Professional Documents
Culture Documents
Bài Giảng- Các Chủ Đề Tích Hợp LS&ĐL.
Bài Giảng- Các Chủ Đề Tích Hợp LS&ĐL.
Hình 1. Sơ đồ các vị trí khai hoang của Nguyễn Công Trứ trên đồng bằng duyên
hải Bắc Bộ từ 1828-1831 [Vũ Văn Phái, 1998]
Và con người đã dần dần biến châu thổ sông Hồng thành một vựa lúa lớn “Phù sa
sông Hồng, ánh nắng mặt trời, một hệ thống thủy lợi chằng chịt và cuối cùng là sự lao
động cần cù của con người từ thế hệ này sang thế hệ khác đã tạo cho đồng bằng bộ mặt trù
phú như hiện nay.
Như vậy về mặt lịch sử, đồng bằng sông Hồng có lịch sử hình thành từ rất sớm
trong khi đó đồng bằng sông Cửu Long lại muộn hơn nhiều. Đặc điểm này cho thấy một
sự khác biệt cơ bản giữa hai vùng đồng bằng lớn nhất của cả nước hiện nay. Và chính đặc
điểm này là một trong những lý do quan trọng dẫn đến sự khác biệt cơ bản giữa hai vùng
đồng bằng châu thổ sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long.
3.1.1.2. Ứng phó với sự thay đổi dòng chảy sông Hồng
Trong vòng ba thế kỷ trở lại đây, dòng chảy sông Hồng có tác động cực kỳ lớn đến
đời sống cư dân và nền chính trị của người Việt. Nguyên nhân là sự gia tăng bất thường
của lũ lụt dọc theo hai bờ. Những biến cố này làm xáo trộn đời sống cư dân dưới thời Lê-
Trịnh, làm “đau đầu” nhà Nguyễn, và đặt ra thách thức cho kỹ thuật trị thủy của người
Pháp.
Các sử gia thời hiện đại mô tả chế độ phong kiến dưới thời nhà Nguyễn không quan
tâm đến đê điều, dân chúng để gây ra tai họa. Trái lại, nếu qua châu bản triều Nguyễn, Đại
Nam thực lục, các bản tấu sớ của Đặng Trần Thường, Lê Đại Cương, Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Đăng Giai, Nguyễn Đức Oánh, Nguyễn Văn Siêu … thì trị thủy luôn là vấn đề ưu
tiên hàng đầu đối với các nhà vua ở Huế. Thống kê của quan Đê chính Lê Đại Cương năm
1829 cho thấy đê dọc sông Hồng là 952 km, trong đó 144,5 km được xây dựng trong 26
năm đầu triều Nguyễn (Tessier 2011).
Không ở đâu sự vật lộn với tự nhiên lại diễn ra lâu dài và quyết liệt như cách thức
người Việt xây dựng nhà nước của mình trên vùng châu thổ sông Hồng và đấu tranh bảo
vệ từng ngôi nhà, mảnh vườn, thửa ruộng. Cũng không ở đâu nhà nước lại dành ra nhiều
công sức và mối bận tâm với việc ứng xử với tự nhiên để duy trì tính chính thống quyền
lực như miền Bắc Việt Nam.
Một gợi ý khác cho câu trả lời cũng có thể nằm ở phía thượng nguồn: rừng bị tàn
phá ở khắp vùng Vân Nam từ thế kỷ XVII. Điều này ngay lập tức giáng họa cho hạ nguồn.
Không phải ngẫu nhiên mà từ “Hồng” bắt đầu được gắn với dòng sông này vào giữa thế
kỷ XIX (Hồng Hà). Đó là khi rừng ở Vân Nam bị tàn phá làm gia tăng lượng phù sa và đất
xói mòn theo dòng chảy. Ngày nay, Vân Nam chỉ còn 19% đất có rừng bao phủ, và những
khu vực rừng dưới 1200m hầu như bị xóa sổ hoàn toàn. Thủ phạm chính là việc khai thác
đồng, kẽm, thiếc được tiến hành ở quy mô lớn. Vào cuối thế kỷ XIX, Cá Cựu, một thị trấn
nằm không xa biên giới Việt Nam trở thành thủ phủ sản xuất thiếc ở Vân Nam và toàn
nam Trung Hoa (Li Tana 2016).
Cách các mỏ thiếc này hàng ngàn km về phía đông nam là quan Doanh điền sứ
Nguyễn Công Trứ. Ông có lẽ không nhận ra sự thay đổi này khi đi tổ chức khai hoang ở Kim
Sơn và Tiền Hải. Tuy nhiên gia tăng phù sa đã giúp sức cho công cuộc khai mở đất đai duyên
hải của ông. Thống kê cho thấy trong vòng 150 năm từ 1831 đến 1959, châu thổ sông Hồng
tiến ra biển 19km, tức là khoảng 161m một năm, trong khi giai đoạn 1471-1830 chỉ là 21m
một năm (Lê Bá Thảo. Thiên nhiên Việt Nam.1977: 142-143).
Nhưng tai họa đối với hai bên bờ sông là thảm khốc. Thế kỷ XVIII có 3 lần vỡ đê.
Con số này ở thế kỷ XIX là 48.
Trận lụt ở Hà Nội năm 1926 (thư viện EFEO; O. Tessier 2011).
Riêng từ 1803 đến 1861 đã có 27 trận lụt được sử quán nhà Nguyễn ghi nhận, chưa
kể các đợt vỡ đê cục bộ là chuyện xảy ra hằng năm. Lụt và nạn đói là nguyên nhân trực
tiếp của 4 cuộc nổi dậy thời Gia Long, 11 cuộc thời Minh Mệnh, 1 cuộc thời Thiệu Trị và
3 cuộc thời Tự Đức, trên tổng số 400 cuộc nổi dậy trong vòng 60 năm.
Nhiều vùng đất ở Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định gần như bỏ hoang và tình trạng
cư dân phiêu tán, tụ tập trong các nhóm vũ trang địa phương trở nên phổ biến. Nhiều quan
chức nhà Nguyễn đã gần như tuyệt vọng với tình hình và đề xuất phá bỏ hệ thống đê điều.
May mắn là ý tưởng này đã không trở thành hiện thực.
+ Thứ nhất: Sự phong phú và đa dạng cac nghề thủ công, qua các hiện vật được tìm
ở văn hóa Óc Eo được chứng minh cho sự đa dạng của các ngành nghề ở đây: Nghề mộc,
nghề đá, nghề tạc tượng, đất nung trang trí, nghề gốm, luyện kim.
+ Thứ hai: Sự phát triển ở trình độ cao của một số nghề thủ công như: gốm, luyện
kim và kim hoàn. Sản phầm của các nghề này phong phú, đa dạng, đạt đến trình độ cao về
kĩ thuật. Gốm có nhiều loại: Nồi hũ, bình lọ..
Thương nghiệp: Đặc biệt phát triển, cư dân Phù Nam có một bộ phận chuyên làm
nghề buôn bán. Óc Eo chính là một trung tâm thương mại phát triển bậc nhất và quan
trọng nhất của Phù Nam. Phù Nam có mối quan hệ giao thương rất rộng rãi đặc biệt là với
Ấn Độ- Đông Nam Á- Trung Hoa.
Tom lại: có thể thây nền kinh tế Phù Nam là một nền kinh tế đan xen hài hòa giữa
các ngành kinh tế. Một mặt họ có thể dùng vàng, bạc, châu ngọc làm đồ cống và nạp thuế,
mặt khác họ vẫn theo nghề trồng trọt và thủ công nghiệp để đảm bảo lương thực và đồ
dùng hàng ngày.
Trong xã hội: có các tầng lớp khác nhau như: quý tộc, bình dân, tầng lớp nô tì. Cư
dân ở đây có tập quán ở trần, xăm mình, xõa tóc, đi chân đất, mặc váy chui gấu, cũng có
người đi guốc bằng gỗ.
b. Tình hình văn hóa của Phù Nam
Không chỉ phát triển về kinh tế mậu dịch hàng hải, trở thành một cường quốc quân
sự- chính trị. Phù Nam còn có một nền văn hóa đặc sắc ảnh hưởng đến các quốc gia láng
giềng để lại những dấu ấn độc đáo nhất trong lịch sử.
Chữ viết: Người Phù Nam sớm mượn chữ cổ Ấn Độ. Vua cũng đọc được những bài
văn viêt của Ấn Độ, mỗi bài văn dài 3000 chữ, đây là bài viết của giới quý tộc, tăng lữ
cung đình. Tuy nhiên qua thời gian truyền bá, một số chữ đã trở thành đối tượng quen
thuộc của người bình dân. Điều này được khẳng định qua các bia còn sót lại.
Tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán:
Người Phù Nam chịu ảnh hưởng của đạo Balamon và đạo phật của Ấn Độ, trong đó
đặc biệt là đạo Phật, khá thịnh hành ở Phù Nam, thậm chí nó có sức lan tỏa ra nhiều quốc
gia khác. Phù Nam là trung tâm phật giáo của cả Đông Nam Á và Đông Á, ảnh hưởng cả
vùng Nam Trung Quốc.
- Phong tục: Người Phù Nam có phong tục riêng: Đối với người chết họ được xử lí
theo 4 cách: ném thi hài xuống sông, thiêu cháy thành tro, chôn cất trong hầm và phơi xác
cho chim mổ. tập quán tắm ửa của người Phù Nam rất độc đáo: Một số gia đình dùng
chung một thùng tắm, tục này vẫn thấy ở Camphuchia.
- Kiến truc, điêu khắc: Tuy không có công trình kiến trúc lớn, vĩ đại đạt trình độ
thẩm mỹ cao những kiến trúc nhà ở như đền, chùa Phù Nam được thiết kế rất độc đáotheo
hướng thích ứng với điều kiện tự nhiên. Trong cuộc khai quật di chỉ Óc Eo, L.Malleret
cho biết: Đây là một quần thể đô thị rộng lớn gồm các khu nhà sàn bị cắt ngang dọc bởi
một mạng lưới kênh đào và hệ thống thủy nông dàn trải trên 200km, các thành phố được
nối đuôi nhau bằng biển cả bằng những con kênh đủ rộng để tiếp nhận những chiếc cầ đi
biển. Tại đây đã tìm thấy dấu tích của dinh thự, nhà cửa được thiết kế theo hai cách: ở
những nơi đất cao xây dựng bằng gạch đá. ở những nơi đất thấp được xây dựng bằng gỗ
lợp la dừa nước, xung quanh vòng thành bằng đất.
Cùng với việc xây dựng thành thị là việc xây dựng đền miếu, các nhà khoa học đã
tìm thấy vết nền của các kiến trúc đặc biệt là trụ giới (Sima-cột mốc) của đền. Trên nền có
móng gạch chia thành các ô lớn hình vuông và hình chữ nhật. Người ta tìm thấy những mô
đất trong đó có chứa đựng những lòng trụ huyệt nhỏ xếp gạch hay chèn đất đá, dưới đáy
xếp đặt một hay một số vật, thường là mảnh vàng.
Có thể nói đây là những nét đặc săc trong nghệ thuật kiến trúc của Phù Nam vì
hiếm có nơi nào trên thế giới chôn theo và chôn nhiều mảnh vàng như trong đáy sima đền.
Nét đặc săc nhất và cũng là nét tiêu biểu nhất của văn hóa Phù Nam là các pho
tượng phật. Các nhà khảo cổ học đã lưu giữ được hơn 50 pho tượng phật, trong đó có 17
pho bằng đá, 26 pho bằng gỗ, 7 pho tượng đồng. Các pho tượng này được xác định là của
thế kỉ V. Tượng phật ở Phù Nam rất thanh tú, dịu dàng, cân đôi trên toàn thân, sự tinh tế
của thân áo, của tay phải, tay trái kéo một chút vạt nhô ra song song với thân người.
