Professional Documents
Culture Documents
Ch1-TongQuanVeQuanTri
Ch1-TongQuanVeQuanTri
Mục tiêu:
ü Trình bày được khái niệm quản trị và tầm quan trọng của hoạt động quản trị.
ü Trình bày được khái niệm về nhà quản trị, phân biệt các cấp bậc quản trị
ü Giải thích được vai trò của nhà quản trị và các năng lực quản trị cần có
trong quá trình tác nghiệp.
ü Phân tích được tính khoa học và nghệ thuật trong quản trị, vận dụng
HOẠCH ĐỊNH
Thiết lập mục tiêu và cách thức để
đạt mục tiêu
QUÁ TỔ CHỨC
KIỂM SOÁT TRÌNH Sắp xếp các nhiệm vụ, con người
Thực hiện các hoạt động giám
sát và điều chỉnh
QUẢN và các nguồn lực khác để hoàn
thành nhiệm vụ
TRỊ
LÃNH ĐẠO
Tạo cảm hứng, động lực để người
lao động thực hiện nhiệm vụ
Nhà quản trị cấp cao: Chủ tịch HĐQT, Tổng giám
đốc, Giám đốc ...
Xây dựng chiến lược, kế hoạch hành động & phát
triển của tổ chức
Hình 1.3 Phân bổ thời gian cho các chức năng của nhà quản trị các cấp
Các nhà quản trị cần có 3 kỹ năng trên nhưng tầm quan trọng của chúng tùy
thuộc vào các cấp quản trị khác nhau trong tổ chức như được trình bày trong Hình
1.4. Ở những cấp quản trị càng cao thì càng cần nhiều những kỹ năng về tư duy.
Ngược lại ở những cấp quản trị càng thấp, thì càng cần nhiều kỹ năng về chuyên
môn kỹ thuật. Kỹ năng về nhân sự thì ở đâu, ở cấp nào cũng cần và cũng đều là
quan trọng. Mặc dù vậy, trên thực tế thường đòi hỏi cụ thể về mức độ kỹ năng nhân
sự có thể có sự khác nhau tùy theo loại cán bộ quản trị, nhưng xét theo quan điểm
của nhiều nhà kinh tế thì nó lại đóng vai trò quan trọng nhất, góp phần làm cho các
nhà quản trị thực hiện thành công các loại kỹ năng khác của mình và góp phần vào
việc đạt được thành công về mục tiêu chung của cả tổ chức.
1.4.4. Vai trò của nhà quản trị
Trong thực tế nhà quản trị phải làm nhiều công việc khác nhau có liên quan
đến cấp trên, cấp dưới, khách hàng, xã hội… Henry Mintzberg đã nghiên cứu các
hoạt động thường ngày của nhà quản trị và cho rằng các nhà quản trị đều phải thực
hiện 10 vai trò khác nhau, chia làm 3 nhóm chính:
- Vai trò quan hệ với con người
+ Vai trò người đại diện: Là người đại diện, là biểu tượng cho tập thể, có tính
chất nghi lễ trong tổ chức.
+ Vai trò người lãnh đạo: Chỉ huy, hướng dẫn, động viên và kiểm tra công
việc của nhân viên dưới quyền.
+ Vai trò liên lạc: Quan hệ với ngưới khác ở trong hay ngoài tổ chức nhằm
góp phần hoàn thành mục tiêu của tổ chức.
- Vai trò thông tin
+ Vai trò thu thập và xử lý thông tin: Là người thu thập và xử lý các thông tin
nhằm ra các quyết định phục vụ cho hoạt động của tổ chức.
+ Vai trò phổ biến thông tin: Là người phổ biến thông tin đến mọi người, mọi
bộ phận liên quan.
+ Vai trò cung cấp thông tin: Là người có trách nhiệm và quyền lực thay mặt
tổ chức phát ngôn những tin tức ra bên ngoài với mục đích giải thích, bảo
vệ các hoạt động của tổ chức hay tranh thủ thêm sự ủng hộ cho tổ chức.
- Vai trò quyết định
+ Vai trò doanh nhân: Xuất hiện khi nhà quản trị tìm cách cải tiến hoạt động
của tổ chức. Ví dụ phát triển sản phẩm mới, áp dụng một kỹ thuật mới vào
sản xuất hoặc nâng cấp, điều chỉnh một kỹ thuật đang áp dụng.
