Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 8

1.

LUẬT KINH TẾ (8H30 29/10)


Câu 1. Phân tích sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với nền kinh tế bằng pháp luật? Tại
sao pháp luật là công cụ hiệu quả nhất được nhà nước sử dụng để quản lý nhà nước về kinh tế?
Phân tích sự cần thiết phải quản lý nhà nước đối với nền kinh tế bằng pháp luật?
Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế là sự tác động có tổ chức, bằng pháp luật và thông qua
hệ thống các chính sách với các công cụ quản lý kinh tế lên nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu phát
triển kinh tế đất nước, trên cơ sở sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước trong điều
kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN tồn tại là do bản chất của Nhà nước, do yêu cầu của nhiệm vụ chính trị,
kinh tế - xã hội và do tình hình kinh tế - xã hội của từng giai đoạn lịch sử quy định.
a. Từ vị trí, vai trò của hoạt động kinh tế trong đời sống xã hội
Hoạt động kinh tế là hoạt động sản xuất tạo ra của cải trong xã hội, quyết định sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Mọi nhà nước ra đời đều phải nắm giữ quyền lực chính trị cùng quyền lực và sức
mạnh kinh tế của mình để định hướng và điều chỉnh mỗi quan hệ kinh tế - xã hội sao cho có hiệu quả,
vì lợi ích chung của quốc gia, dân tộc. Muốn đất nước phát triển, tất yếu phải bắt đầu từ kinh tế, phát
triển kinh tế là điều kiện, mục tiêu hàng đầu để phát triển đất nước. Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt
quan trọng của hoạt động kinh tế trong đời sống xã hội mà nhà nước cần phải quản lý nó, đảm bảo
cho xã hội tồn tại và phát triển.
b. Từ tính chất đa dạng, phức tạp của các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường
Các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường rất đa dạng, phức tạp từ thành phần tham gia
cho đến nội dung hoạt động. Ví dụ như hoạt động tổ chức tín dụng: thành phần tham gia đa dạng,
phong phú gồm có ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn đầu
tư nước ngoài….; nội dung hoạt động của doanh nghiệp không dừng lại ở doanh nghiệp truyền thống
mà còn phát triển doanh nghiệp điện tử, thương mại điện tử, Grab…..
Pháp luật tạo hành lang pháp lý để cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tự do,
bình đẳng trong sản xuất kinh doanh, đồng thời Nhà nước là chủ thể quản lý cũng dựa vào chuẩn
mực đó mà điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Các quan hệ kinh tế thị trường rất đa dạng, phong phú và
phức tạp, do đó cần phải hướng chúng phát triển theo định hướng xã hội nhất định. Điều đó làm nảy
sinh nhu cầu điều chỉnh của pháp luật để loại bỏ những yếu tố tùy tiện, ngăn ngừa rối loạn, khủng
hoảng, thiết lập trật tự ổn định trong các quan hệ kinh tế. Bằng sự điều chỉnh của pháp luật mà tạo ra
môi trường thuận lợi, tin cậy cho sự tồn tại và phát triển của các quan hệ kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi đối tác đều hướng tới lợi ích kinh tế của riêng mình và xảy ra
sự tranh giành, phát sinh mâu thuẫn về lợi ích. Hoạt động kinh tế càng đa dạng, phức tạp thì mâu
thuẫn về lợi ích càng khó quản lý. Chỉ có Nhà nước mới có thể giải quyết được các mâu thuẫn đó
bằng cách đưa ra các chính sách, pháp luật điều hòa lợi ích các bên liên quan.
c. Xuất phát từ Ưu và nhược điểm của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Việt Nam chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp, nông dân sang công nghiệp, thương mại,
dịch vụ… Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vẫn
hành theo quy luật của kinh tế thị trường và có sự quản lý của Nhà Nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Nền kinh té thị trường ở Việt Nam có ưu điểm nhưng cũng bộc lộ nhiều điểm hạn chế
Ưu điểm: Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch hợp lý, tăng trưởng ổn định bền vững, đời sống vật
chất của nhân dân không ngừng được cải thiện, nâng cao.
Nhước điểm:
- Tính tự phát làm mất cân đối trong nền kinh tế quốc dân. Ví dụ trong nông nghiệp: sản xuất
nông nghiệp chưa gắn liền với thị trường, với chuỗi giá trị ngành hàng, hệ thống phân phối nông sản
manh mún, nhỏ lẻ, tổ chức kém và thiếu liên kế, thường xuyên xảy ra tình trạng “bội tín lẫn nhau”
giữa nông dân và doanh nghiệp, hàng nông sản luôn gặp tình cảnh “được mùa mất giá”, chương trình
giải cứu sản phẩm nông nghiệp…. mất cân đối quy hoạch vùng trồng và tiêu thụ. Trong nuôi trồng
thủy hải sản: nông dân dẫn nước mặn nuôi hải sản làm tăng nguy cơ xâm nhập mặn.  Phải có
những chính sách rõ ràng để phát triển đồng bộ và cân đối các ngành trong nền kinh tế quốc dân.
