Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 9

BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

( Phạm Tiến Duật)

1. Nêu hiểu biết của - Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống
em về tác giả bài thơ Mỹ
- Đề tài chủ yếu: Người lính và cô thanh niên xung phong
- Thơ ông mang nét riêng với giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên,
ngang tàng, tinh nghịch mà sâu sắc

2. Xuất xứ, hoàn - Xuất xứ: Tập “ Vầng trăng quầng lửa”
cảnh sáng tác bài thơ - HCST:
+ Năm 1969
+ Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang vào giai đoạn gay go, ác liệt
+ Tác giả trực tiếp tham gia hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn
3. Thể thơ, PTBĐ, - Thể thơ: Tự do
giọng điệu, ngôn - PTBĐ: Biểu cảm, tự sự, miêu tả
ngữ - Giọng điệu và ngôn ngữ
+ Những câu thơ gần với lời nói thường.
+ Có những câu như văn xuôi : " không có kính không phải vì xe không
có kính", " không có kính, ừ thì có bụi.."
+ Giọng điệu ngang tàng, trẻ trung, sôi nổi, tinh nghịch, tự nhiên, thể hiện
cái hiên ngang, bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm của các anh lính lái xe
Trường Sơn.
4. Đề tài, những tác - Đề tài: người lính -> Tác phẩm cùng đề tài: Đồng chí ( Chính Hữu)…
phẩm cùng đề tài, - Đề tài: Tuổi trẻ Việt Nam trong kháng chiến -> Tác phẩm cùng đề tài:
chủ đề Đồng chí ( Chính Hữu), Lặng lẽ Sa Pa ( Nguyễn Thành Long), Những
ngôi sao xa xôi ( Lê Minh Khuê)
5. Ý nghĩa nhan đề * Nhan đề: Bài thơ về tiểu đội xe không kính
bài thơ - Nhan đề dài lạ, độc đáo, tưởng có chỗ thừa -> Thu hút người đọc
- Cụm từ “ tiểu đội xe không kính” làm nổi bật hình ảnh toàn bài. Thể
hiện sự phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự am hiểu đời sống chiến
tranh, sự nhạy cảm của một hồn thơ dễ rung cảm với những gì mới mẻ.
- Chữ “ Bài thơ” như thừa ra thể hiện cách nhìn, cách khai thác chất thơ
trong hiện thực. Bài thơ không chỉ viết về những chiếc xe không kính hay
phản ánh hiện thực khốc liệt mà điều chủ yếu là chất thơ vút lên từ hiện
thực đó. Chất thơ của tuổi trẻ dũng cảm, hiên ngang, trẻ trung vượt lên
trên khó khăn, gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh
=> Nhan đề góp phần thể hiện chủ đề tư tưởng của bài thơ: Khắc họa
và ngợi ca vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn: trẻ trung, sôi
nổi, lạc quan, yêu đời, dũng cảm, hiên ngang, yêu nước, có ý chí
quyết tâm
6. Giải thích: - Bếp Hoàng Cầm: Kiểu bếp dã chiến của bộ đội ta đặt dưới lòng đất, khi
- Bếp Hoàng Cầm đun khói tản ra để địch không phát hiện được. Bếp mang tên anh hùng
- Chông chênh nuôi quân Hoàng Cầm, người đã sáng tạo ra nó.
- Chông chênh: Không vững vàng, không chắc chắn