+ Vai trò giải quyết các xáo trộn: Nhà quản trị là người phải kịp thời đối phó
với những biến cố bất ngờ nảy sinh làm xáo trộn hoạt động bình thường
của tổ chức như mâu thuẫn về quyền lợi, khách hàng thay đổi… nhằm đưa
tổ chức sớm trở lại sự ổn định.
+ Vai trò phân phối nguồn lực: Trong những hoàn cảnh khó khăn do nguồn
lực không đáp ứng đủ nhu cầu của các bộ phận trong tổ chức, nhà quản trị
cần phải biết ưu tiên phân bổ nguồn lực giữa các bộ phận và các cá nhân,
đảm bảo sự hợp lý và tính hiệu quả cao.
+ Vai trò đàm phán: Thay mặt tổ chức thương thuyết trong quá trình hoạt
động, trong các quan hệ với đơn vị khác, với xã hội.
Mười vai trò này liên hệ mật thiết với nhau và nhà quản trị có thể phải thực
hiện một hoặc nhiều vai trò cùng một lúc. Tầm quan trọng của các vai trò thay đổi
tuỳ theo cấp bậc của nhà quản trị trong tổ chức.
Hoạt động quản trị rất đa dạng và phong phú, môi trường hoạt động của các tổ
chức ngày càng phức tạp và đầy biến động. Với chức năng và vai trò của mình, nhà
quản trị giữ phần quan trọng trong sự thành công hay thất bại của một tổ chức, do
đó việc đào tạo và tự đào tạo liên tục của nhà quản trị là vô cùng cần thiết.
1.4.5. Các yếu tố giúp nhà quản trị thành đạt
Thành đạt có nghĩa là đạt được tầm nhìn mong muốn và các mục tiêu đã định.
Ngoài ra, thành đạt còn dùng để mô tả một người có địa vị xã hội nhất định, có danh
tiếng và sự giàu có.
Đối với người thành đạt, may mắn chỉ là một yếu tố nhỏ, nhà quản trị cũng
vậy, sự thành công của họ luôn đến từ sự cố gắng và nỗ lực từ chính năng lực bản
thân họ. Đó chính là các kiến thức, kỹ năng, hành vi và thái độ mà nhà quản trị sử
dụng trong hoạt động của mình, có thể kể 6 nhóm năng lực cơ bản sau:
- Năng lực truyền thông
+ Truyền thông không chính thức
+ Truyền thông chính thức
+ Thương lượng
- Năng lực hoạch định và điều hành
+ Thu thập, phân tích thông tin và giải quyết vấn đề
+ Hoạch định và tổ chức thực hiện các dự án
+ Quản lý thời gian
+ Lập ngân sách và quản trị tài chính
- Năng lực làm việc nhóm
+ Thiết kế nhóm
+ Tạo môi trường mang tính hỗ trợ
+ Quản trị sự năng động của nhóm
- Năng lực hành động chiến lược
+ Hiểu rõ ngành hoạt động
+ Hiểu biết tổ chức
+ Thực hiện các hành động chiến lược
- Năng lực nhận thức toàn cầu
+ Có kiến thức và hiểu biết về văn hoá
+ Nhạy cảm và khả năng hoà nhập văn hoá
- Năng lực quản trị
+ Cư xử trung thực và đạo đức
+ Có cá tính và nghị lực
+ Cân bằng giữa yêu cầu công việc và cuộc sống
+ Khả năng tự nhận thức và phát triển
1.5. Một số đặc điểm của quản trị
1.5.1. Tính phổ biến của quản trị
Hoạt động quản trị là cần thiết trong mọi tổ chức, dù là tổ chức kinh doanh, tổ
chức phi lợi nhuận cho đến các tổ chức chính quyền hay tổ chức tôn giáo…, thậm
chí hoạt động của từng cá nhân cũng cần được quản trị đúng cách. Việc những nhà
quản trị thường xuyên chuyển giữa các tổ chức cho thấy những khái niệm quản trị
có tính phổ biến cho tất cả các loại tổ chức.
Các nhà quản trị ở mọi cấp bậc đều thực hiện các chức năng quản trị, đó là:
hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát. Tuy nhiên tuỳ theo đặc thù của mỗi tổ
chức và cấp bậc của nhà quản trị trong tổ chức tạo nên sự khác nhau trong công việc
giữa các nhà quản trị. Khi quan sát và nghiên cứu công việc của các nhà quản trị
trong các tổ chức, người ta nhận thấy: cấp quản trị càng cao, công việc càng tăng
dần các kỹ năng về quản trị và giảm dần các kỹ năng về chuyên môn.