- Nguy cơ rủi ro xảy ra với các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường là rất cao: Rủi ro
chính sách, rủi ro về thị trường, khí hậu, nhân công….Ví dụ như chỉ thị 16 quy định giãn cách xã hội,
dừng các hoạt động vận chuyển hành khách công cộng…. là rủi ro đối với hoạt động kinh tế; chính
sách tăng thuế nhập khẩu nguyên chiếc với ô tô là rủi ro với doanh nghiệp kinh doanh ô tô. Sự thay
đổi về khí hậu như nắng nóng tăng cường, ngập lụt, mưa lũ thường xuyên xảy ra làm ảnh hưởng tới
hoạt động sản xuất nông nghiệp, thủy hải sản, công nghiệp….. Rủi ro Thị trường bánh trung thu:
nhiều người bán tự phát là rủi ro đối với nhà phân phối lớn do thị phần bị thu hẹp lại. Khoa học công
nghệ: nước kém và đang phát triển đang trở thành bãi rác công nghệ của các nước phát triển.  Khi
gặp các rủi ro trên, Bản thân chủ thể kinh tế có biện pháp tự khắc phục rủi ro và cần có chính sách
nhà nước hỗ trợ (chính sách tín dụng, giảm thuế phí với nhân dân khi gặp rủi ro về khí hậu, các gói
cứu trợ nền kinh tế do ảnh hưởng dịch Covid…)
- Nguy cơ mất cân đối giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội có thể xảy ra.
Với 1 nền kinh tế ổn định thì Tăng trưởng kinh tế gắn liền với Bảo vệ môi trường và An sinh xã hội.
Ví dụ như hoạt động đánh bắt thủy hải sản không có nguồn gốc xuất xứ, đánh bắt ở vùng trải phép,
phương tiện không phù hợp. Các sự cố môi trường xảy ra do chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh đổ thải
trộm hoặc do công trình xử lý, lưu trữ chất thải gặp sự cố, cháy nổ, rò rỉ hóa chất, tràn dầu… dẫn đến
lượng lớn chất thải chưa qua xử lý xả thải ra môi trường. Điển hình như sự cố môi trường biển tại
bốn tỉnh miền trung liên quan đến Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (FHS); sự cố cháy
nổ tại Công ty cổ phần Bóng đèn phích nước Rạng Đông… không những ảnh hưởng trực tiếp đến
môi trường, sức khỏe của người dân, mà còn đe dọa đến trật tự an ninh xã hội của đất nước. Phát
triển kinh tế một cách mù quáng có thể sẽ dẫn tới hủy hoải môi trường.  Vì vậy, cần phải có sự
kiểm soát chặt chẽ, giám sát và kiểm tra của Nhà nước, có chính sách và định hướng phát triển kinh
tế gắn liền bảo vệ môi trường và đảm bảo an sinh xã hội.
d. Từ Vai trò của Nhà nước trong quản lý nhà nước về kinh tế
Nhà nước sử dụng các phương pháp quản lý nhà nước về kinh tế, gồm có
- Phương pháp quản lý:
- Phương pháp hành chính – kinh tế
- Phương pháp giáo dục – thuyết phục
Trong đó, phương pháp kinh tế là phương pháp đặc trưng, giữ vai trò chủ đạo.
Trong quản lý nhà nước về kinh tế, Nhà nước sử dụng hệ thống các công cụ cần thiết để thực
hiện chức năng quản lý của mình như công cụ định hướng (kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát
triển kinh tế ...), công cụ kinh tế, tài chính tiền tệ (chính sách đầu tư, thuế, chính sách tiền tệ, chi tiêu
ngân sách, hệ thống ngân hàng, lãi suất, tín dụng...), công cụ pháp lý (pháp luật, các văn bản pháp
quy...), các công cụ tổ chức và giáo dục...
e. Để quản lý nhà nước về kinh tế, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ khác nhau, trong đó
pháp luật là công cụ hiệu quả nhất
f. Nội dung quản lý Nhà nước về kinh tế bằng pháp luật
- Xây dựng và hoàn hiện pháp luật kinh tế
Pháp luật về kinh tế là công cụ quan trọng nhất trong hệ thống công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của
nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Thiết lập được một hệ thống pháp luật về kinh tế đồng bộ, bao
quát và hiệu quả cũng có nghĩa là tạo ra công cụ chủ yếu giúp nhà nước khắc phục được các khuyết
tật của thị trường, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế vận hành và phát triển. Nhà nước xây dựng
hệ thống pháp luật để tạo ra sự an toàn về mặt pháp lý cho các hoạt động kinh tế, sự thuận lợi cho các
chủ thể kinh tế; khuyến khích, hỗ trợ khi cần thiết; bảo vệ hiệu quả quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể kinh tế khi có sự xâm hại và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật.
rà soát quy định cũ  điều chỉnh, sửa đổi
- Tổ chức thực hiện pháp luật kinh tế
Để tổ chức thực hiện pháp luật kinh tế, Nhà nước thiết lập các cơ quan quản lý nhà nước về kinh
tế, mà trực tiếp là Chính phủ, thực hiện các thẩm quyền quản lý như thể chế hoá các đạo luật về kinh
tế và ban hành các quy phạm pháp luật với các văn bản chi tiết, hướng dẫn thực hiện pháp luật về
kinh tế; theo dõi thi hành chính sách và pháp luật từ việc tiến hành tuyên truyền, phổ biến pháp luật,
tổ chức hội nghị, công bố nội dung văn bản pháp luật trên các phương tiện truyền thông, truyền hình,
…Song song với quá trình này, các hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thi hành và tuân thủ pháp luật
về kinh tế cũng được duy trì. Đây là nội dung quan trọng thứ hai trong nội dung thi hành pháp luật
kinh tế của Nhà nước.
- Kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật về kinh tế
Để bảo đảm trật tự, an ninh kinh tế, bảo vệ các quan hệ kinh tế hợp pháp, Nhà nước đã quan tâm
đến việc xử lý các vi phạm pháp luật về kinh tế, nhất là trọng tài và xét xử trong việc giải quyết các
tranh chấp kinh tế và liên quan đến kinh tế.
Tại sao pháp luật là công cụ hiệu quả nhất được nhà nước sử dụng để quản lý nhà nước về
kinh tế?
- Tạo tiền đề pháp lý vững chắc để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, duy trì sự ổn định lâu dài
của nền kinh tế quốc dân, nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững
- Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ
thể kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân
- Tạo cơ sở pháp lý cần thiết để kết hợp hài hòa phát triển kinh tế và phát triển xã hội và bảo vệ
môi trường
Pháp luật kinh tế là hệ thống văn bản có tính quy phạm do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành để thể hiện ý chí, quyền lực của nhà nước nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Hệ thống văn
bản pháp luật trong quản lý Nhà nước về kinh tế có hai loại:
o Hệ thống Văn bản quy phạm pháp luật
o Văn bán áp dụng quy phạm pháp luật
Mọi nền kinh tế, bất luận là kinh tế kế hoạch hóa tập trung như trước đây hay nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, đều không thể tồn tại và phát triển nếu không
dựa vào pháp luật. Tuy nhiên, do nền kinh tế thị trường, xét về bản chất, là một nền kinh tế tự thân
vận động là chủ yếu (thông qua nguyên tắc tự do kinh doanh, tự do hợp đồng, tự định đoạt, tự chịu
trách nhiệm và tự do cạnh tranh), nên so với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây thì nền
kinh tế này cần pháp luật hơn nhiều. Vai trò của pháp luật đối với nền kinh tế thị trường được thể
hiện ở những điểm cơ bản sau đây.
Một là, bằng pháp luật, Nhà nước ghi nhận những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Không có những nguyên tắc cơ bản như tự do sở hữu, tự do kinh doanh, tự do hợp đồng, tự do cạnh
tranh thì Nhà nước sẽ không thể thiết kế được một mô hình nền kinh tế là nền kinh tế thị trường định
hướng XNCN mà mình mong muốn tại Việt Nam (các nguyên tắc này được quy định chủ yếu trong
Hiến pháp, Bộ luật Dân sự và các luật chuyên ngành khác).
Hai là, nền kinh tế thị trường chính là nền kinh tế tự thân vận động là chủ yếu, nhưng điều đó
không có nghĩa là nó không cần đến sự quản lý, điều hành và sự can thiệp ở một mức độ nhất định từ
phía Nhà nước. Bằng pháp luật, Nhà nước quy định địa vị pháp lý một cách đầy đủ, rõ ràng cho các
cơ quan trong bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước, giúp bộ máy này dù có phức tạp, đồ sộ đến đâu
vẫn có được sự đồng bộ về mặt tổ chức, sự nhịp nhàng, thông suốt trong sự quản lý điều hành, góp
phần làm cho việc quản lý nền kinh tế trở nên có hiệu quả và hiệu lực.
Ba là, nền kinh tế thị trường không thể thiếu được các nhân vật trung tâm của nó là các doanh
nghiệp. Bằng pháp luật, Nhà nước tạo lập ra các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh (chủ yếu là
dưới hình thức các doanh nghiệp) để không chỉ góp phần cá thể hóa các chủ thể tham gia quan hệ thị
trường với nhau, mà còn với các cơ quan nhà nước, làm cho các chủ thể này tuy khác nhau về tên
gọi, về hình thức sở hữu, về hình thức tổ chức, về quy mô kinh doanh và lĩnh vực đầu tư, nhưng vẫn
có được sự tách bạch, độc lập về mọi mặt để có thể tham gia vào quan hệ thị trường một cách bình
thường. Nói cách khác, không có pháp luật để xác định một cách rõ ràng địa vị pháp lý của các chủ
thể kinh doanh, thì các chủ thể này sẽ không thể thiết lập các quan hệ trao đổi hàng hóa - loại quan hệ
chủ yếu nhất và phổ biến nhất của nền kinh tế thị trường.
Bốn là, nhờ có pháp luật, Nhà nước thể chế hóa chính sách kinh tế, ddieuf chỉnh các hợp đồng
kinh tế, trình tự và thủ tục giải quyết tranh chấp kinh tế, Nhà nước quy định các biện pháp chế tài
(dân sự, hành chính, hình sự) nhằm trừng phạt các hành vi vi phạm pháp luật từ phía các doanh
nghiệp, qua đó góp phần bảo đảm cho quan hệ thị trường được ổn định, không bị tùy tiện vi phạm.
Tóm lại, nhờ có pháp luật mà Nhà nước có thể tạo lập được một môi trường kinh doanh có trật tự, an
toàn - một yêu cầu không thể thiếu được của bất cứ nền kinh tế thị trường bình thường nào.