7. Trình bày cảm nhận của em về hình ảnh những chiếc xe không kính

Thơ Cảm nhận


Hai câu đầu khổ 1: 1. Hình ảnh những chiếc xe không kính
Không có kính không phải - Người lính giải thích nguyên nhân vì sao xe không có kính:
vì xe không có kính “Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
vỡ đi rồi + Sử dụng cách nói phủ định, điệp ngữ “ không” lặp ba lần,
câu thơ như văn xuôi
+ Cấu trúc theo hình thức hỏi – đáp, giọng phóng túng hồn
nhiên, ngang tàng, rất lính
+ Điệp ngữ “ bom” cùng phép liệt kê các động từ mạnh “
giật, rung”
-> Diễn tả sự khốc liệt của chiến tranh khiến kính xe không còn
nguyên vẹn
Hai câu đầu khổ cuối: - Tiếp tục miêu tả hình ảnh chiếc xe:
Không có kính, rồi xe + Điệp ngữ “ không có” với cách nói phủ định được lặp đi lặp
không có đèn lại cùng phép liệt kê
Không có mui xe, thùng xe + Nhấn mạnh hình ảnh những chiếc xe bị tàn phá nặng nề, ngày
có xước càng biến dạng, méo mó, ọp ẹp
+ Gợi sự khốc liệt của chiến tranh ngày càng gia tăng, khó
khăn, thử thách với người chiến sĩ lái xe ngày càng chồng chất
=> Hình ảnh xe cộ, tàu thuyền trong thơ thường rất đẹp, nhưng
trong bài thơ, hình ảnh chiếc xe hiện lên trần trụi, méo mó khác
lạ, vì vậy nó tạo nên nét độc đáo trong thơ ca xưa nay.
* Ý nghĩa của hình ảnh những chiếc xe không kính:
- Thể hiện sự khốc liệt của chiến tranh
- Làm nổi bật hình ảnh người lính lái xe kiên cường, quả
cảm.
- Thể hiện hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng, tinh nghịch,
yêu thích cái mới lạ của Phạm Tiến Duật
→ Hình ảnh chiếc xe không kính đã trở thành hình tượng
độc đáo của thơ ca kháng chiến

8. Trình bày về nét đẹp của tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm của người lính lái xe
Hai câu cuối khổ 1: 2. Vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe Trường Sơn
Ung dung buồng lái ta ngồi, a. Tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm:
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn * Trước hết, tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm thể hiện
thẳng qua tư thế ngồi sau tay lái:
- Từ láy “ ung dung”, đảo ngữ, nhịp thơ 2/2/2 -> làm nổi bật
Có thể tạo luận cứ bằng tư thế bình thản, vững vàng, tự tin, mạnh mẽ
cách căn cứ vào nội dung - Đại từ “ ta” vang lên rất đỗi tự hào vì được làm chủ tay lái
của từng câu/ đoạn + gắn * Không chỉ vậy, sự hiên ngang, dũng cảm của các anh còn
nội dung chính của luận bộc lộ rõ qua cái nhìn:
điểm( ý chính của đoạn văn) - Điệp từ “ nhìn” lặp ba lần kết hợp với phép liệt kê: đất,
trời, thẳng cho thấy sự bình tĩnh, tự tin khiến người lính có
cái nhìn bao quát, mở rộng; “ nhìn thẳng” không chỉ miêu tả
cái nhìn về phía trước mà còn là cái nhìn không né tránh, nhìn
thẳng vào những khó khăn, hiểm nguy, tư thế có vẻ trang
nghiêm, bất khuất với trời đất, nhìn thẳng vào mọi gian khổ hi
sinh, ko hề run sợ.
Khổ 2: * Tư thế bình thản, vững vàng, tự tin, mạnh mẽ khiến người
Nhìn thấy gió vào xoa mắt lính cảm nhận được rất nhiều khi ngồi trên chiếc xe không
đắng có kính chắn ( Khổ 2):
Nhìn thấy con đường chạy - Những khó khăn, hiểm nguy với người lính bỗng trở thành
thẳng vào tim niềm vui khi được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên phong
Thấy sao trời và đột ngột phú bên ngoài qua ô kính vỡ:
cánh chim + Điệp ngữ “ nhìn thấy”, “ thấy” -> Làm nổi bật những cảm
Như sa, như ùa vào buồng nhận của người lính
lái. + Cảm nhận cơn gió trực diện làm cay mắt nhưng nhà thơ đã
nói giảm nói tránh giống như gió đang trêu đùa: xoa mắt đắng
+ Hình ảnh ẩn dụ“ con đường chạy thẳng vào tim” là cảm
giác rất thực của người cầm lái, gợi tốc độ xe đi nhanh, gợi
liên tưởng con đường ra trận là con đường trong tim người
lính
+ Không có kính chắn gió, người lính phải đối diện với nhiều
khó khăn, không chỉ “ mắt đắng” mà còn có cả “ sao trời”, “
cánh chim” đột ngột “ sa, ùa” vào buồng lái
Những cảm nhận đã được nhà thơ diễn tả bằng những hình
ảnh chân thực, bằng nhân hoá, so sánh, điệp ngữ, đảo ngữ, liệt
kê…
-> Hiện thực khắc nghiệt, những khó khăn gian khổ của người
lính trên con đường Trường Sơn được tái hiện một cách sinh
động, hài hước, dí dỏm
=> Người lính hiện lên với tư thế ung dung, đường hoàng,
bình tĩnh, tự tin, hiên ngang trong gian khó của cuộc chiến
qua ngòi bút tài hoa, yêu mến của tác giả.
9. Trình bày về nét đẹp tinh thần lạc quan, yêu đời, bất chấp khó khăn của người lính lái xe

