Professional Documents
Culture Documents
BỘ ĐỀ ÔN TẬP TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ HOÀN CHỈNH
BỘ ĐỀ ÔN TẬP TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ HOÀN CHỈNH
…………………………..
ĐỀ SỐ 1
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Chúng ta đang sống trong một thế giới bị sự dễ dàng cám dỗ. Ta muốn vẻ bề ngoài
khỏe mạnh và cân đối, nhưng lại không muốn phải luyện tập để đạt được nó. Ta muốn
thành công trong sự nghiệp nhưng lại tự nhủ giá như có một cách nào đó để thành công
mà không phải làm việc vất vả và tuân theo kỉ luật (mọi nhà điều hành vĩ đại cũng như
các công ty lớn đều rất kỉ luật). Ta ước mơ có một cuộc đời tràn đầy niềm vui, không nỗi
sợ nhưng lại thường xuyên tránh né các biện pháp hiệu quả nhất (như dậy sớm, chấp nhận
rủi ro, lập mục tiêu, đọc sách), những điều chắc chắn sẽ đưa ta đến lý tưởng của mình.
Chẳng có gì miễn phí. Chẳng có buổi tiệc nào thực sự là buổi chiêu đãi. Điều tốt đẹp
trong đời luôn đòi hỏi sự hi sinh và tận hiến. Mỗi chúng ta, để đạt tới một con người duy
nhất và vượt trội trong nghề nghiệp, đều phải trả giá. Càng trả giá nhiều, càng nhận
nhiều...
Cuộc đời vĩ đại không từ trên trời rơi xuống. Mà phải được đẽo gọt và xây dựng, như
đền TajMahal, như Vạn Lí Trường Thành, ngày qua ngày, viên gạch này nối tiếp viên
gạch khác. Việc kinh doanh thành công đâu phải tự nhiên mà có. Chúng đến từ những nỗ
lực và phát triển liên tục không ngừng. Đừng rơi vào ảo tưởng rằng cuộc đời tốt đẹp sẽ
đến mà không cần nỗ lực. Hãy nỗ lực hết mình, và điều tốt đẹp sẽ đến với bạn. Chắc chắn
thế.
(Trích Đời ngắn, đừng ngủ dài - Robin sharma - NXB Trẻ, 2014; tr.91)
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính trong đoạn trích.
Câu 2. Theo tác giả, những điều chắc chắn sẽ đưa ta đến với lí tưởng của mình là gì?
Câu 3. Việc tác giả nhắc đến đền Taj Mahal và Vạn Lí Trường Thành có tác dụng gì?
Câu 4. Thông điệp nào trong đoạn trích trên có ý nghĩa nhất với anh/chị? Vì sao?
PHẦN II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích phần đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự nỗ lực hết mình trong cuộc sống.
Câu 2 (5.0 điểm)
Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ
sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá
thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua
bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ nọ sang bờ kia. Ngồi trong
khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè
một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa
tắt phụt đèn điện.
Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng
xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người
lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh xuất tay lái thì cũng dễ lật
ngửa bụng thuyền ra.
Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút
nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây
thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ
những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào
qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút
qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà
phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có
những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến
đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông
dưới. Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác
lạ cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả
thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà - từ đáy cái hút nhìn ngược lên
vách thành hút mặt sông chênh nhau đến một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh.
Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-
plongee lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng
thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay
phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền
cảm lại cho người xem phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy
mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy
đánh phèn.
(...) ... Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại
réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại
như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa,
rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc
sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn
mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng
ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn
bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng
nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung rít lên như tuyếc bin
thuỷ điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xoá càng làm bật rõ lên những hòn những
tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tuỳ theo sở thích tự động của đá to đá
bé. Nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày
thạch trận trên sông. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn
chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp
lá cà có đá dàn trận địa sẵn…
(Trích tuỳ bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân,
Anh/ chị hãy cảm nhận về vẻ hùng vĩ, dữ dội của Sông Đà trong đoạn văn trên, từ đó
làm rõ những nét đặc sắc trong cách cảm nhận và miêu tả của nhà văn Nguyễn Tuân.
