Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 40

1|HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

“NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ” (Nguyễn Tuân)


LỚP CẤP TỐC 14 NGÀY
BUỔI HỌC 01 – NGÀY 18.06.2024

I. KHÁI QUÁT TÁC GIẢ TÁC PHẨM


- Nguyễn Tuân là nhà văn có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo, phong
cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ "ngông", mỗi
trang viết của ông đều muốn chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác; mọi sự vật được
tác giả miêu tả quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật

***ngông: NT không thích là người đi vào những lối mòn cũ kĩ, đi những chặng đường
đã in quá nhiều dấu chân → Ông có khao khát khám phá đến tận cùng, say mê những
điều độc đáo đến phi thường, nỗ lực tìm tòi những đề tài mới hoặc làm mới những đề
tài tưởng chừng đã quá quen thuộc. Không chỉ ở phương diện nội dung, mà cả ở hình
thức biểu hiện, ông được xem là “bậc thầy trong sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ tiếng
Việt”. => HÃY MỞ RỘNG NHỮNG CÁNH CỬA CỦA TRÍ TƯỞNG TƯỢNG
ĐỂ THỰC SỰ BƯỚC CHÂN VÀO THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN
TUÂN.

+ Trước Cách mạng tháng Tám: Ông chênh vênh giữa hiện tại, không nhiều
niềm tin vào tương lai nên thường hướng mình về quá khứ, đi tìm cái đẹp của
thời xưa còn vương lại, cái mà ông ưu ái gọi là “Vang bóng một thời.” → Hình
ảnh con người trong trang văn NT ở giai đoạn này: thường khắc họa về những
người nghệ sĩ, những người mang vẻ đẹp “đặc chủng, đặc tuyển”

+ Sau Cách mạng tháng Tám: tìm thấy mối quan hệ giữa quá khứ - hiện tại và
tương lai. Mặc dù ông vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện
văn hóa nghệ thuật, nghệ sĩ nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ
sĩ ở cả nhân dân đại chúng chứ không chỉ ở những con người “đặc chủng đặc
tuyển” như trước đây.

- Là một người theo "chủ nghĩa xê dịch", Nguyễn Tuân đã lấy những chuyến đi làm
chất liệu sáng tác; bộc lộ và thể hiện những tính cách phi thường, những tình cảm, cảm
xúc mãnh liệt trước những phong cảnh tuyệt mĩ của thiên nhiên, đất nước và con người
qua ngòi bút nội lực được mệnh danh “bậc thầy sáng tạo ngôn ngữ Tiếng Việt”. → có
thể đưa vào phần đánh giá ND – NT

1|#hocvancosuongmai
2|HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

- Ông quan niệm: “Đời là một trường du hí’’ - sống là để trải nghiệm, để chơi, để khám
phá và sáng tạo nghệ thuật mang một nét độc đáo, đậm chất riêng cho chính mình. Ông
còn được mệnh danh là “cây bút duy mỹ’’ bởi ông luôn khám phá, tìm tòi và mở ra
những cái đẹp bất cứ nơi nào trên khắp mọi miền Tổ quốc.

2. TÁC PHẨM
Hoàn cảnh ra đời:
- “Người lái đò Sông Đà” là tùy bút được in trong tập “Sông Đà” (1960)
- Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc của tác giả - vừa để thỏa
mãn thú phiêu lãng vừa để tìm kiếm vẻ đẹp thiên nhiên cùng “chất vàng mười
đã qua thử lửa” trong tâm hồn của những con người lao động, “chiến đấu”
trên miền sông núi hùng vĩ và thơ mộng đó.

Chất vàng mười của thiên nhiên → vẻ đẹp sẵn có mà tạo hóa ban tặng cho sông núi,
thiên nhiên của đất nước ta
Chất vàng mười đã qua thử lửa của con người → con người phải trải qua những thử
thách mới có thể trở thành phiên bản hoàn thiện nhất của chính mình → hình tượng
người lái đò trong tùy bút của Nguyễn Tuân tượng trưng cho vẻ đẹp của con người
khi chinh phục những bão giông, thử thách lớn từ cuộc đời.

Một số nhận định hay về Nguyễn Tuân và “Người lái đò Sông Đà’’: => LINH
HOẠT VẬN DỤNG (có thể đưa vào bất cứ vị trí nào trong bài làm miễn là kết
nối, dẫn dắt phù hợp: MB, khái quát tác giả tác phẩm, phần phân tích, đánh
giá chung nội dung – nghệ thuật, kết bài)
“… Nguyễn Tuân - một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc
mới lạ, nồng nàn, say đắm…”.(Nguyễn Đăng Mạnh)

“Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân
không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức.’’ (Vũ Ngọc Phan)

‘’Ðây là một nhà văn "suốt đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật." (Nguyễn Ðình Thi)

"Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót
trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng,
khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa." (Nguyễn Ðăng Mạnh)

2|#hocvancosuongmai
3|HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

Ông xứng đáng được mệnh danh là "chuyên viên cao cấp tiếng Việt", là "người
thợ kim hoàn của chữ" (Ý của Tố Hữu)

“… Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài
năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ… Khi gân guốc,
khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên như một
đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở
ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý thức sâu sắc về
tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự
giải phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác
phẩm kì vĩ…”. (Phan Huy Đông, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng).