Khổ 3, 4: * Thái độ bất chấp khó khăn, nguy hiểm và tinh thần dũng
cảm, lạc quan yêu đời của người lính lái xe
Không có kính, ừ thì có bụi, - Những khó khăn người lính phải trải qua:
Bụi phun tóc trắng như + Về cơ sở vật chất: Điệp ngữ cùng cách nói phủ định
người già “Không có kính” -> Tô đậm sự khốc liệt của chiến tranh,
Chưa cần rửa, phì phèo những khó khăn, thử thách với người chiến sĩ lái xe
châm điếu thuốc + Những khó khăn về thời tiết:
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ./ bụi đường: “ Bụi phun tóc trắng như người già”
ha. ./ mưa: “ Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”
-> Phép so sánh làm hiện lên hình ảnh sinh động cụ thể về
những khó khăn mà người lính phải đối mặt. Gió làm bụi cuốn
lên bay mù mịt, “ phun” vào mặt, vào tóc bạc phếch khiến họ
Không có kính, ừ thì ướt áo thấy mình như “ người già”. Những cơn mưa rừng ào ào lại “
Mưa tuôn, mưa xối như tuôn, xối”; ngồi trên chiếc xe không kính ướt hết áo khác nào
ngoài trời các anh đang ở ngoài trời.
Chưa cần thay, lái trăm cây -> Phép điệp ngữ, liệt kê “ mưa”, “ bụi”, một loạt các động
số nữa từ mạnh “ phun, xối” nhấn mạnh vào sự khắc nghiệt của thiên
Mưa ngừng, gió lùa khô nhiên Trường Sơn
mau thôi. - Xe ko kính, biết bao gian khổ, người lính lái xe vẫn vượt lên,
bất chấp khó khăn với tinh thần quả cảm, thái độ lạc quan yêu
đời.
+ Cấu trúc câu thơ “ Không có kính, ừ thì…chưa cần” lặp lại
cùng ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ: Không có, ừ thì, chưa
cần… thể hiện thái độ chấp nhận, bất chấp khó khăn với giọng
điệu bình thản pha chút đùa vui hóm hỉnh.
+ Người lính lái xe đã biến những khó khăn trên đường đi thành
những niềm vui qua cách liên tưởng, so sánh thật ngộ nghĩnh “
tóc trắng như người già”
+ Tinh thần lạc quan còn thể hiện rõ qua cách họ giải quyết khó
khăn:
./ Với bụi, họ chưa cần rửa mà bình thản “ phì phèo châm điếu
thuốc” và ngắm nhìn đồng đội mặt mũi nhem nhuốc để rồi “
cười ha ha”. Từ láy tượng hình “ phì phèo” diễn tả thật chính
xác dáng vẻ đầy thư giãn của người lính. Sau chặng đường dài
gian khó với “ bụi phun, người lính bình thản trong niềm vui
nhỏ để quên đi bao mệt nhọc. Từ láy tượng thanh “ ha ha” gợi
tiếng cười đầy sảng khoái lấp lánh cả bài thơ. Đó đúng là tiếng
cười của một tâm hồn trẻ trung sôi nổi, yêu đời, lạc quan. ( Có
thể so sánh với nụ cười của người lính trong bài “ Đồng chí”
của Chính Hữu)
./ Còn khi mưa làm ướt áo, người lính chẳng cần thay mà “ lái
trăm cây số nữa” vì họ biết ngồi trên chiếc xe KK thì “ Mưa
ngừng, gió lùa khô mau thôi”. Câu thơ có 7 tiếng 6 thanh bằng
gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan.
-> Lời thơ nhẹ nhàng trôi chảy như những chiếc xe vun vút trên
đường.
+ Những câu thơ là lời tự động viên của người lính, là biểu hiện
của một tâm hồn lạc quan, yêu đời, một tính cách rất trẻ trung,
rất lính.
+ Thực tế, gió, bụi, mưa có thể gây bao khó khăn cho người
lính khi ngồi trên chiếc xe không có kính. Nhưng người lính đã
bình thường hóa những khó khăn ấy, vượt lên tất cả với sự cố
gắng và tinh thần trách nhiệm cao.
=> Cuộc sống trong bom đạn ác liệt của chiến tranh nhưng
hình ảnh người lính qua ngòi bút Phạm Tiến Duật vẫn hiện
lên thật hiên ngang, lạc quan, yêu đời biết bao!

