Mạc Thị Thảo Nguyên - Môn Lý luận về Đảng và XD Đảng trong điều kiện mới

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 32

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VIỆN XÂY DỰNG ĐẢNG

TIỂU LUẬN
MÔN LÝ LUẬN VỀ ĐẢNG VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG
TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI

Tên tiểu luận: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC


LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HIỆN NAY

[[

Người thực hiện: Mạc Thị Thảo Nguyên


Lớp: Xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước
Khóa học: K30 – Hệ không tập trung (2023-2025)

HÀ NỘI – 6/2024
1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 2
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 2
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................. ...................................... 3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................ 3
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ....... ........................................................... 3
6. Kết cấu tiểu luận...................................................................................... 3
NỘI DUNG ..................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ ĐẢNG
CHÍNH TRỊ...................................................................................................... 4
1.1 Sự hình thành của Đảng chính trị.............................................................. 4
1.2 Chức năng của Đảng chính trị................................................................... 6
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
TIẾN TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ............................................................. 8
2.1 Quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. ....................................... 8
2.2 Quá trình lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây
dựng Chủ nghĩa xã hội .................................................................................. 10
2.3 Thực trạng những hạn chế trong phương thức lãnh đạo của Đảng......... 12
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY............................................. 15
3.1 Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị ................................................ 15
3.2 Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng .................................................... 16
3.3 Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức .................................................... 17
3.4 Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức
bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ................... 17
3.5 Củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên 18
3.6 Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và
người ứng đầu ................................................................................................. 19
3.7 Đổi mới mạnh mẽ. nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát,
kỉ luật đảng..................................................................................................... 21
3.8 Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào
nhân dân để xây dựng Đảng .......................................................................... 22
3.9 Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ....... 23
3.10 Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới 24
3.11 Xây dựng Đảng từ mỗi cán bộ, đảng viê................................................. 25
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 30
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng
cầm quyền đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là nhiệm vụ then chốt.
Với tư cách Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cách mạng Việt Nam nói
chung, thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kì đổi mới nói
riêng. Một trong những nhiệm vụ chính trị của Đảng trong giai đoạn hiện nay là
tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và vai trò lãnh đạo
của Đảng trong thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ có trên cơ sở có
được những nhận thức mới, đúng đắn về các vấn đề này, Đảng mới có được
những giải pháp mang tính đột phá để nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với nhà nước và xã hội, đưa công cuộc đổi mới và phát triển bền vững
đất nước đến thành công.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ,
sâu sắc hơn vị trí, vai trò, nội dung, phương thức cầm quyền, lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa vẫn còn nội dung chưa được nhận thức đầy đủ, sâu sắc. Bên cạnh đó bối
cảnh của tình hình thế giới và những thách thức đặt ra trong quá trình xây dựng
Đảng ngày càng bức thiết. Để hạn chế những vấn đề “mặt trái” của quá trình mở
cửa nền kinh tế và hội nhập quốc tế đang đặt ra yêu cầu bức thiết đòi hỏi Đảng
phải vững mạnh, sáng suốt để lựa chọn đúng đắn con đường lãnh đạo đất nước
phát triển.
Xuất phát từ vị trí, vai trò và tình hình thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài môn học
Lý luận về Đảng và xây dựng Đảng trong điều kiện mới thuộc chuyên ngành
đào tạo Cao học chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
3
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận chung về Đảng Cộng sản, vai trò của Đảng Cộng sản
trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Thực trạng những tồn tại trong quá trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Lý luận chung về Đảng Cộng sản, thực trạng những hạn
chế và giải pháp nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: quá trình hình thành, phát triển, vai trò của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong tiến trình xây dựng đất nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh cùng các văn kiện Đại hội Đảng và những chính sách của Nhà nước liên
quan đến đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế.
- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thu thập và xử lý tài liệu; Phương
pháp phân tích, so sánh và tổng hợp…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Tiểu luận góp phần làm sáng tỏ hơn những nội dung liên quan đến quá trình
hình thành, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó, góp phần nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
6. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung của tiểu luận gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng chính trị
Chương 2: Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình lãnh đạo cách
mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam hiện nay.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VỀ ĐẢNG CHÍNH TRỊ