**Lưu ý kĩ năng với ký:


Sau đoạn khái quát tác giả tác phẩm, bạn sẽ có thêm 1 đoạn khái quát về đối
tượng được miêu tả trong đoạn trích đề cho. ~1/2 trang giấy thi
+ Giới thiệu khái quát về đối tượng
+ Phân tích lời đề từ khắc họa đối tượng ấy (đối với hình tượng dòng sông =>
ta phân tích lời đề từ của nhà thơ NQB; đối với hình tượng người lái đò/người
lao động ➔ ta phân tích lời đề từ của nhà thơ – nhà Cách mạng người Ba Lan)
+ Khái quát ngắn gọn về đối tượng ở những đoạn trên (trước đó, nhà văn đã
miêu tả về dòng sông/ông đò như thế nào?)

II. PHÂN TÍCH


1. Hình tượng dòng sông Đà – tượng trưng cho “chất vàng của thiên
nhiên” Tây Bắc
a. Lời đề từ → định hướng về nội dung và cảm hứng chủ đạo trong tác
phẩm.
“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”
(Nhà thơ Nguyễn Quang Bích)
(Mọi dòng sông đều chảy về hướng đông – Duy chỉ có Sông Đà là chảy
về phương bắc)
 Nhà thơ không nhấn mạnh yếu tố của tự nhiên, địa lý, mà khắc họa
Đà giang như một sinh thể độc lập – tự mình lựa chọn con đường của
riêng mình. Thủy trình của Đà giang không đi theo quy luật tự nhiên,

3|#hocvancosuongmai
4|HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

không đi theo số đông, mà đi theo mong muốn khám phá của bản
thân dòng chảy ấy.
 Dường như, Nguyễn Tuân cũng ấn tượng với vẻ độc đáo, cá tính ấy
của dòng sông Tây Bắc. Ông tìm thấy một sợi dây kết nối đặc biệt về
tâm hồn, ông như soi chiếu chính dấu ấn nghệ thuật đặc sắc của mình
khi nhìn vào Đà giang – bởi lẽ, chính Nguyễn Tuân cũng là một “Đà
giang độc bắc lưu” trên dòng chảy của văn học Việt.

b. Con sông Đà hung bạo, dữ dội (Đoạn 1 – từ đầu đến … cái gậy đánh
phèn.”)
b.1 Sông Đà hung bạo, dữ dội ở vách đá thành bờ sông

“Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng
vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng
Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có
quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng
ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng
vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.”

- Bằng ngòi bút liên tưởng đầy độc đáo, nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa cái hẹp
– sâu – thẳng đứng của vách đá thành bờ sông qua rất nhiều hình ảnh khơi gợi hình
dung nơi bạn đọc:

+ mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời → vách đá dựng thẳng đứng và nhỏ
hẹp đến mức chỉ cần mặt trời chếch sang một phía là không thể chiếu xuống lòng
sông.

Phải “lúc đúng ngọ”, mặt nước mới được gặp gỡ với ánh dương, khu vực ấy mới được
chiếu sáng và sưởi ấm. → Dù nói về mặt trời nhưng dường như nhà văn lại nhấn
mạnh vào cảm giác thiếu vắng ánh nắng thay vì một bầu không khí ấm áp, tràn đầy
sức sống; chữ “chỉ” khẳng định khoảnh khắc được ánh sáng chiếu sáng vào lòng
sông rất hiếm hoi và ngắn ngủi trong ngày; qua đó cho độc giả cảm nhận được không
gian sông nước ở đây rất lạnh lẽo, hiu quạnh. → khơi gợi sự bất an trong người đọc.

+ so sánh “…như một cái yết hầu” (lối so sánh rất lạ: vì bình thường hiếm ai lại ví von
cảnh vật thiên nhiên với một bộ phận trên cơ thể con người)

• Nhà văn nhấn mạnh sự nhỏ hẹp của vách đá, kết hợp với động từ “chẹt” tạo
cảm giác bức bối, nghẹt thở → “yết hầu” là một bộ phận nằm ở vùng cổ, vì thế
đọc câu văn lên ta có cảm giác như bị bóp nghẹn lại ở cổ họng, đẩy nỗi sợ trước
thiên nhiên hoang dã ấy thêm một bậc nữa.