Do đó những nhà quản trị ở cấp cao dễ dàng thuyên chuyển qua các tổ chức
khác nhau vì công việc quản trị của họ giống nhau mặc dù mục tiêu của những tổ
chức mà họ hoạt động có thể khác nhau. Ngược lại những nhà quản trị cấp thấp thì
gắn liền với chuyên môn nghiệp vụ của mình vì thế khả năng thuyên chuyển thấp
hơn.
1.5.2. Tính khoa học và nghệ thuật của quản trị
Quản trị là một loại lao động trí óc đặc thù nhằm tổ chức, điều khiển và phối
hợp các hoạt động mà doanh nghiệp phải thực hiện để đạt mục tiêu kinh doanh. Nó
không chỉ dựa trên kinh nghiệm mà phải có cơ sở khoa học (tổng kết từ thực tiễn
quản trị và có sự vận dụng các quy luật, nguyên tắc, phương pháp và công cụ quản
trị). Mặt khác, nó còn là một nghệ thuật trong xử lý các tình huống đa dạng không
thể dự tính đầy đủ; cần hết sức linh hoạt, sáng tạo, tuỳ cơ ứng biến sao cho có hiệu
quả cao nhất. Ngoài ra, quản trị còn là một nghề chuyên nghiệp, kết quả của sự phân
công lao động cao trong xã hội; đòi hỏi kỹ năng và phẩm chất nhất định.
- Quản trị là một khoa học
Tính khoa học của quản trị thể hiện các đòi hỏi sau:
+ Phải dựa trên sự hiểu biết sâu sắc các quy luật khách quan chung và riêng (tự
nhiên, kỹ thuật và xã hội). Đặc biệt cần tuân thủ các quy luật của quan hệ công
nghệ, quan hệ kinh tế, chính trị; của quan hệ xã hội và tinh thần. Vì vậy, quản trị
phải dựa trên cơ sở lý luận của ngành khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật như toán
học, điều khiển học, tin học, công nghệ học, v.v... cũng như ứng dụng nhiều luận
điểm và thành tựu của các môn xã hội học, tâm lý học, luật học, giáo dục học, văn
hoá ứng xử ...
+ Phải dựa trên các nguyên tắc tổ chức quản trị (về xác định chức năng, nhiệm
vụ, trách nhiệm và quyền hạn; về xây dựng cơ cấu tổ chức quản trị; về vận hành cơ
chế quản trị, đặc biệt là xử lý các mối quan hệ quản trị).
+ Phải vận dụng các phương pháp khoa học (như đo lường định lượng hiện
đại, dự đoán, xử lý lưu trữ dữ liệu, truyền thông, tâm lý xã hội ...) và biết sử dụng
các kỹ thuật quản trị (như quản lý theo mục tiêu, lập kế hoạch, phát triển tổ chức,
lập ngân quỹ, hạch toán giá thành sản phẩm, kiểm tra theo mạng lưới, kiểm tra tài
chính).
+ Phải dựa trên sự định hướng cụ thể đồng thời có sự nghiên cứu toàn diện,
đồng bộ các hoạt động hướng vào mục tiêu lâu dài, với các khâu chủ yếu trong từng
giai đoạn.
Tóm lại, khoa học quản trị cho chúng ta những hiểu biết về các quy luật,
nguyên tắc, phương pháp, kỹ thuật quản trị; để trên cơ sở đó biết cách giải quyết các
vấn đề quản trị trong các hoàn cảnh cụ thể, biết cách phân tích một cách khoa học
những thời cơ và những khó khăn trở ngại trong việc đạt tới mục tiêu. Tuy nhiên, nó
chỉ là một công cụ; sử dụng nó càng phải tính toán đến điều kiện đặc điểm cụ thể
từng tình huống để vận dụng sáng tạo, uyển chuyển (đó là nghệ thuật).