1.1 Sự hình thành của Đảng chính trị


Việc ra đời của các Đảng chính trị gắn liền với sự phát triển, biến đổi cơ
cấu kinh tế - xã hội giai cấp. Mỗi một Đảng chính trị thường đại diện cho một
lực lượng xã hội nhất định. Sự tồn tại của các đảng tạo nên nét đặc trưng của cơ
cấu xã hội chính trị của hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính
chỉnh thể các thế chế chính trị (các cơ quan quyền lực nhà nước, các đảng
chính trị, các tổ chức và các phong trào xã hội)... được xây dựng trên các quyền
và các chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận
hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực
chính trị. Đảng chính trị được coi là thành tố đóng vai trò trung tâm cả về lý
thuyết và thực tiễn của các nền dân chủ hiện đại, tạo ra sự kết nối quan trọng
giữa người dân và các nhà chính trị , những người thực thi các nhiệm vụ của
nhà nước.
Cho đến nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về Đảng chính trị tùy
thuộc vào cách tiếp cận. Theo quan điểm của G.Duverger nhìn nhận Đảng
chính trị với tư cách là một tổ chức chính trị hướng đến giành chính quyền
thông qua bầu cử. Theo quan niệm của H.J.Wiauch (Mỹ), đảng là tổ chức đam
mê lợi ích chính trị nhất, nhưng đó là lợi ích của cộng đồng, xã hội… Đảng là tổ
chức của những người đoàn kết với nhau, được lập ra để thực hiện lợi ích chung
của quốc gia thông qua những nguyên tắc riêng mà họ đã thỏa thuận. Theo quan
niệm của các cử tri: Đảng là tổ
chức nhằm biểu lộ thái độ đối với các chính sách công của chính phủ.
Qua các quan niệm trên, có thể thấy những điểm chung của Đảng chính trị
là: Đảng chính trị là một nhóm cá nhân, được tổ chức lại nhằm giành chiến
thắng trong các cuộc bầu cử để điều hành chính phủ và quyết định chính sách
công. Các đảng như vậy gọi là đảng bầu cử. Mục tiêu là giành ghế trong nghị
viện và các vị trí quyền lực.
Quan niệm của chủ nghĩa Mác: Đảng chính trị là bộ phận tiên tiến nhất, có
tổ chức của một giai cấp (hay một tầng lớp nào đó), đại biểu cho lợi ích của giai
5
cấp, tầng lớp đó. Đảng chính trị do vậy phải hội tụ được ba tiêu chí quan trọng:
Tiêu biểu về trí tuệ, tư tưởng; Đại diện cho lợi ích của giai cấp và tính tiên
phong chính trị.
Từ các quan niệm và những đặc trưng trên về Đảng chính trị, có thể đưa ra
một quan niệm chung như sau: Đảng chính trị là tổ chức chính trị đại diện của
một giai cấp (một lực lượng xã hội), gồm những người có cùng chính kiến, tự
nguyện tham gia nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước theo mục tiêu
chính trị của đảng.
Khả năng vươn tới quyền lực của đảng tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố: Tính
đúng đắn trong đường lối, quan điểm, phương pháp của đảng, sự thống nhất
trong tư tưởng, tổ chức, tương quan so sánh lực lượng... và cuối cùng, nhân tố
quyết định là sự ủng hộ của cử tri.
Hiện nay có nhiều quan điểm lý giải nguyên nhân ra đời các chính đảng.
Thứ nhất, theo lý thuyết thể chế, đảng hình thành xuất phát từ những yếu
tố của thể chế dân chủ. Trong thể chế dân chủ, quyền lực thuộc về đa số được
ủy quyền thông qua bầu cử. Muốn đạt được đa số này, các lực lượng chính trị
phải tập hợp thành một tổ chức, tạo sức mạnh và công luận để thuyết phục dân
chúng để giành đa số trong bầu cử.
Thứ hai, theo lý thuyết về hoàn cảnh lịch sử, Đảng chính trị ra đời trong
những hoàn cảnh mâu thuẫn chính trị - xã hội trở nên gay gắt, cần có những tổ
chức chính trị lãnh đạo, dẫn dắt cuộc đấu tranh đó.
Thứ ba, theo lý thuyết phát triển, xã hội phát triển đến một giai đoạn nào
đó sẽ đòi hỏi phải đổi mới. Trong thời kì đó, có rất nhiều quan điểm đối lập,
giữa yêu cầu phá bỏ cái cũ, cái lạc hậu với yêu cầu hình thành những quan điểm
mới thay thế là điều kiện thuận lợi cho một số đảng ra đời.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác: sự ra đời các Đảng chính trị xuất phát từ 2
tiền đề:
1) Sự tồn tại chế độ tư hữu là nguyên nhân kinh tế, khách quan dẫn đến
giai cấp và đấu tranh giai cấp.
2) Sự trưởng thành của giai cấp phải đến một trình độ tự giác cao (tính tự
giác, tính tập trung và tính kỷ luật).
6
Từ thực tiễn phong trào công nhân quốc tế cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
và lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười Nga, V.I.Lênin đã bổ sung, phát triển sáng
tạo tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về tính tất yếu phải xây dựng chính
đảng của giai cấp vô sản. Qua đó nâng tầm cao tư tưởng ấy thành học thuyết
khoa học, cách mạng về xây dựng Đảng Mácxít kiểu mới của giai cấp công
nhân với tính cách là một đảng cầm quyền lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo V.I.Lênin, tính tất yếu khách quan
phải xây dựng và củng cố vững chắc vị thế, vai trò lãnh đạo của Đảng Mácxít
kiểu mới của giai cấp công nhân là điều kiện tiên quyết, cơ bản, hàng đầu, nhân
tố quyết định sự thành công của sự nghiệp đấu tranh cách mạng, thực hiện khát
vọng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng
con người.
Học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản chỉ ra rằng: Giai cấp vô sản
muốn làm cách mạng phải thành lập được chính đảng độc lập của mình. Đảng
đó phải là đội tiền phong của giai cấp vô sản, có nền tảng tư tưởng và lý luận
cách mạng; đề ra cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn; đề ra nguyên tắc tổ
chức và hoạt động khoa học; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên, xây dựng
tổ chức cơ sở đảng; xây dựng thể chế và tác phong lãnh đạo của Đảng; xây
dựng năng lực cầm quyền để tranh đấu giành chính quyền về tay giai cấp.
1.2 Chức năng của Đảng chính trị
Các Đảng chính trị trong các xã hội dân chủ thực hiện các chức năng
căn bản sau:
Thứ nhất, kết nối và biểu đạt lợi ích, nhu cầu của người dân. Một Đảng
chính trị muốn duy trì sự tồn tại và thu hút được sự ủng hộ của cử tri phải đại
diện cho lợi ích của các tầng lớp, nhóm cử tri nhất định trong xã hội. Muốn vậy,
đảng phải nhận biết và kết nối các nhu cầu của người dân, các nhóm cử tri thành
lợi ích chung và biểu đạt, phản ánh được lợi ích đó trong đường lối, chính sách,
cương lĩnh tranh cử của đảng. Nói cách khác, đảng phải chuyển nguyện vọng
của một nhóm, của một đảng thành ý chí chung, ý chí xã hội.
Thứ hai, đường dẫn cho sự ảnh hưởng đến chính quyền, chuyển các
nguyện vọng, lợi ích của giai cấp mà nó đại diện đến các trung tâm quyền lực.
Đảng chính trị là một cầu nối, trung gian giữa cử tri, người dân với nhà nước,
7
kênh chuyển tải các kiến, nguyện vọng, lợi ích của cử tri, các nhóm lợi ích, các
tổ chức chính trị xã hội đến cơ quan lập pháp thông qua tiếng nói của các nghị
sĩ của đảng hoặc tới hành pháp nếu là đảng cầm quyền. Thực hiện được chức
năng này là do Đảng chính trị còn có khả năng gây ảnh hưởng sâu rộng đến tổ
chức và hoạt động, các mối quan hệ của các tổ chức công quyền.
Thứ ba, chức năng thông tin, giáo dục: Đảng chính trị thông qua các hoạt
động của mình đã cung cấp thông tin, tri thức cho cử tri và xã hội về các
vấn đề của đời sống chính trị, thông qua đó nâng cao sự hiểu biết và nhận thức
của công chúng về các vấn đề chính trị cũng như hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị.
Thư tư, Đảng chính trị huy động, lôi kéo sự tham gia của người dân vào
đời sống chính trị. Thông qua các phong trào và hoạt động, Đảng chính trị luôn
đóng vai trò là người vận động, thuyết phục cử tri, người dân tham gia vào đời
sống chính trị, ủng hộ đường lối, mục tiêu chính sách của đảng.
Thứ năm, Đảng chính trị tuyển chọn, đào tạo và cung cấp nguồn nhân sự
cho các vị trí của cơ quan công quyền. Các Đảng chính trị muốn trở thành một
đảng mạnh, có thể thắng cử để giành được các vị trí công quyền đều phải có khả
năng tập hợp, thu hút, tuyển lựa những người tài giỏi trong xã hội vào đảng của
mình. Các đảng viên được đào tạo, thử thách thông qua các hoạt động và các vị
trí quan trọng của tổ chức đảng, từ đó họ có thể được lựa chọn để trở thành ứng
cử viên của đảng cạnh tranh vào các vị trí quyền lực quan trọng của nhà nước.
Thứ sáu, Đảng chính trị hoạch định chính sách quốc gia. Khi thắng cử và
trở thành đảng cầm quyền, Đảng chính trị là chủ thể chính thức hoạch định
chính sách quốc gia. Các Đảng chính trị ở vị trí là đảng đối lập tham gia vào
quá trình hoạch định chính sách quốc gia với tư cách là chủ thể kiềm chế, phản
biện đối với chính sách của đảng cầm quyền.
8

CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


TRONG TIẾN TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG
DÂN TỘC VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

