhà thơ NKĐ cũng từng
khẳng định: “Không ai nhớ mặt đặt tên – Nhưng chính họ đã làm ra Đất Nước”.
Tổ quốc ta đâu chỉ được tạo nên bởi những người anh hùng được sử sách nhớ
mặt ghi danh, chính những người lính bình dị, vô danh ấy đã góp mình tạo nên
Đất Nước một cách thật đáng trân quý biết bao. “Tây Tiến” quả thật là “tượng
đài bất tử về những người lính vô danh thời kì kháng chiến chống Pháp”.

b. 4 câu thơ tiếp: Con đường hành quân gian nan của người lính Tây
Tiến
“Dốc lên khúc khủyu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
- Ba câu thơ đầu như vẽ lên trước mắt độc giả bức tranh hiểm trở,
khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc:
+ Đó là những con dốc nối tiếp nhau như không có điểm dừng. Dốc lên
“khúc khuỷu”, gập ghềnh, đầy gian khó. Dốc lại còn “thăm thẳm”, sâu
hun hút càng tạo nên nhiều thử thách cho các chàng trai trẻ. Rõ ràng, con
đường họ đi chẳng hề bằng phẳng, dễ dàng, phải mất rất nhiều sức lực
để vượt qua và hoàn thành nhiệm vụ. Điệp từ “Dốc … dốc…” lại càng
nhấn mạnh rằng hết thách thức này lại đến gian nan khác, họ liên tục phải
đối diện và chinh phục những khó khăn. Trong bài thơ “Lên núi” được Bác
sáng tác khi đi thị sát chiến dịch Biên giới năm 1950, Người cũng đã từng khắc
họa về không gian trắc trở, trùng điệp: "Chống gậy lên non xem trận địa - Vạn
trùng núi đỡ vạn trùng mây”. Hình ảnh “vạn trùng núi – vạn trùng mây” ấy
có lẽ cũng gợi nhiều sự tương đồng với “dốc khúc khuỷu – dốc thăm thẳm” trong
thi phẩm “Tây Tiến”. Cả hai ý thơ, người cầm bút đều sử dụng phép điệp như
một cách phác họa thật cụ thể những gập ghềnh liên tiếp nhau giữa cảnh núi non
hùng vĩ, tạo nên nhiều trở ngại mà người lính phải tìm cách vượt qua. Đối với
người thưởng ngoạn, khung cảnh ấy thật tráng lệ biết bao. Nhưng đối với những
người chiến sĩ, đó lại là khó khăn muôn trùng.
+ Không gian của những chuyến đi ấy thì thưa thớt, vắng vẻ, thiếu hơi ấm
và sức sống bình dị từ đời sống thường nhật của con người. Họ đi giữa

Trang 6
7 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

những cồn mây heo hút, nơi mà ngọn súng trên vai như chạm đến cả bầu
trời.
• Nhà thơ sử dụng thủ pháp nhân hóa “súng ngửi trời” để làm bật
lên hình ảnh cây súng chạm tới bầu trời bao la, rộng lớn. Giữa một
không gian thưa thớt bóng người, quạnh hiu, vắng vẻ, cây súng trên
vai những người lính lại trở thành một sự vật “có hồn” như thế.
Phải chăng bởi, cây súng ấy trong khung cảnh này không phải một
vũ khí tấn công – hủy diệt, mà là một công cụ để các chàng trai Tây
Tiến bảo vệ quê hương thân yêu của mình? → Cây súng tượng
trưng cho trái tim chính nghĩa, cho lý tưởng cao đẹp vì Tổ quốc, vì
nhân dân.
• Bầu trời khoáng đạt thường gợi nhắc đến sự tự do. Vì thế, hình
ảnh này như nhấn mạnh giấc mơ vươn mình đến hòa bình, độc lập
của những người lính.
• Trong văn học trung đại, con người thường bé nhỏ, cô đơn trước thiên
nhiên, vũ trụ. Nhưng với hình ảnh này trong thơ Quang Dũng, độc giả
lại cảm nhận được hình ảnh những người lính trở thành chủ thể của bức
tranh thiên nhiên mênh mông ấy, họ làm chủ không gian bằng chính sức
mạnh nội tâm mãnh liệt, bằng chính trái tim quả cảm đong đầy tình yêu
Tổ quốc.
+ Lại một lần nữa, nhà thơ sử dụng phép điệp để nhấn mạnh những gập
ghềnh trên con đường ấy: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”.
Nhịp thơ 4/3 vẫn được sử dụng ở cả ba câu thơ, như bẻ gãy từng ý thơ,
tạo nên địa hình trắc trở, gian truân cho những người lính. Từ ngữ tương
phản “lên cao” – “xuống” khiến độc giả hình dung được những bước chân
vượt qua khó khăn của những người lính trước “bài toán khó” mà thiên
nhiên đặt ra. Dẫu là những người lính trẻ chưa nhiều kinh nghiệm đi
rừng, vượt thác, ấy vậy mà những chàng trai Tây Tiến vẫn luôn bình tĩnh
vượt qua từng “cửa ải”. Nhờ sức mạnh nội tâm và tinh thần yêu nước, họ
quyết không đầu hàng dù đối diện với khó khăn lớn đến ra sao. Chính ý
chí mãnh liệt ấy sẽ đưa họ vượt qua mọi gian nan núi đèo.
- Để rồi, cuối cùng, đến với câu thơ thứ tư, nhà thơ lại sử dụng toàn
bộ các thanh bằng như khép lại những khó khăn ấy bằng một nỗi
niềm trong tâm hồn những người lính: “Nhà ai Pha Luông mưa xa
khơi”.