4|#hocvancosuongmai
5|HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

• Liên tưởng vách đá ấy với một bộ phận trên cơ thể nam giới, phải chăng cũng
là một cách nhìn nhận đầy thú vị của “cây bút duy mỹ” khi khắc họa về sông
Đà hung bạo – rằng dòng sông ấy, với vẻ dữ dội này, mang đầy tính nam
mạnh mẽ?

+ hai bờ gần nhau đến nỗi đứng bên này bờ chỉ cần “nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia
vách” → Nhà văn sử dụng một lối ví von rất gần gũi, tự nhiên, rằng không cần dùng
chút lực nào cũng có thể nhẹ tay ném được một hòn đá qua bờ bên kia. Những cách
khơi gợi trải nghiệm rất bình dị như thế khiến độc giả dễ dàng hình dung điều văn
nhân muốn khắc họa, đồng thời dần dần mở rộng trí tưởng tượng của chính mình
để thực sự bước chân vào không gian của vùng Tây Bắc trên trang văn Nguyễn Tuân.

- Cảm giác của những người ngồi trong khoang đò đi qua quãng ấy – chứng
kiến/trải nghiệm sự lạnh lẽo của thiên nhiên Tây Bắc:

+ “đang mùa hè mà cũng thấy lạnh” → cái lạnh ấy phải chăng không chỉ bởi vì nhiệt độ
hạ thấp hơn ở những khu vực không được mặt trời chiếu tới, mà còn đến từ nỗi sợ
hãi, lo lắng, bất an khi đi qua khúc sông nguy hiểm này…

+ “cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên
cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”

• Khắc họa về sông nước vùng Tây Bắc, nhà văn lại sử dụng những hình ảnh
tưởng chừng quá xa xôi, như khung cửa sổ, nhà cao tầng, đèn điện. → Phải
chăng, ông muốn độc giả kể cả chỉ sống ở nơi phố thị, chưa bao giờ trực tiếp
khám phá những dòng sông, vẫn sẽ có cho mình những tưởng tượng gần gũi
nhất?
• Từ chiếc thuyền trôi trên khúc sông âm u, lạnh lẽo chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt
trời ấy, nhà văn “đặt” bạn đọc vào hè một cái ngõ, ngóng vọng lên ánh đèn
điện ở trên cao:

+) Phải chăng, ánh đèn điện ấy chính là mặt trời, vừa mới ghé qua chiếu sáng một
khúc sông rồi lại vội vã rời đi ngay lập tức?

+) Giống như khi ta đi vào một cái ngõ tối, ngóng vọng lên khung cửa sổ duy nhất còn
sáng đèn ở trên cao, coi đó là như một điểm tựa; vậy mà vừa mới nhìn lên đèn điện
đã “tắt phụt” - nghĩa là tắt một cách đột ngột trong sự ngỡ ngàng của người quan sát.

+ Đèn điện tắt phụt, mặt trời nhanh chóng “thu hồi” ánh dương ở nơi ấy; trả lại không
gian sự tĩnh mịch và bóng đêm âm u; để lại cho người ngồi trên thuyền cảm giác hụt
hẫng, chơi vơi, lo lắng.

5|#hocvancosuongmai
6|HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

Người đọc đã từng biết tới những trang tùy bút, bút kí đầy ắp liên tưởng của Vũ Bằng, Thạch
Lam với một thế giới bàng bạc chất thơ qua những liên tưởng nhẹ nhàng mà tinh tế, Hoàng
Phủ Ngọc Tường để lại dấu ấn trong người đọc ở sự liên tưởng phóng khoáng đầy chất suy
tưởng, linh cảm. Còn đến với Nguyễn Tuân, ta bị bất ngờ với sự liên tưởng mãnh liệt, dữ dội
dày đặc. Nguyễn Tuân đã quan sát sự vật, hiện tượng bằng con mắt của nhiều ngành nghề.
Dường như nhà văn đã đem cả cuộc sống muôn hình vạn trạng vào trong trang văn của mình.
(liên hệ này có thể áp dụng khi phân tích khá nhiều đoạn trích trong văn bản)

b.2 Ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng

VD câu chủ đề chuyển đoạn: Đến quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dường như sự hung
bạo của con sông lại tăng thêm một bậc, không chỉ dừng lại ở việc gieo rắc cảm giác
lạnh lẽo, rùng mình cho những người đi qua khúc đó – mà còn có thể gây nên những
nguy hiểm trực tiếp tới ai dám cả gan “bén mảng” đến địa phận của sông Đà.

(cách viết câu chủ đề ở đây: nhắc lại nội dung đoạn trên và mở ra nội dung đoạn sắp phân tích)

Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò
Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng
thuyền ra.