2.1 Quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đầu thế kỷ XX, thế giới có những chuyển biến quan trọng khi chủ nghĩa tư
bản đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Sự cạnh tranh giành giật thuộc
địa là nguyên nhân cơ bản dẫn tới cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-
1918). Do đó, chống chủ nghĩa đề quốc, giành độc lập cho các dân tộc thuộc địa
trở thành nội dung lớn trong phong trào cách mạng thế giới, là một vấn đề có
tính thời đại. Điều đó đã được nêu ra trong khẩu hiệu chiến lược “Vô sản tất cả
các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
Cách mạng tháng Mười Nga (7-11-1917) thắng lợi đã làm biến đổi sâu sắc
tính hình thế giới. Cuộc cách mạng đó đã chặt đứt khâu yếu nhất trong hệ thống
đế quốc chủ nghĩa và cả hệ thống thuộc địa, mở ra thời đại mới trong lịch sử
loài người, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn thế giới. Cách mạng tháng Mười không chỉ ảnh hưởng và tác động sâu
sắc đến phong trào cách mạng vô sản diễn ra ở các nước tư bản mà còn lan tỏa
sâu rộng đến các nước thuộc địa, cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên
đấu tranh tự giải phóng mình, vì độc lập tự do của dân tộc.
Cũng vào thời kì cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam đang
đứng trước những thách thức nặng nề. Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược
nước ta. Với những chính sách bóc lột tàn bạo, vơ vét thống trị về chính trị,
kinh tế, văn hóa làm cho Việt Nam ngày càng kiệt quệ. Trong bối cảnh đó, giai
cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển. Số lượng ngày càng tăng nhanh
trong những năm Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai. Đến cuối
năm 1922, số lượng công nhân Việt Nam khoảng 22 vạn người.
Trước thách thức lịch sử đặt ra là giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, nhiều lực lượng, tổ
chức theo các ý thức hệ khác nhau đã đứng lên cứu nước, giải phóng dân tộc
nhưng cuối cùng đều thất bại. Tiêu biểu như phong trào chống Pháp theo ý thức
hệ phong kiến kết thúc bằng cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại.
9
Phong trào yêu nước đấu tranh theo tư tưởng dân chủ tư sản của Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh cũng không dành được kết quả. Cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc của nhân dân ta lâm vào khủng hoảng về đường lối sâu sắc. Thất bại đó đặt
ra nhu cầu tất yếu phải có một chính đảng đủ năng lực hoạch định đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, có khả năng và uy tín tập hợp lực
lượng dân tộc và đoàn kết quốc tế, thì mới gánh vác được trọng trách lãnh đạo
cách mạng.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận động, tổ chức giai cấp công nhân thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài
thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời ngày 3-2-1930 đã đáp ứng nhu cầu lịch sử, khắc phục được
những sai lầm, thiếu sót của các phong trào yêu nước trước đó.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó
cũng là kết quả của sự phát triển cao và thống nhất của phong trào công nhân và
phong trào yêu nước. Đảng Cộng sản Việt Nam bước lên vũ đài chính trị, nắm
lấy sứ mệnh lãnh đạo dân tộc, lôi cuốn không ít nhà yêu nước tiến bộ từ bỏ lập
trường giai cấp của mình và tự nguyện chuyển sang lập trường giai cấp công
nhân, phấn đấu đứng vào hàng ngũ của Đảng sau khi được giáo dục, giác ngộ lý
tưởng cách mạng của Đảng. Các lực lượng chính trị khác hoặc nhụt chí, hoặc
thoái hóa, thậm chí đi ngược lại lợi ích quốc gia - dân tộc, thỏa hiệp và đầu
hàng thực dân đế quốc, không những mất dần uy tín chính trị, mà còn bị nhân
dân xa lánh; chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đủ
năng lực và phẩm chất để lãnh đạo, được nhân dân tuyệt đối tin tưởng và đi
theo làm cách mạng tự giải phóng. Từ khi ra đời đến nay, năng lực lãnh đạo và
uy tín của Đảng đã được khẳng định trong suốt tiến trình cách mạng. Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời khẳng định giai cấp công nhân và đảng tiên phong
của nó đứng ở vị trí trung tâm và giữ vai trò lãnh đạo cách mạng. Điều đó quyết
định nội dung, xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam giành độc lập dân tộc
đi tới chủ nghĩa xã hội.
10
2.2 Quá trình lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh giành độc lập dân tộc
và xây dựng Chủ nghĩa xã hội
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã xác định được quyền lãnh đạo đối
với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Có được điều đó là nhờ Đảng ta đề ra
được đường lối chính trị đúng đắn với những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 đã khẳng định con
đường cứu nước chân chính và gắn liền giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp và xã hội, gắn liền mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Từ định
hướng chiến lược đó, một Đảng mới 15 năm tuổi, chỉ với khoảng 5 nghìn đảng
viên, đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, “phá
tan gông xiềng nô lệ hơn 80 năm của chế độ thực dân, xóa bỏ chế độ phong
kiến kéo dài hàng nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một thời đại mới rực rỡ
nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc”.
Cách mạng tháng Tám thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân, nhưng
đứng trước sự chống phá điên cuồng của thù trong, giặc ngoài, Đảng phải ra
tuyên bố “Tự ý giải tán” (11-11-1945), thực chất là rút vào hoạt động bí mật.
Trong điều kiện không thể hoạt động công khai, việc giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước càng có ý nghĩa quan trọng, nhất là thể chế hóa
đường lối của Đảng thành Hiến pháp năm 1946, phát huy vai trò, uy tín của
lãnh tụ Hồ Chí Minh trên cương vị Chủ tịch nước, đề cao tính tiền phong,
gương mẫu, uy tín của những người cộng sản trong bộ máy nhà nước. Vai trò
lãnh đạo của Đảng đã được khẳng định bằng uy tín, sự hy sinh của biết bao
đảng viên trong nhà tù đế quốc thực dân; bằng bản lĩnh và trí tuệ, dám đối mặt
và giải quyết có hiệu quả những thách thức đe dọa sự tồn vong của quốc gia -
dân tộc; bằng sự sát hạch trong Chính phủ liên hiệp nhiều đảng phái với lý luận
sắc bén, cơ sở thực tiễn thuyết phục. Thực tế đó khiến cho không chỉ những
người không đảng phái bị thuyết phục, chấp nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, mà
kể cả các lực lượng chính trị đối lập (Việt quốc, Việt cách) cũng không dám
công khai chống phá những đường lối, chủ trương của Đảng hợp lòng dân, vì
lợi ích quốc gia - dân tộc.
11
Bước vào thời kì kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, khi các lực lượng
chống cộng chạy theo làm tay sai cho ngoại bang, bán nước cầu vinh, các lực
lượng chính trị khác dù có tinh thần dân tộc nhưng thiếu năng lực và uy tín, bị
đào thải tự nhiên, thì Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định bản lĩnh, trí
tuệ, năng lực, phẩm chất, uy tín để lãnh đạo dân tộc, lãnh đạo nhân dân. Vai trò
lãnh đạo của Đảng tiếp tục được nhân dân thừa nhận, tin tưởng tuyệt đối và tự
nguyện đứng dưới ngọn cờ của Đảng; được khẳng định bằng đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo; bằng sự dấn thân, hy sinh của
những người đảng viên cộng sản trên những mặt trận gian khổ nhất; bằng thực
tiễn cuộc đấu tranh cách mạng sinh tử mà không lực lượng chính trị nào có thể
thay thế được; bằng sự dũng cảm thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm trước
nhân dân để không ngừng hoàn thiện và lãnh đạo cách mạng tiến lên. Thắng lợi
của hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây
Nam, bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc là những bằng chứng thực tiễn
sinh động khẳng định năng lực, tố chất của Đảng trong lãnh đạo cách mạng.
Trong điều kiện chiến tranh, mặc dù Đảng trực tiếp lãnh đạo nhiều mặt, nhưng
luôn coi trọng phát huy vai trò, sức mạnh của Nhà nước để tổ chức phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, mở rộng quan
hệ đối ngoại; xây dựng hậu phương lớn ở miền Bắc và điều hành trực tiếp cuộc
kháng chiến trên chiến trường miền Nam; phát huy sức mạnh trong nước và sức
mạnh quốc tế; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao.
Bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước sau ngày
đất nước thống nhất, sự lãnh đạo của Đảng đã được thể chế hóa trong các bản
hiến pháp. Khi đứng trước những sai lầm, khuyết điểm do bệnh chủ quan, duy ý
chí, Đảng đã dũng cảm “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” và khởi xướng
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đường lối đổi mới toàn diện đất nước
của Đảng đã đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, phù hợp
với xu thế thời đại, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có vai trò
cực kỳ quan trọng để bảo vệ, phát huy quyền con người, quyền công dân, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới. Lãnh đạo thông qua Nhà
nước trở thành phương thức quan trọng hàng đầu, khẳng định địa vị cầm quyền
12
của Đảng khi quyền lực chính trị được chính đáng hóa trong quyền lực công,
đường lối của Đảng được thể chế hóa, nguồn lực và sức mạnh của Nhà nước
được sử dụng để phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn đấu tranh cách mạng và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Khi nắm chính quyền, Đảng càng có điều kiện sử dụng sức mạnh Nhà nước để
đấu tranh với các thế lực đi ngược lại lợi ích dân tộc, lợi ích nhân dân, hiện thực
hóa mục tiêu, lý tưởng tốt đẹp của mình. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội đã được thực tiễn đất nước khẳng định, phù hợp với nguyện
vọng, ý chí của nhân dân và được hiến định. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước
ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một nước độc lập, tự do,
phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở
thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta từ một nền kinh tế
nghèo nàn, lạc hậu đã thoát khỏi tình trạng chậm phát triển, bước vào hàng ngũ
các quốc gia có thu nhập trung bình, vị thế ngày càng cao trong khu vực và trên
thế giới. Chưa bao giờ dân tộc ta có được cơ đồ, vị thế, tiềm lực và uy tín như
ngày nay.
2.3 Thực trạng những hạn chế trong phương thức lãnh đạo của Đảng
Trong điều kiện một Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cả
nước thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế, hội nhập với thế giới,
lại mới kết thúc chiến tranh chưa lâu, lý luận và nhận thức về phương thức lãnh
đạo của Lý luận về đảng cầm quyền, về phương thức lãnh đạo của Đảng trong
thời kì mới với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi
mới và hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều vấn đề mới mẻ, chưa có kinh nghiệm
thực tiễn trong nước và ngay cả trên thế giới, đòi hỏi phải tìm tòi, vừa làm vừa
rút kinh nghiệm nên có những vấn đề chưa được làm rõ, nhận thức còn khác
nhau. Nhận định về quy trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Nghị
quyết Trung ương 5 (khoá X) nhấn mạnh: ”Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị mà trọng tâm là đối với Nhà nước còn chậm và
lúng túng”. Việc nghiên cứu, ban hành, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách,
13
pháp luật để thích ứng với quá trình vận hành của nền kính tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời, chưa đầy đủ, đồng bộ giữa các quy chế,
quy định của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật.
Quan điểm, nhận thức về phương thức lãnh đạo để chuyển từ nghị quyết,
chỉ thị, kết luận của Đảng thành quyết định quản lý, điều hành của các cơ quan
nhà nước tương ứng còn lúng túng. Trong một số trường hợp chưa phân định rõ
quyền lãnh đạo của Đảng với quyền quản lý, điều hành của các cơ quan nhà
nước. Do việc phân định không rõ ràng, có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn còn
chồng chéo, trùng nhau dẫn đến trường hợp tổ chức đảng bao biện, làm thay
hoặc dễ bị buông lỏng sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động của các cơ quan
quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, cũng có tình trạng cơ quan nhà nước vì sợ trách
nhiệm và để “an toàn” nên đùn đẩy trách nhiệm cho cấp ủy đảng, người đứng
đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, hoặc có khi cũng xác định được thẩm quyền, trách
nhiệm của mình nhưng vẫn “báo cáo, xin ý kiến lãnh đạo, chỉ đạo” của cấp uỷ,
tổ chức đảng để bảo đảm “chắc chắn” và “an toàn”.
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều
nơi chưa được làm đầy đủ, tới nơi tới chốn, sức thuyết phục kém nên không đủ
sức động viên đảng viên và nhân dân; một số tổ chức đảng tổ chức học tập,
quán triệt, nhất là việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng
trong hoạt động thực tiễn của cấp ủy, tổ chức đảng chất lượng, hiệu quả còn
chưa đạt yêu cầu, thậm chí có nơi làm còn hình thức.
Chất lượng hoạt động của tổ chức đảng còn nhiều bất cập: Có nơi thực
hiện không đầy đủ, méo mó hoặc làm chiếu lệ những nguyên tắc tổ chức, sinh
hoạt cơ bản của Đảng như nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê
bình, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Chế độ sinh hoạt còn nặng tính hình
thức, bệnh thành tích còn khá phổ biến dẫn tới che giấu khuyết điểm, còn có
hiện tượng xuê xoa, cả nể trong đấu tranh phê bình. Một số tổ chức đảng có
trọng trách, thẩm quyền thiếu quan tâm sâu sát, chưa thường xuyên, tiến hành
kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên do
mình quản lý nhằm giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng nên không chủ động
phát hiện được các vụ việc tiêu cực, bê bối, nhất là tham nhũng liên quan trực
tiếp tới cán bộ đảng viên để ngăn chặn, chấn chỉnh hoặc xử lý kịp thời, lại do
14
quần chúng tố giác, báo chí và dư luận xã hội phê phán làm suy giảm uy tín của
tổ chức đảng.
Bên cạnh những cán bộ, đảng viên phát huy tốt vai trò tiền phong gương
mẫu của mình thì còn có một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách
nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân; thiếu trách nhiệm trong việc tổ
chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị,
quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ
cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ. Do
suy thoái về chính trị, tư tưởng dẫn đến suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối
sống, rơi vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cực đoan, cơ hội, vụ lợi, thực dụng; dĩ
hòa, vi quý, nói dựa, lấy lòng nhau; tư duy nhiệm kỳ, bệnh thành tích; bè phái,
cục bộ, lợi ích nhóm, mất đoàn kết; tham nhũng, lãng phí; phong cách quan liêu,
lối sống xa hoa, hưởng lạc; có hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ,
chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng; tùy tiện vô nguyên tắc,
vô kỷ luật; xa dân, vô cảm trước sự khó khăn, bức xúc của dân; thiếu gương
mẫu trong việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, quy định của cơ quan, đơn vị và đời sống sinh hoạt hằng ngày.
Những hạn chế trong nội bộ Đảng đòi hỏi phải có những biện pháp để
nâng cao giải pháp năng lực lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay để đáp
ứng với yêu cầu của thời kì đấy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
15