Những dấu tích văn hóa kể trên cho thấy cư dân Phù Nam không chỉ là những
người mở cửa biển giao lưu văn hóa mà còn buôn bán rộng rãi với nước ngoài hơn nữa
còn thích nghi rất cao với đời sống trên kênh rạch, lạch biển. Những dãy cọc gỗ, nhà sàn
và những dấu tích nền móng đền tháp rải rác khắp miền tây sông Hậu cho thấy họ đã lập
chợ trên sông, lập phố xá dọc kênh. Ngày nay hậu duệ của họ cũng chỉ phát triển nó ở
trình độ hiện đại cao hơn mà thôi.
3.3. Biến đổi khí hậu ở các đồng bằng
3.3.1. Biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Hồng
3.3.1.1. Biểu hiện
- Số ngày lạnh bị rút ngắn do nền nhiệt tăng cao, nắng nóng kéo dài, Đông - Hạ
không phân biệt rõ rệt như trước
Vào mùa đông, số ngày lạnh bị rút ngắn, trước kia ở Đồng bằng sông Hồng mùa
lạnh kéo dài khoảng 3 tháng, trong mùa đông thời tiết thường lạnh đều dưới 18 độ C.
Nhưng hiện nay mùa lạnh ngắn hơn 3 tháng, xen vào mùa lạnh lại có những đợt nhiệt độ
tăng cao khoảng 25 đến 28 độ C có thể kéo dài 3-5 ngày. Bên cạnh đó lại có những đợt rét
đậm rét hại, lạnh buốt kéo dài 5 đến 7 ngày, nhiệt độ xuống dưới 10 độ C
Số ngày nắng nóng theo kịch bàn biến đổi khí hậu cũng tăng lên đáng kể, song
không rải rác mà thường hình thành những đợt nóng kéo dài nhiều ngày. Xen vào những
ngày nắng nóng lại có những ngày có gió mùa đông bắc bất thường, nhiệt độ xuống 25
độ C. Theo dự báo đến cuối thế kỷ này số ngày nắng nóng có thể tăng từ 10 đến 20 ngày.
Ngược với nắng nóng, số ngày lạnh có xu hướng giảm dần. Tuy nhiên, những đợt lạnh
cực đoan với nhiệt độ giảm sâu kèm theo mưa tuyết, băng giá lại có xu hướng gia tăng ở
các tỉnh miền núi phía cực Bắc.
- Bão và diễn biến của bão phức tạp, khó lường
Bão được coi là thiên tai đặc biệt nguy hiểm đối với vùng ven biển Việt Nam. Toàn
bộ vùng ven biển Việt Nam nói chung đối diện với trung tâm bão Tây bắc Thái Bình
Dương là ổ bão lớn nhất trên trái đất. Phân tích diễn biến của chuỗi số liệu xoáy thuật
nhiệt đới (XTNĐ) ảnh hưởng tới lãnh thổ Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ gần đây cho
thấy số XTNĐ ảnh hưởng tới nửa phần phía Nam đang có xu hướng tăng lên nhất là
những cơn bão mạnh mặc dù tần số xuất hiện XTNĐ hàng năm không tăng.
Đồng bằng sông Hồng có các tỉnh giáp biển như: Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định,
Ninh Bình cho nên ảnh hưởng mạnh mẽ của bão di chuyển từ biển Đông. Bão đã gây thiệt
hại tài sản, hoa màu, nhà cửa ví dụ như:
Năm 2013, cơn bão số 14 có tên quốc tế Haiyan - sau khi quét qua Philippines với
cường độ trên cấp 17 đã đi vào Biển Đông, rồi đổ bộ vào TP Hải Phòng với cường độ gió
cấp 11-12, giật trên cấp 14, làm hơn 100 người chết, mất tích và bị thương.
Hoặc đối với TP Hải Phòng, năm 2013 cơn bão số 2 vào tháng 6/2013 đã phá hủy
nhiều cơ sở vật chất của khu vực du lịch Đồ Sơn. Đoạn đê kè dài 40m tại bãi tắm khu 1 bị
phá vỡ, nhiều nơi ở Đồ Sơn còn xảy ra ngập úng. Bãi tắm khu 2 cũng bị bão tàn phá,
nhiều đoạn đường và vỉa hè bị hư hỏng nặng. Tháng 9/2014, Đồ Sơn cũng bị ngập nặng do
ảnh hưởng của cơn bão số 3, quận Đồ Sơn và huyện đảo Cát Hải xuất hiện những đợt sóng
biển cao 4 - 5m đánh vào các bờ kè, nước tràn vào các phố phường gây ra tình trạng ngập
cục bộ, đá dưới biển và đá kè bị nước biển đánh vỡ văng vào nhiều nhà hàng, khách sạn
gây vỡ cửa kính, hư hỏng nhiều thiết bị, cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch.
Cuối tháng 7/2016, bão Mirinae đổ bộ vào khu vực Thái Bình-Ninh Bình, ảnh
hưởng trực tiếp từ Nam Quảng Ninh đến Bắc Thanh Hóa. Mirinea không phải một cơn
bão mạnh, chỉ có sức gió tương đương cấp 8-9. Tuy nhiên đây lại là một cơn bão, có quy
luật khác thường khi vào đất liền, di chuyển chậm, có thời điểm hầu như không di chuyển.
Cơn bão đã làm 30 nhà đổ sập, 25.000 nhà khác tốc mái, 67 tàu, thuyền bị chìm, 17.000
cột điện bị gãy đổ. Hà Nội là địa phương có nhiều người bị thương nhất với 9 trên tổng số
21 người.
- Mưa lớn gây lũ lụt
Mưa lớn là ngày xảy ra mưa trong 24 giờ (từ 19 giờ ngày hôm trước đến 19 giờ
ngày hôm sau) đạt cấp mưa vừa trở lên (lượng mưa đo được từ 16mm/24giờ trở lên). Mưa
lớn và nước được đẩy từ biển vào do gió mạnh có thể gây nên lũ lụt lớn trong vòng 24 giờ.
Hệ thống thoát nước của nhiều thành phố ven biển có thể không thể thoát nước kịp do địa
hình thoải của các khu vực ven biển này. Khi đổ bộ, một cơn bão trung bình có thể gây
nên tổng lượng mưa khoảng 100 đến 300 mm.
Trong vòng 100 năm qua, đồng bằng sông Hồng đã có 26 trận lũ lớn. Các trận lũ
lớn này đa số xảy ra vào tháng 8, nhằm vào cao điểm của mùa mưa bão. Đặc biệt vào năm
1971, ảnh hưởng dòng nước lạnh La Nina đã gây nên những trận mưa to liên tục vào mùa
bão năm đó. Một cơn bão từ miền nam Trung hoa gần Hồng Kông mang đến những trận
mưa to trên các Sông Thao, Sông Lô và Sông Đà. Mực nước Sông Hồng ngày 20 tháng 8
lên đến 14,13 m ở Hà Nội. Mực nước ở Hà Nội này cao hơn mực nước báo động cấp III
đến 2,63 m. Trận lũ năm 1971 đã gây vỡ đê ở ba địa điễm, làm thiệt mạng 100000 nguời,
úng ngập 250000 ha và hơn 2,7 triệu người bị thiệt hại. Môt trận lũ lớn khác vào tháng 8
năm 1945 gây vỡ đê tại 79 điễm, gây ngập 11 tỉnh với tổng diện tích 312000 ha, ảnh
hưởng tới cuộc sống của 4 triệu người. Gần đây lũ lụt kèm theo gió to hơn 100 km/giờ do
bão Frankie gây nên vào ngày 24 tháng 7 năm 1996 làm 100 người bị thiệt mạng, 194000
căn nhà bị hư hại và hơn 177,000 ha bị úng ngập.
- Nắng nóng cục bộ
Là dạng thời tiết đặc biệt thường xảy ra trong những tháng mùa hè. Một ngày, tại
địa phương nào đó được coi là có nắng nóng khi nhiệt độ cao nhất (ký hiệu là Tx) đạt mức
35 độ C ≤ Tx < 37 độ C. Nắng nóng gay gắt khi 37 độ C ≤ Tx < 39 độ C và được coi là
ngày nắng nóng đặc biệt gay gắt khi Tx ≥ 39 độ C. Trong một khu vực dự báo (ví dụ đồng
bằng Bắc Bộ), nếu quan sát thấy có ít nhất từ một nửa số trạm quan trắc trở lên có nhiệt độ
cao nhất trong ngày Tx ≥ 35 độ C thì được gọi là ngày nắng nóng diện rộng. Còn khi chỉ
quan sát thấy dưới một nửa số trạm trong khu vực có nhiệt độ cao nhất trong ngày Tx ≥ 35
độ C thì được gọi là nắng nóng cục bộ. Một ngày được coi là nắng nóng gay gắt trên diện
rộng khi có ít nhất 2/3 số trạm quan trắc trong khu vực có nhiệt độ cao nhất Tx ≥ 35 độ C,
trong đó ít nhất một nửa số trạm quan trắc trong khu vực dự báo có nhiệt độ cao nhất Tx ≥
37 độ C. Khi nắng nóng diện rộng xuất hiện liên tục từ 2 ngày trở lên trong một khu vực
dự báo thì được gọi là một đợt nắng nóng.
Hạn hán trên diện rộng
Là hiện tượng lượng mưa thiếu hụt nghiêm trọng kéo dài, làm giảm hàm lượng ẩm
trong không khí và hàm lượng nước trong đất, làm cạn kiệt dòng chảy sông suối, hạ thấp
mực nước ao hồ, mực nước trong các tầng chứa nước dưới đất, gây ảnh hưởng xấu đến sự
sinh trưởng của cây trồng, làm môi trường suy thoái gây đói nghèo, dịch bệnh...
Tiềm năng nước vùng Đồng bằng sông Hồng tương ứng với tần suất 50% thì tổng
lượng nước trung bình nhiều năm là 133 tỷ mét khối, nếu tính tổng lượng nước mặt và
nước ngầm có thể sử dụng được khoảng 135 tỷ mét khối/năm. Trong 5 tháng kiệt nhất về
mùa khô hằng năm, tiềm năng nước mặt và nước ngầm có thể khai thác được khoảng
18,45 tỷ mét khối. Với tần suất khai thác và sử dụng trên tổng lượng tiềm năng nước tự
nhiên bao gồm cả nước mặt và nước ngầm thì đến năm 2020, vùng ĐBSH sẽ xảy ra sự
khan hiếm, buộc phải áp dụng các biện pháp quản lý chặt chẽ. Trong khi ảnh hưởng của
BĐKH và nước biển dâng ngày càng khốc liệt, hạn hán, xâm nhập mặn đe dọa nghiêm
trọng đến tài nguyên nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống dân sinh. Theo kịch
bản, nếu nước biển tăng 1m, ảnh hưởng đến tiêu thoát nước 650.000ha đất canh tác trong
vùng ĐBSH, có nơi nhiễm mặn xâm thực vào vùng cửa sông từ 25km đến 40km…
Vùng ven biển đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) gồm 4 tỉnh Hải Phòng, Thái Bình,
Nam Định, Ninh Bình có diện tích tự nhiên 6131 km 2 (tương đương với 7% diện tích lưu
vực sông Hồng thuộc lãnh thổ Việt Nam). Dân số 6.374,7 nghìn người, là nơi tập trung
đông dân với mật độ trung bình 1.029 người/km 2 trong đó có tới 66% lao động sống bằng
nghề sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản với diện tích 306.100 ha chủ yếu là canh
tác lúa nước.
Nguồn nước mặt cấp cho sản xuất và dân sinh duy nhất từ dòng chính sông Hồng
và sông Thái Bình phân vào các nhánh sông, các cống lấy nước và các trạm bơm. Dưới tác
động ảnh hưởng đồng thời của dòng chảy kiệt, điều tiết mực nước thượng lưu, yếu tố địa
hình, chế độ thủy triều và kịch bản nước biển dâng làm cho ranh giới xâm nhập mặn ngày
một tiến sâu hơn. Vùng cửa sông ven biển do có hệ thống đê khống chế nên đối với khu
vực này mặn không xâm nhập vào trong đồng nhưng làm ngưng trệ quá trình lấy nước
tưới từ sông, phục vụ cho nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản.