Trang 7
8 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

+ Đầu tiên, ta có thể hiểu câu thơ theo nghĩa tả thực. Ngòi bút của Quang
Dũng lúc này như biến thành một cây cọ để phác họa nên một bức tranh
giàu cảm xúc. Đó là một căn nhà của một ai đó ở Pha Luông, giữa màn
mưa rừng xối xả. Những người lính có thể không quen biết chủ nhân của
tổ ấm nhỏ ấy, nhưng họ biết mình đang chiến đấu vì những bình yên bình
dị nhất như vậy. Trái tim họ như được tiếp thêm động lực để vững chắc
cây súng, để vững bước đôi chân, để nỗ lực vượt qua mọi thử thách khắc
nghiệt nhất.
+ Và, ở một góc nhìn đầy sự thấu hiểu từ người cầm bút, phải chăng nhà thơ
Quang Dũng đang muốn khắc họa những xúc cảm thổn thức nơi tâm hồn những
người lính trẻ - những chàng trai lần đầu xa nhà lâu đến thế, lại là một chuyến
đi chẳng dám hẹn ước ngày trở về… Trong trái tim họ cũng có một ngôi nhà,
một gia đình mà họ luôn luôn nhung nhớ. Họ luôn giữ “ngôi nhà” ấy trong tâm
hồn, đằng sau những màn mưa rơi thậm chí là những “bão giông” của cuộc
chiến, để tìm kiếm những bình yên dịu ngọt nhất cho riêng mình, để tự mình tiếp
thêm động lực trên chặng đường mà mình đã chọn lựa. Trong thi phẩm “Tiếng
gà trưa”, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh cũng từng viết thật dịu dàng, như thủ thỉ lại
nỗi lòng của những người lính: “Trên đường hành quân xa – Dừng chân bên
xóm nhỏ - Tiếng gà ai nhảy ổ - Cục, cục tác, cục ta – Nghe xao động nắng trưa
– Nghe bàn chân đỡ mỏi – Nghe gọi về tuổi thơ…” Dẫu đang phải đối mặt với
nhiều gian nan trên đường hành quân, nhưng chỉ cần một hình ảnh hoặc thanh
âm thật bé nhỏ, như căn nhà giữa màn mưa, như tiếng gà trưa nhảy ổ, đã đủ để
gọi về bao kí ức quen thuộc cất giấu trong tâm hồn những chàng trai ấy…

HẾT LIVE 01.


LIVE 02:

c. 6 câu thơ tiếp: Chân dung người lính Tây Tiến nhọc nhằn, gian khổ
giữa bức tranh hoang vu của thiên nhiên núi rừng – cùng tình cảm
mà người dân dành cho người lính
c.1 Chân dung người lính
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Trang 8
9 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

- Hình ảnh người lính được khắc họa vô cùng chân thật và đầy cảm
xúc:
+ Từ “anh bạn” vang lên thật thân thương, bình dị mà ấm áp. Chỉ hai chữ
thôi mà như khắc họa nên một mối quan hệ gần gũi biết bao. Họ là
những người bạn cùng hành quân qua bao gian khó, là những người cùng
vào sinh ra tử nơi chiến trận, là những người có chung lý tưởng lớn lao
và chung cả những giấc mơ nhỏ bé… Vì thế, họ thương nhau, tin nhau
như những người bạn thân thiết nhất.
+ Nhà thơ khắc họa chân dung người đồng đội trong kí ức của mình với
tính từ “dãi dầu” để nhấn mạnh những nhọc nhằn, khó khăn của người
lính trên chặng đường hành quân nhiều thử thách.
+ Trong ý thơ xuất hiện cụm từ “không bước nữa” gợi lên nhiều cách
hiểu.
• Đó có thể là một phút nghỉ ngơi trên hành trình nhiều gian truân,
vất vả; để tiếp thêm năng lượng rồi lại băng băng vươn mình tới
đích, tới lý tưởng cao đẹp mà họ đã lựa chọn.
• Hay phải chăng, đó là hình ảnh đầy đau đớn nhưng không thể tránh khỏi
của những tháng năm mưa bom bão đạn khốc liệt, hình ảnh về những
chàng trai trẻ đã gói ghém lại thanh xuân của mình mãi mãi nơi chiến
trận… Họ ra đi mà không dám hẹn ngày trở về. Với rất nhiều người, ngày
nói lời tiễn biệt cũng là lần gặp gỡ sau cuối với những người thân yêu.
Nhà thơ miêu tả sự hy sinh của những người lính một cách nói giảm nói
tránh, để xoa dịu phần nào nỗi đau trước những mất mát quá lớn lao thời
kì khói lửa ấy. Ba chữ này cũng thể hiện sự ra đi chẳng chút bi lụy, bởi
những chàng trai trẻ ấy đã chủ động lựa chọn hiến dâng cuộc đời mình
cho Tổ quốc, cho quê hương, cho nhân dân…
• "Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình
Mỗi câu thơ như sợi tơ dài
Rút ra từ tháng ngày bom đạn."
Và chính những câu thơ của Quang Dũng cũng như một “sợi tơ dài” đã
giúp ta hình dung, kết nối với những tháng ngày gian lao mà vĩ đại của
lịch sử dân tộc qua hình ảnh đoàn binh Tây Tiến “gục lên súng mũ bỏ
quên đời”. Họ là "Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng" (Chính
Hữu) đã mang cái chí của nam nhi thời loạn, đã xếp bút nghiên ra sa
trường. “Gian nan chốn sa trường vừa là thách thức vừa là cơ hội để chất
kiêu hùng Tây Tiến tỏa sáng”, và chính vì thế mà hình ảnh của các anh

Trang 9
10 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

luôn mang lại nhiều cảm động giống như trong sáng tác thơ mà Thôi Hữu
từng viết:
“Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhòa
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà.”

