Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 11

1|#hocvancosuongmai

PHÂN TÍCH “ĐẤT NƯỚC” LIVE 01


TRÍCH TRƯỜNG CA “MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG”
(NGUYỄN KHOA ĐIỀM)

Tình yêu đất nước: xa xôi, lớn lao, kì vĩ


➔ Bình dị, bé nhỏ, hiện diện trong trái tim của mỗi chúng ta

I. KHÁI QUÁT TÁC GIẢ, TÁC PHẨM


Tác giả

- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu thời kì kháng
chiến chống Mỹ.

- Ông trực tiếp là người tham gia chiến trận, vậy nên thơ ca Cách mạng
của nhà thơ xứ Huế rất chân thực, giàu tính chiêm nghiệm, đặc biệt là
cảm xúc vô cùng sâu lắng mang đậm màu sắc trữ tình hòa quyện với tư
duy của một người tri thức. → Ngòi bút trữ tình chính luận (Trữ tình trí
tuệ/Trữ trình triết luận)

(nói thêm bên ngoài, không cần viết vào bài:

+ Trữ tình: yếu tố xúc cảm được thể hiện trong thơ → qua đó bộc lộ thái độ, tình
cảm của người cầm bút (VD: trong “ĐN”, nhà thơ bộc lộ tình yêu quê hương
tha thiết và lòng biết ơn nhân dân vô tận)

+ Chính luận/Triết luận: Thơ của NKĐ không chỉ thể hiện cảm xúc mà còn bày
tỏ những quan điểm, góc nhìn, ý kiến của nhà thơ (VD: trong “ĐN”, nhà thơ
bộc lộ quan điểm về mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết giữa ĐN và nhân dân → từ
đó khái quát hóa thành tư tưởng Đất Nước nhân dân).

+ Trí tuệ: nhà thơ thể hiện vốn kiến thức uyên bác của bản thân qua những vần
thơ)

Trang 1
2|#hocvancosuongmai

- Là người có trách nhiệm cao với quê hương, những áng thơ của ông còn
nhấn mạnh rõ vai trò, trách nhiệm của một người công dân, một người
lính với đất nước.

b) Thi phẩm ‘’ĐẤT NƯỚC’’:

- Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả sáng tác năm 1971 tại
chiến khu Trị - Thiên, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm
chiến miền Nam về non sông, đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình,
khơi gợi tinh thần sẵn sàng xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc
chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược.

- “Đất Nước’’ được xem là đoạn trích thành công nhất của nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm, nằm ở phần đầu chương V của bản trường ca. Tuy
đây là một đề tài không mấy mới lạ nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã thể
hiện được cảm nhận riêng của bản thân đối với đất nước; bộc lộ một tư
tưởng mới mang tên: Đất Nước Nhân Dân.

II. PHÂN TÍCH VĂN BẢN


*** Những câu nói hay về tình yêu đất nước: (các bạn có thể vận dụng một
cách linh hoạt, phù hợp trong bài)
“Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu
của ta.” - Hồ Chí Minh

“Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi
có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.” – Hồ Chí Minh

“Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì? Đó chính là lòng yêu
nước.” – Napoleon

“Vinh dự lớn nhất của con người là được bảo vệ Tổ quốc.” – Aristotle

‘’Điều mà đứa trẻ cần hiểu biết trước nhất là Tổ quốc, mẹ nó.’’ - Jules
Michelet

‘’Nước là ở lòng người, cái nguyên tố lập ra nước là tự trong lòng người,
không phải ở đâu xa.’’ - Phạm Quỳnh

Trang 2
3|#hocvancosuongmai

‘’Một Tổ quốc thường bao gồm những người chết đã gây dựng nên cũng
như những người sống đang tiếp tục. ‘’- Ernest Renan

‘’Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất, yêu cái cây
trồng ở trước nhà, yêu con phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát
của trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Lòng yêu
nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê đã trở nên lòng yêu Tổ quốc.’’ (I-li-a Ê-
ren-bua)

1. 9 câu thơ đầu: Nguồn gốc của “Đất Nước”


