Professional Documents
Culture Documents
Đề cương ôn thi - Copy
Đề cương ôn thi - Copy
Theo quan điểm của mình, Anh/Chị đưa ra các giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật kinh tế đến năm 2030.
Trọng tâm là xây dựng và hoàn thiện thể chế
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về kinh tế theo hướng tiếp tục thể chế hoá các quyền về tài sản
của Nhà nước, tổ chức và cá nhân, minh bạch về nghĩa vụ và trách nhiệm trong thủ tục hành chính
nhà nước và dịch vụ công; tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phát triển các loại thị trường, gia nhập và
rút khỏi thị trường theo hướng đảm bảo quyền tự do kinh doanh; hoàn thiện pháp luật về các công cụ
quản lý kinh tế vĩ mô bao gồm : thuế, các tiêu chuẩn về chất lượng, quản lý giá và các công cụ hỗ trợ
quản lý vĩ mô như thống kê, đăng ký giao dịch, đăng ký tài sản. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
quy hoạch, đặc khu kinh tế; xây dựng cơ chế quản lý kinh tế đặc thù đô thị, nông thôn, biên giới, hải
đảo, tài nguyên biển; pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, vệ sinh an toàn thực phẩm...
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về kinh tế, cơ bản đáp ứng yêu cầu của nền KTTT hiện đại, bảo
đảm số lượng, nâng cao chất lượng và tính khả thi của hệ thống pháp luật về kinh tế. Việc xây dựng
và ban hành hệ thống pháp luật về kinh tế (các văn bản luật và dưới luật, các quy định, quy chế, quy
chuẩn, điều lệ,...) vừa đồng bộ, đầy đủ về số lượng, vừa bảo đảm về chất lượng và có tính khả thi cao
luôn là sự mong chờ của người dân, doanh nghiệp.
Một là, tăng cường tính minh bạch, bình đẳng, không phân biệt đối xử, đồng thời khắc phục
tình trạng văn bản pháp luật mới ban hành đã phải sửa hoặc thay đổi, hay chưa ban hành đã phát hiện
nhiều điều không hợp lý, đòi hỏi phải nghiên cứu thêm để hoàn thiện.
Hai là, bảo đảm tính ổn định, tính dự liệu trước của pháp luật về kinh tế, giúp người dân,
doanh nghiệp không bị động, tránh được tổn thất không đáng có xảy ra với họ, qua đó làm tăng lòng
tin vào pháp luật và bộ máy quản lý nhà nước.
Ba là, rà soát, khắc phục sớm tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn nhau giữa các bộ luật, luật
(như Luật Đầu tư năm 2014, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014,Luật Xây dựng năm 2014, Luật Nhà
ở năm 2014 đã gây không ít khó khăn chongười dân, doanh nghiệp trong các hoạt động kinh tế của
mình).