Hàng năm vùng ven biển ĐBSH có khoảng 3.061 đến 6.122 ha (chiếm 10 đến
20%) diện tích đất nông nghiệp vụ xuân bị hạn hoặc khó khăn về nguồn nước tưới. Mặc
dù chi phí cho nông nghiệp tăng cao hơn nhưng sản lượng lúa trung bình giảm đi 6 -10%
so với năm đủ nước tưới.
Dông sét: Là hiện tượng khí tượng phức hợp gồm chớp và kèm theo sấm do đối
lưu rất mạnh trong khí quyển gây ra. Nó cũng thường kèm theo gió mạnh, mưa rào, sấm
sét dữ dội, thậm chí cả mưa đá, vòi rồng (ở vùng vĩ độ cao có khi còn có cả tuyết rơi).
Lốc: là một hiện tượng gió xoáy cực mạnh, xảy ra trong một phạm vi nhỏ, hàng
chục tới hàng trăm mét và tồn tại trong một thời gian ngắn. Nguyên nhân sinh ra gió lốc là
những dòng khí nóng bốc lên cao một cách mạnh mẽ.
3.3.1.2. Tác động
- Nguy cơ đồng bằng sông Hồng bị ngập úng do mực nước biển dâng 100cm
Khoảng 16,8% diện tích của đồng bằng sông Hồng có nguy cơ bị ngập, Cụm đảo Vân
Đồn có nguy cơ ngập cao.
Tác động của mực nước biển dâng cao do hiện tượng ấm lên toàn cầu có thể là một
thảm họa đối với Việt Nam, mà tác động lớn nhất sẽ xảy ra ở vùng Đồng bằng sông
Hồng . Dự báo đến năm 2025 giá trị thiệt hại do lũ lụt hàng năm có thể tăng gấp 10 lần,
tương đương 5% GDP của Việt Nam .
Tình trạng xâm nhập mặn do nước biển dâng cao làm mất đất canh tác; các đợt rét
đậm, rét hại cản trở sự sinh trưởng và phát triển của các loại cây trồng, vật nuôi.
Thêm vào đó, nhiệt độ tăng; chế độ dòng chảy, độ mặn của nước giảm; cường độ
và lượng mưa lớn vào mùa mưa đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh trưởng của các loài
thủy, hải sản. Nhiều sinh vật nước lợ và ven bờ, đặc biệt là loài nhuyễn thể hai vỏ (nghêu,
ngao, sò…) bị chết hàng loạt do không chống chịu nổi với sự thay đổi của nồng độ muối.
Sự thay đổi nhiệt độ, lượng mưa, nước biển dâng, xâm nhập mặn và các yếu tố
thiên tai bất thường khác đã ảnh hưởng đến đa dạng sinh học nhiều nơi ở vùng đồng bằng
sông Hồng. Nghiên cho thấy khu vực Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long và nhiều lưu vực gần
cửa biển đang bị tác động rất rõ rệt khi nhiệt độ tăng lên. Hàm lượng O2 trong nước giảm
mạnh vào ban đêm do sự tiêu thụ quá mức của các loài thực vật thủy sinh, hoặc quá trình
phân hợp chất hữu cơ, làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của loài sinh vật
(có thể bị chết hoặc chậm lớn).
- Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến nông nghiệp: Lũ lụt làm mất hoa màu, đất bị
nhiễm phèn, nhiễm mặn giảm năng suất. Nhất là vùng đồng bằng sông Hồng; Hạn hán kéo
dài gây mất mùa.
- Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên rừng ở những khu vực đồi núi
sót ở ĐBSH
Hiện tượng cháy rừng tăng cao do sự nóng lên của trái đất; Nạn chặt phá rừng khiến
đất bị xâm lấn, thu hẹp diện tích canh tách; Đe dọa đời sống, tính mạng của các sinh vật tự
nhiên và các động thực vật quý hiếm.
- Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến nguồn nước: Gây ô nhiễm nguồn nước, nước
sạch trở nên khan hiếm, nước ngầm suy giảm, nước bị nhiễm mặn, phèn. Tài nguyên nước
cạn kiệt, biến đổi ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của con người. Biến đổi khí hậu ảnh
hưởng đến mối quan hệ dân tộc, an ninh quốc gia. Sự biến đổi khí hậu kéo theo muôn
vàn khó khăn: lương thực khan hiếm, giá cả leo thang dẫn đến nhiều xung đột, tranh chấp
giữa các vùng lãnh thổ.
- Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến ngư nghiệp
Tại Việt Nam có khoảng 460 nghìn ngư dân, 100 nghìn người làm việc trong lĩnh vực
chế biến thủy hải sản, hơn 2 triệu người tham gia vào các dịch vụ nghề cá. Vì thế, biến đổi
khí hậu xảy ra thì ngành ngư nghiệp là lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất.
Ví dụ tỉnh Ninh Bình được đánh giá là tỉnh chịu thiệt hại nặng nề nhất trong các
lĩnh vực nông - ngư nghiệp của toàn vùng. Năm 2008, đợt rét đậm rét hại bất thường kéo
dài tới 38 ngày đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng, đánh bắt
thủy hải sản của tỉnh. Ước tính tổng thiệt hại do rét đậm, rét hại năm 2008 đối với sản xuất
nông nghiệp, thủy sản của tỉnh là trên 212 tỷ đồng. Đầu năm 2013, tại nhiều địa phương
của tỉnh cũng xảy ra hiện tượng chết hàng loạt ở cả ngao giống và ngao thương phẩm (tỷ
lệ chết lên tới 70 - 80%).
Hoặc đối với TP Hải Phòng, năm 2013 cơn bão số 2 vào tháng 6/2013 đã phá hủy
nhiều cơ sở vật chất của khu vực du lịch Đồ Sơn. Đoạn đê kè dài 40m tại bãi tắm khu 1 bị
phá vỡ, nhiều nơi ở Đồ Sơn còn xảy ra ngập úng. Bãi tắm khu 2 cũng bị bão tàn phá,
nhiều đoạn đường và vỉa hè bị hư hỏng nặng. Tháng 9/2014, Đồ Sơn cũng bị ngập nặng do
ảnh hưởng của cơn bão số 3, quận Đồ Sơn và huyện đảo Cát Hải xuất hiện những đợt sóng
biển cao 4 - 5m đánh vào các bờ kè, nước tràn vào các phố phường gây ra tình trạng ngập
cục bộ, đá dưới biển và đá kè bị nước biển đánh vỡ văng vào nhiều nhà hàng, khách sạn
gây vỡ cửa kính, hư hỏng nhiều thiết bị, cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch.
3.3.1.3. Biện pháp
- Bảo vệ rừng, tích cực trồng cây xanh
Rừng là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc ngăn ngừa biến đổi khí hậu. “Lá
phổi xanh” càng lớn thì càng ngăn chặn được tình trạng nóng lên của trái đất. Vì thế cần
tích cực trồng và bảo vệ rừng là biện pháp quan trọng hàng đầu ở Việt nam nói chung và ở
ĐBSH nói riêng.
- Hạn chế sử dụng các nhiên liệu hóa thạch, đốt rơm, rạ trên đồng ruộng
Nên hạn chế sử dụng các nhiên liệu hóa thạch như dầu mỏ, than đá, khí đốt để hạn chế
sự phát tán nhiệt gây nên hiệu ứng nhà kính.
Dừng ngay hiện tượng đốt rơm rạ sau mỗi vụ thu hoạch lúa vì nếu đốt rơm rạ trên
đồng ruộng sẽ tạo ra lượng khói bụi gây ô nhiễm môi trường.
Bản đồ dự báo phân bố độ mặn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. (Nguồn: Trung tâm
Dự báo Khí tượng thủy văn quốc gia)
Trong những năm gần đây, nguồn nước thượng lưu sông Mekong về Đồng bằng
sông Cửu Long đã thay đổi quy luật tự nhiên bởi việc xây dựng, vận hành các hồ chứa
thủy điện thượng lưu, dẫn đến xâm nhập mặn có những thay đổi lớn, gây khó khăn lớn
trong việc cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Cụ thể là thời gian xâm nhập mặn có xu hướng xuất hiện sớm hơn trước đây từ 1-
1,5 tháng. Giai đoạn trước năm 2012, mặn thường xâm nhập đáng kể từ tháng 2 đến tháng
4, đỉnh mặn xuất hiện vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4 (là tháng có dòng chảy kiệt nhất,
gió Chướng hoạt động mạnh nhất).
Nhưng những năm gần đây do dòng chảy thượng nguồn đầu mùa khô về thấp, xâm
nhập mặn xuất hiện từ cuối tháng 12 năm trước, đỉnh mặn xuất hiện vào tháng 2 hoặc đầu
tháng 3.
Giai đoạn trước năm 2012, ranh mặn 4g/l chỉ vào từ 35-45 km, năm sâu nhất đến
60 km. Từ năm 2012 đến nay, xâm nhập mặn với ranh mặn 4g/l thường xuyên vào sâu
hơn, ở mức 50- 60km, điển hình như đợt xâm nhập mặn kỷ lục năm 2016, chiều sâu xâm
nhập mặn cao nhất lên tới 90km, dẫn đến hàng loạt cửa lấy nước được xây dựng trước đây
ở khoảng cách cửa sông 35-50km không thể lấy nước ngọt được. Ngoài ra, các cửa cống
thường có cửa van tự động đóng mở theo chênh lệnh mực nước thượng/hạ lưu đã gây tác
động không nhỏ đến việc chủ động vận hành.
Với các đặc điểm về địa hình, địa chất, tác động của các yếu tố thượng nguồn, từ
biển và phát triển vùng đồng bằng, tác động của biến đổi khí hậu làm gia tăng sạt lở bờ
sông, vùng cửa sông ven biển.
Giai đoạn trước năm 2010, Đồng bằng sông Cửu Long thường xuyên xảy ra hiện
tượng sạt lở. Tại một số khu vực đã ghi nhận những thiệt hại do sạt lở gây ra, nhất là
những khu vực tập trung dân cư như thị xã Tân Châu, thành phố Long Xuyên (An Giang);
thị xã Hồng Ngự, thành phố Sa Đéc (Đồng Tháp); thành phố Vĩnh Long (Vĩnh Long). Tuy
vậy, xu thế chung là ổn định, không gia tăng quá mức và vùng ven biển có xu thế bồi là
chính.
Từ năm 2010 tới nay, sạt lở diễn biến ngày càng phức tạp và có mức độ gia tăng cả
về phạm vi và mức độ nghiêm trọng, uy hiếp trực tiếp đến tính mạng, tài sản của nhân
dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn các công trình phòng chống thiên tai, cơ sở hạ
tầng vùng ven biển và làm suy thoái rừng ngập mặn ven biển.
Trung bình hằng năm, xói lở đã làm mất khoảng 300 ha đất, rừng ngập mặn ven
biển. Hiện khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có 564 điểm sạt lở với tổng chiều dài trên
834km; trong đó, sạt lở bờ sông 512 điểm với tổng chiều dài khoảng 566km (chủ yếu diễn
ra dọc theo sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây và các nhánh chính
của hệ thống kênh, rạch); sạt lở bờ biển 52 điểm với tổng chiều dài 268km.
3.3.2.3. Đề xuất một số giải pháp
a. Biện pháp sống chung với lũ
Để đối phó với tình trạng diễn biến bất thường của khí hậu, thời tiết, ĐBSCL đã tìm
ra nhiều phương cách khác nhau để sống thích nghi, đặc biệt là các biện pháp bảo vệ mùa
màng và tài sản; đồng thời cũng khai thác các nguồn lợi từ biến đổi khí hậu mang lại.
Quan điểm “sống chung với lũ” khá quen thuộc với người dân ở đây từ bao đời nay. Hơn
hai thập kỷ gần đây, diễn biến thời tiết và thiên tai đang có xu hướng thay đổi bất thường
ở nhiều nơi trên thế giới và Việt Nam.