Trong nghệ thuật, Nguyễn Khoa Điềm nổi tiếng là người lao động nghệ thuật vô
cùng hăng say, nghiêm túc, khắt khe với những sáng tác của chính mình. Thơ
của ông luôn được định hình theo một nét riêng, một lối đi riêng – kể cả khi ông
viết về những đề tài rất nổi bật, quen thuộc như tình yêu quê hương, đất nước
và tinh thần dân tộc. Nếu như trước đây, các nhà thơ khi định nghĩa về Đất Nước
thường gắn hai chữ thiêng liêng này với những điều lớn lao, kì vĩ; với những
trang sử vàng chói lọi; với tên tuổi của những người anh hùng vang danh núi
sông… thì Nguyễn Khoa Điềm lại bắt đầu hành trình tìm về cội nguồn của
Đất Nước bằng cách soi chiếu vào chính bản thân mỗi cá thể bé nhỏ.

a. Hai câu thơ đầu: Tác giả đưa ra câu trả lời cho câu hỏi “Đất Nước
có từ bao giờ?”
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
- Nhà thơ mở đầu với lời thủ thỉ chân thành: “Khi ta lớn lên…”
Khi “tôi” lớn lên → câu chuyện riêng tư của cá nhân người cầm bút
Khi “bạn” lớn lên → ý thơ lại chỉ hướng về chặng đường của độc giả mà không
có tác giả xuất hiện trong ấy
➔ Đại từ “ta” dường như rộng lớn hơn cả, khi khẽ khàng ôm lấy cả
tác giả và cả bạn đọc vào hành trình kiếm tìm cội nguồn của Tổ
quốc. Nhà thơ không đưa ra một dấu mốc thời gian, mà lấy chính
hành trình sinh thành – trưởng thành của mỗi con người để định
nghĩa về hai chữ thiêng liêng “Đất Nước”.

Trang 3
4|#hocvancosuongmai

➔ Xóa mờ khoảng cách của thời gian, khiến lời thơ không chỉ gửi đến
thế hệ trẻ của thời kì kháng chiến chống Mỹ khốc liệt, mà còn chạm
tới trái tim của độc giả hôm nay, của người đọc ở bất cứ thời điểm
nào.
- Đối diện với câu hỏi về dấu mốc cụ thể hình thành Đất Nước, nhưng
nhà thơ lại đưa ra một câu trả lời đầy trừu tượng, nói về quá trình
“lớn lên của mỗi người. → Nhà thơ không viết là “Khi ta sinh ra”,
mà nhấn mạnh nhận thức sâu sắc ở bên trong mỗi người sẽ giúp ta
ý thức được về sự hiện diện của Đất Nước, vì thế, phải khi đã đủ
khôn lớn và trưởng thành, ta mới biết “Đất Nước đã có rồi…” →
Đất Nước luôn có mặt trong cuộc đời của mỗi người dân đất Việt từ
rất lâu rồi.
- ĐN gắn liền với những câu chuyện cổ tích, với những cái “ngày
xửa ngày xưa…” qua lời kể dịu dàng của mẹ.
+ Những câu chuyện cổ tích đã xuất hiện từ rất lâu, được truyền miệng
từ đời này sang đời khác, mang theo những ước mơ, khát khao, góc nhìn
của nhân dân
+ Mẹ kể cho ta nghe những câu chuyện cổ, có lẽ không chỉ để ru những
đứa trẻ vào giấc ngủ sâu, mà còn bước đầu định hướng cho con về cách
sống đúng đắn ở đời, đem đến cho con những “bài học đường đời đầu
tiên” đầy ý nghĩa → Và phải chăng, qua chính những câu chuyện được
thủ thỉ mỗi đêm để ru vỗ con vào những giấc ngủ êm ái ấy, mẹ cũng gửi
gắm cả tình yêu đất nước bình dị của chính mình, để con lớn lên với
những bài học dân gian, để con trưởng thành dần trong chính tình yêu Tổ
quốc từ mẹ hiền… → Đất Nước hiện diện trong chính tình yêu thương
của mẹ, trong những câu chuyện cổ “vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa”,
trong cả những giấc ngủ bình yên của bao đứa trẻ. Những trang truyện
cổ tích do nhân dân để lại cho cuộc đời cũng là một tư liệu lịch sử quan
trọng ghi lại “diện mạo” của Tổ quốc theo thời gian.
➔ NKĐ đã bình dị hóa khái niệm Đất Nước, khiến mỗi chúng ta đều thấm
thía sự hiện diện của hai chữ thiêng liêng này trong cuộc đời bé nhỏ của
mình. ĐN có mặt trong những điều mộc mạc chân phương nhất, trong
những thói quen thân thương, trong những con người đã cùng ta khôn
lớn, trong những lát cắt của một thời thơ ấu dịu ngọt mà ta sẽ không bao
giờ lãng quên… Đúng như Jules Michelet đã từng chia sẻ: “Điều mà đứa
trẻ cần hiểu biết trước nhất là Tổ quốc, mẹ nó.”