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO


CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1 Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị


Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênnin Đảng cầm quyền mà không có lý
luận dẫn đường thì cách mạng sẽ không có “phong trào vận động” và đảng sẽ
không thể làm nổi “trách nhiệm cách mạng tiền phong”. Từ rất sớm, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rất rõ điều đó. Văn kiện Đại hội Đảng lần
thứ XII nêu rõ: “Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không
ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên định đường lối đổi mới
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực hiện
nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng”. Từ đó tiếp tục nâng
cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng; giữ vững bản chất giai
cấp công nhân của Đảng. Tiếp tục nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ,
tính chiến đấu của toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt các cấp mà đặc biệt là cấp chiến lược.
Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên nhất là
người đứng đầu. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống có hiệu quả chủ nghĩa cơ
hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ, bè phái những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”.
Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác hoạch định đường lối, chủ trương
của Đảng đáp ứng yêu cầu của đất nước trong tình hình mới. Coi trọng nâng cao
năng lực dự báo và ứng phó với các thách thức, diễn biến rất nhanh, khó lường
của tình hình. Khi hoạch định đường lối, chủ trương, giải pháp phải bám sát và
xuất phát từ thực tiễn, đánh giá tác động, cân đối, bố trí nguồn lực và tổ chức
thực hiện có hiệu quả. Nâng cao năng lực thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức
thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng; kiên quyết khắc phục những
yếu kém, trì trệ, tình trạng né tránh trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, điều
hành và tổ chức thực hiện chủ trương, nghị quyết; kiểm tra, giám sát chặt chẽ,
xác định rõ trách nhiệm tập thể và cá nhân.
16
3.2 Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng
Đây là một trong những giải pháp vừa cấp bách vừa lâu dài. Để tăng cường
năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản hơn hết cần coi trọng công tác tư tưởng.
Công tác tư tưởng phải kết hợp giữa „xây” và “chống” lấy “xây” là nhiệm vụ cơ
bản, chiến lược, lâu dài. Tăng cường giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang
của Đảng, tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước gắn với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước
nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong Đảng và
nhân dân. Đổi mới và phát triển đồng bộ việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức phong cánh Hồ Chí Minh, gắn với đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ.
Dự báo sát, chủ động nắm bắt tình hình tư tưởng, kịp thời xử lý thông tin.
Định hướng dư luận xã hội bảo đảm sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng
thuận trong xã hội. Tăng cường bảo vệ nèn tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết
và thường xuyên đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chủ động
cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định ướng để phòng
chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu, độc trên internet và mạng xã hội.
Tăng cường quản lý và định hướng hoạt động của các cơ quan báo chí; tập
trung đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí, phóng viên có bản lĩnh
chính trị.
Nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Tổng kết thực tiễn 40
năm đổi mới để bổ sung, phát triển lý luận của Đảng. Tiếp tục bổ sung, phát
triển hệ thống các quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Đổi mới căn bản nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận
chính trị theo hưỡng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn với lý luận thực tiễn;
đưa việc bồi dưỡng lý luận chính trị cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp đi vào nề nếp, nâng cao
chất lượng, hiệu quả và phù hợp với từng đối tượng.
17
3.3 Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức
Kế thừa các nội dung xây dựng Đảng về đạo đức để góp phần nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng. Đại hội XIII tiếp tục xác định: “Kiên quyết, kiên
trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XII về xây dựng Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh bằng các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ để
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Thực hiện
nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đễn chi bộ , cấp ủy cấp trên chủ
động gợi ý kiểm điểm đối với tập thể, cá nhận ở những nơi có vấn đề phức tạp, có
biểu hiện suy thoái, coi trọng kiểm tra việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm”.
Tập trung coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng. Đại hội XIII xác định:
“Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần
Đảng ta là đạo đức, là văn minh cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Xây dựng chuẩn mực đạo đức làm cơ sở cho cán bộ,
đảng viên tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hàng ngày. Đẩy mạnh
giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận,
trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước khó khăn, thách thức và không bị
cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và
thực hành đạo đức cách mạng. Coi trọng đấu tranh phê phán, biểu dương gương
sáng về đạo đức của cán bộ, đảng viên, vừa là một phương thức lãnh đạo của Đảng”.
Coi trọng đấu tranh phê phán, biểu dương gương sáng về đạo đức. Đại hội
XIII xác định: “Tăng cường đấu tranh chống các quan điểm, hành vi phản đạo
đức, phi đạo đức. Cổ vũ, biểu dương gương sáng đạo đức, tạo ảnh hưởng sâu
rộng trong Đảng và ngoài xã hội”.
3.4 Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện
tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị
Đại hội XIII kế thừa thành quả của các Đại hội trước, tiếp tục xác định:
“Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Cần tập trung hoàn thiện mô hình tổ
chức của hệ thống chính trị. Tổng kết các mô hình thí điểm về tổ chức bộ máy
của Đảng và hệ thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo và những bất hợp lý
trong tổ chức của Đảng và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Đẩy mạnh
18
sắp xếp theo hướng tinh gọn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động các đơn
vị sự nghiệp công lập và xã hội hóa các dịch vụ công ở những nơi có đủ điều
kiện. Hoàn thiện thể chế, bảo đảm đồng bộ, liên thông giữa pháp luật của Nhà
nước với quy định của Đảng về tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị.
Đánh giá, hoàn thiện mô hình tổ chức đảng theo ngành, lĩnh vực và những nơi
có đặc điểm riêng. Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện,
cấp xã và nghiên cứu triển khai thực hiện ở cấp tỉnh, thành phố phù hợp với quy
hoạch tổng thể các đơn vị hành chính các cấp, đồng thời sắp xếp tổ chức bộ
máy các cơ quan, đơn vị ở Trung ương theo lộ trình.
Đẩy mạnh thực hiện tinh giảm biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức theo vị rí việc làm. Nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế lựa
chọn, đánh giá, sàng lọc để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức. Làm tốt công tác tư tưởng; giải quyết kịp thời chế độ, chính sách đối
với các trường hợp do ảnh hưởng trong quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh
giản biên chế.
3.5 Củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên
Kiện toàn tổ chức cơ sở đảng phù hợp với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị; nâng cao chất lượng hoạt động, bảo đảm sự lãnh
đạo toàn diện của Đảng ở cơ sở, nhất là ở xã, phường, thị trấn. Rà soát, bổ sung,
sửa đổi, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của một số loại
hình tổ chức cơ sở đảng; thực hiện nghiêm quy chế làm việc của cấp ủy cơ sở.
Nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác
đảng cho đội ngũ cấp ủy viên cơ sở, nhất là bí thư cấp ủy. Thực hiện chủ trương bí
thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân; bí thư cấp ủy đồng thời là chủ
tịch ủy ban nhân dân ở những nơi đủ điều kiện; bí thư chi bộ đồng thời là trưởng
thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; tăng cường kiểm
tra, giám sát, kịp thời xử lý các chi bộ, đảng viên vi phạm quy định, nguyên tắc
sinh hoạt đảng. Nghiên cứu, hướng dẫn thực hiện thí điểm việc tổ chức sinh
hoạt đảng theo tổ đảng ở những chi bộ đông đảng viên. Thực hiện nghiêm túc,
hiệu quả tự phê bình và phê bình, đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức Đảng,
đảng viên hàng năm.
19
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng,
nhân sinh quan cách mạng cho đảng viên. Năng cao chất lượng kết nạp đảng
viên, chú trọng phát hiện, bồi dưỡng kết nạp vào Đảng những đoàn viên ưu tú,
trưởng thành trong lao động, học tập, trong lực lượng vũ trang; quan tâm phát
triển đảng viên là công nhân, trí thức, doanh nhân để tạo nguồn cán bộ cho hệ
thống chính trị các cấp. Đẩy mạnh phát triển vè số lượng, nâng cao chất lượng
đảng viên ở miền núi, biện giới, hải đảo theo phương châm “ở đâu có dân thì ở
đó có đảng viên”. Tăng cường công tác, giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên;
thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên không còn đủ
tư cách ra khỏi Đảng. Thường xuyên rà soát, đơn giản hóa quy trình, thủ tục và
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đảng viên.
3.6 Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược
và người đứng đầu
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ
phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm sự chuyển tiếp
liên tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ,
sự gương mẫu, tinh thần vì nhân dân phục vụ của cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu các cấp. Coi trọng đánh giá chất lượng,
hiệu quả, sản phẩm thực tế theo chức trách, nhiệm vụ được giao và đề cao trách
nhiệm người đúng đầu. Chú trọng cơ cấu hợp lý, sớm phát hiện, đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ trẻ, nữ, người dân tộc thiểu số ở các cấp, nhất là cấp cơ sở.
Giữ vững kỷ luật, kỷ cương trong thực thi công vụ; đồng thời, có cơ chế
khuyến khích, bảo vệ những cán bộ, đảng viên dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm, dám đương đầu với những khó khăn, thử thách, quyết liệt trong
hành động vì lợi ích chung.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo công tác cán bộ, cải cách thủ tục
hành chính và đẩy mạnh phân cấp, phân quyền về công tác cán bộ. Kiểm soát
chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của công tác cán bộ, nhất là đối với người
đứng đầu cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân. Giữ vững kỷ luật, kỷ
cương, tăng cường kiểm tra, giám sát, chống chạy chức, chạy quyền. Không để
lọt những người không xứng đáng, không đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện, có
biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
20
quản lý các cấp, nhưng cũng ko để sót những cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,
nhưng cũng không đế sót những cán bộ thực sự có đức, có tài. Kiên quyết đấu
tranh với những biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ. Xử lý nghiêm, đồng
bộ giữa kỷ luật của Đảng với kỷ luật của Nhà nước và xử lý bằng pháp luật đối
với cán bộ vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.
Đổi mới mạnh mẽ cơ chế phát hiện, lựa chọn, thu hút, trọng dụng nhân tài
và cơ chế đánh giá cán bộ. Mở rộng việc thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp
vụ, sở, phòng trong hệ thống chính trị. Thí điểm chủ trương người đứng đầu
lựa chọn, giới thiệu với cấp có thẩm quyền để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của
mình; bí thư cấp ủy giới thiệu để bầu ủy viên ban thường vụ và chịu trách
nhiệm về việc giới thiệu; giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm, miễn nhiệm
đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về quyết định đó.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán bộ phấn đấu,
toàn tâm, toàn ý với công việc. Xây dựng và thực hiện có hiệu quả Chiến lược
quốc gia về thu hút, trọng dụng nhân tài; chương trình quốc gia về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ.
Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ; nắm chắc lịch sử chính trị và
chú trọng vấn đề chính trị hiện nay. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh có hiệu
quả với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần
tử cơ hội, bất mãn chính trị. Bảo vệ cương lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, chủ
trương, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo vệ Hiếp pháp và pháp
luật; bảo vệ cán bộ, đảng viên về mặt chính trị, bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc.
Kiến quyết đấu tranh xử lý nghiêm những động cơ sai trái, tư tưởng cục bộ, bè
phái, “lợi ích nhóm”, lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, internet,
mạng xã hội…để xuyên tạc, kích động, gây mất đoàn kết nội bộ.
Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng Đảng “đoàn kết,
trung thành, trung thực, trong sáng, gương mẫu, tinh thông, chuyên nghiệp”,
nhất là cán bộ tham mưu cấp chiến lược, chuyên gia đầu ngành đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ của thời kỳ phát triển mới. Chú trọng lựa chọn và bố trí đúng người
đứng đầu cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy các cấp. Đẩy mạnh và nâng cao
chất lượng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học, tạo bước phát triển mới lý
luận về công tác xây dựng Đảng.
21
3.7 Đổi mới mạnh mẽ nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật đảng
Tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và quyết
tâm chính trị của toàn Đảng đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Xây dựng và hoàn thiện quy định, quy chế, quy trình nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ
cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Cải tiến, đổi mới phương pháp, kỹ năng, quy trình công tác kiểm tra, giám sát,
kỷ lật đảng, bảo đảm khách quan, dân chủ, đồng bộ, thống nhất, chặt chẽ, khả
thi. Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt
ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra tiêu cực, nơi người dân có
nhiều bức xúc, dư luận xã hội quan tâm; xử lý kịp thời, kiên quyết, nghiêm
minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Kết hợp kiểm tra, giám sát thường
xuyên với kiểm tra, giám sát theo chuyên đề, kiểm tra đột xuất và kiểm tra dấu
hiệu vi phạm; coi trọng tự kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, tổ chức Đảng.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu, giúp việc
cấp ủy trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các chủ trương,
nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng.
Nâng cao khả năng dự báo về những hành vi vi phạm của tổ chức đảng,
đảng viên trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng và sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ để đề ra các chủ
trương, biện pháp phát hiện, phòng ngừa ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm từ xa,
từ sớm. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của cấp ủy, ủy ban
kiểm tra các cấp, coi trọng giám sát theo chuyên đề. Chủ động nắm bắt tình
hình hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý và người đứng đầu các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị
để ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ
thành sai phạm lớn. Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng cấp trên đối
với cấp dưới.
Kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng đối với thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của
những cơ quan bảo vệ pháp luật. Tăng cường sự phối hợp giám sát của Đảng
với giám sát của Nhà nước và của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
22
hội để phát huy sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực giám sát, tránh chồng
chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực.
3.8 Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân,
dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy
đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận. Tăng cường đổi mới, nâng cao
hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan Đảng, Nhà nước và cả hệ thống
chính trị; phát huy vai trò của Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới
Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu
dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”; thực hiện tốt phong trào
thi đua “dân vận khéo”. Tăng cường phối hợp, thực hiện quy chế công tác dân
vận của hệ thống chính trị; hoàn thiện cơ chế và nâng cao hiệu quả phối hợp
giữa chính quyền, các cơ quan, tổ chức với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội các cấp.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan
Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp. Chú trọng công tác dân vận đối với
đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài.
Chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác dân vận.
Nâng cao chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội, đóng góp ý kiến của
Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân, đa dạng hóa các
hình thức tổ chức và phương thức tập hợp, vận động, nắm bắt kịp thời tâm tư,
nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp Nhân dân, phù hợp với
biến đổi cơ cấu xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về công tác dân vận.
Tiếp tục cụ thể hóa phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân
thụ hưởng; lãnh đạo thể chế hóa Hiến Pháp về quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân nhằm phát huy cao nhất quyền làm chủ của Nhân dân trong quá trình
xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Nghiên cứu, ban hành cơ chế để Nhân
dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ. Tích cực đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực
hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận.
23
Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động Nhân dân thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của Nhà nước, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và
trách nhiệm của công dân, đồng thời chống các biểu hiện dân chủ cực đoan, dân
chủ hình thức, mị dân. Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân và quan tâm
chăm lo đời sống của Nhân dân. Thực hiện nghiêm, có hiệu quả các quy định về
dân chủ ở cơ sở; công tác tiếp dân đối thoại với Nhân dân, giải quyết những
kiến nghị hợp pháp, chính đáng của Nhân dân và xử lý kịp thời, dứt điểm các
vấn đề bức xúc liên quan đến đời sống Nhân dân, các vụ khiếu kiện đông người,
vượt cấp kéo dài, không để hình thành các điểm nóng về an ninh, trật tự xã hội.
3.9 Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí với
quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn. Kết hợp
chặt chẽ giữa tích cực phòng với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp
thời, không có vùng cấm, không có ngoại lệ những hành vi tham nhũng, lãng
phí và bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, lãng phí. Phát huy sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nhân dân; thực hiện đồng bộ