+ Quãng sông này dài tới hàng cây số → Nhà văn không đưa ra một con số cụ thể,
chính xác, mà khắc họa độ dài của quãng sông bằng cụm từ “hàng cây số”, như để tạo
cho độc giả cảm giác không biết phải đi đến bao giờ mới kết thúc những thử thách ở
mặt ghềnh này. Con đường trước mắt như trở nên dài vô tận, liên tiếp những thử
thách. (Nỗi sợ như cũng được kéo dài hơn…)

+ Các sự vật thiên nhiên như đang giao tranh trực tiếp trong một cụm từ vừa sử dụng
thủ pháp liệt kê, lại vừa có phép điệp vô cùng ấn tượng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng
xô gió.” → dường như đến con chữ như cũng đang xô đẩy nhau, chẳng thể nằm gọn
gàng, ngay ngắn. Nước – đá – và sóng như đang giao tranh kịch liệt trong những
luồng gió mạnh mẽ đầy dữ tợn ở vùng thiên nhiên Tây Bắc hiểm trở.

+ Hệ thống từ láy để khắc họa dòng chảy mạnh mẽ cuộn trào của con sông: cuồn cuộn,
gùn ghè

• Từ “cuồn cuộn” thiên về tượng hình, gợi hình ảnh những đợt sóng – gió – nước
– đá cứ liên tiếp nối nhau, gối vào nhau liên tục không ngừng; từ “cuồn cuộn”
cũng chỉ dành cho những đợt sóng lớn, mạnh, tác động đến quãng đường của
con thuyền – khiến cho thuyền không lúc nào không chênh vênh
• Từ “gùn ghè” lại như đem đến một thanh âm đầy giận dữ, như tiếng gầm gừ
để đe dọa đối thủ của những loài thú dữ (từ tượng thanh) → Độc giả dần dần

6|#hocvancosuongmai
7|HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

phải mở rộng tất cả các giác quan để tưởng tượng về bức tranh mà NT đang
khắc họa: ta phải quan sát, phải lắng nghe, phải cảm nhận.
➔ Đây dường như không chỉ là trạng thái tự nhiên của dòng chảy mà còn là trạng
thái tâm lý hung hãn, quyết liệt của Đà giang.

+ So sánh “như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”

Bản thân cụm từ “đòi nợ”: hành động quyết liệt để giành lấy những gì thuộc về mình

Nhưng sông Đà vô lý ở chỗ, nó quanh năm suốt tháng đi “đòi nợ xuýt”: nghĩa là đòi
nợ từ những người không hề mắc nợ mình như một cách gây gổ, “kiếm chuyện” với
con người

Kết hợp với động từ “tóm”: một động tác mạnh, như thể hiện khao khát “truy bắt”
người lái đò của con sông

➔ Nhà văn đưa ra một lời nhắn nhủ, dặn dò với những ai sau này sẽ khám phá
khúc sông ấy của Đà giang; hay cũng chính là lại một lần nữa nhấn mạnh với
bạn đọc về sự nguy hiểm tột cùng của quãng mặt ghềnh Hát Loóng: Quãng này
mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra. Không được phép chủ
quan, thiếu thận trọng khi đi qua nơi ấy, nếu không muốn gặp tai nạn thảm
khốc, có thể cướp đi sinh mạng của những người trên thuyền.

b.3 Ở quãng Tà Mường Vát: Những cái hút nước tàn độc hiện lên qua ngòi bút khắc
họa vô cùng phong phú, đa dạng của nhà văn Nguyễn Tuân

“Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Trên sông bỗng có những cái hút nước
giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở
và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những
cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng
chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một
quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái
giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Nhiều bè gỗ rừng đi
nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái
hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới
lòng sâu đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.”

+ Sử dụng một loạt hình ảnh so sánh độc đáo để làm bật lên sự nguy hiểm giăng
mắc khắp dòng sông từ những cái hút nước:

• Giống như cái giếng bê tông → Tác giả khắc họa cái hút nước như một cái giếng
sâu không thể thấy điểm tận cùng, càng khiến ta dễ cảm thấy lo lắng, sợ hãi
trước những hiểm nguy không báo trước.

7|#hocvancosuongmai
8|HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

• Kết hợp với từ “bỗng”, tác giả càng nhấn mạnh vào sự bất ngờ, sửng sốt, không
chuẩn bị trước của người trên thuyền.
• Được ví von với những cái xoáy nước đầy hung bạo, rõ ràng “cái giếng bê tông”
ở đây không phải hình ảnh giếng lãng mạn, nhẹ nhàng trong tuổi thơ hay trong
tình yêu lứa đôi như nhiều câu ca dao, dân ca → Nó giống như hình ảnh của
một cái giếng với phần miệng lớn khổng lồ, có thể hút vào trong không gian vô
tận của nó tất cả những chiếc thuyền nào dám đi qua quãng sông.
• Cách gọi những cái hút nước dường như cũng nhấn mạnh sự nguy hiểm của
nó nằm ở khả năng “hút” hết tất cả các sự vật xung quanh bằng một lực nước
vô cùng mạnh mẽ.