Trang 4
5|#hocvancosuongmai

b. Quá trình “sinh thành”, phát triển của Đất Nước với biết bao sự
kiện, dấu mốc đáng nhớ
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
- Nhà thơ sử dụng phép điệp để nhấn mạnh vào hình ảnh thiêng
liêng mà bình dị của “ĐN” trong trái tim mỗi người.
➔ Đem tới nhạc điệu cho ý thơ, khiến hai câu thơ như trở thành những
lời ca tiếng hát cất lên từ trái tim chân thành của người cầm bút,
khao khát khám phá trọn vẹn nhất về Tổ quốc thân thương.
- Hai từ “bắt đầu” và “lớn lên” đã tạo nên một chặng đường phát
triển bền bỉ, dài lâu và bất tận của Tổ quốc. → Ý thơ dường như
cũng bộc bạch niềm tin mãnh liệt của người nghệ sĩ, người chiến sĩ
khi viết về non sông.
Dù thời điểm ấy ĐN còn đối diện nhiều thử thách, ta chưa có được độc lập, tự
do, hòa bình – thế nhưng, NKĐ vẫn tin rằng, mọi chuyện rồi sẽ ổn, ĐN sẽ tiếp
tục đi lên cho đến mãi sau này. Cũng giống như nhà thơ Thanh Hải trong những
ngày tháng cuối cùng trên giường bệnh, cũng bày tỏ niềm tin vào tương lai của
Tổ quốc: “ĐN như vì sao – Cứ đi lên phía trước” (“Mùa xuân nho nhỏ”) …
Niềm tin ấy có điểm tựa là tình yêu quê hương sâu sắc của những người cầm
bút. Phải đủ yêu, đủ hiểu, mới đủ tin.
- Cội nguồn của ĐN trong góc nhìn của cây bút xứ Huế được khởi
sinh từ một hình ảnh thật mộc mạc: “miếng trầu bây giờ bà ăn”
+ “Miếng trầu”: gợi nhắc về những phong tục tập quán truyền thống,
những nét đẹp văn hóa từ lâu đời của người Việt. “Miếng trầu là đầu
câu chuyện”, vì thế hình ảnh này gắn liền với phép tắc ứng xử trong
chuyện trò, giao tiếp đầy ý tứ của người Việt Nam. “Miếng trầu nên dâu
nhà người”, bởi lẽ nó xuất hiện trong những tráp ăn hỏi, mang theo bao
mong mỏi về một hạnh phúc mới mang tên hôn nhân.
+ Từ chỉ thời gian: “bây giờ” → chỉ hiện tại → xóa nhòa khoảng cách của
thời gian → khiến cho bạn đọc dù ở bất cứ thời đại nào cũng liên tưởng
ngay tới những câu chuyện bình dị của chính mình.
+ Hình ảnh người bà khiến lời thơ cũng như trở nên dịu dàng hơn; bởi bà
lúc nào cũng ân cần, chở che, bao bọc – là một điểm tựa tinh thần quan
trọng trong trái tim của mỗi người.
- Nếu như ĐN bắt đầu với miếng trầu bình dị mang theo bao ý nghĩa
văn hóa sâu sắc, thì trong lăng kính của nhà thơ NKĐ, “ĐN lớn lên”