Năm là, bằng pháp luật, Nhà nước có thể khuyến khích hay hạn chế sự phát triển của một ngành
kinh tế, một lĩnh vực kinh tế, một địa phương nào đó, một vùng lãnh thổ nào đó, góp phần thực hiện
chính sách phát triển kinh tế đồng đều, hài hòa ở nước ta.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, việc thể chế kinh
tế thông qua pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng, hướng dẫn, tạo khung khổ cho
việc tổ chức và hoạt động của nền kinh tế. Nó góp phần đồng bộ hoá hệ thống thị trường, từng bước
hoàn thiện và phát triển hệ thống thị trường của nền kinh tế thị trường nước ta. Không chỉ vậy, pháp
luật còn tạo ra những tiền đề điều kiện hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường. Bên cạnh
những mặt tích cực là tạo ra cơ chế năng động, sáng tạo và hiệu quả thì cũng tồn tại những mặt tiêu
cực như chạy theo lợi nhuận mà quên đi mục tiêu xã hội, phân hóa giàu nghèo… thông qua hệ thống
pháp luật, hệ thống các chính sách mà nhà nước ta có thể điều chỉnh, hạn chế các mặt tiêu cực đó.
Có thể thấy được, trong thời kỳ hiện nay, pháp luật đã trở thành một bộ phận cấu thành của nền
kinh tế. thiều pháp luật, nền kinh tế, nhất là nền kinh tế thị trường định của nước ta trong giai đoạn
quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ rất khó vận hành hoặc vận hành không có hiệu quả, các hoạt động
kinh tế sẽ trở nên hỗn loạn và không thể kiểm soát. Vai trò của pháp luật đối với sự phát triển kinh tế
là không thể phủ nhận. Vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những bước đi kinh tế
của nước ta có ý nghĩa quyết định trong công cuộc xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh, hiện đại
với một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Câu 2. Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật kinh tế ở Việt nam 2013  nay. Theo quan
điểm của mình, Anh/Chị đưa ra các giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật kinh tế đến năm 2030.
Tiêu chí, căn cứ đánh giá:
- Tính thống nhất và đồng bộ
- Tính phù hợp
- Tính toàn diện
- Kỹ thuật lập pháp
- Tính ổn định, chi phí tiếp cận
a. Ưu điểm (Thành tựu)
- Pháp luật về Kinh tế xây dựng căn cứ theo Hiến pháp năm 2013 là văn bản gốc,văn bản mẹ
của toàn bộ văn bản pháp luật của Việt Nam. Toàn bộ văn bản ban hành không được trái với hiến
pháp.
- Hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế được xây dựng tương đối đồng bộ, Các văn bản pháp
luật phù hợp với đường lối chủ trương, cơ chế thị trường, điều kiện kinh tế xã hội, thông lệ quốc tế và
đáp ứng được ở mức độ nhất dịnh yêu cầu, đòi hỏi của sự phát triển kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế/
- Toàn diện: bao quát quan hệ xã hội cơ bản, quan trọng, điển hình đã xảy ra
Hệ thống pháp luật kinh tế tương đối đầy đủ để điều chỉnh các vấn đề phát sinh từ thực tiễn
hoạt động của nền kinh tế. Cụ thể, đã ghi nhận đầy đủ các loại chủ thể tham gia quan hệ thị trường,
bao gồm doanh nghiệp (DN) tư nhân, công ty TNHH một thành viên, công ty TNHH hai thành viên
trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh và hợp tác xã với tư cách là những chủ thể chủ yếu đang
hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Các loại chủ thể này được quy định chủ yếu trong Luật DN
(2014), Luật DN (2020) và Luật Hợp tác xã (2012). Bên cạnh đó, điều chỉnh các quan hệ hàng hóa -
tiền tệ (quan hệ hợp đồng) phát sinh trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện và tự chịu trách nhiệm (pháp
luật về hợp đồng), trong đó, việc điều chỉnh các quan hệ thị trường thuộc về Bộ luật Dân sự (1995 và
2005). Các quan hệ thị trường phát sinh trong các lĩnh vực kinh doanh chuyên ngành cũng đã được
các luật chuyên ngành quy định một cách cụ thể như Luật Các tổ chức tín dụng (2010), Luật Kinh
doanh bất động sản (2014), Luật Kinh doanh bảo hiểm (2014), Luật Xây dựng (2014), Luật Nhà ở
(2014)…
Việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng đã được quan
tâm, thể hiện ở việc ban hành Bộ luật Tố tụng Dân sự (2004), tạo cơ sở pháp lý để tòa án giải quyết
các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh và Luật Trọng tài thương mại giúp trọng tài
thương mại (tổ chức phi nhà nước) thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp thương mại trên cơ sở
những nguyên tắc có nhiều điểm khác biệt với Tòa án để đáp ứng nhu cầu được tự do lựa chọn các
hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh của DN.