10. Trình bày cảm nhận về tinh thần đồng đội của người lính lái xe trong bài thơ

Khổ 5,6: * Những người chiến sĩ lái xe cũng là những chàng trai có tình đồng
đội gắn bó keo sơn
Những chiếc xe từ trong - Sự ra đời của tiểu đội xe: khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên những
tiểu đội xe KK “ Những chiếc xe từ trong bom rơi/ Đã về đây họp thành
bom rơi
tiểu đội”. Câu thơ sử dụng cách nói hoán dụ, những chiếc xe hay
Đã về đây họp thành tiểu đội chính là người lính lái xe anh dũng đã từ bao con đường, qua bom
Gặp bè bạn suốt dọc đường đạn khói lửa tụ họp về đây. Hoàn cảnh chiến tranh với những khó khăn
đi tới hiểm nguy đã gắn kết người lính trong cùng một đội ngũ.
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. - Sự gắn bó của những con người đã từng trải qua thử thách của cuộc
chiến càng trở nên bền chặt:
+ Họ vừa gặp nhau là đã thấy thân quen: “ Gặp bè bạn suốt dọc đường
đi tới”. Họ coi tất cả người lính đang đi chung trên con đường
Trường Sơn là bè bạn.
+ Xe không kính lại là thuận lợi để họ có thể thoái mái bắt tay nhau “
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Cái bắt tay của người lính trong bài thơ
khiến ta liên tưởng đến cử chỉ nắm tay cảm động trong bài thơ “ Đồng
chí”. Khác với cái nắm tay trong im lặng để chia nhau hơi ấm, cái bắt
tay ở đây thể hiện tình thân ái, sự cởi mở, tinh thần đoàn kết của
họ, là niềm vui gặp mặt bạn bè, là tình đồng đội gắn bó…
+ Một loạt động từ: “ Họp”, “gặp”, “bắt tay” cùng với nhịp thơ
nhanh đã diễn tả được không khí sôi nổi, hồ hởi, tình cảm đồng chí
Bếp Hoàng Cầm ta dựng chân thành thắm thiết của những người lính.
- Tình đồng đội gắn với kỉ niệm: “ Bếp Hoàng Cầm….trời ”. Câu thơ
giữa trời cho thấy một nét sinh hoạt đời thường của người chiến sĩ trên đường
Chung bát đũa nghĩa là gia hành quân. Dọc đường xe chạy, có những lúc họ dừng lại nghỉ ngơi,
đình đấy cùng nhau dựng bếp Hoàng Cầm, cùng ăn chung bữa cơm thời chiến.
Võng mắc chông chênh + Bếp Hoàng Cầm là loại bếp dã chiến…
đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm. + Dựng giữa trời là dựng giữa thanh thiên bạch nhật nhưng điều
đó không hề mâu thuẫn với ý thơ vì đây là cách nói khoa trương,
đùa vui đầy khí khái …Câu thơ gợi lên tâm hồn lạc quan, yêu đời và
nét hiên ngang của người lính. Đại từ “ ta” cho thấy không phải là một
người mà là cả một tập thể, nó nhấn mạnh vào tinh thần đoàn kết
của người lính.