Trang 5
6|#hocvancosuongmai

gắn liền với một hình ảnh đầy hào hùng, kiêu hãnh: “khi dân mình
biết trồng tre mà đánh giặc”.
+ Lại một lần nữa, nhà thơ sử dụng hai chữ “lớn lên” như muốn nhấn
mạnh rằng: “Khi ta lớn lên” thì “Đất Nước lớn lên”. Khi mỗi người dân
đất Việt đều cố gắng trưởng thành một cách tích cực nhất, nỗ lực hiến
dâng công sức của mình cho non sông xứ sở thì nhất định ĐN sẽ ngày
càng phát triển rực rỡ. → Vận mệnh của Tổ quốc không chỉ được quyết
định bởi những triều đại, những vị vua, những người anh hùng, mà còn
được viết lên bởi những người dân bé nhỏ, vô danh, bình dị nhất.
+ Sự phát triển ấy gắn liền với sự trỗi dậy mạnh mẽ của người dân khi
Tổ quốc cần:
• Cách gọi “dân mình” bình dị, thân thuộc, gần gũi
• Gợi nhắc về truyền thuyết Thánh Gióng – liên hệ câu thơ của Chế
Lan Viên: “Đất nước gì mà tuổi trong nôi đã phải nhảy lên mình ngựa
thép đi đánh giặc”
➔ Thánh Gióng là người anh hùng được nhân dân sinh ra, do nhân
dân nuôi lớn, chiến đấu để bảo vệ nhân dân. Tiếng nói đầu tiên của
Thánh Gióng là câu nói đòi đi đánh giặc, là tiếng nói của tình yêu
Tổ quốc sâu sắc nơi trái tim. Hình ảnh cậu bé “vươn vai trở thành
tráng sĩ” cũng như bộc lộ giấc mơ của người Việt cổ về sự vươn
mình của đất nước, tuy là một đất nước bé nhỏ nhưng ta sẽ đủ sức
chiến đấu chống lại sức mạnh khủng khiếp của quân thù.
➔ Nhà thơ lựa chọn hình ảnh của người anh hùng mang theo giấc mơ
của nhân dân – rất phù hợp với tư tưởng ĐNND.
Hình ảnh cây tre ở đây không chỉ là một vũ khí bình dị của người anh hùng nhân
dân ấy, mà còn tượng trưng cho vẻ đẹp phẩm chất kiên cường, bất khuất, dũng
cảm, không bao giờ cúi đầu trước quân thù của người Việt. Tre luôn đồng hành
cùng con người qua bao chặng đường gian nan của lịch sử: “Tre giữ làng, giữ
nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín.” Phẩm chất của cây tre cũng chính
là vẻ đẹp tâm hồn của con người. Như trong “Tre Việt Nam”, nhà thơ Nguyễn
Duy cũng từng bày tỏ sự ca ngợi chân thành: “Ở đâu tre cũng xanh tươi – Cho
dù đất sỏi đá vôi bạc màu”. Đó cũng chính là vẻ đẹp đáng quý của người Việt,
không bao giờ đầu hàng trước thử thách, luôn nỗ lực để chiến thắng cả những
hoàn cảnh ngặt nghèo nhất.

Trang 6
7|#hocvancosuongmai

c. Hình ảnh Đất Nước được hiện hữu trong những điều bình dị
nhất của cuộc sống thường nhật
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…

- Chân dung của người mẹ được khắc họa thật bình dị, gần gũi.
Hình ảnh người phụ nữ VN hiện lên với mái tóc bới sau đầu gọn
gàng, duyên dáng, có lẽ để họ tập trung lao động, làm việc, vun vén
chăm sóc cho gia đình và tham gia cả vào các công tác của hoạt động
Cách mạng. → Đằng sau hình ảnh bình dị, gần gũi ấy là đức hy sinh
lớn lao của những người phụ nữ, luôn cố gắng sống vì gia đình,
luôn sẵn sàng dâng hiến cho non sông.
- Nhà thơ đã vận dụng tinh tế chất liệu văn hóa dân gian từ câu ca
dao: “Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau…” để nhấn mạnh
tình nghĩa thiết tha, mặn nồng giữa hai người thương nhau chân
thành. → khẳng định tình nghĩa vợ chồng thủy chung. Nhà thơ gói
ghém tình cảm ấy trong một chữ “thương”, phải chăng bởi yêu sẽ
thiên về những xúc cảm nồng nàn, thăng hoa khi trái tim bị thu hút
bởi đối phương; còn thương là ôm ấp tất cả những điều kể cả chưa
hoàn hảo của người ấy… Chữ “thương” ấy phải là những người đã
cùng dìu nhau qua gian khó cuộc đời mới có thể gửi trao trọn vẹn
nhất.
- ĐN đồng hành trong những câu chuyện bé nhỏ của con người,
trong cả cách ta đặt tên các sự vật và khám phá thế giới xung quanh.
Ý thơ “Cái kèo cái cột thành tên” cũng gợi nhắc về quá trình đặt tên
con rất bình dị, mộc mạc, chất phác của người Việt xưa.
➔ Cái kèo, cái cột cũng là những yếu tố quan trọng để xây dựng nên
một ngôi nhà vững chãi. Những đứa trẻ cũng là linh hồn của một
tổ ấm, tạo nên niềm hạnh phúc sâu sắc nơi những người sinh thành.
- Chính truyền thống lao động cần cù của người Việt cũng đã tạo
nên dáng hình của Đất Nước…
+ Tác giả nhắc tới hạt gạo, là một trong những niềm tự hào của dân tộc
Việt Nam với nền văn minh lúa nước đã tồn tại và phát triển qua bao đời.