Người ta thả ống bê tông xuống để làm móng cầu thì cần phải thả xuống rất sâu, đào tới tận
bề mặt đất dưới cùng của lòng sông để có thể đặt cho móng cầu thật chắc, vững chãi. Vì thế,
tới đây, ví von của NT dường như gợi ra một cái hút nước vừa sâu hun hút, lại vừa đột ngột
xuất hiện. Chưa kịp hoàn hồn khi vừa phải đi qua vách đá dựng thành thẳng đứng, qua mặt
ghềnh Hát Loongs với đá, sóng và gió xô nhau, ta lại bị con “thủy quái” Sông Đà hăm dọa
cuốn và “nuốt chửng” vào trong miệng xoáy nước.

➔ Tác giả đã vận dụng kiến thức đa lĩnh vực để khắc họa về những cái hút nước
ở Tà Mường Vát.
• Thanh âm của “nước giếng” cũng không hề dễ chịu: “thở và kêu như cái cửa
cống cái bị sặc” → tiếng rất to, khó chịu, tạo cảm giác rợn người khi đi qua khúc
ấy.
• Kết hợp với phép nhân hóa và những từ ngữ giàu sức gợi hình để khắc họa
chân dung những cái hút nước: lừ lừ, ặc ặc, nghênh ngang, lôi tuột, trồng cây chuối
ngược, vụt biến đi, tan xác, … → Dường như những cái hút nước không hề khoan
nhượng với con người, chúng tấn công bằng tất cả sự hung hăng, hiếu chiến
của mình; dồn con người vào đường cùng – vào thế yếu trong một trận chiến
không cân sức cho đến khi con thuyền “tan xác ở khuỷu sông dưới”… Con
thuyền chịu tai nạn thảm khốc thì người ở trên thuyền cũng chung số phận →
quả là một thảm cảnh kinh hoàng nếu như ta dám ngông nghênh thách thức
những cái hút nước tàn độc đó.

+ Thái độ của những chiếc thuyền đi qua quãng Tà Mường Vát:

Đối diện với thái độ tiếp đón chẳng chút niềm nở ấy của những cái hút nước, những
chiếc thuyền dường như cũng không dám nghênh ngang, vênh váo khi qua đây…

• Nhà văn khẳng định “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước” – một
ý văn rất ngắn gọn, súc tích, rõ ràng, cho ta thấy được những cái hút nước có
sức tấn công khủng khiếp đến ra sao. (Điều đó không cho thấy họ hèn nhát, né

8|#hocvancosuongmai
9|HỌC VĂN CÔ SƯƠNG MAI

tránh thử thách của thiên nhiên, mà chứng minh được rằng họ phân tích tình
hình kĩ càng để đưa ra chiến thuật phù hợp nhất)
• So sánh kết hợp liên hệ kiến thức thú vị về lái xe ô tô: chiếc thuyền được đối
chiếu, ví von với ô tô đang sang số ấn ga cho nhanh để “lướt” qua quãng sông
được xem như một bờ vực đầy nguy hiểm, thử thách.
 Đi qua khúc sông ấy, vượt qua những hút nước tàn độc đó, đòi hỏi người
lái đò phải có kĩ thuật điều khiển chiếc thuyền đến mức điêu luyện, cực kì
tỉnh táo và dứt khoát trong từng động tác nhỏ nhất để có thể đưa được
thuyền “bay” qua bờ vực ấy. Nếu như người lái xe ô tô có thể tận dụng
được lực từ chiếc xe, thì người lái đò chỉ có thể dựa vào khả năng của chính
bản thân mình cộng hưởng với sức nước lúc đó mà thôi. Con thuyền đâu có
động cơ hay một sự che chắn kiên cố nào đó để bảo vệ cho con người, vì thế
tình huống càng trở nên nguy hiểm.
- Để khắc họa sự khủng khiếp của những cái hút nước, nhà văn còn tạo nên
nhiều điểm nhìn độc đáo, vận dụng kiến thức đa lĩnh vực để khơi dậy những
xúc cảm bên trong bạn đọc:

“Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ
cho khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền
cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách
thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền
xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre-plongée lên một cái
mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày,
khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang
xem. Cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem
phim kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng
bị vứt vào một cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.”

+ Nhà văn đan xen bày tỏ cảm xúc của chính mình để khắc họa trải nghiệm một cách
chân thực, ấn tượng hơn nữa: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến…” → Nhà văn không kể đơn
thuần là “Tôi nghĩ đến…” để vẽ ra viễn cảnh độc đáo trong trí tưởng tượng của ông,
mà còn lồng ghép cả sự sợ hãi như một cách để định hướng cảm xúc của bạn đọc khi
bước vào trang văn này.