- Ngôn ngữ dễ hiểu, dễ nhớ, dễ sử dụng
- Pháp luật kinh tế đã tạo ra mặt bằng pháp lý chung cho các loại hình DN, đảm bảo sự bình
đẳng về pháp lý trong kinh doanh của các DN thuộc các thành phần kinh tế, giữa DN trong nước với
DN có vốn đầu tư nước ngoài đã được Nhà nước cụ thể hóa bằng việc ban hành Luật Đầu tư năm
2014, Luật DN năm 2014 áp dụng chung cho các DN thuộc mọi thành phần kinh tế. Với việc tiếp tục
hoàn thiện khuôn khổ pháp lý tiệm cận với chuẩn mực quốc tế, môi trường đầu tư, kinh doanh của
nước ta được cải thiện, cạnh tranh minh bạch, bình đẳng hơn giữa các thành phần kinh tế, các loại
hình DN, góp phần huy động, phân bổ và sử dụng ngày càng hiệu quả các nguồn lực trong, ngoài
nước cho phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò kinh tế ngoài nhà nước (không kể đầu tư nước ngoài)
ngày càng được phát huy, đóng góp 38,5% tổng đầu tư toàn xã hội và 48,3% GDP…
- Tính công khai, minh bạch và dân chủ trong quá trình xây dựng luật pháp ngày càng được cải
thiện và thực thi hiệu quả, nhận được sự đồng tình đánh giá cao của người dân và cộng đồng DN. Cơ
chế xây dựng pháp luật ngày càng dân chủ, công khai, tạo cơ hội và thu hút sự tham gia thảo luận,
đóng góp của các tầng lớp nhân dân, DN. Các dự thảo luận trước khi ban hành đều được lấy ý kiến
rộng rãi của người dân, các hiệp hội nghề nghiệp, cơ quan ban ngành.
Các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương ban hành đã được
đăng tải thường xuyên trong Công báo của Trung ương và địa phương cũng như trên cổng, trang
thông tin điện tử. Các luật về thủ tục hành chính, thủ tục pháp lý và thủ tục tố tụng đã được ban hành
và thường xuyên sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn, tạo cơ sở cho sự phát triển của hệ thống
tài phán ở nước ta…
- Hiện nay, Việt Nam đã tham gia và cam kết thực hiện nhiều quy định luật pháp quốc tế cũng
như hoàn thiện, bổ sung hệ thống pháp luật phù hợp với cam kết hội nhập. Trong lĩnh vực kinh tế,
Việt Nam đã hội nhập ở các cấp độ và hình thức khác nhau như tham gia các thỏa thuận thương mại
ưu đãi, các hiệp định thương mại tự do, các liên minh thuế quan, tham gia thị trường chung và tham
gia liên minh kinh tế, tiền tệ...
- Hiến pháp năm 2013 (nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, kinh tế nông nghiệp là chủ
đạo, giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, KH công nghệ là quốc sách….)
- Ai cũng phải hiểu luật như nhau, đơn giản nhưng chặt chẽ.
b. Hạn chế (Bất cập)
- Tính thống nhất của hệ thống pháp luật không cao: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đa
dạng về hình thức, đồ sộ về số lượng, không được thường xuyên rà soát, hệ thống hoá khiến người
dân rất khó tiếp cận, tìm hiểu và tuân thủ đúng yêu cầu của pháp luật. Do có quá nhiều loại văn bản,
được nhiều cấp ban hành nên mâu thuẫn và chổng chéo là khó tránh khỏi. Luật khung, luật ống quá
nguyên tắc, ngắn gọn
o Nhiều nghị định, thông tư  Quên luật
- Tính ổn định của hệ thống pháp luật thấp. Nhiều văn bản pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực
kinh tế tài chính, ngân hàng... thường xuyên thay đổi. Nguyên nhân khách quan của tình trạng này là
sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, sự phát triển năng động và phức tạp của các quan hệ kinh tế- xã hội, những biến động do
khủng hoảng kinh tế toàn cầu và khu vực. Nguyên nhân chủ quan là do khả năng dự báo, điều tiết các
quan hệ kinh tê' thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hoạch định chính sách... thiếu tầm nhìn
chiến lược. Chính vì vậy, nhiều văn bản pháp luật "tuổi thọ" ngắn, thậm chí, vừa ban hành đã phải
đình chỉ thi hành hoặc sửa đổi, bổ sung. Pháp luật thường xuyên thay đổi, gây khó khăn cho người
thực hiện và tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ kinh tế- xã hội. Thông tư thường xuyên
thay đổi phá vỡ tính ổn định.
- Văn bản lỗi thời vẫn áp dụng: luật thuế sử dụng đất nông nghiệp 1993
- Luật áp dụng theo quốc hội từng giai đoạn
- Nhiều nội dung trong quy định bất cập
- Nhóm quan hệ xã hội đã xảy ra nhưng chưa có luật điều chỉnh: ứng dụng công nghệ thông tin
- Nhóm cần điều chỉnh bằng luật vẫn đang điều chỉnh bằng nghị định. Ví dụ như hoạt động
của đơn vị hoạt động sự nghiệp công lập được điều chỉnh bằng nghị định 60’
- Tính công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật còn bất cập: Những sai phạm về hình thức
văn bản vẫn xảy ra. Một số văn bản hành chính lưu hành trong nội bộ các cơ quan nhà nước nhưng
lại chứa quy phạm pháp luật có hiệu lực thi hành chung với nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội,
làm giảm tính minh bạch, công khai của hệ thống pháp luật. Chưa có sự phân định rõ phạm vi, ranh
giới giữa việc giải thích luật, pháp lệnh thuộc thẩm quyền của ủy ban thường vụ Quốc hội, việc ban
hành văn bản hướng dẫn của Chính phủ và các cơ quan có. thẩm quyền khác với việc Toà án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động xét xử. Trong nhiều trường hợp,
pháp luật được hiểu, được áp dụng chưa thống nhất, trong khi ủy ban thường vụ Quốc hội hầu như
không thực hiện việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các
điều ước quốc tế mà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập chưa được coi trọng đúng mức; công tác nội
luật hóa điều ước quốc tế chậm được tiến hành...