+ “Trên con đường về miền Tây, các đồng chí sẽ phải lặn lội nơi rừng xanh suối
bạc, ở những địa phương hàng nửa ngày đường không thấy một bóng người,
thủy thổ không quen thuộc, vật chất thiếu thốn, ngôn ngữ bất đồng, nước độc
ma thiêng.

Chỉ một việc cất chân lên đường tiến về hướng Tây là đủ tỏ cái chí hi sinh,
cái lòng kiên nghị của các đồng chí.” (Trích thư Đại tướng Võ Nguyên Giáp
gửi đoàn quân Tây Tiến.) → Các bạn có thể linh hoạt vận dụng khi phân tích
“TT”.

+ Ý thơ qua đó gợi nhắc đến sự hy sinh của biết bao người lính đã bỏ lại thanh
xuân vĩnh viễn nơi chiến trận, nơi núi rừng, nơi thiên nhiên hoang vu lạnh lẽo,
nơi cách xa mái nhà mà họ luôn khao khát trở về…
“Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm…”
Những câu thơ của Lê Bá Dương cũng đã khắc họa sự hy sinh đau đớn mà vô
cùng vinh quang ấy. Bởi lẽ, họ sẵn sàng cống hiến tuổi hai mươi của mình cho
sóng nước, họ sẵn sàng hiến dâng trọn vẹn cuộc đời cho lý tưởng cao đẹp của
dân tộc.
+ Tuy nhiên, dẫu có phải bỏ mạng nơi chiến trường khốc liệt, tư thế hy
sinh của những người lính vẫn thật anh dũng, kiên cường. Động từ
“gục” kết hợp với ba chữ đầy khảng khái “bỏ quên đời” cho ta thấy rõ sự
chủ động, bất khuất của những người lính trẻ. Như trong lá thư Đại tướng
Võ Nguyên Giáp viết gửi những chàng trai Tây Tiến, chí anh hùng của họ đã
được trân trọng vô cùng: “Chỉ một việc cất chân lên đường tiến về hướng Tây
là đủ tỏ cái chí hi sinh, cái lòng kiên nghị của các đồng chí.” Có lẽ, ngay từ giây
phút vác cây súng lên vai để tiến ra chiến trận, họ đã sẵn sàng kí gửi cuộc đời
mình cho non sông, đất nước.

Trang 10
11 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

- Không gian núi rừng ẩn chứa nhiều hiểm nguy:


+ Tác giả sử dụng từ láy toàn phần để khắc họa thời gian: “chiều chiều”,
“đêm đêm” – tạo nên một vòng tuần hoàn lặp đi lặp lại, chiều nào cũng
thế và đêm nào cũng vậy. Những khó khăn, gian truân trên đường hành
quân là những điều tất yếu – và có lẽ tinh thần mạnh mẽ, dũng cảm đối
diện với những thử thách ấy cũng là một lẽ đương nhiên với những chàng
trai Tây Tiến. Chính ý chí kiên cường đã giúp họ vượt lên thực tại, sẵn
sàng chinh phục mọi gian khó.

+ Hình ảnh “thác gầm thét” – “cọp trêu người” là những khó khăn đe dọa
người lính từ chốn rừng thiêng. Nhà thơ nhấn mạnh những nỗi nguy
hiểm rình rập đầy rẫy trên con đường những người lính đang đi, với
những thanh âm dữ dội từ thiên nhiên, tạo hóa, từ những loài thú dữ.
Quả thật, con đường hành quân có bao giờ êm ái, bằng phẳng? Những
chàng trai luôn biết rõ điều đó, nhưng họ vẫn gạt đi những nỗi sợ riêng
tư bé nhỏ, để mạnh mẽ bước chân vào chặng đường vì Tổ quốc. Như Đại
tướng Võ Nguyên Giáp đã phần nào khắc họa về những thử thách ấy
trong bức thư gửi đoàn quân Tây Tiến: “các đồng chí sẽ phải lặn lội nơi rừng
xanh suối bạc, ở những địa phương hàng nửa ngày đường không thấy một bóng
người, thủy thổ không quen thuộc, vật chất thiếu thốn, ngôn ngữ bất đồng, nước
độc ma thiêng.” Cả những vần thơ của Quang Dũng hay những dòng chữ chân
thành của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đều chỉ khắc họa một phần những thử
thách ấy mà thôi.

+ Bản chất của địa danh là tên gọi. Gọi một cái tên mà như thâu tóm cả vùng đất,
linh hồn và kỉ niệm, quả thật không dễ dàng. Ấy vậy mà trang thơ Quang Dũng
lại làm được điều ấy. Không chỉ mang ý nghĩa là gợi tên vùng đất, cái hay của
địa danh trong địa danh mà Quang Dũng dùng nó còn khéo léo gợi ra chất nhạc.
Ví dụ Mường Hịch âm thấp, nặng gắn với “cọp trêu người” tạo ấn tượng huyền
bí và gieo rắc sợ hãi. Hai chữ “Hịch cọp” với hai thanh nặng liên tiếp như tạo
nên tiếng bước chân chắc nịch của thú dữ chốn rừng sâu.
→ (Vì thế nên khi viết phân tích các câu thơ mang từ địa danh trong thơ Quang
Dũng, các bạn phải phân tích được cái hay và dụ ý của ông Quang Dũng, tại sao
câu đó địa danh đó lại ở chỗ đó.)

c.2 Tình cảm quân dân


“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Trang 11
12 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”