Vùng ĐBSCL đã được nhiều nhà khoa học và các tổ chức quốc tế cảnh báo là nơi
chịu nhiều tác động tiêu cực của hiện tượng biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Nông dân
vùng ĐBSCL hiện nay vừa chịu tác động của lũ thượng nguồn vào mùa mưa, vừa chịu tác
động của sự xâm nhập mặn vào mùa khô và các tác động do diễn biến thời tiết cực đoan
khác. Qua thực tiễn, người nông dân đang chuyển dần qua cách sống và sản xuất nông
nghiệp phù hợp với hoàn cảnh mới dưới điều kiện khí hậu ngày một thay đổi nhanh hơn.
Liên quan đến vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng ở vùng ĐBSCL,
hiện nay các tỉnh/thành phố chỉ mới ở mức phân tích vấn đề và nâng cao nhận thức đối với
cộng đồng. Thực tế, người dân vùng ĐBSCL đã có một số phương cách đối phó riêng,
mang tính tự phát hoặc chọn lọc theo tình thế nhằm giảm thiểu tác động và thích nghi với
biến đổi khí hậu.
Quan điểm “sống chung với biến đổi khí hậu” hiện chưa là một khẩu hiệu chính
thức từ các cấp chính quyền nhưng ở một số nơi đã được người dân và các phương tiện
truyền thông đại chúng nói đến. Sơ đồ minh họa phía dưới cho thấy cả hai hành động giảm
nhẹ và thích nghi đều tồn tại song song và bổ sung cho nhau.
Mô hình sống chung với biến đổi khí hậu của người dân vùng ĐBSCL 2010
Mặc dù sự biến đổi nào mang tính toàn cầu cũng mang lại cả rủi ro và cơ hội cho
các nhóm lợi ích trong cộng đồng. Nhưng, tác động của biến đổi khí hậu dường như mang
nhiều bất lợi chung cho cả xã hội hơn là thuận lợi. Do vậy, việc giảm nhẹ và thích nghi
phải được nghiên cứu và đề xuất. Đối với các quốc gia nghèo và tài nguyên hạn chế, biện
pháp thích nghi được chú trọng hơn là giảm nhẹ mặc dù cả hai có thể bổ sung cho nhau.
Thích nghi với biến đổi khí hậu đòi hỏi phải có một quá trình lâu dài. Xây dựng kế
hoạch hành động thích nghi với biến đổi khí hậu vừa mang tính cấp bách trước mắt vừa
mang tính chiến lược lâu dài nhằm giữ được sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội cũng
như môi trường. Biến đổi khí hậu và nước biển dâng ở ĐBSCL là vấn đề nghiêm trọng mà
các cơ quan hoạch định chính sách, các chuyên gia quy hoạch, giới khoa học và người dân
phải nhận thức được. Các kịch bản và tình huống tác động cần phải được tiếp tục phân tích
để có các dữ liệu thuyết phục và khoa học hơn.
Căn cứ vào kết quả phân tích về mặt dữ liệu, tiếp đến cần có các chủ trương ủng
hộ việc chia sẻ thông tin và tìm phương cách giảm nhẹ, thích ứng. Liên quan đến việc tìm
kiếm và xác định biện pháp thích nghi với biến đổi khí hậu cho người dân vùng ĐBSCL,
các cấp quản lý và người dân địa phương cần lưu ý một số vấn đề như: ghi nhận các hình
thức thích nghi theo tập quán địa phương; xác định các đối tượng chịu tổn thương, đánh
giá mức độ tổn thương; tăng cường năng lực, nhận thức, ý thức và hành vi bảo vệ môi
trường - sinh thái, giảm thiểu các tác nhân làm khí hậu xấu hơn; đề xuất và thử nghiệm các
mô hình thích nghi với hoàn cảnh mới: các kiểu kiến trúc nhà, ngoại cảnh, các trang thiết
bị phòng tránh thiên tai ở mức cộng đồng; nghiên cứu, chọn tạo các giống cây trồng và vật
nuôi có khả năng chịu đựng ngưỡng thời tiết, khí hậu khắc nghiệt hơn, điều chỉnh lịch thời
vụ và cơ cấu cây trồng - vật nuôi phù hợp; xây dựng quy chuẩn xây dựng cơ sở hạ tầng
phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng trong tương lai; lồng ghép các
biện pháp thích nghi với biến đổi khí hậu vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương; xây dựng và duy trì mạng lưới thông tin, nâng cấp hệ thống cảnh báo thời tiết -
thiên tai; tăng cường hợp tác quốc tế và quốc gia, thường xuyên trao đổi, chia sẻ thông tin
trong và ngoài nước.
Tác động của mực nước biển dâng cao do hiện tượng ấm lên toàn cầu có thể là một
thảm họa đối với Việt Nam, mà tác động lớn nhất sẽ xảy ra ở vùng Đồng bằng sông Hồng
và Đồng bằng sông Mê Công.
b. Liên kết vùng ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Hồng
Việc thực hiện liên kết vùng đươc coi là một trong những giải pháp quan trọng
trong quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu ở đồng bằng
sông Cửu Long.
Hiện trường vụ sạt lở mới tại khu vực sạt lở Quốc lộ 91 đoạn qua ấp Bình Tân, xã Bình
Mỹ, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. (Ảnh: Công Mạo/TTXVN)
Biến đổi khí hậu đã gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với tất cả các lĩnh vực, các
vùng, miền của Việt Nam, đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Cửu Long với quy mô, phạm
vi ảnh hưởng vượt quá khả năng ứng phó độc lập của từng địa phương. Vì vậy, việc đẩy
mạnh việc thực hiện liên kết vùng đươc coi là một trong những giải pháp quan trọng trong
quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông
Cửu Long
.
Cánh đồng lúa mất trắng ở Bạc Liêu do hạn hán và xâm nhập mặn. (Ảnh: Nguyễn
Thanh Liêm/TTXVN)
Trước những thách thức nêu trên, các chuyên gia Viện Địa lý nhân văn Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam đề xuất một số giải pháp về liên kết vùng.
Cụ thể là hoàn thiện cơ chế điều phối vùng Đồng bằng song Cửu Long nhằm đảm
bảo hài hòa lợi ích phát triển giữa các bên liên quan, giữa các ưu tiên trước mắt với mục
tiêu lâu dài giảm thiểu các xung đột lợi ích giữa các địa phương, các tiểu vùng trong khu
vực, giữa các lĩnh vực kinh tế.
Đẩy mạnh vai trò liên kết vùng trong việc hoạch định các cơ chế, chính sách phát
triển kinh tế, đầu tư cơ sở hạ tầng, kết nối sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; hỗ trợ cho các
địa phương kỹ thuật trong việc lập quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội phù hợp với thế
mạnh của địa phương và có sự liên kết vùng nông nghiệp, du lịch, phát triển nguồn nhân
lực, thu hút đầu tư.
Tăng cường thực hiện các chương trình nghiên cứu, điều tra cơ bản tại Đồng bằng
song Cửu Long (các hiện tượng xói lở, xâm nhập mặn, điều tra, tìm kiếm nguồn nước
dưới đất), đẩy nhanh tiến độ hoàn thành Trung tâm Tích hợp dữ liệu vùng; xây dựng hệ
thống thông tin, quản lý cơ sở dữ liệu về khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu, tạo sự
liên kết, phối hợp, điều phối trong hoạt động chung của vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Đẩy mạnh thu hút, huy động nguồn lực đầu tư cho phát triển bền vững, tìm kiếm cơ
hội khai thác dòng vốn nước ngoài. Chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương đẩy
nhanh tiến độ thẩm định, phê duyệt và giao vốn đầu tư công cho những công trình, dự án
trọng điểm, có quy mô vùng, liên vùng tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội bền vững
toàn vùng; tăng cường hoạt động xúc tiến đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp, các nhà đầu tư
trong và ngoài nước triển khai thực hiện các dự án.
Mặt khác các địa phương ở Đồng bằng song Cửu Long cần chú trọng xây dựng
thương hiệu cho các sản phẩm trong vùng, đổi mới hoạt động quảng bá, tiêu thụ sản phẩm,
tích cực tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Các địa phương khuyến khích các doanh nghiệp, hợp tác xã thành viên đầu tư vào
những dự án sản xuất hiện đại, có hàm lượng khoa học công nghệ cao, quy mô lớn, ứng
phó với thách thức từ thiên tai và biến đổi khí hậu. Xây dựng đề án đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng các xu hướng dịch chuyển sản xuất phù hợp với nhu cầu thị
trường./.
Xây dựng các công trình thủy lợi
Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1, nằm trên địa bàn huyện Châu Thành (Kiên Giang),
được khởi công xây dựng vào tháng 10 - 2019, với tổng vốn đầu tư hơn 3.300 tỷ đồng.
Đây là công trình thủy lợi lớn nhất vùng ĐBSCL, được kỳ vọng sẽ kiểm soát nguồn nước,
tạo điều kiện sản xuất ổn định, bền vững cho hơn 384.000 ha đất nông nghiệp; chủ động
ứng phó BĐKH, nước biển dâng, giảm thiệt hại do hạn, mặn vào mùa khô cho các tỉnh
phía tây sông Hậu.
Nhằm ứng phó hạn, mặn bảo vệ vườn cây ăn trái, sản xuất, sinh hoạt của người dân,
trong năm qua tỉnh Vĩnh Long đã thực hiện 458 công trình. Trong đó, có 83 công trình thuộc
nguồn vốn do tỉnh quản lý với tổng khối lượng đất đào đắp khoảng 1.258.000 m3.
Đáng chú ý, trong năm 2020, Bộ NN và PTNT cũng đã đưa vào sử dụng các công
trình cống đập lớn như: Cống Vũng Liêm, cống Tân Dinh, cống Bông Bót nằm trong Tiểu
dự án Kiểm soát nguồn nước, thích ứng BĐKH vùng Nam Mang Thít (Vĩnh Long và Trà
Vinh) thuộc Dự án Chống chịu khí hậu tổng hợp và sinh kế bền vững ĐBSCL (ICRSL).
Hệ thống này nhằm kiểm soát mặn và triều cường, tạo ra nguồn nước sạch, tiêu úng, cải
tạo đất cho 28.459 ha diện tích đất tự nhiên thuộc các huyện Vũng Liêm, Trà Ôn (Vĩnh
Long) và huyện Cầu Kè (Trà Vinh). Hiện các địa phương trong vùng dự án đã chủ động
lấy nước, tiêu nước lấy phù sa, thau chua, rửa phèn phục vụ sản xuất nông nghiệp, kết hợp
nuôi trồng thủy sản theo hướng đa dạng hóa cây trồng vật nuôi, tạo địa bàn bố trí dân cư,
kết hợp giao thông thủy - bộ tạo thành mạng lưới giao thông liên hoàn...
Còn tại tỉnh Hậu Giang, nhiều công trình lớn đã và đang phát huy hiệu quả, như dự
án đê bao ngăn mặn Vị Thanh - Long Mỹ có chiều dài hơn 31 km, với tổng vốn đầu tư 200
tỷ đồng (ngân sách Trung ương). Đây là một trong 27 dự án ứng phó BĐKH được Hậu
Giang ưu tiên đầu tư. Dự án góp phần hình thành hành lang giao thông liên hoàn, đảm
nhận vai trò chống xâm nhập mặn và các hiện tượng BĐKH, nước biển dâng, nhất là ở các
xã nằm ở vùng ven sông Cái Lớn của tỉnh. Với người dân vùng trũng nơi đây, dự án này
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống và sản xuất. Bà Nguyễn Thị Uôl, ở ấp 6, thị
trấn Vĩnh Viễn A, huyện Long Mỹ, cho biết: "Từ khi có tuyến đê bao này, ngoài việc giúp
đi lại dễ dàng, bà con cũng không còn lo về xâm nhập mặn, yên tâm sản xuất".