Theo quan điểm của mình, Anh/Chị đưa ra các giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật kinh tế đến năm 2030.
Trọng tâm là xây dựng và hoàn thiện thể chế
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về kinh tế theo hướng tiếp tục thể chế hoá các quyền về tài sản
của Nhà nước, tổ chức và cá nhân, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính
nhà nước và dịch vụ công; tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phát triển các loại thị trường, gia nhập và
rút khỏi thị trường theo hướng đảm bảo quyền tự do kinh doanh; hoàn thiện pháp luật về các công cụ
quản lý kinh tế vĩ mô bao gồm : thuế, các tiêu chuẩn về chất lượng, quản lý giá và các công cụ hỗ trợ
quản lý vĩ mô như thống kê, đăng ký giao dịch, đăng ký tài sản. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
quy hoạch, đặc khu kinh tế; xây dựng cơ chế quản lý kinh tế đặc thù đô thị, nông thôn, biên giới, hải
đảo, tài nguyên biển; pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, vệ sinh an toàn thực phẩm...
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về kinh tế, cơ bản đáp ứng yêu cầu của nền KTTT hiện đại, bảo
đảm số lượng, nâng cao chất lượng và tính khả thi của hệ thống pháp luật về kinh tế. Việc xây dựng
và ban hành hệ thống pháp luật về kinh tế (các văn bản luật và dưới luật, các quy định, quy chế, quy
chuẩn, điều lệ,...) vừa đồng bộ, đầy đủ về số lượng, vừa bảo đảm về chất lượng và có tính khả thi cao
luôn là sự mong chờ của người dân, doanh nghiệp.
Một là, tăng cường tính minh bạch, bình đẳng, không phân biệt đối xử, đồng thời khắc phục
tình trạng văn bản pháp luật mới ban hành đã phải sửa hoặc thay đổi, hay chưa ban hành đã phát hiện
nhiều điều không hợp lý, đòi hỏi phải nghiên cứu thêm để hoàn thiện.
Hai là, bảo đảm tính ổn định, tính dự liệu trước của pháp luật về kinh tế, giúp người dân,
doanh nghiệp không bị động, tránh được tổn thất không đáng có xảy ra với họ, qua đó làm tăng lòng
tin vào pháp luật và bộ máy quản lý nhà nước.
Ba là, rà soát, khắc phục sớm tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn nhau giữa các bộ luật, luật
(như Luật Đầu tư năm 2014, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014,Luật Xây dựng năm 2014, Luật Nhà
ở năm 2014 đã gây không ít khó khăn chongười dân, doanh nghiệp trong các hoạt động kinh tế của
mình).
- Hoàn thành sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013 và các luật có liên quan đến quy hoạch,
quản lý, sử dụng đất đai tại đô thị đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030 bảo đảm về tính đồng
bộ và thống nhất. Nhiệm vụ sửa đổi Luật Đất đai là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay theo
Nghị quyết 18-NQ/TW. Giải quyết cơ bản một số tồn tại, vướng mắc có liên quan đến việc quản lý
và sử dụng đất có nguồn gốc từ hạng mục nông, lâm trường quốc doanh; đất quốc phòng, đất an ninh
kết hợp với sản xuất và xây dựng kinh tế; đất dành cho cơ sở sản xuất, đơn vị sự nghiệp đã di dời ra
khỏi trung tâm đô thị lớn; đất lấn biển; đất phục vụ tôn giáo; đất nghĩa trang; đất kết hợp và sử dụng
nhiều mục đích; đất ở, đất sản xuất dành cho đồng bào dân tộc thiểu số…. Bỏ khung giá đất, có cơ
chế và phương pháp xác định giá đất theo nguyên tắc của thị trường, quy định rõ chức năng, nhiệm
vụ và trách nhiệm của từng cơ quan có nhiệm vụ xác định giá đất. Quy định mức thuế cao hơn đối
với người sử dụng nhiều diện tích đất, có nhiều nhà ở, đầu cơ đất, chậm sử dụng đất, hoặc bỏ đất
hoang. Hoàn thiện các quy định về Giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua việc đấu giá quyền sử
dụng đất, đấu thầu các dự án có sử dụng đất….. Hoàn thiện quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư, thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng. Hoàn thiện pháp luật để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo đảm
công khai, minh bạch và khắc phục tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tham nhũng, lãng phí. Đổi mới
các chính sách quản lý đất đai để khuyến khích và tạo điều kiện tích tụ đất nông nghiệp, phát triển
mạnh thị trường quyền sử dụng đất. Đổi mới và thực hiện chế độ quản lý mục đích sử dụng đất nông
nghiệp một cách linh hoạt hơn; bãi bỏ các giới hạn về đối tượng được nhận chuyển nhượng đất nông
nghiệp, tăng thời hạn giao đất, cho thuê đất nông nghiệp. Công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng
đất công; tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất giao cho các cộng
đồng và doanh nghiệp nhà nước
- Hiện đại hóa toàn diện công tác quản lý thuế, phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định pháp
luật Việt Nam, trọng tâm là thể chế quản lý thuế, nguồn nhân lực và công nghệ thông tin, cụ thể: thể
chế quản lý thuế đồng bộ, công khai, minh bạch, công bằng, áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý
thuế, tạo điều kiện thuận lợi để người nộp thuế tuân thủ tự nguyện, cơ quan thuế có đủ năng lực quản
lý thuế hiệu quả, hiệu lực; đội ngũ công chức thuế chuyên nghiệp, chuyên sâu, liêm chính; hệ thống
công nghệ thông tin tích hợp, tập trung, đáp ứng yêu cầu xử lý, cung cấp thông tin cho quản lý thuế,
công tác chỉ đạo điều hành của cơ quan thuế và cung cấp dịch vụ điện tử, dịch vụ số cho người nộp
thuế.