- Hoàn thành sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013 và các luật có liên quan đến quy hoạch,
quản lý, sử dụng đất đai tại đô thị đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030 bảo đảm về tính đồng
bộ và thống nhất. Nhiệm vụ sửa đổi Luật Đất đai là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay theo
Nghị quyết 18-NQ/TW. Giải quyết cơ bản một số tồn tại, vướng mắc có liên quan đến việc quản lý
và sử dụng đất có nguồn gốc từ hạng mục nông, lâm trường quốc doanh; đất quốc phòng, đất an ninh
kết hợp với sản xuất và xây dựng kinh tế; đất dành cho cơ sở sản xuất, đơn vị sự nghiệp đã di dời ra
khỏi trung tâm đô thị lớn; đất lấn biển; đất phục vụ tôn giáo; đất nghĩa trang; đất kết hợp và sử dụng
nhiều mục đích; đất ở, đất sản xuất dành cho đồng bào dân tộc thiểu số…. Bỏ khung giá đất, có cơ
chế và phương pháp xác định giá đất theo nguyên tắc của thị trường, quy định rõ chức năng, nhiệm
vụ và trách nhiệm của từng cơ quan có nhiệm vụ xác định giá đất. Quy định mức thuế cao hơn đối
với người sử dụng nhiều diện tích đất, có nhiều nhà ở, đầu cơ đất, chậm sử dụng đất, hoặc bỏ đất
hoang. Hoàn thiện các quy định về Giao đất, cho thuê đất chủ yếu thông qua việc đấu giá quyền sử
dụng đất, đấu thầu các dự án có sử dụng đất….. Hoàn thiện quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư, thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng. Hoàn thiện pháp luật để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo đảm
công khai, minh bạch và khắc phục tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tham nhũng, lãng phí. Đổi mới
các chính sách quản lý đất đai để khuyến khích và tạo điều kiện tích tụ đất nông nghiệp, phát triển
mạnh thị trường quyền sử dụng đất. Đổi mới và thực hiện chế độ quản lý mục đích sử dụng đất nông
nghiệp một cách linh hoạt hơn; bãi bỏ các giới hạn về đối tượng được nhận chuyển nhượng đất nông
nghiệp, tăng thời hạn giao đất, cho thuê đất nông nghiệp. Công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng
đất công; tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất giao cho các cộng
đồng và doanh nghiệp nhà nước
- Hiện đại hóa toàn diện công tác quản lý thuế, phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định pháp
luật Việt Nam, trọng tâm là thể chế quản lý thuế, nguồn nhân lực và công nghệ thông tin, cụ thể: thể
chế quản lý thuế đồng bộ, công khai, minh bạch, công bằng, áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý
thuế, tạo điều kiện thuận lợi để người nộp thuế tuân thủ tự nguyện, cơ quan thuế có đủ năng lực quản
lý thuế hiệu quả, hiệu lực; đội ngũ công chức thuế chuyên nghiệp, chuyên sâu, liêm chính; hệ thống
công nghệ thông tin tích hợp, tập trung, đáp ứng yêu cầu xử lý, cung cấp thông tin cho quản lý thuế,
công tác chỉ đạo điều hành của cơ quan thuế và cung cấp dịch vụ điện tử, dịch vụ số cho người nộp
thuế.
- Hoàn chỉnh thể chế quản lý thuế, hải quan theo hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
thuế, quản lý hải quan trên cơ sở ứng dụng các công nghệ hiện đại, góp phần tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc, tạo thuận lợi cho người nộp thuế, chống thất thoát, gian lận thuế; tăng cường công tác
chống chuyển giá và quản lý có hiệu quả các nguồn thu mới phát sinh từ các giao dịch thương mại
điện tử và nền kinh tế số; đồng thời, thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện theo mức độ tuân thủ của từng
nhóm người nộp thuế và phù hợp với yêu cầu của Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Tăng cường
phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại và vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới trong
quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu, đảm bảo an ninh kinh tế và an toàn xã hội. Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin, tăng cường cải cách thủ tục hành chính để cải thiện môi trường kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, giảm chi phí tuân thủ thuế của người dân và doanh nghiệp.
- Tiếp tục rà soát, sửa đổi Luật doanh nghiệp và Luật chứng khoán 2019 để phát triển thị
trường trái phiếu doanh nghiệp. Thứ nhất là điều kiện phát hành trái phiếu của doanh nghiệp sao cho
phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Thứ hai là điều kiện đối với nhà đầu tư chuyên nghiệp được phép
tham gia đầu tư trái phiếu của các doanh nghiệp. Thứ ba là cách thức phát hành trái phiếu, quy định
giám sát việc phát hành trái phiếu riêng lẻ hoặc phát hành ra công chúng.