Đoạn thơ khép lại với tình cảm quân dân ấm áp mà những người lính Tây
Tiến và người dân Tây Bắc dành cho nhau.
- Câu thơ bắt đầu với từ cảm thán “Nhớ ôi”, qua đó bộc lộc cảm xúc
trực tiếp của người cầm bút. Hẳn trái tim nhà thơ phải mang một
nỗi nhớ mãnh liệt, da diết, cuộn trào lắm, mới thốt lên thành một
câu đong đầy nỗi nhớ thương đến vậy…
- Nỗi nhớ của họ không bao gồm những điều lớn lao, vĩ đại, mà chỉ
đơn thuần là những điều bé nhỏ vô cùng. Đó là “cơm lên khói”, đó
là hương vị “thơm nếp xôi”. → Họ nhớ những bữa ăn bình dị, đạm
bạc nơi núi rừng; nhớ sự quan tâm chi chút của những người dân
dành cho họ trên đường hành quân. Ý thơ vừa có hình ảnh, lại vừa
có cả mùi vị thơm thảo, ngọt ngào biết mấy.
- Lại một lần nữa, tên địa danh trên con đường hành quân lại được
nhắc đến một cách thân thương vô bờ. Mai Châu đâu chỉ là một địa
danh đơn thuần, vô tri trên tấm bản đồ địa lý khô khan, xa lạ. Nơi
ấy đã trở thành một điểm đến của những hồi ức trong tâm hồn nhà
thơ – người lính, đong đầy những kỉ niệm và tình cảm mà họ gửi
trao cho nhau cũng như trao cho người dân. → Nối lại những địa
danh trong cả đoạn thơ, từ Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông,
Mường Hịch đến Mai Châu, ta không chỉ hình dung được địa bàn
hoạt động của những người lính Tây Tiến, mà còn thấy được cả một
lộ trình của nỗi nhớ men theo dòng chảy xúc cảm trong trái tim
người nghệ sĩ đa tài Quang Dũng.
- Nhà thơ đã có một sự sáng tạo vô cùng duyên dáng khi lấy con
người để định nghĩa cho dòng chảy thời gian: “mùa em”. Ta đâu
biết “mùa em” chính xác là mùa nào trong năm, bởi dường như mọi
yếu tố thời gian đều mờ nhòa đi trước vẻ yêu kiều của người con
gái. Những người lính ấy đã lấy chính “em” làm trung tâm của
những kỉ niệm, là linh hồn của những câu chuyện thời chiến, là tên
của một mùa thật dịu dàng, ngọt ngào những nhớ nhung. → Tình
cảm quân dân ấm áp, bình dị đã được khắc họa thật dí dỏm biết
bao.
➔ Phải chăng, nhà thơ xứ Đoài mây trắng cũng thầm kín thể hiện, bộc
bạch khao khát yêu và được yêu của những chàng trai trẻ với trái
tim sôi nổi, nhiệt huyết ấy qua cách định nghĩa đầy thú vị này?

Trang 12
13 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

Trong thi phẩm “Đôi mắt người Sơn Tây”, nhà thơ cũng dịu dàng khắc họa hình
ảnh cô gái ở quê hương đong đầy bao nhớ thương, qua đó gửi gắm khát vọng tình
yêu và mong ước hòa bình cho dân tộc.
“Tôi gửi niềm nhớ thương
Em mang giùm tôi nhé
Ngày trở lại quê hương
Khúc hoàn ca rớm lệ”
Dường như, trong trái tim nhà thơ – người lính xứ Đoài mây trắng ấy, hình ảnh
những cô gái duyên dáng, dịu dàng đã trở thành một điểm tựa ngọt ngào, tiếp
thêm sức mạnh cho thi sĩ – chiến sĩ Quang Dũng.

2. 8 câu thơ tiếp: Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm
lửa trại và cảnh sông nước miền Tây buổi chia ly (đoạn thi 2021
đợt 2) ➔ Các bạn tự đọc file phân tích.
a. 4 câu thơ đầu: Những kỉ niệm đẹp trong đêm liên hoan lửa trại
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
- Khung cảnh đêm liên hoan:
+ “Doanh trại”: chỉ nơi đóng quân để nghỉ chân trên đường hành quân
của binh đoàn Tây Tiến → đó là những giây phút nghỉ ngơi hiếm hoi của
những người lính trẻ trên suốt chặng đường nhiều nhọc nhằn, thử thách.
Cách dùng từ này đồng thời cũng bộc lộ thái độ trân trọng của người cầm
bút với Tây Tiến – họ có thể chỉ là một đơn vị nhỏ, nhưng lại có vị trí lớn
trong trái tim của người đội trưởng năm nào.
+ Chữ “bừng” được xem như “nhãn tự” của câu thơ – là “con mắt” chứa
đựng linh hồn của cả vần thơ ấy
• Bừng sáng về không gian → tả thực không gian của đêm lửa trại,
ánh sáng bập bùng của ngọn lửa như thắp sáng không gian vốn u
tối nơi rừng thiêng nước độc
• Bừng tỉnh nơi tâm hồn những người lính → khắc họa ngọn lửa ấm
áp, mãnh liệt trong trái tim của những người lính. Đó là ngọn lửa
của lý tưởng cao đẹp mà họ luôn khao khát; là ngọn lửa của những