Một công trình khác có ý nghĩa rất lớn nữa của Hậu Giang trong mùa khô hạn là dự
án hồ chứa nước ngọt ở xã Vĩnh Tường, huyện Vị Thủy. Đây là vùng trũng và lõi của Hậu
Giang cho nên tránh được mặn xâm nhập và thuận lợi để điều tiết nước đến các vùng khác
thuộc huyện Phụng Hiệp, TP Vị Thanh, thị xã Long Mỹ và huyện Long Mỹ. Hồ chứa
nước ngọt này khởi công từ cuối tháng 3 - 2019, có tổng vốn đầu tư 164 tỷ đồng, với diện
tích 50 ha, trong đó phần mặt hồ rộng 21 ha. Với lượng nước được trữ trong hồ khoảng
1,8 triệu m3, khi hoàn thành hồ sẽ phục vụ nước ngọt cho hơn 248 nghìn hộ dân.
C. TÀI LIỆU HỌC TẬP
[1]. Phùng văn Phách (chủ biên), Sự hình thành và phát triển châu thổ sông Hồng,
NXB khoa học tự nhiên và công nghệ.
[2]. Vũ Đức Liêm, Lịch sử khai thác tự nhiên ở châu thổ sông Hồng, Báo Khoa học
và Công nghệ.
[3]. VUSTA- Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật, Quá trình hình thành châu thổ
sông Cửu Long.
[4]. Vũ Minh Quang, Vùng đất Nam Bộ- Từ cội nguồn đến thế kỉ VII, NXB Chính
trị quốc gia sự thật.
[5] Lương Ninh (2009), Vương quốc Phù Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[6]. Đào Tố Uyên (chủ biên), Tìm hiểu lịch sử Việt Nam qua hỏi đáp, từ nguồn gốc
đến thế kỷ X, NXB ĐHSP năm 2008.
[7]. Nguyễn Trọng Hiệu, Biến đổi khí hậu và tác động đến Việt Nam, Viện khoa
học khí tượng thủy văn và môi trường, 2010.
D. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển châu thổ Sông Hồng và sông Cửu Long
2. Những biện pháp ứng phó với sự thay đổi dòng chảy sông Hồng.
3. Cơ sở hình thành nền văn minh sông Hồng.
4. Trình bày những thành tựu của văn minh châu thổ sông Hồng.
5. Trình bày những thành tựu về chính trị, kinh tế xã hội, văn hóa của quốc gia Phù Nam
6. Trình bày những nguyên biểu hiện, tác động và những biện pháp cần khắc phục
của sự biển đổi khí hậu ở đồng bằng sông Hồng.
7. Trình bày những nguyên biểu hiện, tác động và những biện pháp cần khắc phục
của sự biển đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long.
MODULE 4
CHỦ QUYỀN, CÁC QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA VIỆT NAM
Ở BIỂN ĐÔNG
A. MỤC TIÊU
- Người học khái quát được vị trí, giới hạn vai trò hàng hải của biển Đông đối với Việt
Nam, khu vực Đông Nam Á và trên thế giới.
- Người học trình bày được nội dung cơ bản của Công ước Luật biển năm 1982.
- Người học trình bày được quá trình xác lập và thực thi chủ quyền biển đảo trong lịch sử
Việt Nam.
- Người học phân tích được quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở biển Đông.
- Người học có những hiểu biết về vùng biển của nước ta trên biển Đông, các hải đảo,
quần đảo trong vùng biển Việt Nam, đặc biệt là quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa và cuộc
đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc ta.
- Người học vận dụng được những nội dung kiến thức đã học để phân tích, giải thích,
đánh giá các vấn đề liên quan đến Chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở
biển Đông.
- Người học vận dụng được những nội dung kiến thức đã học để phân tích, giải thích,
đánh giá các vấn đề liên quan đến Chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở
biển Đông.
- Người học vận dụng được những kiến thức, kĩ năng đã học để giảng dạy tốt các chủ
đề tích hợp trong chương trình môn Lịch sử và Địa lí lớp 7, 8 và 9.
- Người học biết vận dụng các kĩ năng thảo luận, làm việc nhóm, kĩ năng sưu tầm,
khai thác, xử lí và đánh giá tư liệu, tài liệu lịch sử và địa lí; kĩ năng sử dụng bản đồ, lược
đồ,... vào dạy học môn Lịch sử -Địa lí ở trường THCS.
- Học viên có thái độ nghiêm túc, tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập
- Tuyên truyền, giáo dục cho người học về chủ quyền biển đảo tổ quốc Việt Nam
B. NỘI DUNG
4.1. Những vấn đề chung về biển Đông
4.1.1. Một số khái niệm
a. Biển Đông: Biển Đông là tên do người Việt Nam xưa đặt cho một biển rìa, nửa kín,
nằm ở phía tây Thái Bình Dương và phía Đông nước ta
b. Đường cơ sở: Là đường dùng để xác định chiều rộng lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa của quốc gia ven biển. Trong những điều kiện thông thường, các
quốc gia ven biển có thể lấy ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển làm cơ sở. Trong
một số điều kiện đặc biệt (như một chuỗi đảo ven bờ, bờ biển bị lồi lõm liên tục..). Quốc
gia ven biển có thể chọn một số điểm thích hợp làm điểm cơ sở và nối những điểm này
thành đường cơ sở.
c. Nội thủy: Là toàn bộ vùng nước tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường cơ
sở. Tại nội thủy, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối với lãnh thổ đất
liền của mình.
d. Lãnh hải: Là vùng tiếp liền và nằm phía ngoài đường cơ sở, thuộc chủ quyền của
các quốc gia ven biển.
e. Vùng đặc quyền kinh tế: Là vùng biển nằm phía ngoài và tiếp liền với lãnh hải và
có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
f. Thềm lục địa: Là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải
của quốc gia ven biển với chiều rộng tối thiểu là 200 hải lý kể từ đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng của lãnh hải. Theo Công ước, quốc gia ven biển có thể
mở rộng thềm lục địa của mình đến tối đa 350 hải lý kể từ đường cơ sở hoặc
không quá 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2500m (đường nối liền các điểm có
độ sâu 2500m).
g. Đảo: Đảo là phần đất có nước bao quanh mọi phía (ở giữa đại dương, biển, hồ
hoặc sông). Trên thực địa, có đảo nổi - khi thuỷ triều lên cao nhất vẫn không bị ngập nước,
có đảo chìm - khi nước thuỷ triều lên thì bị ngập. Đảo có thể nằm riêng biệt, có thể nằm
cạnh nhau tạo thành những quần đảo (như quần đảo Philippin có tới trên 7.000 hòn đảo
lớn nhỏ tạo thành).
4.1.2. Khái quát về biển Đông
a. Vị trí, giới hạn của biển Đông
Biển Đông là tên do người Việt Nam xưa đặt cho một biển rìa, nửa kín,
nằm ở phía tây Thái Bình Dương và phía Đông nước ta. Tên gọi Biển Đông đã
đi vào ca dao Việt Nam không biết tự bao giờ: “Thuận vợ thuận chồng Biển
Đông tát cạn, thuận bè thuận bạn tát cạn Biển Đông”. Nó cũng đã được ghi trong
cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi năm 1435 thời vua Lê Thánh Tông.
Với diện tích khoảng 3.5 tr km, biển Đông là một biển lớn, đứng thứ ba trong các biển
trên thế giới. Chiều dài của biển Đông là khoảng 1.900 hải lí (từ vĩ độ 3 độ đến vĩ độ 26 độ
B), chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 600 hải lí (từ kinh độ 100 độ Đ đến 121 độ Đ).
Từ ranh giới phía Bắc nằm giữa bờ biển phúc Kiến (Trung Quốc) và điểm cực Bắc
đảo Đài loan, bờ biển Đông chạy men theo lục địa châu Á xuống bờ biển Việt Nam, tiếp
xúc với bờ biển Campuchia, Thái Lan sang bờ đông bán đảo Malaixia, qua Xingapo, sang
bờ phía bắc đảo Sumatora. Đường ranh giới phía nam ở khoảng vĩ tuyến 3độ N, giữa các
đảo Banca và Beelitung (Indonexia), kéo dài sang dảo Calimanta, vòng lên bờ biển phía
Tây của Philippin và trở về đường ranh giới phía Bắc. Như vậy có 9 quốc gia: VN, TQ,
Philipin, Indonexia, Brunay, Campuchia, Thái Lan, Malaixia, Xingapo.
Biển Đông nằm ở rìa tây Thái Bình Dương, là một biển nửa kín vì các đường thông
ra đại dương đều có các đảo và quần đảo bao bọc. Từ biển Đông muốn ra đại dương hay
sang các biển xung quanh, phải đi qua các eo biển: Phía Bắc qua em biển Đài Loan để
sang biển Hoa Đông, qua eo Basi đề ra Thái Bình Dương. Phía Đông, qua eo biển Balabac
để sang các biển Xulu và Xelebet. Khu vực Biển Đông có những eo biển quan trọng như
eo Malaca (phía Tây Nam), eo Đài Loan và Luzon (phía Đông Bắc) - là các c ửa ra vào
chính của Biển Đông với nhiều tàu qua lại hàng ngày.
Phía Nam qua eo biển Calimanta và Gaxpa sang biển Giava, phía tây nam qua eo
biển Malacca để sang biển Anđaman thông ra Ấn Độ Dương. Đặc biệt, eo Malaca là eo
biển nhộn nhịp thứ 2 trên thế giới sau eo biển Hormuz (Iran). Do đó, Bi ển Đông c ực k ỳ
quan trọng đối với tất cả các nước trong và ngoài khu vực về địa chiến lược, an
ninh biển, giao thông đường biển và kinh tế biển. Nhiều quốc gia khu v ực Đông
Nam Á và Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào các tuyến đường biển
cắt qua vùng biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Trung
Quốc. Khoảng 70% sản phẩm dầu mỏ nhập khẩu và 45% khối lượng hàng hoá
xuất khẩu của Nhật Bản vận chuyển qua Biển Đông. Trung Quốc có 29/39 tuyến
hàng hải trong Biển Đông với khả năng vận chuyển khoảng 60% lượng hàng
hoá xuất nhập khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu của nước này. Hoa Kỳ mặc
dù nằm rất xa Biển Đông, nhưng vẫn coi khu cực này là con đường thông
thương chiến lược chính và luôn khẳng định Mỹ có “lợi ích” ở đây theo Công
ước Luật Biển của Liên hiệp quốc 1982 (Công ước luật biển-UNCLOS-1982).
b. Vai trò hàng hải của biển Đông
Biển Đông là “cầu nối” hai đại dương, nối Châu Âu - Châu Á, Trung
Đông - Châu Á thông qua tuyến hàng hải quốc tế “huyết mạch” Thái Bình
Dương - Ấn Độ Dương, nối các nền kinh tế trên bờ Thái Bình Dương với các nền kinh tế
trên bờ Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương. Đây là tuyên đường hàng hải quốc tế nhộn nhịp
thứ hai thế giới nếu tinh theo tổng lượng hàng hóa thương mại chuyển qua hàng năm.
Mỗi ngày có khoảng 150-200 tàu các loại qua biển Đông, trong đó có khoảng 50%
là tàu có trọng tải trên 5000 tấn, hơn 10% tàu có trọng tải 30000 tấn. Ven biển Đông có
trên 530 cảng biển, trong đó có hai cảng vào loại lớn và hiện đại bậc nhất trên TG và cảng
Xingapo và Hồng Kong.
Nhiều nước châu Á (NB, HQ, Xingapo, TQ có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào
giao thông trên biển Đông, có 70% số lượng dầu mỏ nhập khẩu, 45% hàng hóa xuất khẩu
của Nhật Bản được chuyển qua tuyến đường này. Khoảng 60% lượng hàng hóa xuất nhập
khẩu của TQ. Khoảng 55% lượng hàng hóa xuất khẩu sang Asean là qua biển Đông. Hơn
90% lượng vận tải thế giới được thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó đi qua
biển Đông. Lượng dầu mỏ và khí hóa lỏng được vận huyển qua vùng biển này lớn gấp 15
lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama.