- Hoàn chỉnh thể chế quản lý thuế, hải quan theo hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
thuế, quản lý hải quan trên cơ sở ứng dụng các công nghệ hiện đại, góp phần tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc, tạo thuận lợi cho người nộp thuế, chống thất thoát, gian lận thuế; tăng cường công tác
chống chuyển giá và quản lý có hiệu quả các nguồn thu mới phát sinh từ các giao dịch thương mại
điện tử và nền kinh tế số; đồng thời, thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện theo mức độ tuân thủ của từng
nhóm người nộp thuế và phù hợp với yêu cầu của Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Tăng cường
phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới trong
quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu, đảm bảo an ninh kinh tế và an toàn xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin, tăng cường cải cách thủ tục hành chính để cải thiện môi trường kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, giảm chi phí tuân thủ thuế của người dân và doanh nghiệp.
- Tiếp tục rà soát, sửa đổi Luật doanh nghiệp và Luật chứng khoán 2019 để phát triển thị
trường trái phiếu doanh nghiệp. Thứ nhất là điều kiện phát hành trái phiếu của doanh nghiệp sao cho
phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Thứ hai là điều kiện đối với nhà đầu tư chuyên nghiệp được phép
tham gia đầu tư trái phiếu của các doanh nghiệp. Thứ ba là cách thức phát hành trái phiếu, quy định
giám sát việc phát hành trái phiếu riêng lẻ hoặc phát hành ra công chúng.
- Tiếp tục phát triển thị trường tài chính trên cơ sở đổi mới và hoàn thiện hệ thống các văn bản
pháp lý về hoạt động ngân hàng: ban hành chuẩn mực an toàn vốn phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế;
sửa đổi, bổ sung quy định về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập; đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung
Luật bảo hiểm tiền gửi phù hợp với định hướng của ngân hàng nhà nước, đảm bảo đồng bộ với quy
định tại Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD và định hướng Chiến lược phát triển BHTG. Chú
trọng đề xuất bổ sung chức năng, nhiệm vụ để BHTGVN có thể tăng cường năng lực tài chính, sử
dụng hiệu quả nguồn lực sẵn có khi thực hiện các nhiệm vụ được giao, trở thành công cụ hữu hiệu
của Chính phủ, NHNN trong việc tái cơ cấu TCTD yếu kém nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi người
gửi tiền và từng bước khắc phục những bất cập, hạn chế trong quá trình thực thi chính sách BHTG,
tập trung vào nội dung: hoàn thiện quy định về phí bảo hiểm tiền gửi,…..
- Thực hiện tổng kết việc thi hành Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14 và các văn bản hướng
dẫn để đề xuất sửa đổi, bổ sung (nếu có) trong giai đoạn 2022-2025 nhằm hoàn thiện chức năng,
nhiệm vụ, địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán;
hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát thị trường, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trên TTCK,
phát triển TTCK phù hợp với tình hình trong nước và thông lệ quốc tế.
- Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tài chính - ngân hàng, bảo đảm ổn định vững chắc kinh tế vĩ
mô. Nhà nước điều hành chủ động, phối hợp linh hoạt chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ theo
hướng tập trung quản lý lĩnh vực tài chính - ngân hàng bằng các quy định pháp luật cụ thể hơn và phù
hợp với sự phát triển mạnh mẽ của các phương thức giao dịch tài chính - ngân hàng mới trong kỷ
nguyên số như: xu hướng tài chính kỹ thuật số, liên kết kinh doanh mới trong cung ứng sản phẩm,
dịch vụ tài chính, “ngân hàng không giấy”, ngân hàng số,...
- Chủ động hoàn thiện các quy định trong Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 và Luật Các tổ
chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để tăng cường tính độc lập của Ngân hàng Nhà
nước (trong việc thực thi chính sách, lựa chọn công cụ điều hành và trong quan hệ với ngân sách nhà
nước) và mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước là “ổn định giá trị đồng tiền và bảo đảm an toàn hoạt
động của hệ thống ngân hàng”, qua đó tạo điều kiện để Ngân hàng Nhà nước tập trung và chủ động
theo đuổi thực hiện các mục tiêu trên.