Trang 13
14 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

niềm vui bình dị mà họ trân quý chia sẻ với nhân dân trên đường
hành quân.
• Đó cũng có thể là sự “bừng tỉnh” giác ngộ trong tâm trí của những chàng
trai Hà Thành, như cảm giác hạnh phúc vỡ òa mà nhà thơ Tố Hữu từng
khắc họa: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”. Chữ “bừng” ở những vần thơ
ấy đều như gói gọn niềm hạnh phúc khi được cống hiến thanh xuân, được
hiến dâng đời mình cho lý tưởng lớn lao của Tổ quốc.
+ Những người lính dí dỏm, tinh nghịch gọi đêm liên hoan lửa trại là “hội
đuốc hoa”, bởi lẽ đó là một đêm hội đáng nhớ để chia sẻ những niềm vui
ấm nồng tình quân dân. Ngọn lửa bập bùng của đêm ấy trong lăng kính
của họ bỗng trở thành “đuốc hoa” – thứ ánh sáng vốn tượng trưng cho
đêm tân hôn – cho kỉ niệm lứa đôi dạt dào, cho khoảnh khắc thăng hoa
của tình yêu
➔ Ý thơ vừa thể hiện lăng kính lãng mạn – vừa ngầm bộc lộ khao khát
cháy bỏng trong sâu thẳm trái tim những người lính trẻ ấy. Họ cũng
mong muốn có một “hội đuốc hoa” của riêng mình, cũng chờ đợi
tìm thấy một người sẽ cùng nắm tay mình đi đến cuối. Giấc mơ về
một tình yêu mang tên mình thật trong sáng, chân thực và đáng trân
trọng vô cùng.

- Hình ảnh những cô gái miền sơn cước:


+ Được khắc họa trong ánh nhìn ngây ngất mê say của những người lính.
Thán từ “Kìa em” vang lên như một tiếng thốt lên đầy ngỡ ngàng, thể
hiện sự sững sờ, ngạc nhiên của các chàng trai trước vẻ lộng lẫy hơn hẳn
ngày thường của những thiếu nữ xinh đẹp, duyên dáng. Tiếng gọi ấy đi
kèm với một câu hỏi không cần lời đáp “xiêm áo tự bao giờ”. Không hẳn
những người lính cần câu trả lời cụ thể về thời gian, mà họ chỉ đơn thuần
muốn bộc bạch cảm xúc của mình với những cô gái Thái. Về phía ngược
lại, dường như chính những thiếu nữ Tây Bắc cũng rất coi trọng sự kiện
gặp gỡ với những người lính nên mới điệu đà xiêm y như thế.
➔ Và thế là, chẳng cần đến một từ ngữ cụ thể miêu tả về ngoại hình
của những cô gái vùng cao, ấy thế mà, nhà thơ vẫn khiến chúng ta
phải gật gù trước vẻ đẹp đầy thu hút của họ.
➔ Giữa bức tranh với những đường nét gân guốc của chiến trường
khốc liệt, hình ảnh những “bóng hồng” thướt tha, e thẹn, dịu dàng

Trang 14
15 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

xuất hiện như những nét cọ mềm mại, lãng mạn, tạm xua đi khó
khăn nơi bom đạn ngặt nghèo.
+ Không chỉ có những bóng hình được khắc họa tinh tế bởi nét cọ trong
ngôn từ, ta còn cảm nhận được những thanh âm lan tỏa trong vần thơ của
Quang Dũng: “Khèn lên man điệu”. Nếu như “khèn” là nhạc cụ quen
thuộc của người dân miền núi thì “man điệu” là điệu múa mang bản sắc
riêng của một số dân tộc thiểu số vùng cao. Thanh âm hòa quyện với điệu
nhảy, để rồi từ từ lan tỏa khắp đêm hội, khơi dậy những xúc cảm nơi trái
tim người lính, người dân. Chân dung “nàng” hiện lên trong chính tiếng
nhạc ấy, thẹn thùng, e ấp, dịu dàng, vương mắc nơi tâm hồn những chàng
trai trẻ. Từ “em” ở câu thơ trên đã quá đỗi tình tứ, nhưng từ “nàng” trong
vần thơ này lại càng thêm khắc khoải những nhớ mong có lẽ chưa kịp nói
thành lời.
+ Liên hệ “Đôi mắt người Sơn Tây” (Quang Dũng)
Trong những vần thơ của mình, nhà thơ “xứ Đoài mây trắng” thường khắc họa
hình ảnh những người thiếu nữ một cách thật dịu dàng, tự nhiên trong lăng
kính và nỗi nhớ của nhân vật trữ tình. Như trong “Đôi mắt người Sơn Tây”,
QD từng thủ thỉ:
“Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca
Đã hết sắc màu chinh chiến cũ
Em có bao giờ em nhớ ta?”
Mong mỏi được tái ngộ với “em”, với cô gái trong kí ức – nhà thơ cũng bộc lộ
khao khát hòa bình, độc lập cho dân tộc. Từ đó, tình riêng và tình chung hòa
quyện một cách thật nồng nàn biết bao.
- Dường như, tất cả những chất liệu ngọt ngào ấy – từ dáng vẻ duyên
dáng trong bộ xiêm áo điệu đà của những cô gái vùng cao, đến tiếng
khèn vang lên cùng những điệu nhảy của quân và dân trong đêm
lửa trại, đã xây đắp tâm hồn lãng mạn nơi những người lính xuất
thân từ Hà Thành, khơi dậy “hồn thơ” vẫn luôn ấp ủ trong trái tim
họ. Dẫu phải trải qua nhiều thử thách trên các chặng đường hành
quân gian nan, vất vả; dẫu phải đối diện với khói lửa bom đạn và
luôn ở trên ranh giới mong manh giữa sự sống – cái chết; họ vẫn
giữ để tâm hồn mình không khô héo trước ngọn lửa của quân thù…
Chính “hồn thơ” ấy đã vun đắp để “hồn lính” càng thêm mãnh liệt,
vững chãi hơn. → Tác giả đã gieo nhạc vào tâm hồn những người