+ Từ “táo tợn” đã khiến độc giả hình dung được về người quay phim trong câu chuyện
của Nguyễn Tuân: dám thử sức mình với những điều mà chưa ai dám làm, thậm chí
chưa ai dám nghĩ tới, không muốn chỉ sử dụng những góc máy đã quá quen thuộc
đến mức nhàm chán.

+ Vận dụng kiến thức quay phim điện ảnh để mở rộng trải nghiệm của bạn đọc – đặt
bạn đọc vào những điểm nhìn cực kì độc đáo để quan sát những cái hút nước.

9|#hocvancosuongmai
10 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

• Ở đoạn trên, ta nhìn cái hút nước từ trên thuyền, thấy nó như cái giếng bê tông
– nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc (giống như góc nhìn của một người
trên thuyền)
• Còn giờ đây, ngược lại, nhìn từ dưới lòng sông lên: (góc nhìn của anh bạn
quay phim táo tợn đã dìm cả mình cả máy quay trên chiếc thuyền thúng tròn
vành không vững chãi để có được một thước phim vô giá): thành giếng xây toàn
bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày → lượng nước “cuốn” vào
bên trong xoáy nước lúc này như bị dồn nén lại thành một khối dày, càng
thêm nặng khi ta nhìn ở góc độ từ dưới lên
➔ Ta tưởng tượng như thể khối pha lê xanh ấy sẽ vỡ tan bất cứ lúc nào, đổ ụp
vào người mình, dìm cả thuyền cả mình cả chiếc máy quay của anh bạn quay
phim ấy.

Thông qua một anh bạn quay phim táo tợn, cây bút đã đưa bạn đọc bước chân lên chiếc thuyền
thúng tròn vành, cùng anh quay phim – cùng máy quay xuống đáy cái hút sông Đà mà chiêm
ngưỡng trọn vẹn sự khủng khiếp của nó. Dường như, sự tưởng tượng thú vị này của văn
nhân về anh bạn quay phim kia cũng chính là cách Nguyễn Tuân gợi nhắc về hình ảnh
của mình trong sáng tạo nghệ thuật – một người ưa những gì dữ dội, táo bạo, tuyệt đối;
một người sẵn sàng liều lĩnh để có cho mình những chất liệu mới mẻ đem tới cho độc giả; một
người kiên quyết không đi vào những lối mòn cũ kĩ, dẫu cho phải “táo tợn” đến thế nào.

+ Nhà văn còn đưa ra những góc độ - những vị thế cảm nhận khác nhau để nâng cao
trải nghiệm của bạn đọc:

• Với người quay phim: liều lĩnh khám phá để có được những khung hình khác
biệt, độc đáo đến vô giá → thực sự là một người nghệ sĩ trong lĩnh vực mà anh
đang khao khát theo đuổi (không muốn dừng ở những điểm nhìn đã quá cũ kĩ,
quen thuộc)
• Với người xem phim: ta như bị anh bạn quay phim táo tợn kia kéo tuột xuống
chiếc thuyền thúng tròn vành, để rồi bất đắc dĩ bị cuốn sâu vào xoáy nước, càng
lúc càng đối diện với những nguy hiểm khủng khiếp hơn
➔ Trải nghiệm ấy khiến người xem lo lắng đến mức phải “lấy gân ngồi giữ chặt
ghế” – như một phản xạ tự nhiên khi chuẩn bị đối diện với điều gì đó khiến
mình sợ hãi, choáng ngợp, lo lắng.
➔ Thế nhưng, những nỗ lực ấy hóa ra trong hoàn cảnh đó, trong trải nghiệm
tưởng tượng độc đáo đó, chỉ như “ghì lấy mép một chiếc lá rừng” mỏng
manh… Chiếc lá ấy có thể rách tan và nhàu nát bất cứ lúc nào, sau đó bị vứt đi
một cách phũ phàng vào chiếc cốc pha lê nước khổng lồ kia. Chiếc cốc đó chính
là cái xoáy nước kinh hoàng ở quãng Tà Mường Vát, và thiên nhiên Tây Bắc
đang “pha chế” một món nước nào đó bằng chiếc gậy đánh phèn, cứ thế quấy
mạnh liên tục tạo nên những đợt sóng nước cuộn trào, cuối cùng đột ngột rút

10 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
11 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

lên cái gậy đó, để lại cho thuyền, cho ta, cho những chiếc lá rừng mỏng manh
yếu đuối một sức nước tấn công mãnh liệt, toàn bộ khối pha lê như thực sự vỡ
tan.
➔ Ta không chỉ “đọc” văn Nguyễn Tuân, mà còn như được “xem” thước phim
độc đáo của nhà biên kịch – đạo diễn – kiêm quay phim tài ba đó.