Trang 7
8|#hocvancosuongmai

+ Nhà thơ sử dụng thành ngữ “một nắng hai sương” kết hợp với thủ
pháp liệt kê từng bước một trong quá trình tạo nên hạt gạo – qua đó
nhấn mạnh sự tỉ mỉ, cẩn thận, vất vả trong từng công đoạn → bày tỏ niềm
biết ơn với những người nông dân chăm chỉ, cần cù lao động. Từng hạt
gạo đều chắt chiu bao mồ hôi, công sức của người nông dân Việt Nam.
- Để rồi cuối cùng, tác giả khép lại đoạn thơ với một câu thơ thật bình
dị, tự nhiên, một câu trả lời dường như vẫn còn bỏ ngỏ: “Đất Nước
có từ ngày đó…”
+ Ta không rõ “ngày đó” là ngày nào, là thời điểm cụ thể ra sao. Phải
chăng, nhà thơ muốn tạo nên một khoảng trống mênh mang của xúc cảm,
để bạn đọc ngẫm nghĩ và có cho mình một đáp án riêng, một “ngày đó”
riêng? “Ngày đó” là ngày ta nhận ra mình đã lớn khôn? Là ngày mẹ vẫn
thủ thỉ những câu chuyện cổ tích từ thời thơ bé? Là ngày bà chậm rãi nhai
trầu mà kể những kỉ niệm mang màu tháng năm? Là ngày cha mẹ thương
nhau và thương con bằng trọn vẹn tấm chân tình…?
➔ Nhà thơ tin rằng, mỗi độc giả đều sẽ tìm thấy sự hiện diện của ĐN
nơi trái tim mình theo một cách bình dị nhất.
+ Tác giả khép lại đoạn thơ với dấu “…” như khắc họa sự miên man của
những xúc cảm, ý thơ đã hết nhưng tình thơ vẫn còn… Dấu “…” ấy cũng
tạo nên một không gian mở đầy mênh mông, rộng dài cho những trái tim
yêu nước điền vào đó câu trả lời của chính mình.

2. Hành trình định nghĩa về Đất Nước:


< “Đất là nơi anh đến trường

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.”

a. Đất Nước gắn bó trong không gian địa lý, trong những sinh hoạt
bình dị, trong tình cảm lứa đôi của mỗi con người
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

- Tác giả gắn liền hình ảnh “đất” với hình tượng của “anh” – người
con trai:

Trang 8
9|#hocvancosuongmai

+ Bởi lẽ, người con trai thường đi kèm với cảm giác về một điểm tựa
vững chắc, một bờ vai lớn lao, một bản lĩnh quyết đoán, một tính cách
mạnh mẽ.

+ “Đất” – trong lăng kính của nhà thơ NKĐ - gắn liền với chặng đường
mở mang tri thức, tiếp thu – lĩnh hội những hiểu biết quý giá, tôi luyện
những bài học để con người ngày càng hoàn thiện hơn

+ Trong những năm tháng chiến tranh khốc liệt, trường học cũng là một trong
những địa điểm chịu nhiều sự tấn công, tàn phá của quân thù. Vì thế, câu thơ
“Đất là nơi anh đến trường” vang lên giữa bối cảnh nhọc nhằn của trận chiến
dường như không chỉ nhấn mạnh ý nghĩa của hành trình chinh phục tri thức,
mà còn khẳng định rằng việc ta được đến trường, được học tập là một chân lý
bất biến không thể thay đổi. Hành trình theo đuổi ước mơ của mỗi cá nhân không
thể nào bị cản trở bởi những thế lực bất nhân và những cuộc đấu tranh phi nghĩa.
→ Câu thơ dường như cũng khẳng định nỗ lực của “anh”, của mỗi người dân
đất Việt trong khao khát bảo vệ độc lập, tự do của nước nhà. Đất Nước đâu có
quá xa vời, hai chữ thiêng liêng ấy được định nghĩa bởi chính những hoài bão,
ước mơ trong trái tim mỗi người.