các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, hành chính, kinh tế, hình sự trong đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Coi phòng, chống tham nhũng, lãng
phí là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự
thống nhất cao về ý chí và hành động trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí của cán bộ, đảng viên và nhân dân, trước hết là sự gương mẫu, quyết
liệt của người đứng đầu cấp ủy, địa phương, cơ quan, đơn vị. Kiên trì giáo dục,
rèn luyện cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức về đức tính liêm khiết, xây
dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng, lãng phí.
Khẩn trương xây dựng, hoàn thiện và kịp thời khắc phục những bất cập
trong các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước vừa quản lý kinh tế - xã
hội và phòng, chống tham nhũng, lãng phí; nhất là các quy định về kiểm soát,
quyền lực, trách nhiệm giải trình đảm bảo dân chủ công khai, minh bạch. Quy
24
định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong kiểm tra, phát hiện, xử lý tham
nhũng, lãng phí và bảo vệ người tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí; xử lý nghiêm những người lợi dụng chống tham nhũng để vu khống,
gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ. Kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập
của người có chức vụ, quyền hạn; đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt; từ
đó hình thành cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để tiến tới không thể tham nhũng.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán; đẩy mạnh
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; phát hiện sớm, xử lý nghiêm minh các vụ
án, vụ việc tham nhũng, lãng phí; nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng.
Kịp thời xử lý, thay thế cán bộ lãnh đạo, quản lý khi có biểu hiện tham nhũng,
lãng phí. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lựuc hiệu quả hoạt
động của cácc cơ quan, đơn vị, chuyên trách có chức năng phòng, chống tham
nhũng. Phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động của thanh tra, kiêm toán nhà nước,
kiểm tra Đảng với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, phát hiện, xử lý tham
nhũng. Từng bước mở rộng hoạt động phòng, chống tham nhũng, lãng phí
ngoài khu vực nhà nước; tăng cường và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; phát
huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan đại biểu dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các
tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan truyền thông, báo chí và nhân dân trong đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Từ đó, nâng cao hiệu quả phát hiện,
xử lý tham nhũng, lãng phí, để không dám tham nhũng, lãng phí.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập và có
chính sách nhà ở, bảo đảm cuộc sống để cán bộ, công chức, viên chức yên tâm
công tác.
3.10 Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới
Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng nâng cao
năng lực dự báo, tầm nhìn chiến lược trong hoạch định đường lối, chủ trương;
đổi mới việc xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng các nghị quyết của
Đảng; khắc phục tình trạng ban hành nghị quyết chưa sát thực tiễn, thiếu tính
khả thi. Đồng thời, nâng cao năng lực thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, chủ
trương của Đảng và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả.
Lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ thể chế hóa và thực hiện có hiệu quả
Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng
cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Tiếp tục đổi mới
25
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội. Cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị; khắc phục tình trạng bao biện,
làm thay, hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng.
Các tổ chức đảng và đảng viên, nhất là tổ chức đảng, đảng viên hoạt động
trong các cơ quan nhà nước phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật,
nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu trong thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Quy định cụ thể quyền hạn, trách
nhiệm của người đứng đầu và mối quan hệ giữa tập thể cấp ủy, tổ chức đảng với
người đứng đầu, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát gắn với coi trọng việc sơ kết, tổng
kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng ở các cấp.
Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền; thể chế hóa, cụ thể hóa mối
quan hệ “ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Đổi mới công tác tuyên truyền, vận động theo hướng nâng cao tinh thần
giáo dục, thuyết phục, tính chiến đấu, tạo sự thống nhất trong Đảng và sự đồng
thuận trong nhân dân để thực hiện hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước. Phát huy vai trò Mặt trận tổ quốc và các tổ
chức chính trị-xã hội trong tuyên truyền, vận động, tập hợp sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành các văn bản cụ thể hóa và thực hiện
nghiêm các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết
là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức, cơ quan, đơn vị. Đổi mới mạnh mẽ phong
cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo
của Đảng từ Trung ương tới cơ ở. Đẩy mạnh cải cách hành chính; tập trung rà
soát hệ thống các văn bản của Đảng bảo đảm thống nhất, đồng bộ, liên thông
trong hệ thống chính trị; sửa đổi, bổ sung các văn bản có quy định chồng chéo,
mâu thuẫn và hủy bỏ những văn bản không còn phù hợp. Tăng cường ứng dụng
có hiệu quả công nghệ thông tin trong hoạt động của Đảng.
3.11 Xây dựng Đảng từ mỗi cán bộ, đảng viên
Mỗi cán bộ, đảng viên đặc biệt là cán bộ, đảng viên phát huy vai trò tiền
phong gương mẫu trên mọi lĩnh vực, tiền phong về chính trị tư tưởng, gương
mẫu trong đạo đức, lối sống, có trách nhiệm cao trong thực hiện nhiệm vụ chức
26
trách được giao. Tính gương mẫu của người cán bộ, đảng viên phải được thể
hiện ở mọi lúc, mọi nơi và trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. “Nó
không phải trên trời rơi xuống” mà phải do chính người cán bộ, đảng viên tự tu
dưỡng, rèn luyện thông qua quá trình phấn đấu không mệt mỏi mới có được.
Cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu và sự gương mẫu đó phải được thể
hiện cụ thể trong giải quyết các mối quan hệ xã hội: quan hệ hàng xóm láng
giềng, quan hệ đồng chí, đồng nghiệp; trong lao động sản xuất, công tác dù khó
khăn, gian khổ đến mấy cũng vượt qua. Vì vậy, để phát huy tính tiền phong
gương mẫu của cán bộ, đảng viên hiện nay đòi hỏi từng đảng viên phải thực
hiện tốt các nhiệm vụ cụ thể như sau:
Một là, mỗi cán bộ, đảng viên phải nắm rõ, nắm vững và nói, viết làm theo
chủ trương, đường lối, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng; chính sách, pháp luật của
Nhà nước; thực hiện tốt nội quy, quy định của cơ quan, đơn vị. Đảng viên phải
xung kích, đi đầu trong đảm nhận những công việc mới, công việc khó do tổ
chức giao cho.
Hai là, thường xuyên rèn luyện nâng cao trình độ chuyện môn, năng lực
công tác và nhận thức chính trị. Muốn nâng cao tính tiền phong, người đảng
viên phải có kiến thức chuyên môn cần thiết và nhận thức chính trị cơ bản.
Nhận thức chính trị giúp mỗi đảng viên hiểu rõ lý tưởng cộng sản, ý nghĩa
chính trị của từng việc làm cụ thể, để kiên định mục tiêu cách mạng, đi đầu
trong mỗi hành động.
Ba là, tự giác rèn luyện đạo đức, lối sống lành mạnh, nhất là đảng viên có
chức, có quyền. Để nâng cao tính tiền phong, người đảng viên phải có đạo đức
cách mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh. Đạo đức, lối sống trong sáng, lành
mạnh là phải thường xuyên rèn luyện lâu dài, kiên trì.
Bốn là, chủ động, tích cực, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ được
giao. Muốn nâng cao tính tiền phong, đảng viên phải là người lao động giỏi,
tận tâm, trung thực, sáng tạo với năng suất, chất lượng cao; kết hợp được
lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, xã hội; góp phần vào việc hoàn thành
nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Đảng viên có phong cách công tác
tốt, thái độ đúng đắn với nhân dân, thì vai trò tính tiền phong của đảng viên
mới được quần chúng thừa nhận.
27
Năm là, thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình với tinh thần
thẳng thắn, xây dựng, không “xuê xoa, dĩ hòa vi quý”. Người phê bình phải có
thái độ chân thành, người được phê bình phải thực sự cầu thị trong tiếp thu phê
bình để sửa chữa, tiến bộ.
Đối với đảng viên tham gia các tổ chức đoàn thể cần phải tích cực trong
các hoạt động chung tại cơ quan, đơn vị. Thường xuyên quan tâm, đề xuất các
giải pháp giúp các tổ chức đoàn thể hoạt động có hiệu quả, chất lượng; hướng
dẫn, hỗ trợ các quần chúng ưu tú phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nêu gương nói đi đôi với làm,
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đã nhận nhiệm vụ phải thực hiện và
cố gắng hoàn thành.
Mỗi đảng viên cần hiểu và nhận thức được rõ con đường phấn đấu phía
trước còn rất dài, thử thách còn đặt ra nhiều hơn nữa. Tuy nhiên, dù bất cứ
hoàn cảnh nào, đứng trước khó khăn nào người cộng sản luôn cần thực hiện
đúng mục tiêu lý tưởng của Đảng, lấy ngọn cờ Đảng làm mục tiêu, là ngọn
đuốc dẫn đường. Lấy tư cách người đảng viên vừa là quyền vừa là nghĩa vụ,
trách nhiệm để phấn đấu và nỗ lực thực hiện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ
được giao phó, góp phần xây dựng và phát triển đất nước thân yêu. Đặc biệt
là trong sư nghiệp xây dựng nông thôn mới tại nơi cư trú mỗi đảng viên
luôn nêu cao tinh thần tự giác, trách nhiệm trong công tác tuyên truyền, vận
động nhân dân và nêu gương đi đầu.
28
KẾT LUẬN