ĐỀ SỐ 3
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích:
Ngày Cha ra trận Chiếc ba lô rưng rưng
giọt máu của Người chưa bật khóc! Cha nghe lại cuộc đời
Mẹ lẻ loi Cha nhận lại một thời trai trẻ
vượt cạn bên ngực trái
đất phương Nam phập phồng
Cha tờ nhập ngũ
ngã xuống miệt vườn… bên ngực phải
buôn buốt tờ báo tử
Bốn mươi năm sau và, bây giờ
Cha trở lại quê hương một tấm vé hồi hương!
trên con tàu Thống Nhất
Chiếc ba lô từng theo Cha đánh giặc Cha ơi!
nay ấp iu Cha trong cuộc trở về Trong hình dung của con
Tấm vé tàu con mua cho cha chiếc vé tàu Thống Nhất
cũng bình thường như bao tấm vé khác. là tấm chứng minh thư của
Chỉ khác người lính chiến trường
nó không bị xé đi một góc khi Cha bước lên tàu ra đi là Cha
suất cơm kèm theo dành cho khách vẫn còn nguyên trở về cũng là Cha
và không mất!
ngồi thay Cha Một tấm vé tàu
trên ghế mềm chỉ một
là chiếc ba lô đựng hài cốt! đưa Cha về với Mẹ
[…] Mùa ngâu…
(Trích “Tấm vé tàu Thống Nhất dành cho Cha”, Nguyễn Hữu Quý,
nguồn: https://nhandan.vn/nhung-nguoi-khong-de-lai-tuoi-ten)
Trình bày cảm nhận của anh/chị về nhân vật ông lái đò trong đoạn trích trên. Từ đó,
nhận xét cái nhìn mang tính phát hiện về con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
---Hết---
ĐỀ SỐ 4
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
Đông thì chật, ít thì thưa
Chẳng bao giờ thấy dư thừa thường dân.
Quanh năm chân đất đầu trần
Tác tao sau những vũ vần bão giông.
Khi làm cây mác cây chông
Khi làm biển cả, khi không là gì.
Thấp cao đâu có hề chi
Cỏ ngàn năm vẫn xanh rì cỏ thôi.
Ăn của đất, uống của trời
Dốc lòng cởi dạ cho người mình tin
Ồn ào mà vẫn lặng im,
Mặc ai mua bán nổi chìm thiệt hơn.
Chỉ mong ấm áo no cơm
Chắt chiu dành dụm thảo thơm để dành.
Hoà vào trời đất mà xanh
Vô tư mấy kiếp mới thành thường dân.
Thường dân - Nguyễn Long, bài thơ đạt giải nhất
cuộc thi thơ lục bát, Báo Văn nghệ Trẻ năm 2003)
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong bài thơ Thường dân của Nguyễn
Long là gì?
Câu 2. Tìm câu thơ trong bài cho thấy đồng thời cả vai trò và thân phận của những người
thường dân.
Câu 3. Anh/ chị suy nghĩ như thế nào về cách sống, cách nghĩ của người thường dân trong
hai câu thơ: Ồn ào mà vẫn lặng im - Mặc ai mua bán nổi chìm thiệt hơn.?
Câu 4. Cảm nhận của anh/ chị về hai câu thơ: Hoà vào trời đất mà xanh - Vô tư mấy kiếp
mới thành thường dân.?
II. LÀM VĂN (7.0 điểm)
Câu 1(2.0 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết đoạn văn (khoảng 200
chữ) trình bày suy nghĩ của mình về vai trò của người thường dân đối với đất nước.
Câu 2 (5.0 điểm)
... Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại, réo to
mãi lên. Tiếng thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu
khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa
cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn,
thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân giời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết
trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh
hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy
để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo
mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung tít lên như tuyếc-bin thủy điện nơi đáy
hầm đập. Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng
như nó đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như
sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông.
Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một
cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận
địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính là hai
đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước
sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy
vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá
nổi ở tuyến ba là phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt thuyền
trưởng cùng tất cả thủy thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền
vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai
phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải
xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền
có giỏi thì tiến gần vào …
(Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân)
Cảm nhận của anh/ chị vẻ đẹp hình tượng Sông Đà ở đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét
phong cách tài hoa, uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân (Hoặc nét đặc sắc trong ngôn ngữ
tùy bút của Nguyễn Tuân)
HƯỚNG DẪN GIẢI ĐỀ
ĐỀ SỐ 5
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc văn bản:
Không có gì tự đến đâu con.
Quả muốn ngọt phải tháng ngày tích nhựa
Hoa sẽ thơm khi trải qua nắng lửa.
Mùa bội thu phải một nắng hai sương,
Không có gì tự đến dẫu bình thường.
Phải bằng cả bàn tay và nghị lực
Như con chim suốt ngày chọn hạt,
Năm tháng bao dung khắc nghiệt lạ kỳ.
……………. Hết………….
ĐỀ SỐ 6
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Đọc đoạn trích sau:
“Xin cảm ơn những khu rừng thiên
Tán lá rợp cho ta trầm tĩnh lại
Chông tẩm thuốc sau nhà, đá mài dao dưới suối
Con đường mòn nung đỏ dưới ngàn cây
Một cọng rau gợi nhớ về xuôi
Củ chuối chát ghi mối thù canh cánh
Đêm bên suối sao trời rơi óng ánh
Nhắc ta hoài biển đang vỡ dưới kia
Con đường tấy lên như một lời thề
Đất gọi ta, làng gọi ta, nóng bỏng
Vịn vào cây ven đường nhẵn bóng
Ngỡ như đồng đội đỡ ta lên…”
(Trích Sức bền của đất- Hữu Thỉnh, NXB Tác phẩm mới, 1977)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1. Xác định thể thơ của đoạn trích.
Câu 2. Trong đoạn trích trên, tác giả cảm ơn những khu rừng vì điều gì?
Câu 3. Nêu và phân tích tác dụng của 01 biện pháp tu từ được sử dụng trong các câu thơ
sau:
Con đường tấy lên như một lời thề
Đất gọi ta, làng gọi ta, nóng bỏng
Câu 4. Anh/chị hãy nhận xét về tình cảm, thái độ của tác giả được thể hiện trong đoạn
trích.
II- LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm): Theo những điều được gợi lên từ nội dung văn bản phần Đọc hiểu,
hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày nhận thức của anh/ chị về trách nhiệm
của thế hệ trẻ hôm nay với đất nước, dân tộc.
Câu 2 (5,0 điểm)
... Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả.
Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng
thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép. Vút,
vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh
qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác. Dòng sông vặn
mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông nước
lai thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn
tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô nổ những tiếng to
như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về
cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ
là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay
những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng
chèo.
Trên Sông Đà, thỉnh thoảng có tàu bay lượn vòng ở quãng này ở quãng khác, có lẽ
để chỉnh lí về bản đồ đất nước Tổ quốc. Tôi nghĩ nếu sau này làm phim truyện hoặc phim
kí sự (tôi không muốn dùng mấy chữ phim tài liệu) màu về Sông Đà, nếu muốn phản ánh
lên cái dữ tợn và cái lớn của Sông Đà, cũng phải đưa ống quay phim lên tàu bay. Cho
bay là là dưới chân thác mà gí máy xuống mà lượn ống máy theo những luồng sinh của
thác, trên thác hiên ngang một gười lái đò Sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm
được cái quy luật tất yếu của dòng nước Sông Đà.
(Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, SGK Ngữ Văn 12
tập 1, tr. 189, 190. NXB Giáo Dục, năm 2008)
Anh/ chị hãy phân tích hình tượng người lái đò Sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó,
nhận xét cách nhìn mới về con người của Nguyên Tuân sau cách mạng.
ĐỀ SỐ 7
I. ĐỌC HIỂU (4,0 điểm)
Đọc văn bản sau:
Chim én đi suốt mùa đông
Để thấy mùa xuân trong chồi lá
Con thuyền vượt qua biển cả
đến bến bờ xa vời…
----------Hết---------