*** HẾT BUỔI 01.

Đoạn 3 vòng trùng vi thạch trận mình sẽ phân tích khi phân tích hình tượng người lái đò Sông
Đà (bởi vì nhà văn khắc họa hình tượng dòng sông và con người trong mối quan hệ tương
quan với nhau), vì thế mình để dành cả đoạn: “Cuộc sống của người lái đò Sông Đà quả là
một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên … Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.” Sau khi phân
tích xong hết về con sông mình sẽ quay lại học nha.

c. Con sông Đà thơ mộng, trữ tình:


Bằng sự quan sát tài tình và khả năng vận dụng ngôn ngữ độc đáo, nhà văn
Nguyễn Tuân đã ngắm nhìn dòng sông ở nhiều góc độ khác nhau, tạo nên
những lăng kính đa chiều thú vị, giúp người đọc có một điểm nhìn toàn diện
về Sông Đà:
“Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần…”
- Từ trên cao nhìn xuống:
+ Sông Đà mang một diện mạo hoàn toàn khác với chân dung của con thủy
quái hung tợn:
“Tôi có bay tạt ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một
góc độ nhìn một cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình.” → Một lần
nữa, sự say mê mà văn nhân dành cho Sông Đà lại được khẳng định, khi dù ở
bất cứ nơi đâu, chỉ cần có cơ hội được ngắm nhìn Đà giang là ông sẽ chẳng thể
bỏ lỡ. Câu văn dường như cũng thấp thoáng niềm vui, sự mừng rỡ của người
nghệ sĩ ấy khi “thêm cho mình một góc độ nhìn một cách nhìn” về con sông
ông đã đem lòng thương.
➔ Để đem tới một góc nhìn, một cách nhìn trọn vẹn nhất về dòng sông ấy,
văn nhân đã khái quát lại hai nét tính cách nổi bật nhất của sông Đà
với năm chữ ngắn gọn: “hung bạo và trữ tình”.

11 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
12 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

+ Nhà văn đã mở rộng trải nghiệm cho bạn đọc khi khắc họa một góc nhìn
mà không phải ai cũng có cơ hội được trông thấy: nhìn sông Đà từ trên cao
nhìn xuống.
“Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sông Đà, không ai trong tàu bay nghĩ rằng cái dây
thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính là cái con sông hằng năm và đời
đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi
vô tội vạ với người lái đò Sông Đà.
• Ở góc độ này, dường như cả Nguyễn Tuân và tất cả những người trên
tàu bay đều bất ngờ trước diện mạo của dòng sông Tây Bắc
• Cây bút gọi dòng sông là “cái dây thừng ngoằn ngoèo” – hình ảnh thật bình
dị, gần gũi.
• Cách sử dụng từ ngữ của NT vừa cho thấy tính cách khó chiều của Đà
giang, nhưng phần nào cũng lại bộc lộ tình yêu và sự trìu mến của người
cầm bút khi viết về con sông đó.
“làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc…”
“phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà”

• Đâu chỉ xuất hiện trong cuộc sống đời thường của giai đoạn mới, dòng
sông ấy còn là con sông của câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh,
tượng trưng cho cơn giận dữ của Thủy Tinh – năm nào cũng “báo oán”,
“đánh ghen”, tấn công con người. → Thế nhưng, hóa ra, bên cạnh sự
hung bạo ấy, dòng sông Tây Bắc cũng có thể khoác lên mình một màu
sắc thật dịu ngọt, êm đềm, nhẹ nhàng biết mấy.
• Bên cạnh ngòi bút miêu tả tỉ mỉ, có tính tạo hình cao, khơi gợi trí tưởng
tượng của độc giả; nhà văn còn đan xen trong tùy bút của mình những
câu văn bộc lộ cảm xúc với dòng sông mà ông đem lòng tương tư. Ông
tin rằng: “Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ sông núi, thì mỗi lúc ngồi
trên tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy

12 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
13 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

quen thuộc với từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới
chân mình.” →

+ Lúc này đây, dòng sông Tây Bắc hiện lên với vẻ dịu dàng, duyên dáng của
một người thiếu nữ…
“Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói
núi Mèo đốt nương xuân.”
• Nhà văn sử dụng phép điệp với hai từ “tuôn dài” được lặp lại liên tiếp
→ khắc họa vẻ đẹp miên man của “suối tóc” Đà giang
• Kết hợp với so sánh tinh tế và không kém phần độc đáo: “như một áng
tóc trữ tình”
+) Cách ví von này gợi nhắc đến hình ảnh của một người thiếu nữ
+) Tuy nhiên, nhà văn không viết như cách thông thường là “mái tóc”, mà lại
dùng chữ “áng” – gợi nhắc đến “áng văn”, “áng thơ” →

