Professional Documents
Culture Documents
Mạc Thị Thảo Nguyên - Môn Lý luận về Đảng và XD Đảng trong điều kiện mới
Mạc Thị Thảo Nguyên - Môn Lý luận về Đảng và XD Đảng trong điều kiện mới
Mạc Thị Thảo Nguyên - Môn Lý luận về Đảng và XD Đảng trong điều kiện mới
TIỂU LUẬN
MÔN LÝ LUẬN VỀ ĐẢNG VÀ XÂY DỰNG ĐẢNG
TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI
[[
HÀ NỘI – 6/2024
1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 2
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 2
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................. ...................................... 3
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................ 3
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ....... ........................................................... 3
6. Kết cấu tiểu luận...................................................................................... 3
NỘI DUNG ..................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ ĐẢNG
CHÍNH TRỊ...................................................................................................... 4
1.1 Sự hình thành của Đảng chính trị.............................................................. 4
1.2 Chức năng của Đảng chính trị................................................................... 6
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG
TIẾN TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ............................................................. 8
2.1 Quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. ....................................... 8
2.2 Quá trình lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây
dựng Chủ nghĩa xã hội .................................................................................. 10
2.3 Thực trạng những hạn chế trong phương thức lãnh đạo của Đảng......... 12
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY............................................. 15
3.1 Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị ................................................ 15
3.2 Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng .................................................... 16
3.3 Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức .................................................... 17
3.4 Đẩy mạnh xây dựng Đảng về tổ chức; tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức
bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ................... 17
3.5 Củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên 18
3.6 Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và
người ứng đầu ................................................................................................. 19
3.7 Đổi mới mạnh mẽ. nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát,
kỉ luật đảng..................................................................................................... 21
3.8 Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào
nhân dân để xây dựng Đảng .......................................................................... 22
3.9 Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ....... 23
3.10 Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới 24
3.11 Xây dựng Đảng từ mỗi cán bộ, đảng viê................................................. 25
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 30
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng
cầm quyền đã được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là nhiệm vụ then chốt.
Với tư cách Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cách mạng Việt Nam nói
chung, thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kì đổi mới nói
riêng. Một trong những nhiệm vụ chính trị của Đảng trong giai đoạn hiện nay là
tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và vai trò lãnh đạo
của Đảng trong thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ có trên cơ sở có
được những nhận thức mới, đúng đắn về các vấn đề này, Đảng mới có được
những giải pháp mang tính đột phá để nâng cao hơn nữa vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với nhà nước và xã hội, đưa công cuộc đổi mới và phát triển bền vững
đất nước đến thành công.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ,
sâu sắc hơn vị trí, vai trò, nội dung, phương thức cầm quyền, lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa vẫn còn nội dung chưa được nhận thức đầy đủ, sâu sắc. Bên cạnh đó bối
cảnh của tình hình thế giới và những thách thức đặt ra trong quá trình xây dựng
Đảng ngày càng bức thiết. Để hạn chế những vấn đề “mặt trái” của quá trình mở
cửa nền kinh tế và hội nhập quốc tế đang đặt ra yêu cầu bức thiết đòi hỏi Đảng
phải vững mạnh, sáng suốt để lựa chọn đúng đắn con đường lãnh đạo đất nước
phát triển.
Xuất phát từ vị trí, vai trò và tình hình thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài môn học
Lý luận về Đảng và xây dựng Đảng trong điều kiện mới thuộc chuyên ngành
đào tạo Cao học chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
3
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận chung về Đảng Cộng sản, vai trò của Đảng Cộng sản
trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Thực trạng những tồn tại trong quá trình lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Lý luận chung về Đảng Cộng sản, thực trạng những hạn
chế và giải pháp nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: quá trình hình thành, phát triển, vai trò của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong tiến trình xây dựng đất nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh cùng các văn kiện Đại hội Đảng và những chính sách của Nhà nước liên
quan đến đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế.
- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thu thập và xử lý tài liệu; Phương
pháp phân tích, so sánh và tổng hợp…
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Tiểu luận góp phần làm sáng tỏ hơn những nội dung liên quan đến quá trình
hình thành, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó, góp phần nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
6. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung của tiểu luận gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng chính trị
Chương 2: Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình lãnh đạo cách
mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội
Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam hiện nay.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VỀ ĐẢNG CHÍNH TRỊ
2.1 Quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đầu thế kỷ XX, thế giới có những chuyển biến quan trọng khi chủ nghĩa tư
bản đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Sự cạnh tranh giành giật thuộc
địa là nguyên nhân cơ bản dẫn tới cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-
1918). Do đó, chống chủ nghĩa đề quốc, giành độc lập cho các dân tộc thuộc địa
trở thành nội dung lớn trong phong trào cách mạng thế giới, là một vấn đề có
tính thời đại. Điều đó đã được nêu ra trong khẩu hiệu chiến lược “Vô sản tất cả
các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
Cách mạng tháng Mười Nga (7-11-1917) thắng lợi đã làm biến đổi sâu sắc
tính hình thế giới. Cuộc cách mạng đó đã chặt đứt khâu yếu nhất trong hệ thống
đế quốc chủ nghĩa và cả hệ thống thuộc địa, mở ra thời đại mới trong lịch sử
loài người, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm
vi toàn thế giới. Cách mạng tháng Mười không chỉ ảnh hưởng và tác động sâu
sắc đến phong trào cách mạng vô sản diễn ra ở các nước tư bản mà còn lan tỏa
sâu rộng đến các nước thuộc địa, cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên
đấu tranh tự giải phóng mình, vì độc lập tự do của dân tộc.
Cũng vào thời kì cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam đang
đứng trước những thách thức nặng nề. Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược
nước ta. Với những chính sách bóc lột tàn bạo, vơ vét thống trị về chính trị,
kinh tế, văn hóa làm cho Việt Nam ngày càng kiệt quệ. Trong bối cảnh đó, giai
cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển. Số lượng ngày càng tăng nhanh
trong những năm Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai. Đến cuối
năm 1922, số lượng công nhân Việt Nam khoảng 22 vạn người.
Trước thách thức lịch sử đặt ra là giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, nhiều lực lượng, tổ
chức theo các ý thức hệ khác nhau đã đứng lên cứu nước, giải phóng dân tộc
nhưng cuối cùng đều thất bại. Tiêu biểu như phong trào chống Pháp theo ý thức
hệ phong kiến kết thúc bằng cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng thất bại.
9
Phong trào yêu nước đấu tranh theo tư tưởng dân chủ tư sản của Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh cũng không dành được kết quả. Cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc của nhân dân ta lâm vào khủng hoảng về đường lối sâu sắc. Thất bại đó đặt
ra nhu cầu tất yếu phải có một chính đảng đủ năng lực hoạch định đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, có khả năng và uy tín tập hợp lực
lượng dân tộc và đoàn kết quốc tế, thì mới gánh vác được trọng trách lãnh đạo
cách mạng.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ
thể Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận động, tổ chức giai cấp công nhân thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài
thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời ngày 3-2-1930 đã đáp ứng nhu cầu lịch sử, khắc phục được
những sai lầm, thiếu sót của các phong trào yêu nước trước đó.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đó
cũng là kết quả của sự phát triển cao và thống nhất của phong trào công nhân và
phong trào yêu nước. Đảng Cộng sản Việt Nam bước lên vũ đài chính trị, nắm
lấy sứ mệnh lãnh đạo dân tộc, lôi cuốn không ít nhà yêu nước tiến bộ từ bỏ lập
trường giai cấp của mình và tự nguyện chuyển sang lập trường giai cấp công
nhân, phấn đấu đứng vào hàng ngũ của Đảng sau khi được giáo dục, giác ngộ lý
tưởng cách mạng của Đảng. Các lực lượng chính trị khác hoặc nhụt chí, hoặc
thoái hóa, thậm chí đi ngược lại lợi ích quốc gia - dân tộc, thỏa hiệp và đầu
hàng thực dân đế quốc, không những mất dần uy tín chính trị, mà còn bị nhân
dân xa lánh; chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đủ
năng lực và phẩm chất để lãnh đạo, được nhân dân tuyệt đối tin tưởng và đi
theo làm cách mạng tự giải phóng. Từ khi ra đời đến nay, năng lực lãnh đạo và
uy tín của Đảng đã được khẳng định trong suốt tiến trình cách mạng. Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời khẳng định giai cấp công nhân và đảng tiên phong
của nó đứng ở vị trí trung tâm và giữ vai trò lãnh đạo cách mạng. Điều đó quyết
định nội dung, xu hướng phát triển của xã hội Việt Nam giành độc lập dân tộc
đi tới chủ nghĩa xã hội.