Trang 15
16 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

lính, gọi dậy những xúc cảm nồng nàn thiết tha – qua đó tiếp thêm
sức mạnh để họ thêm tin tưởng con đường mà mình đã chọn.

b. 4 câu thơ sau: Cảnh sông nước miền Tây buổi chia ly
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Nếu như bốn câu thơ trên khắc họa niềm vui ấm áp trong đêm liên hoan
lửa trại, thì đến với bốn câu dưới – ta như hẫng đi một nhịp trước câu chia
ly vội vàng buộc phải nói ra. Không cuộc vui nào kéo dài mãi, không bữa
tiệc nào là không đến lúc tàn, ai rồi cũng phải học cách để nói lời tạm biệt
– dẫu cho trái tim có nhiều hụt hẫng. Sau một đêm đầy niềm vui như thế,
những người lính phải ngay lập tức quay lại với nhịp độ của cuộc chiến,
chia tay bản làng và tiếp tục lên đường.
- Hình ảnh người lính được khắc họa gắn liền với địa danh Mộc Châu
– như một cách Quang Dũng nối dài tấm bản đồ của nỗi nhớ. Đối
với nhiều người, đó chỉ là một điểm đến; nhưng đối với họ, đó là
một kỉ niệm, một hồi ức không thể nào quên, một mảnh ghép quan
trọng của tâm hồn. Khoảnh khắc chia ly đã được tái hiện qua kí ức
những người lính một cách đầy bâng khuâng:
+ “chiều sương ấy” → tác giả khắc họa buổi chia ly cả về không gian (phủ
đầy “sương”) và thời gian (“chiều ấy”)
• “Sương”: hình ảnh quen thuộc của núi rừng Tây Bắc, nhưng ở đây
không phải màn sương mù dày đặc đến mức che khuất tầm nhìn và
lấp cả chân dung những người lính. Mà đó là màn sương mỏng
manh của buổi chiều tà giăng mắc chốn rừng núi, khiến cho giây
phút chia ly thêm lãng mạn, luyến lưu.
• Thời gian buổi chiều thường gắn với những nỗi buồn trong văn học.
Vào lúc chạng vạng, khi đất trời giao nhau giữa ngày và đêm,
dường như con người dễ thấy cô đơn hơn, dễ nhung nhớ hơn về
những điều đã không còn thuộc về thực tại. Ở câu thơ này, chiều
còn được kết hợp với đại từ phiếm chỉ “ấy” như một cách nhà thơ
lãng mạn hóa lời ly biệt, khiến khoảng thời gian trở nên mơ hồ,
không rõ ràng – từ đó nhấn mạnh nỗi nhớ thương bao phủ khắp
không gian, len lỏi dòng thời gian, khắc khoải trong lòng cả người

Trang 16
17 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

đi và kẻ ở. → “chiều sương ấy” đã trở thành một dấu mốc đặc biệt
khó phai dẫu không được “định vị” cụ thể bằng ngày – tháng –
năm).
- Phép điệp được thể hiện đầy da diết, khắc khoải trong hai câu thơ
tiếp theo đã thực sự đưa bạn đọc đến với giây phút chia ly đầy xúc
động:
“Có thấy …”
“Có nhớ…”
➔ Khơi gợi những giác quan khác nhau của người lính về giây phút
khó quên ấy.
+ Tác giả dùng từ “thấy” với một hình ảnh vô hình, trừu tượng: tâm hồn,
linh hồn của những bông lau → phải chăng vì nỗi niềm của con người đã
nhuốm màu vào cảnh vật, khiến cho lau kia nhìn cũng như xác xơ, ủ rũ?
+ Còn từ “nhớ” mang theo cảm xúc chủ đạo của cả thi phẩm, được gắn
với hình ảnh “dáng người trên độc mộc” → nỗi nhớ dành phần lớn cho con
người Tây Bắc. Con người là trung tâm của bức tranh thiên nhiên rộng
lớn khoáng đạt, là điểm đến của những nhớ thương đong đầy.
+ “Dáng người” ấy ta không biết rõ chính xác là ai. Có thể là những cô gái
Thái đang chèo thuyền tiễn người lính sang sông, là những người dân
Tây Bắc đang ngập ngừng nói lời tạm biệt; hoặc cũng có thể là chính
những chàng trai đang tự mình chèo thuyền qua sông để tiếp tục chặng
đường dài phía trước… Nhưng dù hiểu theo nét nghĩa nào, ta đều cảm
nhận được nỗi cô đơn và sự lưu luyến bịn rịn phảng phất trong lời thơ;
bởi cả người đi và người ở đều không muốn nói lời ly biệt…
- Khép lại đoạn thơ với hình ảnh cánh hoa giữa dòng nước lũ:
+ Hình ảnh “hoa” thường gợi cảm giác mong manh, yếu ớt, dễ tan vỡ. Thế
nhưng, “hoa” trong vần thơ của Quang Dũng lại nhẹ nhàng, thư thái, mà
cũng vô cùng mạnh mẽ giữa dòng nước lũ chảy xiết. Dòng nước có thể
cuồn cuộn ào ào, nhưng cánh hoa ấy vẫn “trôi” rất dịu dàng, chậm rãi.
+ Tác giả dùng từ láy “đong đưa” chứ không phải “đung đưa”. Bởi lẽ,
“đung đưa” thiên về chuyển động cơ học – còn “đong đưa” là sự chuyển
động của cảm xúc bên trong → Hình ảnh cánh hoa như làm duyên giữa
dòng nước, nửa muốn đi – nửa muốn ở trong giây phút nói lời tạm biệt.
+ Hình ảnh “hoa” ở đây cũng có thể liên tưởng tới hình tượng của những
người lính Tây Tiến. Giữa dòng nước lũ chảy xiết đầy khốc liệt của chiến

Trang 17
18 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

tranh, họ vẫn giữ được sự bình tĩnh, điềm đạm và vẻ đẹp lãng mạn trong
tâm hồn.
➔ Cuộc chia ly bỗng trở nên thật bồng bềnh, lãng mạn. Đoạn thơ này
gợi nhiều hơn tả, qua đó khắc họa một không gian của hoài niệm,
của ly biệt, hòa quyện giữa chất thơ – chất nhạc – chất họa trong
ngòi bút đặc sắc của nhà thơ- người lính Quang Dũng.