Quy định rõ bằng pháp luật việc sử dụng biện pháp hành chính và biện pháp kinh tế trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước, qua đó nâng cao hiệu quả quản lý của
Ngân hàng Nhà nước (cùng với nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương
mại), đồng thời bảo đảm điều hành thị trường tiền tệ và hệ thống ngân hàng (thông qua việc thực hiện
các chính sách tín dụng, lãi suất, tỷ giá, các công cụ của Ngân hàng Nhà nước) phù hợp với nguyên
tắc thị trường, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với các cam kết quốc tế (như ở cửa thị trường
tín dụng và dịch vụ ngân hàng). Theo đó, các biện pháp hành chính được áp dụng khi Ngân hàng Nhà
nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối, còn các
biện pháp kinh tế được sử dụng khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng của một ngân hàng
Trung ương.
- Trong các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là
quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015, cần thừa nhận nguyên tắc ưu tiên áp dụng pháp luật chuyên
ngành (pháp luật về tín dụng, ngân hàng). Theo đó, khi các văn bản pháp luật cùng điều chỉnh một
vấn đề thì văn bản pháp luật chuyên ngành sẽ được ưu tiên áp dụng. Cùng với đó, bổ sung thêm các
quy định bảo đảm đạo đức nghề nghiệp và tính minh bạch của hệ thống ngân hàng với việc chú trọng
nhiều vào hiệu quả thay vì chỉ tập trung cho giải ngân. Sớm nghiên cứu, hoàn thiện Luật Các tổ chức
tín dụng sửa đổi, bổ sung năm 2017 theo hướng có quy định rõ ràng và tách biệt về xử lý các tổ chức
tín dụng yếu kém với xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, qua đó tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại các
ngân hàng thương mại và xử lý nợ xấu có hiệu quả.
- Hoàn thiện pháp luật về tài chính công và đầu tư công, chi tiêu ngân sách để khắc phục triệt
để cơ chế xin cho vẫn đang còn tồn tại, không phù hợp với các yếu tố thị trường. Trên cơ sở Luật
Quy hoạch năm 2019 đã được ban hành và tôn trọng quy luật của KTTT, Nhà nước cần tập trung vốn
cho quy hoạch các ngành hạ tầng thiết yếu là hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và hạ tầng sản xuất, để
kiến tạo cho phát triển; việc phân bổ nguồn lực cũng cần theo cơ chế thị trường để tạo động lực phát
triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy việc huy động các nguồn lực của xã hội cho đầu tư, sản xuất, kinh
doanh phát triển nhằm giảm bớt gánh nặng đầu tư công, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia.
- Hoàn thiện pháp luật về khắc phục các khuyết tật của KTTT, bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh
năng lượng, an ninh lương thực, an ninh môi trường sinh thái, an ninh nguồn nước,..., góp phần hạn
chế các nguy hại đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định
trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2010
gắn với phát triển kinh tế xanh và bảo vệ môi trường sinh thái. Từ nội dung các chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội Việt Nam, chiến lược tăng trưởng xanh, chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu,...,
cần thể chế hóa thành khung khổ pháp lý về phát triển bền vững, bao trùm cùng với đó là các quy
định pháp luật về phát triển khoa học và công nghệ sạch, bảo vệ môi trường để tăng cường nghiên
cứu, ứng dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, phát minh các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu
mới thay thế các nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn.
- Hoàn thiện thể chế, chính sách và môi trường pháp lý để làm nền móng kinh tế số, xã hội số.
Điểm đột phá là ban hành chính sách, quy định thúc đẩy các hoạt động trực tuyến diễn ra nhiều hơn,
rẻ hơn, nhanh hơn, dễ dàng hơn và an toàn hơn. Cụ thể, cần xây dựng, trình ban hành và tổ chức thực
thi Luật Giao dịch điện tử sửa đổi và các văn bản hướng dẫn Luật để công nhận đầy đủ tính pháp lý
của hồ sơ, dữ liệu, chứng từ điện tử và giao dịch điện tử; tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho các nền
tảng trung gian trong giao dịch điện tử. Đồng thời, cần xây dựng, ban hành và tổ chức triển khai
khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát (sand box) đối với các dịch vụ số mới, các mô hình kinh
doanh kinh tế số mới chưa được pháp luật quy định rõ ràng.
Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý, thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá
trình chuyển đổi số, kinh tế số, sản xuất thông minh, mô hình sản xuất kinh doanh mới, thương mại
điện tử… theo nội dung Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ
trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư(5) để tạo cơ chế điều
chỉnh linh hoạt, thông thoáng nhằm phát huy năng lực sáng tạo của các doanh nghiệp khởi nghiệp
trong lĩnh vực này; đồng thời, việc hoàn thiện pháp luật phải hướng tới giảm thiểu các rủi ro pháp lý
cho doanh nghiệp khởi nghiệp bởi hoạt động khởi nghiệp gắn liền với yếu tố sáng tạo, cái mới, mô
hình chưa từng có tiền lệ; nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới
đã xây dựng và vận hành “khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát”.
Đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, trong đó tập trung phát triển hạ tầng số
phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt; thiết kế đồng bộ, xây dựng và đưa vào
vận hành hệ thống tích hợp, kết nối liên thông các cơ sở dữ liệu lớn, nhất là dữ liệu về dân cư, y tế,
giáo dục, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà ở…; nghiên cứu ban hành Luật Chính phủ điện tử
hoặc Luật Chính phủ số, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về định danh và xác thực điện tử; phát triển
hạ tầng số và dữ liệu số quốc gia.

You might also like