Quanh biển Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nước như: Eo Malaca,
en biển Xunđa, eo biển Lomboc.
Từ những phân tích trên cho thấy, Biển Đông có vị trí địa chính trị, địa
kinh tế, địa văn hóa trên bình đồ thế giới và khu vực. Do đó, khu vực biển này
luôn là địa bàn cạnh tranh ảnh hưởng truyền thống của các nước lớn trong lịch
sử. Đồng thời đây cũng là nơi tích tụ, tập trung các mô hình chính trị, kinh tế, xã
hội; nơi giao thoa văn hóa và hội tụ của các nền văn minh đa dạng của khu vực
và trên thế giới, như: văn minh Ấn Độ, văn minh Trung Hoa, văn minh Đông
Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo. Đặc biệt, trong số 10 quốc gia và vùng
lãnh thổ ven Biển Đông, thì 9 quốc gia có yêu sách đòi hỏi về chủ quyền biển
đảo, tạo nên tranh chấp đa phương và song phương, chứa đựng các mâu thuẫn
cả về đối ngoại, kinh tế, quốc phòng và an ninh. Các dạng tranh chấp cũng khác
nhau, như tranh chấp về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán (tức là
tranh chấp về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa); tranh chấp về
tài nguyên biển; tranh chấp đảo và bãi cạn và tranh chấp vùng trời trên biển
(vùng thông báo bay-FIR). Những tranh chấp như vậy ở Biển Đông kéo dài và
phức tạp thứ hai và là khu vực có tranh chấp nhiều bên nhất trên thế giới.
4.1.3. Nội dung cơ bản của Công ước Luật biển năm 1982
a. Khái quát Công ước luật biển năm 1982
Công ước Liên hợp quốc về Luật biển, còn gọi là Công ước Luật biển hay Hiệp ước
Luật biển, là một hiệp ước quốc tế được hình thành trong Hội nghị về luật biển của Liên hợp
quốc lần thứ 3 diễn ra từ năm 1973 được tổ chức tại New York (Hoa Kỳ). Với hơn 160 nước
tham gia, Hội nghị kéo dài đến năm 1982 mới hoàn chỉnh dự thảo Công ước, các nước bắt
đầu tham gia ký kết. Từ ngày 16 tháng 11 năm 1994, Công ước chính thức có hiệu lực. Năm
2009 có 154 nước thành viên, tháng 10 năm 2014 có 167 nước và cộng đồng châu Âu chính
thức tham gia Công ước này.
Nội dung Công ước bao gồm một loạt điều khoản gồm 17 phần, 320 điều và 9 phụ lục
khá toàn diện về vùng biển và quy chê pháp lý của chung cũng như các vấn đề có liên quan
đến luật Biển Quốc tế, trong đó quan trọng nhất là các qui định về: Nội thủy; Lãnh hải; Tiếp
giáp lãnh hải; Vùng đặc quyền kinh tế; Thềm lục địa bao gồm cả thềm lục địa mở rộng; Biển
cả; Quy chế dảo và quốc gia quần đảo; Qiải quyết tranh chấp; Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
biển và đại dương. Ngoài ra Công ươc cũng qui định về eo biển quốc tế, bảo vệ môi trường
biển; nghiên cứu khoa học biển…
b. Những vùng biển được quy định trong Công ước Luật Biển năm 1982
Theo Công ước Luật Biển năm 1982, quốc gia ven biển có các vùng biển
là nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Chiều rộng của các
vùng biển này được tính từ đường cơ sở dùng để tính lãnh hải của quốc gia ven
biển.
Đường cơ sở: Là đường dùng để xác định chiều rộng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh
tế, thềm lục địa của quốc gia ven biển. Trong những điều kiện thông thường, các quốc gia
ven biển có thể lấy ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển làm cơ sở. Trong một số
điều kiện đặc biệt (như một chuỗi đảo ven bờ, bờ biển bị lồi lõm liên tục..). Quốc gia ven
biển có thể chọn một số điểm thích hợp làm điểm cơ sở và nối những điểm này thành
đường cơ sở.
Nội thủy: Là toàn bộ vùng biển tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong
đường cơ sở của quốc gia ven biển. Trong vùng nội thuỷ của mình, quốc gia ven
biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối như đối với lãnh thổ đất liền của mình.
Lãnh hải: Là vùng biển nằm phía ngoài đường cơ sở của quốc gia ven
biển. Công ước Luật Biển năm 1982 đã xác định chiều rộng của lãnh hải là 12 hải lý. Các
quốc gia ven biển có chủ quyền đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời
ở trên lãnh hải, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải.
Tuy nhiên, tính chủ quyền ở đây không được tuyệt đối như trong nội thủy
bởi vì trong lãnh hải của quốc gia ven biển tàu thuyền của các quốc gia khác
được quyền đi qua không gây hại (tàu bay bay trên vùng trời vẫn phải xin phép).
Vùng tiếp giáp lãnh hải: Là vùng biển đặc thù nằm ở trong vùng đặc quyền
kinh tế của quốc gia ven biển. Vùng này cũng có chiều rộng 12 hải lý kể từ ranh
giới ngoài của lãnh hải. Có thể nói, vùng này như là một vùng đệm mà ở đó, các
quốc gia ven biển có quyền thực hiện sự kiểm soát cần thiết nhằm mục đich ngăn
ngừa và trừng trị các vi phạm xảy ra trong lãnh hải của quốc gia đó. Ngoài khía
cạnh này ra, quy chế của vùng này hoàn toàn như phần còn lại của vùng đặc
quyền kinh tế.
Vùng đặc quyền kinh tế: Là vùng biển nằm phía ngoài lãnh hải và có
chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (vì lãnh hải 12 hải lý, nên thực chất
vùng đặc quyền kinh tế có 188 hải lý.
Khác với nội thuỷ và lãnh hải, quốc gia ven biển không có chủ quyền mà
chỉ có quyền chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế của mình. Quốc gia ven
biển có quyền chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc
không sinh vật ở đó cũng như đối với các hoạt động khác như sản xuất năng
lượng từ nước, hải lưu và gió. Hiện nay, tài nguyên thiên nhiên chính trong vùng
đặc quyền kinh tế mà các quốc gia ven biển đang quan tâm và đẩy mạnh thăm
dò, khai thác là tôm, cá. Đối với số lượng tôm, cá mà quốc gia ven biển không
đánh bắt hết thì có thể cho phép các quốc gia khác đánh bắt (nhưng họ phải trả
lệ phí và tuân thủ các quy định của quốc gia ven biển). Quốc gia ven biển có
quyền tài phán đối với việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị,
công trình; nghiên cứu khoa học biển; bảo vệ và giữ gìn môi trường biển.
Bên cạnh đó, Công ước Luật Biển năm 1982 cũng quy định rõ ở trong
vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển, các quốc gia khác có một số
59 quyền như quyền tự do hàng hải và quyền tự do hàng không ở vùng trời trên
vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển.
Thềm lục địa: Là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải
của quốc gia ven biển với chiều rộng tối thiểu là 200 hải lý kể từ đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng của lãnh hải. Theo Công ước, quốc gia ven biển có thể
mở rộng thềm lục địa của mình đến tối đa 350 hải lý kể từ đường cơ sở hoặc
không quá 100 hải lý kể từ đường đẳng sâu 2500m (đường nối liền các điểm có
độ sâu 2500m).
Công ước Luật Biển năm 1982 quy định trong thềm lục địa của mình,
quốc gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên ở đó. Hiện nay, các nước ven biển tập trung thăm dò, khai
thác nguồn lợi dầu khí để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế. Trong tương
lai, ngoài dầu và khí, các nước sẽ thăm dò và khai thác các tài nguyên khác như
quặng sắt, đồng, chì, thiếc .
Công ước còn nhấn mạnh quyền chủ quyền đối với thềm lục địa mang tính đặc
quyền ở chỗ nếu quốc gia ven biển không thăm dò, khai thác thì cũng không ai có quyền
khai thác tại đây, nếu không được sự đồng ý của quốc gia ven biển.
Biển cả: Là vùng biển nằm ngoài các vùng biển thuộc phạm vi chủ quyền và quyền
tài phán của các quốc gia ven biển. Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia có biển
hoặc không có biển. Ở biển cả các quốc gia có quyền tự do hàng hải, hàng không, đặt dây
cáp ngầm, đánh bắt cá, NCKH. Tuy nhiên, các quốc gia, khi hoạt động ở biển cả cần tôn
trọng lợi ích của các quốc gia khác cũng như cần tuân thủ các qui định có liên quan của
Công ước.
Qui chế đảo: Đảo là vùng đất tự nhiên có nước bao bọc xung quanh và phải luôn nổi
trên mặt nước. Các đảo được quyền có các vùng biển như đối với đất liền.
Giải quyết tranh chấp: Mục tiêu của Công ước năm 1982 còn hướng tới việc giải
quyết tranh chấp góp phầ vào việc duy trì tăng cường hòa bình và an ninh quốc tế bằng
việc tái khẳng định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên giải quyết các tranh chấp nảy
sinh từ công ước bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp và công lí quốc tế.
4.2. Quá trình xác lập và thực thi chủ quyền biển đảo trong lịch sử Việt Nam
4.2.1 Trước năm 1884
Năm 1428, sau thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống Minh, thu hồi toàn
bộ lãnh thổ bị quân Minh chiếm đóng, vương triều Lê có điều kiện thúc đẩy nhanh hơn
công cuộc nam tiến. Năm 1471 Lê Thánh Tông mở rộng lãnh thổ của quốc gia Đại Việt
cho đến đèo Cù Mông và vùng duyên hải được kéo dài đến Phan Rang. Năm 1490 ông cho
hoàn thành bộ Hồng Đức bản đồ, tích hợp tất cả các vùng đất liền và biển đảo vào lãnh thổ
Đại Việt và đánh dấu địa danh “Bãi Cát Vàng” (Hoàng Sa), vừa khẳng định sự tiếp nối
truyền thống khai thác biển đảo của các vương triều Chămpa trước đây, vừa thể hiện ý chí
muốn vươn ra khai chiếm toàn bộ vùng biển đảo quan trọng này.
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đầu thế kỷ XVII phát triển thương cảng Hội An, đẩy
mạnh giao thương quốc tế, mở rộng lãnh thổ xuống miền Đông Nam Bộ, đặt ra đội Hoàng
Sa khai thác và quản lý khu vực Bãi Cát Vàng và một phần Bãi Cát Dài (Trường Sa hải
chử) ở phía nam. Chúa Nguyễn Phúc Chu cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII chính
thức xác lập quyền quản lý về mặt nhà nước đối với khu vực miền Đông Nam Bộ, lấy Sài
Gòn, Gia Định làm trung tâm thu hút các nguồn lực và làm bàn đạp tiến ra chiếm lĩnh các
vùng biển đảo ở khu vực nam Biển Đông và vịnh Thái Lan.
Đến đầu thế kỷ XVIII, chủ quyền biển đảo Việt Nam đã mở rộng đến tận Hà Tiên
và mũi Cà Mau, bao gồm cả các hải đảo ngoài Biển Đông và vịnh Thái Lan. Lúc này, bên
cạnh đội Hoàng Sa trấn giữ các quần đảo giữa Biển Đông, chúa Nguyễn Phúc Chu còn đặt
ra đội Bắc Hải (dưới sự kiêm quản của đội Hoàng Sa) có trách nhiệm khai thác hóa vật,
kiểm tra, kiểm soát thực thi chủ quyền của Việt Nam ở khu vực “các xứ Bắc Hải, cù lao
Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên”
Thế kỉ XIX, năm 1802, Nguyễn Ánh (Gia Long) đánh bại Tây Sơn, thiết lập vương
triều Nguyễn, cai quản một nước Việt Nam thống nhất và rộng dài như ngày nay. Năm
1803, ông cho tái lập các đội Hoàng Sa, Bắc Hải có chức năng khai thác và quản lý toàn
bộ khu vực Biển Đông. Đặc biệt trong các năm 1815, 1816, vua Gia Long liên tục tổ chức
các hoạt động thăm dò đường biển, triển khai các hoạt động thực thi chủ quyền một cách
kiên quyết và đồng bộ ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Đầu thập kỷ 20 của thế kỷ XIX Các đội Hoàng Sa, Bắc Hải hoạt động mạnh và
hiệu quả dưới thời Gia Long cho và được tích hợp vào đội Thủy quân của triều đình Minh
Mệnh. Vua Minh Mệnh đã đẩy hoạt động chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa lên đỉnh
cao nhất so với tất cả các triều đại quân chủ Việt Nam trước và sau ông với các hình thức
và biện pháp như vãng thám, kiểm tra, kiểm soát, khai thác hóa vật.