- Quản trị là một nghệ thuật
Tính nghệ thuật của quản trị xuất phát từ tính đa dạng, phong phú của các sự
vật và hiện tượng trong kinh tế, kinh doanh và trong quản trị; hơn nữa còn xuất phát
từ bản chất của quản trị. Những mối quan hệ giữa con người (với những động cơ,
tâm tư, tình cảm khó định lượng) luôn đòi hỏi nhà quản trị phải xử lý khéo léo, linh
hoạt. Tính nghệ thuật của quản trị còn phụ thuộc vào kinh nghiệm và những thuộc
tính tâm lý cá nhân của từng người quản lý; vào cơ may và vận rủi, v.v...
Nghệ thuật quản trị là việc sử dụng có hiệu quả nhất các phương pháp, các tiềm
năng, các cơ hội và các kinh nghiệm được tích luỹ trong hoạt động thực tiễn nhằm
đạt được mục tiêu đề ra cho tổ chức, doanh nghiệp. Đó là việc xem xét động tĩnh
của công việc kinh doanh để chế ngự nó, đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại, ổn định
và không ngừng phát triển có hiệu quả cao. Nói cách khác, nghệ thuật quản trị kinh
doanh là tổng hợp những “bí quyết”, những “thủ đoạn” trong kinh doanh để đạt mục
tiêu mong muốn với hiệu quả cao.
Nghệ thuật quản trị không thể tìm thấy được đầy đủ trong sách báo; vì nó là bí
mật kinh doanh và rất linh hoạt. Ta chỉ có thể nắm các nguyên tắc cơ bản của nó,
kết hợp với quan sát tham khảo kinh nghiệm của các nhà quản trị khác để vận dụng
vào điều kiện cụ thể. Một số lĩnh vực cần thể hiện nghệ thuật quản trị kinh doanh là:
+ Nghệ thuật tạo thời cơ, chớp thời cơ, tránh nguy cơ.
+ Nghệ thuật tạo vốn, sử dụng vốn và tích luỹ vốn.
+ Nghệ thuật cạnh tranh (giành thị phần, đạt lợi nhuận cao).
+ Nghệ thuật sử dụng người (phát hiện, bố trí, phát huy, liên kết).
+ Nghệ thuật ra quyết định (nhạy, đúng, kịp thời ...) và tổ chức thực hiện quyết
định.
+ Nghệ thuật sử dụng đòn bẩy trong quản trị.
+ Nghệ thuật giao tiếp (với đối tác, với khách hàng, với cấp dưới ...)
+ v.v...
1.6. Đạo đức và trách nhiệm xã hội của nhà quản trị
Đạo đức kinh doanh là một thước đo rất quan trọng nhằm điều chỉnh các hành
vi trong hoạt động kinh doanh. Các khái niệm văn hoá công ty – đạo đức kinh doanh
– trách nhiệm xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau
1.6.1. Đạo đức kinh doanh
Đạo đức kinh doanh được hiểu là những chuẩn mực, nguyên tắc được xã hội
cũng như giới kinh doanh thừa nhận, là những quy định về hành vi, quan hệ nghề
nghiệp giữa các nhà quản trị với nhau, hay giữa các nhà quản trị với xã hội trong
quá trình tiến hành các hoạt động kinh doanh, giúp cho các nhà quản trị ứng xử một
cách trung thực và có trách nhiệm với cộng đồng và với nhau.
Đạo đức trong tác nghiệp của nhà quản trị bị chi phối bởi ba tiêu chuẩn đạo
đức cơ bản có mức độ rõ ràng và mức độ kiểm soát khác nhau đó là: tiêu chuẩn đạo
đức pháp lý, tiêu chuẩn đạo đức xã hội và tiêu chuẩn đạo đức cá nhân. Đạo đức có
thể được hiểu rõ hơn khi so sánh với hành vi được pháp luật điều chỉnh và tự do lựa
chọn.
Đạo đức kinh doanh là biểu hiện của sự dung hoà giữa lợi ích của các nhà quản
trị trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh với lợi ích của người lao động làm
việc cho các nhà quản trị, lợi ích của khách hàng, của các đối tác và lợi ích của toàn
cộng đồng.
Một trong những chuẩn mực đạo đức kinh doanh là sự trung thực. Một nhà
quản trị có đạo đức cần phải thể hiện bằng những hành vi cụ thể, tiếp đến phải thể
hiện công bằng trong các quyết định thưởng phạt, sau cùng là việc thể hiện lòng trắc
ẩn và quan tâm đến nhu cầu của người khác.