3. 4 câu thơ tiếp: Chân dung người lính Tây Tiến


Vẻ đẹp hào hùng của những người lính:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
- Nhà thơ sử dụng bút pháp hiện thực để khắc họa một cách đầy chân
thực, gai góc về những khó khăn thời chiến. Một trong số đó chính là căn
bệnh sốt rét rừng đã từng cướp đi sinh mạng của biết bao người lính giữa
nơi rừng thiêng nước độc lắm gian nguy.
+ Vì căn bệnh ấy, nhiều người lính phải cạo trọc đầu hoặc bị rụng hết tóc. Có
những chàng trai thì chủ động cạo đi mái đầu của mình để giữ gìn vệ sinh và
thể hiện tinh thần thép trong bối cảnh nhiều những nhọc nhằn.
+ Tuy nhiên, nhà thơ không nói về khó khăn một cách bi lụy, yếu đuối; trái lại,
những người lính như sẵn sàng nhìn thẳng vào các thử thách, chủ động lựa
chọn để chinh phục mọi gian nan. Ba chữ “không mọc tóc” như nhấn mạnh thái
độ quả quyết, kiên cường ấy của các chàng trai trẻ. Như trong “Bài thơ về tiểu đội
xe không kính”, nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng từng kiêu hãnh nói về thực tại đầy khó
khăn: “Xe không có kính không phải vì xe không có kính – Bom giật bom rung kính vỡ
đi rồi”. Rõ ràng, những chiếc xe không kính là minh chứng cho sự tấn công, tàn phá
khủng khiếp của quân thù. Nhưng qua ngòi bút khắc họa lạc quan, mạnh mẽ, dí dỏm
của người cầm bút, cái “không” ấy lại trở thành một niềm tự hào, lại là cơ hội để họ
nhìn thẳng vào trời đất, để họ thu cả con đường lý tưởng chạy thẳng vào trái tim quả
cảm của mình. Hay đó cũng là cách mà Nguyễn Đức Mậu khắc họa chân thành, bản
lĩnh trong trang thơ của mình: “Những câu thơ lẫn vào cơn sốt - Con chữ cháy đen
xiêu vẹo dáng hình”. Hóa ra, kể cả những trận sốt rét rừng, những căn bệnh đe dọa thể
chất, cũng chẳng thể làm “xiêu vẹo” tâm hồn của những người lính, chẳng thể ngăn
họ làm thơ và trải dài những xúc cảm của mình với con chữ. → Sức mạnh tinh thần
chính là một trong những “tài sản” quý giá trong hành trang của những người lính.
+ Câu thơ còn có phép đảo ngữ, thay đổi trật tự thông thường, không phải là
“Đoàn binh Tây Tiến”, mà lại là “Tây Tiến đoàn binh”. Đặt tên của đơn vị mình
lên đầu ý thơ, phải chăng cũng là một cách người cầm bút khẳng định về vị trí
thiêng liêng, sâu sắc của Tây Tiến trong tâm hồn mình? Hình ảnh những chàng

Trang 18
19 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

trai quả quyết “không mọc tóc” dường như đã trở thành một biểu tượng định
nghĩa cho binh đoàn của đại đội trưởng Quang Dũng.
- Câu thơ thứ hai đem đến một sắc xanh vốn vô cùng quen thuộc trên
chặng đường của những anh lính.
+ Quân “xanh màu lá” vừa có thể là hình ảnh những chàng trai phải ngụy trang
để che giấu bản thân trước ánh mắt của quân thù, hòa lẫn vào thiên nhiên để
vững bước trên con đường mình đã chọn.
+ Thế nhưng, đó cũng có thể là nét xanh xao trên gương mặt của họ khi phải
đối diện với bệnh tật.
+ Tuy nhiên, lại một lần nữa, nhà thơ khẳng định không gì có thể ngăn cản bước
chân của những người lính. Đoàn binh Tây Tiến vẫn sẽ băng băng đi về phía
trước theo tiếng gọi của Tổ quốc, theo xúc cảm mãnh liệt của con tim dành cho
quê hương mình. Vì thế, ngay sau sắc mặt xanh xao đó, lại là một tinh thần, khí
phách quyết liệt – sánh ngang cả những loài thú dữ chốn rừng xanh: “dữ oai
hùm”.
➔ Màu xanh ở đây cũng đem tới vẻ đẹp của niềm tin, niềm hy vọng mãnh
liệt vào một tương lai rực rỡ đang tới.
- Nhiều nhà phê bình nhận định: “Tây Tiến có bi nhưng không có lụy”.
Quả thật vậy, cái “bi” ở đây chính là hiện thực khó khăn, khốc liệt của
cuộc chiến đã được cây bút xứ Đoài khắc họa vô cùng chân thật. Nhưng
không vì thế mà những người lính “lụy” về tinh thần, yếu đuối, run sợ
trước thử thách; bị đánh gục bởi những gian nan. Ngược lại, họ sẵn sàng
đối diện và chinh phục những khó khăn, vượt lên trên thực tại còn nhiều
thiếu thốn, hiểm nguy, khẳng định vẻ đẹp đầy bi tráng.
(Ghi chú:
+ bi lụy: yếu đuối, run sợ trước khó khăn, cúi đầu chịu thua hoàn cảnh khắc
nghiệt
+ bi tráng: sẵn sàng đối diện để chinh phục hoàn cảnh nhiều thử thách, quyết
không đầu hàng hoàn cảnh → chính khó khăn đã tôn vinh khí phách anh hùng
của những người lính ấy → “Tây Tiến là tượng đài bất tử về những người lính
vô danh thời kì kháng chiến chống Pháp.”)