4.2.2 Giai đoạn 1884 - 1945
Bia chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam thời Pháp
thuộc dựng năm 1938
tại đảo Hoàng Sa của quần đảo Hoàng Sa, khẳng
định chủ quyền
của Việt Nam trên quần Đảo. (Ảnh tư liệu)
Năm 1884, Hiệp ước Bảo hộ (Hiệp ước Pa-tơ-nốt) được ký giữa Pháp với triều đình
nhà Nguyễn, Pháp trở thành đại diện quyền lợi hợp pháp của Việt Nam trong quan hệ đối
nội, đối ngoại và bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Điều này càng được khẳng định khi
lần lượt các năm 1887 và 1895, Pháp đã đại diện cho Việt Nam ký với nhà Thanh Hiệp
ước và Hiệp ước bổ sung về biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc . Cũng trong khuôn
khổ của cam kết chung đó, Pháp tiếp tục thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Theo đó, từ năm 1920, dưới sự bảo trợ của Pháp, các tàu hải quan Việt Nam đã
tăng cường hiện diện, tuần tra ở vùng biển Hoàng Sa để ngăn chặn việc buôn lậu. Năm
1925, lần đầu tiên, Viện Hải dương học và Nghề cá Nha Trang với nhiều nhà khoa học
đầu ngành của Pháp đã thực hiện chuyến khảo sát ở Hoàng Sa để nghiên cứu về địa chất
các bãi ngầm, hệ sinh vật biển và ảnh hưởng của gió mùa, v.v.
Từ năm 1930 đến năm 1938, Pháp liên tục cử các đơn vị hải quân luân phiên đồn
trú tại các đảo Hoàng Sa (thuộc quần đảo Hoàng Sa); đảo An Bang, nhóm Song Tử, Loại
Ta và Thị Tứ (thuộc quần đảo Trường Sa) để làm nhiệm vụ tuần phòng, xây bia chủ
quyền và bảo vệ đảo; đồng thời, gửi thông báo ngoại giao cho các cường quốc về việc
Pháp đóng quân tại hai quần đảo trên của xứ An Nam. Để khẳng định thêm với thế giới về
chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
Năm 1938, Pháp đã xây dựng xong một ngọn Hải đăng (với số đăng ký quốc tế là
OMM-48860), một trạm vô tuyến TSF (ở đảo Hoàng Sa) và hai trạm khí tượng; trong đó,
một trạm ở đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa) và một trạm ở đảo Ba Bình (thuộc
quần đảo Trường Sa). Các công trình này đã được quốc tế công nhận và được sử dụng
thường xuyên trong suốt thời kỳ này.
Với tư cách là đại diện cho Việt Nam trên các lĩnh vực, cùng với luôn khẳng định
chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa, Pháp cũng kiên quyết phản
kháng những hành động xâm phạm chủ quyền từ bên ngoài đối với hai quần đảo này.
Những sử liệu nêu trên góp phần khẳng định: Hoàng Sa, Trường Sa là bộ phận lãnh thổ
không thể tách rời của Việt Nam.
(Nguồn: Tạp chí: Quốc phòng toàn dân-cổng thông tin tư liệu về biển đảo Việt Nam)
4.2.3 Giai đoạn 1945 - 1954
Bia chủ quyền Việt Nam trên đảo Hoàng Sa (năm 1961)
(Ảnh tư liệu)
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954), đất nước ta tạm thời chia làm hai miền: Nam
- Bắc với hai chế độ chính trị khác nhau. Theo đó, các vùng lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía
Nam (bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) do chính thể Việt Nam cộng hòa
kiểm soát. Thực hiện các điều khoản trong Hiệp định, năm 1956, sau khi Pháp buộc phải
rút hết quân khỏi Việt Nam, Chính quyền Sài Gòn đã phái lực lượng hải quân tiếp quản và
thực thi chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cùng với đó, các hoạt động
khảo sát, thăm dò, khai thác sản vật, khoáng sản và nghiên cứu khí tượng, thủy văn cũng
được Chính phủ Việt Nam cộng hòa triển khai. Trong đó, Sở Hầm mỏ, Kỹ nghệ và Tiểu
thủ công nghiệp miền Nam đã tổ chức nhiều hoạt động, như: khảo sát trên 4 đảo (Hoàng
Sa, Quang Ảnh, Hữu Nhật và Duy Mộng) và thăm dò, khai thác phốt-phát ở Hoàng Sa.
Mặt khác, để tiếp tục khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa, từ
năm 1961 đến 1963, Chính phủ Việt Nam cộng hòa đã lần lượt xây bia chủ quyền trên các
đảo chính, như: Trường Sa, An Bang, Song Tử Tây và tổ chức nhiều hoạt động nghiên
cứu quốc tế, nhằm phục vụ đời sống dân sinh trên một số đảo. Về mặt quản lý nhà nước,
Chính quyền Sài Gòn đã ra nhiều nghị định về đặt quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh
Phước Tuy (năm 1956); quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam (năm 1961) và thành
lập ở đây xã đảo Định Hải.
Tuy nhiên, do Pháp rút hết quân đồn trú ở Hoàng Sa và Trường Sa đã để lại khoảng
trống bố phòng không nhỏ ở Biển Đông, nhân cơ hội đó, lực lượng nước ngoài đã xâm
phạm, chiếm đóng trái phép một số đảo thuộc hai quần đảo này, Năm 1956 Trung Quốc
chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Trước tình hình đó, Chính quyền Sài Gòn
vừa cực lực lên án, phản đối các hành động xâm phạm chủ quyền, vừa tích cực đấu tranh
trên trường quốc tế.
Tháng 1/1974, trong lúc quân và dân ta đang tập trung sức tiến hành cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung Quốc đã đem quân ra đánh chiếm toàn bộ quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam. Ngày 02-7-1974, tại kỳ họp của Liên hợp quốc về Luật Biển
(UNCLOS III) ở Ca-ra-cát (Vê-nê-xu-ê-la), đại diện Việt Nam cộng hòa đã cật lực lên án
Trung Quốc xâm chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực và tuyên bố chủ quyền
không tranh cãi của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra tuyên bố lập trường 3 điểm về việc giải quyết tranh
chấp lãnh thổ (ngày 26-01-1974); đồng thời, khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa là bộ phận lãnh thổ không thể tách rời của Việt
Nam.
Đặc biệt, tháng 2-1975, Chính quyền Sài Gòn đã cho
công bố Sách trắng về chủ quyền của Việt Nam đối với
Hoàng Sa, Trường Sa và nhận được phản hồi tích cực của
cộng đồng quốc tế.
Như vậy, với vị thế là nhà nước kế thừa chủ quyền của
Việt Nam cộng hòa đối với Hoàng Sa và Trường Sa, Việt
Nam là quốc gia duy nhất sở hữu, quản lý hai quần đảo trên
một cách liên tục, hòa bình, phù hợp với các quy định của
luật pháp quốc tế.
4.2.5. Giai đoạn từ 1975 đến nay
Đại tướng Lê Đức Anh,
nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng thăm, kiểm tra quần
đảo Trường Sa, Việt Nam
(năm 1988). (Ảnh tư liệu)
- Sau chiến thắng 30-4-1975, nước Việt Nam thống nhất, Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý toàn bộ lãnh thổ đất nước; trong đó, bao gồm cả hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Theo đó, cùng với tổ chức lực lượng quản lý, bảo vệ chủ
quyền các vùng biển, đảo, Nhà nước Việt Nam ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp
luật đối với Hoàng Sa và Trường Sa, điển hình là:
+ Tuyên bố ngày 12-5-1977 của Chính phủ Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam;
+ Tuyên bố Việt Nam có quyền kiểm soát hoàn toàn đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa (năm 1994) của Bộ Ngoại giao cùng các quyết định về thành lập đơn vị
hành chính ở hai quần đảo này.
-. Trên cơ sở đó, Chính phủ Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động thực thi chủ
quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa, như: tổ chức triển lãm các hiện vật lịch sử; nghiên
cứu, khảo sát điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng; xây bia chủ quyền, thiết lập các ngọn đèn
biển và đưa dân ra sinh sống trên các đảo. Đến nay, tại quần đảo Trường Sa, Việt Nam đã
sở hữu 09 ngọn đèn biển (được Cơ quan Quỹ đạo quốc tế và Hiệp hội báo hiệu hàng hải
thế giới ghi nhận trên hải đồ quốc tế); đồng thời, hình thành cụm dân cư trên các đảo với
nhiều công trình thiết yếu, như: nhà ở, trường học, trạm y tế, cảng biển và các công trình
văn hóa (thư viện, chùa chiền), v.v. Đây là biểu hiện sinh động nhất về chủ quyền của Việt
Nam đối với quần đảo này, được thế giới ghi nhận.
- Về quản lý hành chính, năm 1982, Chính phủ Việt Nam thành lập huyện đảo
Hoàng Sa (trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng) và huyện đảo Trường Sa (trực thuộc
tỉnh Đồng Nai). Hiện nay (sau khi điều chỉnh địa giới hành chính), huyện đảo Hoàng Sa
thuộc thành phố Đà Nẵng, huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa. Để đáp ứng sự
phát triển của thực tiễn.
- Tháng 9-1975, tại Hội nghị Khí tượng thế giới ở Cô-lôm-bô, cùng với việc tái
khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, Việt Nam đăng ký Đài khí tượng tại
Hoàng Sa vào hệ thống SYNOP của Tổ chức khí tượng quốc tế (với số hiệu 48.860) và
được tổ chức này chấp thuận. Liên tiếp trong các hội nghị quốc tế về:
+ Khí tượng châu Á lần thứ 2 (tháng 6-1980)
+ Địa chất quốc tế lần thứ 26 (tháng 7-1980)
+ Thông tin vô tuyến điện thế giới (tháng 01-1983)
=> Việt Nam đã vạch trần và tố cáo Trung Quốc lợi dụng các diễn đàn này để tuyên
truyền về cái gọi là chủ quyền của Bắc Kinh đối với Hoàng Sa, Trường Sa, đồng thời
khẳng định rõ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này, phù hợp với các quy
định của luật pháp quốc tế.
Năm 198, tại Hội nghị Hàng không khu vực châu Á - Thái Bình Dương (năm
1983) ở Sin-ga-po, khi Trung Quốc muốn lợi dụng việc chiếm đóng trái phép ở Hoàng Sa
để mở rộng vùng thông báo bay (FIR) Quảng Châu xuống phía Nam đã bị Hội nghị phản
đối và giữ nguyên trạng FIR ban đầu. Ngoài ra, liên tục trong các năm 1979, 1981 và
1988, Việt Nam đều công bố Sách trắng về chủ quyền của mình đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, được đông đảo dư luận quốc tế thừa nhận.
- Năm 2007, Chính phủ quyết định thành lập thị trấn Trường Sa cùng hai xã đảo:
Song Tử Tây và Sinh Tồn trực thuộc huyện đảo Trường Sa. Cùng với đó, Việt Nam liên
tục đấu tranh khẳng định chủ quyền không tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa trước sự chiếm đóng trái phép của nước ngoài.