+ Tình đồng đội đã hóa tình cảm gia đình ( dẫn thơ). Người lính có một
cách định nghĩa về gia đình thật tếu táo, hóm hỉnh. Với họ, chung một
bữa cơm là có thể trở thành người thân trong gia đình. Một cách định
nghĩa thật đơn giản mà sâu sắc, cảm động. Cách nghĩ ấy chỉ có được ở
một tâm hồn trẻ trung, cởi mở của những chàng trai đang trong độ tuổi
đôi mươi; “ Chung bát đũa” không chỉ là chia sẻ cho nhau bữa cơm,
còn có nghĩa là chung nhau trải qua bao gian khó, vui buồn; nó
cho thấy tình cảm đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn của các anh.
Quanh bếp lửa, tình đ/c được nhen lên, được sưởi ấm. Những phút nghỉ
ngơi thoáng chốc của người lính thật ngắn ngủi nhưng luôn có đồng
đội ở bên. Phải trực tiếp tham gia chiến đấu trên tuyến đường
Trường Sơn, phải rất am hiểu đời sống chiến tranh, PTD mới có
những câu thơ sâu sắc đến vậy. ( Có thể liên hệ tới câu thơ: Đêm rét
chung chăn – Đồng chí)
- Tình đồng chí, đồng đội còn gắn với KN khó quên: “Võng mắc chông
chênh đường xe chạy”. Từ láy “chông chênh” gợi cái gì đó không
vững, gợi con đường Trường Sơn mấp mô những hố những ụ, gợi
những khó khăn thử thách; gợi những phút nghỉ giây ngơi vội vàng,
giấc ngủ chông chênh của người lính bên những chiếc xe.
- Tình đồng đội giúp người lính thêm lạc quan, thêm sức mạnh để rồi
sau đó họ lại hăm hở lên đường “ Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
+ Điệp ngữ “lại đi” cùng nhịp thơ 2/2/3 nhanh khẳng định đoàn xe
không ngừng tiến tới khẩn trương và kiên cường. Nó còn gợi vòng
quay của bánh xe lăn, là lời tự thúc giục lòng mình, là ý chí quyết
tâm của người chiến sĩ . Và như thế không một sức mạnh nào có thể
ngăn cản họ tiến tới bởi bên họ có đồng đội…
+ Hình ảnh “trời xanh”: Vừa là hình ảnh thực, đi qua bầu trời bom
đạn là mảnh trời xanh lại ở trên đầu, bầu trời xanh bình yên, là khoảng
lặng trong cuộc chiến khốc liệt; “ trời xanh” còn là hình ảnh AD gợi
niềm tin vào ngày mai tươi sáng, thể hiện tinh thần lạc quan, khát
vọng hòa bình của người chiến sĩ. Đó cũng là chất lãng mạn trong
tâm hồn người lính mà PTD đã hơn một lần thể hiện trong thơ: “
Đường ra trận mùa này đẹp lắm/ Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn
Tây”
=> Vẻ đẹp của tình đồng đội, tinh thần lạc quan và sự quyết tâm
của người CSLX đã được khắc họa bằng lời thơ giản dị, đậm chất
hiện thực mà sâu sắc, trong sự khâm phục, yêu mến, tự hào của
nhà thơ.