- Tiếp tục phát triển thị trường tài chính trên cơ sở đổi mới và hoàn thiện hệ thống các văn bản
pháp lý về hoạt động ngân hàng: ban hành chuẩn mực an toàn vốn phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế;
sửa đổi, bổ sung quy định về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập; đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung
Luật bảo hiểm tiền gửi phù hợp với định hướng của ngân hàng nhà nước, đảm bảo đồng bộ với quy
định tại Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các TCTD và định hướng Chiến lược phát triển BHTG. Chú
trọng đề xuất bổ sung chức năng, nhiệm vụ để BHTGVN có thể tăng cường năng lực tài chính, sử
dụng hiệu quả nguồn lực sẵn có khi thực hiện các nhiệm vụ được giao, trở thành công cụ hữu hiệu
của Chính phủ, NHNN trong việc tái cơ cấu TCTD yếu kém nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi người
gửi tiền và từng bước khắc phục những bất cập, hạn chế trong quá trình thực thi chính sách BHTG,
tập trung vào nội dung: hoàn thiện quy định về phí bảo hiểm tiền gửi,…..
- Thực hiện tổng kết việc thi hành Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14 và các văn bản hướng
dẫn để đề xuất sửa đổi, bổ sung (nếu có) trong giai đoạn 2022-2025 nhằm hoàn thiện chức năng,
nhiệm vụ, địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán;
hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát thị trường, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trên TTCK,
phát triển TTCK phù hợp với tình hình trong nước và thông lệ quốc tế.
- Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tài chính - ngân hàng, bảo đảm ổn định vững chắc kinh tế vĩ
mô. Nhà nước điều hành chủ động, phối hợp linh hoạt chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ theo
hướng tập trung quản lý lĩnh vực tài chính - ngân hàng bằng các quy định pháp luật cụ thể hơn và phù
hợp với sự phát triển mạnh mẽ của các phương thức giao dịch tài chính - ngân hàng mới trong kỷ
nguyên số như: xu hướng tài chính kỹ thuật số, liên kết kinh doanh mới trong cung ứng sản phẩm,
dịch vụ tài chính, “ngân hàng không giấy”, ngân hàng số,...
- Chủ động hoàn thiện các quy định trong Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 và Luật Các tổ
chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để tăng cường tính độc lập của Ngân hàng Nhà
nước (trong việc thực thi chính sách, lựa chọn công cụ điều hành và trong quan hệ với ngân sách nhà
nước) và mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước là “ổn định giá trị đồng tiền và bảo đảm an toàn hoạt
động của hệ thống ngân hàng”, qua đó tạo điều kiện để Ngân hàng Nhà nước tập trung và chủ động
theo đuổi thực hiện các mục tiêu trên.
Quy định rõ bằng pháp luật việc sử dụng biện pháp hành chính và biện pháp kinh tế trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước, qua đó nâng cao hiệu quả quản lý của
Ngân hàng Nhà nước (cùng với nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương
mại), đồng thời bảo đảm điều hành thị trường tiền tệ và hệ thống ngân hàng (thông qua việc thực hiện
các chính sách tín dụng, lãi suất, tỷ giá, các công cụ của Ngân hàng Nhà nước) phù hợp với nguyên
tắc thị trường, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với các cam kết quốc tế (như ở cửa thị trường
tín dụng và dịch vụ ngân hàng). Theo đó, các biện pháp hành chính được áp dụng khi Ngân hàng Nhà
nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối, còn các
biện pháp kinh tế được sử dụng khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng của một ngân hàng
Trung ương.
- Trong các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là
quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015, cần thừa nhận nguyên tắc ưu tiên áp dụng pháp luật chuyên
ngành (pháp luật về tín dụng, ngân hàng). Theo đó, khi các văn bản pháp luật cùng điều chỉnh một
vấn đề thì văn bản pháp luật chuyên ngành sẽ được ưu tiên áp dụng. Cùng với đó, bổ sung thêm các
quy định bảo đảm đạo đức nghề nghiệp và tính minh bạch của hệ thống ngân hàng với việc chú trọng
nhiều vào hiệu quả thay vì chỉ tập trung cho giải ngân. Sớm nghiên cứu, hoàn thiện Luật Các tổ chức
tín dụng sửa đổi, bổ sung năm 2017 theo hướng có quy định rõ ràng và tách biệt về xử lý các tổ chức
tín dụng yếu kém với xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, qua đó tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại các
ngân hàng thương mại và xử lý nợ xấu có hiệu quả.