10
2.2 Quá trình lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh giành độc lập dân tộc
và xây dựng Chủ nghĩa xã hội
Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã xác định được quyền lãnh đạo đối
với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Có được điều đó là nhờ Đảng ta đề ra
được đường lối chính trị đúng đắn với những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 đã khẳng định con
đường cứu nước chân chính và gắn liền giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp và xã hội, gắn liền mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Từ định
hướng chiến lược đó, một Đảng mới 15 năm tuổi, chỉ với khoảng 5 nghìn đảng
viên, đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, “phá
tan gông xiềng nô lệ hơn 80 năm của chế độ thực dân, xóa bỏ chế độ phong
kiến kéo dài hàng nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một thời đại mới rực rỡ
nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc”.
Cách mạng tháng Tám thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân, nhưng
đứng trước sự chống phá điên cuồng của thù trong, giặc ngoài, Đảng phải ra
tuyên bố “Tự ý giải tán” (11-11-1945), thực chất là rút vào hoạt động bí mật.
Trong điều kiện không thể hoạt động công khai, việc giữ vững vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước càng có ý nghĩa quan trọng, nhất là thể chế hóa
đường lối của Đảng thành Hiến pháp năm 1946, phát huy vai trò, uy tín của
lãnh tụ Hồ Chí Minh trên cương vị Chủ tịch nước, đề cao tính tiền phong,
gương mẫu, uy tín của những người cộng sản trong bộ máy nhà nước. Vai trò
lãnh đạo của Đảng đã được khẳng định bằng uy tín, sự hy sinh của biết bao
đảng viên trong nhà tù đế quốc thực dân; bằng bản lĩnh và trí tuệ, dám đối mặt
và giải quyết có hiệu quả những thách thức đe dọa sự tồn vong của quốc gia -
dân tộc; bằng sự sát hạch trong Chính phủ liên hiệp nhiều đảng phái với lý luận
sắc bén, cơ sở thực tiễn thuyết phục. Thực tế đó khiến cho không chỉ những
người không đảng phái bị thuyết phục, chấp nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, mà
kể cả các lực lượng chính trị đối lập (Việt quốc, Việt cách) cũng không dám
công khai chống phá những đường lối, chủ trương của Đảng hợp lòng dân, vì
lợi ích quốc gia - dân tộc.
11
Bước vào thời kì kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, khi các lực lượng
chống cộng chạy theo làm tay sai cho ngoại bang, bán nước cầu vinh, các lực
lượng chính trị khác dù có tinh thần dân tộc nhưng thiếu năng lực và uy tín, bị
đào thải tự nhiên, thì Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định bản lĩnh, trí
tuệ, năng lực, phẩm chất, uy tín để lãnh đạo dân tộc, lãnh đạo nhân dân. Vai trò
lãnh đạo của Đảng tiếp tục được nhân dân thừa nhận, tin tưởng tuyệt đối và tự
nguyện đứng dưới ngọn cờ của Đảng; được khẳng định bằng đường lối và
phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo; bằng sự dấn thân, hy sinh của
những người đảng viên cộng sản trên những mặt trận gian khổ nhất; bằng thực
tiễn cuộc đấu tranh cách mạng sinh tử mà không lực lượng chính trị nào có thể
thay thế được; bằng sự dũng cảm thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm trước
nhân dân để không ngừng hoàn thiện và lãnh đạo cách mạng tiến lên. Thắng lợi
của hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây
Nam, bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc là những bằng chứng thực tiễn
sinh động khẳng định năng lực, tố chất của Đảng trong lãnh đạo cách mạng.
Trong điều kiện chiến tranh, mặc dù Đảng trực tiếp lãnh đạo nhiều mặt, nhưng
luôn coi trọng phát huy vai trò, sức mạnh của Nhà nước để tổ chức phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, mở rộng quan
hệ đối ngoại; xây dựng hậu phương lớn ở miền Bắc và điều hành trực tiếp cuộc
kháng chiến trên chiến trường miền Nam; phát huy sức mạnh trong nước và sức
mạnh quốc tế; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao.
Bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước sau ngày
đất nước thống nhất, sự lãnh đạo của Đảng đã được thể chế hóa trong các bản
hiến pháp. Khi đứng trước những sai lầm, khuyết điểm do bệnh chủ quan, duy ý
chí, Đảng đã dũng cảm “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” và khởi xướng
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đường lối đổi mới toàn diện đất nước
của Đảng đã đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, phù hợp
với xu thế thời đại, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có vai trò
cực kỳ quan trọng để bảo vệ, phát huy quyền con người, quyền công dân, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới. Lãnh đạo thông qua Nhà
nước trở thành phương thức quan trọng hàng đầu, khẳng định địa vị cầm quyền
12
của Đảng khi quyền lực chính trị được chính đáng hóa trong quyền lực công,
đường lối của Đảng được thể chế hóa, nguồn lực và sức mạnh của Nhà nước
được sử dụng để phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn đấu tranh cách mạng và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Khi nắm chính quyền, Đảng càng có điều kiện sử dụng sức mạnh Nhà nước để
đấu tranh với các thế lực đi ngược lại lợi ích dân tộc, lợi ích nhân dân, hiện thực
hóa mục tiêu, lý tưởng tốt đẹp của mình. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội đã được thực tiễn đất nước khẳng định, phù hợp với nguyện
vọng, ý chí của nhân dân và được hiến định. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước
ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một nước độc lập, tự do,
phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở
thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta từ một nền kinh tế
nghèo nàn, lạc hậu đã thoát khỏi tình trạng chậm phát triển, bước vào hàng ngũ
các quốc gia có thu nhập trung bình, vị thế ngày càng cao trong khu vực và trên
thế giới. Chưa bao giờ dân tộc ta có được cơ đồ, vị thế, tiềm lực và uy tín như
ngày nay.
2.3 Thực trạng những hạn chế trong phương thức lãnh đạo của Đảng
Trong điều kiện một Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền, lãnh đạo cả
nước thực hiện công cuộc đổi mới, mở cửa nền kinh tế, hội nhập với thế giới,
lại mới kết thúc chiến tranh chưa lâu, lý luận và nhận thức về phương thức lãnh
đạo của Lý luận về đảng cầm quyền, về phương thức lãnh đạo của Đảng trong
thời kì mới với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi
mới và hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều vấn đề mới mẻ, chưa có kinh nghiệm
thực tiễn trong nước và ngay cả trên thế giới, đòi hỏi phải tìm tòi, vừa làm vừa
rút kinh nghiệm nên có những vấn đề chưa được làm rõ, nhận thức còn khác
nhau. Nhận định về quy trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, Nghị
quyết Trung ương 5 (khoá X) nhấn mạnh: ”Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị mà trọng tâm là đối với Nhà nước còn chậm và
lúng túng”. Việc nghiên cứu, ban hành, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách,
13
pháp luật để thích ứng với quá trình vận hành của nền kính tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời, chưa đầy đủ, đồng bộ giữa các quy chế,
quy định của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật.
Quan điểm, nhận thức về phương thức lãnh đạo để chuyển từ nghị quyết,
chỉ thị, kết luận của Đảng thành quyết định quản lý, điều hành của các cơ quan
nhà nước tương ứng còn lúng túng. Trong một số trường hợp chưa phân định rõ
quyền lãnh đạo của Đảng với quyền quản lý, điều hành của các cơ quan nhà
nước. Do việc phân định không rõ ràng, có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn còn
chồng chéo, trùng nhau dẫn đến trường hợp tổ chức đảng bao biện, làm thay
hoặc dễ bị buông lỏng sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động của các cơ quan
quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, cũng có tình trạng cơ quan nhà nước vì sợ trách
nhiệm và để “an toàn” nên đùn đẩy trách nhiệm cho cấp ủy đảng, người đứng
đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, hoặc có khi cũng xác định được thẩm quyền, trách
nhiệm của mình nhưng vẫn “báo cáo, xin ý kiến lãnh đạo, chỉ đạo” của cấp uỷ,
tổ chức đảng để bảo đảm “chắc chắn” và “an toàn”.
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều
nơi chưa được làm đầy đủ, tới nơi tới chốn, sức thuyết phục kém nên không đủ
sức động viên đảng viên và nhân dân; một số tổ chức đảng tổ chức học tập,
quán triệt, nhất là việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng
trong hoạt động thực tiễn của cấp ủy, tổ chức đảng chất lượng, hiệu quả còn
chưa đạt yêu cầu, thậm chí có nơi làm còn hình thức.
Chất lượng hoạt động của tổ chức đảng còn nhiều bất cập: Có nơi thực
hiện không đầy đủ, méo mó hoặc làm chiếu lệ những nguyên tắc tổ chức, sinh
hoạt cơ bản của Đảng như nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê
bình, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Chế độ sinh hoạt còn nặng tính hình
thức, bệnh thành tích còn khá phổ biến dẫn tới che giấu khuyết điểm, còn có
hiện tượng xuê xoa, cả nể trong đấu tranh phê bình. Một số tổ chức đảng có
trọng trách, thẩm quyền thiếu quan tâm sâu sát, chưa thường xuyên, tiến hành
kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên do
mình quản lý nhằm giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng nên không chủ động
phát hiện được các vụ việc tiêu cực, bê bối, nhất là tham nhũng liên quan trực
tiếp tới cán bộ đảng viên để ngăn chặn, chấn chỉnh hoặc xử lý kịp thời, lại do
14
quần chúng tố giác, báo chí và dư luận xã hội phê phán làm suy giảm uy tín của
tổ chức đảng.