Đạo đức kinh doanh có quan hệ mật thiết với trách nhiệm xã hội của nhà quản
trị, vì vậy kinh doanh có đạo đức là một phần trách nhiệm xã hội của các nhà quản
trị.
1.6.2. Trách nhiệm xã hội
Có nhiều quan niệm khác nhau về trách nhiệm xã hội (CSR – Corporate social
responsibility). Mỗi tổ chức, công ty, chính phủ nhìn nhận CSR dưới góc độ và quan
điểm riêng, phụ thuộc vào điều kiện, đặc điểm và trình độ phát triển của mình.
- Quan niệm thứ nhất: Chỉ tập trung vào một trách nhiệm duy nhất đó là giải
quyết các vấn đề về nguồn lực và năng lực hoạt động của tổ chức để nâng cao hiệu
quả hoạt động của tổ chức, hay là đạt được các mục tiêu mong muốn trong phạm vi
giới hạn của pháp luật cho phép. Lợi ích xã hội được đảm bảo một cách tốt nhất
thông qua các hoạt động kinh tế, việc thu lợi ích và sử dụng (phân phối) lợi ích của
tổ chức sẽ giúp các bên liên quan một cách trực tiếp hay gián tiếp cùng hưởng lợi.
Doanh nghiệp hoạt động tốt sẽ đóng thuế nhiều, đặt/nhận nhiều đơn hàng cho/từ đối
tác và tạo ra nhiều việc làm với mức lương cao.
- Quan niệm thứ hai: Trách nhiệm xã hội được thực hiện không phải chỉ bằng
kinh tế mà phải bằng hàng loạt các yếu tố ngoài kinh tế. Quan điểm này coi trách
nhiệm xã hội là sự thừa nhận nghĩa vụ xã hội nằm ngoài phạm vi yêu cầu của pháp
luật.
Từ các quan điểm trên có thể nhận thấy:
Các tổ chức hoạt động trong nền kinh tế thì phải cân bằng giữa lợi ích kinh tế
và lợi ích xã hội. Các tổ chức phải thực hiện trách nhiệm xã hội trong các lĩnh vực
như: bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ sức khoẻ con người, an ninh an toàn,
quyền công dân, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng …
Như vậy các nhà quản trị sẽ thực hiện trách nhiệm xã hội của bản thân mình và
của tổ chức theo đòi hỏi, yêu cầu của pháp luật, trách nhiệm công dân, theo các
chuẩn mực của đạo đức xã hội, theo tiếng gọi của lương tâm và theo truyền thống
lịch sử văn hoá của dân tộc.
Có 2 mức thực hiện trách nhiệm xã hội:
1. Tuân thủ quy định, luật pháp của Nhà nước (bắt buộc).
2. Thực thi một cách tự nguyện.
Các lý do phải thực hiện trách nhiệm xã hội
+ Mỗi tổ chức là một bộ phận, là tế bào của một xã hội rộng lớn hơn. Giữa các
bộ phận, tế bào, các yếu tố của một tổng thể có tác động qua lại lẫn nhau.
+ Việc thực hiện trách nhiệm xã hội giúp nhà quản trị phát hiện và nắm bắt các
thời cơ, cơ hội khi nó vừa mới xuất hiện, đồng thời phòng ngừa các nguy cơ, rủi ro
bất trắc xảy ra trong quá trình quản trị.
Thực hiện trách nhiệm xã hội là vì chính quyền lợi của tổ chức nói chung và
của nhà quản trị nói riêng.
Những khó khăn của nhà quản trị khi thực hiện trách nhiệm xã hội
+ Ảnh hưởng đến tình hình tài chính của tổ chức.
+ Các nhà quản trị thiếu năng lực hiểu biết xã hội để giải quyết những vấn đề
xã hội.
+ Làm phân tán và lỏng lẻo các mục tiêu chủ yếu của tổ chức nói chung và của
nhà quản trị nói riêng.
+ Việc tham gia thực hiện trách nhiệm xã hội của nhà quản trị có thể không
nhận được sự ủng hộ và chấp nhận của dư luận xã hội vì những lý do khác nhau.
Tư tưởng cơ bản của vấn đề trách nhiệm xã hội là nhà quản trị phải lựa chọn
cho mình một hệ thống ứng xử chiến lược và ứng xử tình thế để có thể: được môi
trường chấp nhận, đón được các cơ hội và hạn chế các rủi ro, tạo ra các cơ hội của
môi trường.