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò lãnh đạo Nhân dân đấu
tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là tất
yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu lịch sử của cách mạng. Thực tiễn đã khẳng
định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam xuyên suốt chiều dài lịch sử đất nước.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng xuất phát từ yêu cầu của dân tộc và thời
đại, thực tiễn công tác xây dựng Đảng ở nước ta, thường xuyên tổng kết, bổ
sung để phát triển lý luận, giải quyết tốt những vấn đề do thời đại đặt ra. Trong
giai đoạn hiện nay, Đảng ta là một Đảng Cộng sản cầm quyền, một mặt phải
chống lại các thế lực thù địch đang âm mưu “diễn biến hòa bình”, sử dụng chiêu
bài dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo, sử dụng chiêu bài đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập, hòng từng bước làm thay đổi chế độ chính trị nhằm từng
bước hạn chế, đi đến xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với hệ thống chính trị và Nhà nước ta. Quá trình mở cửa nền kinh tế và hội nhập
quốc tế kéo theo sự tác động lớn về mọi mặt. Đội ngũ cán bộ, đảng viên dễ bị
ảnh hưởng bởi cơ chế thị trường, nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, có thể dẫn tới tiếp tay
hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc. Mặt khác, Đảng phải lãnh đạo công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước. Những nhân tố trên có thể nói vừa là thuận lợi, thời
cơ nhưng cũng là thách thức, nguy cơ rất lớn với vai trò lãnh đạo của Đảng, nếu
những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm trên của tổ chức đảng và đảng viên, nhất
là trong các cơ quan nhà nước tiếp tục kéo dài, thậm chí qua nhiều nhiệm kỳ và
chậm được khắc phục sẽ là nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ,
làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Trong bối cảnh đó đòi hỏi phải tăng cường nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam với vị trí là một đảng duy nhất cầm quyền, hoạt động
trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu
trách nhiệm trước nhân dân về quyết định của mình. Bản chất của Đảng cầm
quyền là đảng lãnh đạo chính quyền và nhờ đó bảo đảm quyền lực nhà nước
29
thuộc về Nhân dân; Nhân dân làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội. Quyền lực
của đảng là quyền lực chính trị, thể hiện ở năng lực trí tuệ đề ra cương lĩnh,
đường lối, chủ trương đúng đắn, sáng suốt, được thể chế hóa thành hiến
pháp, pháp luật; lựa chọn, giới thiệu các đảng viên ưu tú, có uy tín để nhân
dân bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước, thông qua đó, hiện thực hóa ý
chí của Đảng bằng tất cả sức mạnh của bộ máy nhà nước. Từ đó, góp phần
nhanh chóng đấy mạnh quá trình xây dựng đất nước ta "dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”
báo Nhân dân, ngày 16/5/2021.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
[4] .Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1996.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2006.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
NxbChính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập1, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
[10]. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện lịch sử Đảng,
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Hệ cử nhân chính trị), NXB
Chính trị - Hành chính, năm 2010.
[11]. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam (dành cho hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị).
31

You might also like