Bên cạnh những cán bộ, đảng viên phát huy tốt vai trò tiền phong gương
mẫu của mình thì còn có một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách
nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân; thiếu trách nhiệm trong việc tổ
chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị,
quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ
cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ. Do
suy thoái về chính trị, tư tưởng dẫn đến suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối
sống, rơi vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cực đoan, cơ hội, vụ lợi, thực dụng; dĩ
hòa, vi quý, nói dựa, lấy lòng nhau; tư duy nhiệm kỳ, bệnh thành tích; bè phái,
cục bộ, lợi ích nhóm, mất đoàn kết; tham nhũng, lãng phí; phong cách quan liêu,
lối sống xa hoa, hưởng lạc; có hiện tượng chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ,
chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng; tùy tiện vô nguyên tắc,
vô kỷ luật; xa dân, vô cảm trước sự khó khăn, bức xúc của dân; thiếu gương
mẫu trong việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, quy định của cơ quan, đơn vị và đời sống sinh hoạt hằng ngày.
Những hạn chế trong nội bộ Đảng đòi hỏi phải có những biện pháp để
nâng cao giải pháp năng lực lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay để đáp
ứng với yêu cầu của thời kì đấy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
15
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò lãnh đạo Nhân dân đấu
tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là tất
yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu lịch sử của cách mạng. Thực tiễn đã khẳng
định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam xuyên suốt chiều dài lịch sử đất nước.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng xuất phát từ yêu cầu của dân tộc và thời
đại, thực tiễn công tác xây dựng Đảng ở nước ta, thường xuyên tổng kết, bổ
sung để phát triển lý luận, giải quyết tốt những vấn đề do thời đại đặt ra. Trong
giai đoạn hiện nay, Đảng ta là một Đảng Cộng sản cầm quyền, một mặt phải
chống lại các thế lực thù địch đang âm mưu “diễn biến hòa bình”, sử dụng chiêu
bài dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo, sử dụng chiêu bài đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập, hòng từng bước làm thay đổi chế độ chính trị nhằm từng
bước hạn chế, đi đến xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với hệ thống chính trị và Nhà nước ta. Quá trình mở cửa nền kinh tế và hội nhập
quốc tế kéo theo sự tác động lớn về mọi mặt. Đội ngũ cán bộ, đảng viên dễ bị
ảnh hưởng bởi cơ chế thị trường, nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, có thể dẫn tới tiếp tay
hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc. Mặt khác, Đảng phải lãnh đạo công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước. Những nhân tố trên có thể nói vừa là thuận lợi, thời
cơ nhưng cũng là thách thức, nguy cơ rất lớn với vai trò lãnh đạo của Đảng, nếu
những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm trên của tổ chức đảng và đảng viên, nhất
là trong các cơ quan nhà nước tiếp tục kéo dài, thậm chí qua nhiều nhiệm kỳ và
chậm được khắc phục sẽ là nguy cơ đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ,
làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Trong bối cảnh đó đòi hỏi phải tăng cường nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam với vị trí là một đảng duy nhất cầm quyền, hoạt động
trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu
trách nhiệm trước nhân dân về quyết định của mình. Bản chất của Đảng cầm
quyền là đảng lãnh đạo chính quyền và nhờ đó bảo đảm quyền lực nhà nước
29
thuộc về Nhân dân; Nhân dân làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội. Quyền lực
của đảng là quyền lực chính trị, thể hiện ở năng lực trí tuệ đề ra cương lĩnh,
đường lối, chủ trương đúng đắn, sáng suốt, được thể chế hóa thành hiến
pháp, pháp luật; lựa chọn, giới thiệu các đảng viên ưu tú, có uy tín để nhân
dân bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước, thông qua đó, hiện thực hóa ý
chí của Đảng bằng tất cả sức mạnh của bộ máy nhà nước. Từ đó, góp phần
nhanh chóng đấy mạnh quá trình xây dựng đất nước ta "dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
30
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”
báo Nhân dân, ngày 16/5/2021.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
[4] .Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1996.
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2006.
[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
NxbChính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập1, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021.
[10]. Học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Viện lịch sử Đảng,
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Hệ cử nhân chính trị), NXB
Chính trị - Hành chính, năm 2010.
[11]. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam (dành cho hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị).
31