11. Làm rõ lòng yêu nước, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước của
người lính lái xe trong khổ 4 bài thơ
Khổ 7: Hình ảnh những chiếc xe KK và vẻ đẹp của lòng yêu nước,
Không có kính, rồi xe không ý chí quyết tâm vì miền Nam ở những người chiến sĩ lái xe
có đèn, * Bốn câu thơ dựng nên hai hình ảnh đối lập bất ngờ giữa cái
Không có mui xe, thùng xe không và cái có
có xước, - Hai câu đầu là hình ảnh những chiếc xe không kính
Xe vẫn chạy vì miền Nam + Liên tiếp những cái không. Càng đi sâu vào chiến trường, sự
phía trước: ác liệt của chiến tranh càng rõ. Bom đạn của kẻ thù dội xuống
Chỉ cần trong xe có một trái đã cướp đi của chiếc xe nhiều thứ khiến nó trở nên biến dạng.
tim. Phép liệt kê: Không có kính, không có đèn, không có mui
xe như bày ra trước mắt ta hình ảnh chiếc xe bị tàn phá nặng
nề. Điệp từ “ không có” nhắc lại ba lần vừa tạo nhịp thơ dồn
dập, vừa như nhân lên ba lần thử thách, nhấn mạnh vào những
khó khăn chồng chất, sự khốc liệt càng ngày càng tăng của
cuộc chiến, nhấn mạnh thử thách ngày càng nhiều với người
CSLX.
+ Dấu phẩy ở giữa ngắt đôi hai dòng thơ gợi con đường
Trường Sơn gập ghềnh, đầy chông gai. Con đường ấy cùng với
chiếc xe bị tàn phá như muốn cản bước chân của đoàn quân
ra trận.
- Hai câu sau: Đối lập hoàn toàn với hai câu trên
+ Đối chọi với bom đạn, thử thách của chiến tranh là hình ảnh
đoàn xe vẫn băng băng ra trận. Phó từ “ vẫn” trong “ vẫn
chạy” gợi sự tiếp nối không ngừng nghỉ. Không một thế lực
nào có thể cản bước đoàn xe, bởi xe chạy là vì một mục đích
lớn lao: “ Vì miền Nam phía trước”
+ Câu thơ thứ ba cho thấy rõ mục đích hướng tới của đoàn xe.
Giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc, đó là đích hướng
tới của người lính LX cũng là của cả dân tộc. Những từ “ vẫn,
chỉ” tạo nên giọng điệu khẳng định, thể hiện rõ ý chí quyết
tâm của người lính LX
+ Dấu hai chấm đặt trước dòng thơ cuối gây ấn tượng
mạnh với người đọc, chuẩn bị cho sự lý giải về cội nguồn
sức mạnh của đoàn xe ở câu sau.
+ Ở đây là cái có nhưng chỉ có một, là hình ảnh “trái tim”. Trái
tim là hình ảnh hoán dụ chỉ người chiến sĩ LX. Họ thiếu
thốn về vật chất nhưng họ có trái tim yêu nước, trái tim ấy thay
thế cho tất cả những thiếu thốn, giúp họ vượt lên trên tất cả
khó khăn, hiểm nguy của cuôc chiến. Trái tim ấy còn thể hiện
nhận thức đúng đắn và ý chí quyết tâm của người lính LX, là
hình ảnh thơ ẩn dụ giàu ý nghĩa, lí giải cội nguồn sức mạnh
của cả đoàn xe. Gốc rễ phẩm chất anh hùng của mỗi người lính
LX kết đọng lại ở trái tim giàu lòng yêu nước, gan góc, kiên
cường trước kẻ thù. Phải chăng chính trái tim cầm lái? Phải
chăng tình yêu tổ quốc, khát vọng thống nhất đất nước đã khích
lệ, động viên người chiến sĩ vượt qua mọi gian khổ, vững tay
lái đưa đoàn xe khẩn trương ra phía trước? Ẩn sau ý nghĩa “
trái tim cầm lái” là một chân lý sâu sắc: xe chạy không chỉ
bằng nhiên liệu bên ngoài mà còn bởi sức mạnh tinh thần.
Sức mạnh tạo nên chiến thắng không phải là vật chất mà là con
người có trái tim nồng nàn yêu thương, có ý chí kiên cường và
niềm tin vững chắc. Hình ảnh “trái tim” là nhãn tự bài thơ
góp phần làm rõ chủ đề, hoàn thiện vẻ đẹp người chiến sĩ
lái xe.
+ Có sự đối lập về nhịp thơ: Hai câu đầu nhịp dồn dập, hai câu
sau nhịp thơ trôi chảy, êm du gợi hình ảnh đoàn xe nhẹ nhàng,
hăm hở hướng ra phía trước.
=> Có thể nói, khổ cuối với ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị
và cảm hứng thơ bay bổng, sâu sắc, tác giả đã góp phần
hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người chiến sĩ lái
xe, của tuổi trẻ Việt Nam anh hùng thời chống Mỹ.

You might also like