Vẻ đẹp hào hoa của những chàng trai Hà Thành năm ấy:
Nếu như vẻ đẹp hào hùng khắc họa những bản lĩnh kiên cường trong trái tim
quả cảm của những người lính, thì vẻ đẹp hào hoa thiên về những nét lãng mản
rất riêng tư, nên thơ trong tâm hồn đầy chất thi sĩ của họ:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Trang 19
20 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

- Đôi mắt đầy quả quyết, bản lĩnh, dũng cảm của họ không chỉ để
nhìn thẳng vào khó khăn, không chỉ để bày tỏ khí phách với quân
thù, mà dường như, vào những giây phút ngơi nghỉ hiếm hoi, họ
còn dùng ánh mắt ấy để trao gửi những mơ mộng với cuộc đời…
Họ để những giấc mơ thay mình vượt qua khoảng cách địa lý xa
xôi, để được trở về những nơi chốn đong đầy hoài niệm và nỗi nhớ,
để giấc mơ đi qua biên giới, về với một vùng bình yên mà họ luôn
khắc khoải khao khát chạm vào… → Có lẽ, họ vẫn luôn giữ những
xúc cảm riêng tư ấy trong một ngăn kéo bí mật của trái tim, để được
thả hồn mình chỉ trong một khoảnh khắc, tuyệt đối không để những
mong mỏi bé nhỏ làm chùn bước chân trên chặng đường mà mình
đang theo đuổi.
- Và vào những đêm được phép nghỉ ngơi trước khi tiếp tục hành
quân, họ để lòng mình được nhung nhớ, được mơ về một dáng kiều
thơm, được quay trở về với Hà Nội bình yên, dịu ngọt nhất. “Dáng
kiều thơm” phải chăng là hình bóng của một người thiếu nữ đang
chờ đợi họ ở quê nhà? Nhưng không chỉ có những chàng trai đã có
cho mình một nửa thương yêu, có cả những anh lính đang độ mười
tám – đôi mươi cũng mong mỏi lắm một tình yêu khắc riêng tên
mình. Khao khát tình yêu đôi lứa ấy là một mộng ước bình dị thật
đáng trân trọng. Những giấc mơ riêng tư ấy đâu khiến họ đi lệch
khỏi lộ trình của dân tộc, mà ngược lại, trở thành một điểm tựa tinh
thần tiếp thêm sức mạnh cho những chàng trai năm ấy.
- Đọc thêm bình luận chị Yến Thanh: Cái “gửi mộng” kia chính là biểu hiện
cho phẩm chất hào hoa, lãng mạn của những người lính Tây Tiến. Một
thoáng đêm mơ, những người lính hướng về hậu phương quê nhà. Họ gửi
nỗi nhớ, tình yêu hay một điều gì đó không thể nói thành lời “qua biên
giới”: nơi có những cô em gái nhỏ, những người thương, những “dáng
kiều thơm” đầy bí ẩn. Ta chợt nhớ đến những câu thơ trong một thi phẩm
khác của Quang Dũng: “Xa qua rồi em người mỗi ngả/Đôi bờ đất nước
nhớ thương nhau/Em đi áo mỏng buông hờn tủi/Dòng lệ thơ ngây có dạt
dào?” (Đôi bờ)
 Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến hòa quyện giữa vẻ hào hùng và
chất hào hoa trong tâm hồn.
Trong một thi phẩm đầy cảm xúc về hình tượng người lính, nhà thơ Tố Hữu cũng
từng viết:
“Nghĩ gì không biết sau đôi mí

Trang 20
21 |HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

Anh có buồn không, anh lính ơi?”


Dường như, thi sĩ cũng quan tâm đến những xúc cảm nhỏ bé, riêng tư trong tâm
hồn người lính. Ông không hề phủ nhận hay che giấu những điều đó, mà ngược lại
– còn như muốn hỏi han, quan tâm và trân trọng nỗi buồn của họ. Quang Dũng
cũng vậy, vì thế, ông mới khắc họa những mơ mộng trong sáng ấy nơi tâm hồn
những chàng trai Tây Tiến. Hay như những vần thơ giản dị mà cựu chiến binh
Xuân Quý đã để lại cho đời, bộc bạch về việc người lính đã cất đi khao khát riêng tư
để lên đường vì Tổ quốc ra sao:
“Cho tôi viết bài thơ bắt đầu từ nỗi nhớ
Nhớ buổi lên đường gặp ánh mắt của em
Da diết quá! Tôi dằn lòng không nói…
Bởi hiểu rằng: “Khi Tổ quốc cần ta biết sống xa nhau”
Họ lựa chọn cống hiến cho lý tưởng chung cao đẹp của đất nước, thế nhưng, một
góc nhỏ nơi trái tim họ vẫn sẽ dành cho người con gái mà họ thương, vẫn sẽ nhớ
nhung “ánh mắt của em” ở buổi lên đường. Chính nỗi nhớ thật đẹp thật da diết ấy
khiến họ càng thêm mạnh mẽ hơn nơi chiến trường.

Trang 21

You might also like