- Nếu như người con trai được khắc họa bởi “đất”, thì hình bóng
người con gái dịu dàng, duyên dáng gắn liền với hình ảnh “nước”:

+ Nước: gợi cảm giác về sự mềm mại, dịu dàng, uyển chuyển – đồng thời
cũng gợi nhắc trong mỗi độc giả về những dòng sông quê hương, những
ao làng hay con suối bình dị đã tưới tắm tâm hồn ta thưở thơ bé.

+ Tác giả khắc họa chân dung người con gái với hình ảnh “nước” – như
đem đến cho người đọc những tưởng tượng về bóng hình, bờ môi, ánh
mắt, nụ cười, … thật duyên dáng, nữ tính của người con gái.

+ Tạo nên bức chân dung thơ mộng về người con gái, nhà thơ xứ Huế tái
hiện một hoạt động sinh hoạt đời thường rất đỗi bình dị: “Nước là nơi em
tắm.”

Trang 9
10 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

➔ Ở hai câu thơ đầu, nhà thơ sử dụng cách chiết tự, tách ra giải thích
nghĩa của từng chữ “Đất” và “Nước”, đồng thời cũng khắc họa cuộc
đời của “anh” và “em” khi chưa có sự liên kết với nhau.

- Đến câu thơ thứ ba, không còn là “Đất” và “Nước” như hai thành
tố riêng biệt, cũng như chẳng còn “anh” và “em” là hai người xa
lạ trên con đường độc hành của mình nữa. → NKĐ dường như đã
“tác hợp” người con gái và người con trai, để họ hòa quyện vào
nhau trong một mối quan hệ ngọt ngào, trong trẻo; để ĐN giờ đây
trở thành không gian của những buổi hẹn hò, ươm mầm cho tình
yêu đôi lứa… → Tình yêu đôi lứa và tình yêu Tổ quốc có thể song
hành và quyện hòa vào nhau.

- Mà nhắc tới tình yêu, nhắc tới những rung động trong sáng và mãnh
liệt ấy trong trái tim mỗi người, NKĐ không quên khắc họa về một
trong những cung bậc cảm xúc thăng hoa nhất của một câu chuyện
tình, đó là nỗi nhớ: “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi
nhớ thầm”

+ Thông thường, nỗi nhớ trong tình yêu được diễn tả vô cùng nồng nàn,
mãnh liệt. Nhưng trong ý thơ của NKĐ, nỗi nhớ của em lại được khắc họa
thật nhẹ nhàng, bình lặng, thầm kín: em gói ghém nỗi nhớ ấy trong chiếc
khăn tay, không bộc lộ ra một cách cồn cào, cháy bỏng, trực tiếp.

+ Hình ảnh chiếc khăn thật nữ tính, dịu dàng, gợi lên tâm hồn nhiều
những rung động tinh tế của người phụ nữ trong tình yêu. Như trong
“Hương thầm”, cô gái qua lời thủ thỉ của nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn cũng
“Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay – Cô gái ngập ngừng qua nhà hàng
xóm” để bày tỏ nỗi lòng kín đáo với “người ngày mai ra trận”. Phải chăng, trong
hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh, họ đều chủ động giấu kín tình yêu của bản
thân, gói cả nỗi nhớ trong chiếc khăn tay bình dị, xếp gọn nỗi niềm riêng tư để
“nhường” không gian trái tim cho tình yêu Tổ quốc?

Trang 10
11 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

➔ Tình yêu đôi lứa đã trở thành nền tảng để tạo nên tình yêu đất
nước thiêng liêng, mạnh mẽ trong tâm hồn mỗi con người thời
kì ấy – những tháng năm mà không ai sống chỉ cho riêng mình.

Trang 11

You might also like