- Hoàn thiện pháp luật về tài chính công và đầu tư công, chi tiêu ngân sách để khắc phục triệt
để cơ chế xin cho vẫn đang còn tồn tại, không phù hợp với các yếu tố thị trường. Trên cơ sở Luật
Quy hoạch năm 2019 đã được ban hành và tôn trọng quy luật của KTTT, Nhà nước cần tập trung vốn
cho quy hoạch các ngành hạ tầng thiết yếu là hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và hạ tầng sản xuất, để
kiến tạo cho phát triển; việc phân bổ nguồn lực cũng cần theo cơ chế thị trường để tạo động lực phát
triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy việc huy động các nguồn lực của xã hội cho đầu tư, sản xuất, kinh
doanh phát triển nhằm giảm bớt gánh nặng đầu tư công, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia.
- Hoàn thiện pháp luật về khắc phục các khuyết tật của KTTT, bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh
năng lượng, an ninh lương thực, an ninh môi trường sinh thái, an ninh nguồn nước,..., góp phần hạn
chế các nguy hại đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định
trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2010
gắn với phát triển kinh tế xanh và bảo vệ môi trường sinh thái. Từ nội dung các chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội Việt Nam, chiến lược tăng trưởng xanh, chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu,...,
cần thể chế hóa thành khung khổ pháp lý về phát triển bền vững, bao trùm cùng với đó là các quy
định pháp luật về phát triển khoa học và công nghệ sạch, bảo vệ môi trường để tăng cường nghiên
cứu, ứng dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, phát minh các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu
mới thay thế các nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn.
- Hoàn thiện thể chế, chính sách và môi trường pháp lý để làm nền móng kinh tế số, xã hội số.
Điểm đột phá là ban hành chính sách, quy định thúc đẩy các hoạt động trực tuyến diễn ra nhiều hơn,
rẻ hơn, nhanh hơn, dễ dàng hơn và an toàn hơn. Cụ thể, cần xây dựng, trình ban hành và tổ chức thực
thi Luật Giao dịch điện tử sửa đổi và các văn bản hướng dẫn Luật để công nhận đầy đủ tính pháp lý
của hồ sơ, dữ liệu, chứng từ điện tử và giao dịch điện tử; tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho các nền
tảng trung gian trong giao dịch điện tử. Đồng thời, cần xây dựng, ban hành và tổ chức triển khai
khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát (sand box) đối với các dịch vụ số mới, các mô hình kinh
doanh kinh tế số mới chưa được pháp luật quy định rõ ràng.
Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý, thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá
trình chuyển đổi số, kinh tế số, sản xuất thông minh, mô hình sản xuất kinh doanh mới, thương mại
điện tử… theo nội dung Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ
trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư(5) để tạo cơ chế điều
chỉnh linh hoạt, thông thoáng nhằm phát huy năng lực sáng tạo của các doanh nghiệp khởi nghiệp
trong lĩnh vực này; đồng thời, việc hoàn thiện pháp luật phải hướng tới giảm thiểu các rủi ro pháp lý
cho doanh nghiệp khởi nghiệp bởi hoạt động khởi nghiệp gắn liền với yếu tố sáng tạo, cái mới, mô
hình chưa từng có tiền lệ; nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới
đã xây dựng và vận hành “khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát”.
Đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, trong đó tập trung phát triển hạ tầng số
phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt; thiết kế đồng bộ, xây dựng và đưa vào
vận hành hệ thống tích hợp, kết nối liên thông các cơ sở dữ liệu lớn, nhất là dữ liệu về dân cư, y tế,
giáo dục, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà ở…; nghiên cứu ban hành Luật Chính phủ điện tử
hoặc Luật Chính phủ số, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về định danh và xác thực điện tử; phát triển
hạ tầng số và dữ liệu số quốc gia.