- Cao điểm của sự gia tăng gây hấn trong vùng biển Việt Nam của phía Trung Quốc
là sự kiện xảy ra vào ngày 26-5-2011, ba tàu hải giám của Trung Quốc đã cắt đứt cáp thăm
dò dầu khí của tàu Bình Minh 02 trong vùng biển chủ quyền của Việt Nam, cách bờ biển
Việt Nam chỉ 116 hải lý. Ngày 27-5-2011, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã trao công hàm cho
Trung Quốc yêu cầu chấm dứt ngay, không để tái diễn những hành động vi phạm chủ
quyền của Việt Nam đồng thời bồi thường thiệt hại cho Việt Nam
Tối 28-5-2011, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Khương Du ngang
nhiên cho rằng vùng biển chủ quyền Việt Nam mà tàu Bình Minh 02 đang thả cáp thăm dò
dầu khí là vùng biển thuộc "chủ quyền Trung Quốc”.
Ngày 31-5-2011, tàu Viking 2 đang thăm dò dầu khí trong vùng biển chủ quyền của
Việt Nam lại bị tàu Trung Quốc phá rối. Chiều cùng ngày, một ngư dân Việt Nam bị Trung
Quốc bắt giữ và tịch thu tài sản trên vùng biển Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 9-6-2011, tàu cá Trung Quốc có sự hỗ trợ của tàu ngư chính đã phá cáp của
tàu Viking 2. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nhận định các hành động có tính
hệ thống này của phía Trung Quốc là nhằm biến khu vực không có tranh chấp thành khu
vực có tranh chấp, hiện thực hóa yêu sách 9 đoạn "đường lưỡi bò”, điều này đối với Việt
Nam là không thể chấp nhận được. Ngay chiều 9-6-2011, đại diện Bộ Ngoại giao Việt
Nam đã gặp đại diện Đại sứ quán Trung Quốc để phản đối hành động này của phía Trung
Quốc và nêu rõ lập trường của phía Việt Nam. Đáng nói là dồn dập các sự việc gây hấn,
phá rối của Trung Quốc diễn ra chỉ trong một thời gian ngắn. Bình luận về việc cắt cáp tàu
Bình Minh 2 và Viking 2 người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại ngang ngược nói
rằng đó là việc làm “bình thường và hợp lý ở khu vực biển thuộc thẩm quyền và quyền tài
phán của Trung Quốc”. Thậm chí, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn yêu
cầu Việt Nam “tránh tạo ra những sự cố mới”.
Tiếp đó, trong bài phát biểu quan trọng tối 8-6-2011 tại Nha Trang (Khánh Hoà),
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố: “Tiếp tục khẳng định chủ quyền không
thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”. Đồng “thời,
ông khẳng định: “Nhân dân Việt Nam có đủ ý chí quyết tâm và sức mạnh tổng hợp của cả
dân tộc để giữ gìn, bảo vệ các vùng biển và hải đảo của mình”.
Ngày 1 tháng 5 năm 2014, Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương - 981 (HD-
981) ngay trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở Biển Đông. Sự
kiện này gây ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ trong các tầng lớp nhân dân nước ta, thậm
chí có nơi còn xảy ra bạo lực, công nhân đập phá nhà xưởng, xí nghiệp liên doanh với
Trung Quốc
Tất cả những vấn đề nêu trên cho thấy, Việt Nam có đầy đủ căn cứ pháp lý và
chứng cứ lịch sử để khẳng định chủ quyền biển đảo của mình đặc biệt đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
4.3. Quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở biển Đông
4.3.1. Cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền biển đảo
Chủ quyền, quyền chủ quyền biển đảo nói chung, Biển đảo Việt Nam nói riêng là
hai khái niệm pháp lý được quy định trong pháp luật về biển của các quốc gia ven biển
trên cơ sở Công ước Liên hợp quốc (LHQ) về Luật Biển năm 1982 (gọi tắt là Công ước
1982, tên tiếng Anh là United Nations Convention on the Law of the Sea, hay thường
được gọi tắt là UNCLOS 1982), được 107 quốc gia, trong đó có Việt Nam, ký tại Montego
Bay, Jamaica (tính đến nay, số quốc gia ký là 157).
Luật Biển của nước ta được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa
XIII, ngày 21/6/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 (gọi là Luật Biển năm
2013) đã quy định về chủ quyền, quyền chủ quyền biển đảo nước ta.
Các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của
Việt Nam:
Căn cứ quy định của UNCLOS 1982, tại Điều 3, Luật Biển năm 2013 xác định
“Vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của
Việt Nam, được xác định theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với Công ước của
LHQ về Luật Biển năm 1982”.
Từ Điều 8 đến Điều 21 Luật Biển năm 2013 quy định cụ thể về cách xác định và
chế độ pháp lý của từng vùng biển.
Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã
được Chính phủ công bố. Ở những khu vực chưa có đường cơ sở sẽ được Chính phủ xác
định và công bố sau khi được Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Nội thủy là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ
phận lãnh thổ của Việt Nam.
Lãnh hải là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía biển.
Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam.
(Hải lý - ký hiệu M, NM hoặc dặm biển, là một đơn vị chiều dài hàng hải, là
khoảng một phút cung của vĩ độ cùng kinh tuyến bất kỳ, nhưng khoảng một phút của vòng
cung kinh độ tại đường xích đạo. Theo quy ước quốc tế, 1 hải lý bằng 1852 m (khoảng
6.076 feet).)
Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có
chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải.
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp
với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài
lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và
quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa. Trong trường hợp mép ngoài
của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo
dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này
vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá
350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500m.
4.3.2. Quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở biển Đông
Vùng nội Thủy: Công ước 1982 quy định: Nội thủy là các vùng nước ở phía bên
trong đường cơ sở của lãnh hải. Theo quy định tại Điều 3 của Công ước 1982, chiều rộng
lãnh hải không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở. Chủ quyền của quốc gia ven biển
được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình, và trong trường hợp một quốc gia
quần đảo, ra ngoài vùng nước quần đảo, đến một vùng biển tiếp liền, gọi là lãnh hải
(merterritoriale). Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên lãnh hải, cũng như đến
đáy và lòng đất của biển này" (Phần II, Điều 2).
Vùng lãnh hải: Luật Biển năm 2013 quy định chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với
lãnh hải và vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải, đồng thời nêu rõ:
1. Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và vùng trời,
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công ước của LHQ về Luật
Biển năm 1982.
2. Tàu thuyền của tất cả các quốc gia được hưởng quyền đi qua không gây hại trong
lãnh hải Việt Nam. Đối với tàu quân sự nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây
hại trong lãnh hải Việt Nam, thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
3. Việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài phải được thực hiện trên cơ
sở tôn trọng hòa bình, độc lập, chủ quyền, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
4. Các phương tiện bay nước ngoài không được vào vùng trời ở trên lãnh hải Việt
Nam, trừ trường hợp được sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam hoặc thực hiện theo điều
ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
5. Nhà nước có chủ quyền đối với mọi loại hiện vật khảo cổ, lịch sử trong lãnh hải
Việt Nam" (Điều 12).
Vùng tiếp giáp lãnh hải
Căn cứ Công ước 1982, Luật Biển năm 2013 quy định: Vùng Tiếp giáp lãnh hải là
vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh
giới ngoài của lãnh hải (Điều 13). Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền, quyền tài phán
quốc gia và các quyền khác quy định tại Điều 16 (quy định về chế độ pháp lý của vùng
đặc quyền kinh tế) của Luật này đối với vùng Tiếp giáp lãnh hải. Nhà nước thực hiện kiểm
soát trong vùng Tiếp giáp lãnh hải nhằm ngăn ngừa và trừng trị hành vi vi phạm pháp
luật về hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt
Nam (Điều 14).
Vùng đặc quyền kinh tế
Căn cứ quy định của Công ước 1982 về các quyền và các nghĩa vụ của các quốc gia
khác trong vùng Đặc quyền về kinh tế, Điều 16 Luật Biển Việt Nam xác định chế độ pháp
lý của vùng Đặc quyền kinh tế như sau:
Một là, a) Quyền chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài
nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; về các
hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế; b) Quyền tài phán
quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển; nghiên cứu
khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; c) Các quyền và nghĩa vụ khác phù hợp
với pháp luật quốc tế.
Hai là, Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp,
ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam theo quy định của Luật này và điều ước quốc tế mà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, không làm phương hại đến quyền chủ
quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. Việc lắp đặt
dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền của Việt Nam.
Ba là, tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài
nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh
tế của Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên, hợp đồng được ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc
được phép của Chính phủ Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan.
Bốn là, các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển quy định tại
Điều này được thực hiện theo quy định tại Điều 17 (quy định về thềm lục địa) và Điều 18
(quy định về chế độ pháp lý của thềm lục địa) của Luật này.
Thềm lục địa
Điều 17 Luật Biển năm 2013 căn cứ Điều 76 Công ước 1982 quy định: Thềm lục
địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam,
trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt
Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này
cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý
tính từ đường cơ sở. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý
tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lý tính từ
đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét.
Công ước 1982 quy định về Thềm lục địa, trong đó nêu rõ: Quốc gia ven biển thực
hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài
nguyên thiên nhiên của mình. Căn cứ nội dung quy định này, tại Điều 18 Luật Biển Việt
Nam nêu rõ:
1. Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thăm dò, khai thác
tài nguyên.
2. Quyền chủ quyền quy định tại khoản 1 Điều này có tính chất đặc quyền, không
ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò thềm lục địa hoặc khai thác tài nguyên của thềm
lục địa nếu không có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam.
3. Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định việc
khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa.
4. Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển
hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam theo quy định của Luật này
và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên,
không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia
trên biển của Việt Nam. Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng
văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
5. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài
nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm lục địa của Việt Nam
trên cơ sở điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên,
hợp đồng ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ
Việt Nam, phù hợp với pháp luật quốc tế có liên quan.
Công ước 1982 là một bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế, Công ước
1982 có tính đến lợi ích của tất cả các nước trên thế giới, dù là nước phát triển hay là nước
đang phát triển,… Công ước 1982 đã trù định toàn bộ các quy định liên quan đến các vùng
biển mà một quốc gia ven biển có quyền được hưởng, cũng như những quy định liên quan
đến việc sử dụng, khai thác biển và đại dương, cụ thể là: Quy chế pháp lý của tất cả các
vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia; Chế độ pháp lý
đối với biển cả và Vùng - di sản chung của loài người; các quy định hàng hải và hàng
không; việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển bao gồm tài nguyên sinh vật và không sinh
vật; Vấn đề bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an ninh trật tự trên biển;
việc giải quyết tranh chấp và hợp tác quốc tế về biển; Quy chế hoạt động của cơ quan
quyền lực quốc tế về đáy đại dương, Uỷ ban ranh giới ngoài thềm lục địa, toà án Luật biển
quốc tế, hội nghị các quốc gia thành viên Công ước.
C. TÀI LIỆU HỌC TẬP
[1]. Nguyễn Thị Hồng (2016), Địa lí biển Đông, NXB Đại học Thái Nguyên
[2]. Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ, Địa lí kinh tế- xã hội Việt Nam, NXB Đại học sư
phạm Hà Nội
[3]. Nguyễn Quang Ngọc, Chuyên đề biển Đông Việt Nam: Quá trình nhận thức va
khai chiếm, Đại học Quốc gia Hà Nội.
[4] Nguyễn Thị Thế Bình (2017), Giáo dục về biển đảo tổ quốc Việt Nam, NXB
đại học QG Hà Nội.
D. CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày một số khái niệm về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, thềm lục địa?
2. Trình bày những nét khái quát về biển Đông?
3. Trình bày được nội dung cơ bản của Công ước Luật biển năm 1982.
4. Trình bày quá trình xác lập và thực thi chủ quyền biển đảo trong lịch sử Việt Nam.
5. Phân tích các quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở biển Đông.
6. Trình bày những hiểu biết của em vùng biển của nước ta trên biển Đông, các hải
đảo, quần đảo trong vùng biển Việt Nam, đặc biệt là quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa và
cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc ta.