+) Đó không phải một áng tóc bình thường, mà là một “áng tóc trữ tình” →

+) Trong tác phẩm “Cô Tô", đứng trước một cơn bão lớn đang đổ ập về vùng biển,
Nguyễn Tuân đã nhìn cái sự hâm hấp, oi bức, khó chịu, đùng đục, nồng nồng của Cô
Tô tới hình ảnh của một người con gái: "Chân trời đàng đông, mây xám buông thõng
buông song, như một thần nữ đang bực mình quạt phanh phách hong tóc trên thau
nước gội bồ kết đục ngầu". Có thể thấy, dù đặt bút miêu tả về sự vật thiên nhiên, nhưng
ông luôn đưa về với những liên tưởng gắn liền với chân dung con người – đặc biệt là
những người thiếu nữ với vẻ đẹp đầy sinh động, thu hút của họ.

13 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
14 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

• Nhà văn dùng từ “ẩn hiện”:

• “Áng tóc trữ tình” ấy như được cài thêm sắc trắng tinh khôi thuần khiết
của hoa ban, lại được điểm xuyết màu đỏ rực rỡ của hoa gạo, quyện hòa
trong hương thơm đậm chất núi rừng: “cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xuân”.

- Nhà văn nhận thấy màu nước sông Đà biến đổi theo mùa – nhận ra
những sắc màu của dòng sông ấy, tuyệt nhiên không như người Pháp
mô tả:
Để khắc họa về trải nghiệm và sự quan sát của mình với dòng sông, nhà văn đã
kết hợp giữa kể và tả, lồng ghép cảm xúc của bản thân để khắc họa dòng nước
mùa xuân và mùa thu: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà,
tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà.”
➔ Cái nhìn mà Nguyễn Tuân trao cho Đà giang là ánh mắt say sưa của một “kẻ si
tình”, là sự lãng mạn hóa mọi góc nhìn của mình về dòng chảy mà cây bút đem
lòng yêu. Phải khao khát khám phá mạnh mẽ, phải tương tư dòng sông ấy đến
thiết tha thế nào, ta mới có thể ngắm nhìn nó chăm chú, mê say; ta mới có thể
viết nó một cách tình tứ đến vậy?
+ Mùa xuân: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu
xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô.”
• Màu xanh ngọc bích là sự hòa quyện giữa màu lục và lam, là sự soi chiếu
giữa mặt nước bao la và bầu trời rộng lớn, lại là sắc màu gắn liền với một
loại ngọc quý
• Cảm nhận cá nhân của bạn khi hình dung, tưởng tượng đến sắc xanh
ngọc bích trong trẻo, diễm lệ ấy? (Là sắc xanh giúp ta tìm thấy sự bình yên
trong tâm hồn, như dịu dàng chữa lành những tổn thương nơi trái tim; là sắc
xanh thiên về vẻ cổ điển trầm lắng như đưa ta về những tháng ngày cũ; hay là
sắc xanh đầy mới mẻ, sôi nổi, mang tinh thần hiện đại của giai đoạn xây dựng
đất nước thời kì mới…?)

14 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
15 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

➔ Sắc xanh ngọc bích được khắc họa thật mộc mạc nhưng vô cùng quý phái,
diễm lệ qua góc nhìn của nhà văn Nguyễn Tuân.
• Nhà văn còn khẳng định sắc xanh ấy khác hoàn toàn màu xanh canh hến
dân dã, mộc mạc, bình dị của sông Gâm, sông Lô.

• Trong bài kí “Cô Tô”, văn nhân cũng từng dụng công để khắc họa sắc xanh của
màu nước biển cũng với chất văn giàu sức liên tưởng: "Biển xanh như gì nhỉ?
Xanh như lá chuối non? Xanh như lá chuối già? Xanh như mùa thu ngả cốm
làng Vòng. Nước biển Cô Tô đang đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó
xanh như màu áo Kim Trọng trong tiết thanh minh…" Chỉ một màu xanh thôi,
nhà văn sử dụng một loạt các so sánh, ví von, vừa bình dị gần gũi, lại vừa có
liên tưởng đến các tác phẩm nghệ thuật – qua đó, cũng mở rộng trí tưởng tượng
cùng cảm giác của bạn đọc đến mức tối đa. Quả thật, để bước chân vào những
trang văn của Nguyễn Tuân, độc giả phải sẵn sàng mở tung cánh cửa tưởng
tượng, không nên chỉ cảm nhận theo bề nổi của ngôn từ hoặc tự giới hạn mình
bởi chính những hình dung hạn hẹp của mình.
+ Mùa thu:
“Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa,
lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì đó mỗi độ thu về.”
• Nhà văn sử dụng từ láy kết hợp với phép điệp, từ “lừ lừ” được lặp lại tới
hai lần trong một câu văn ngắn để nhấn mạnh tâm trạng của SĐ khi mùa
thu chạm vào mặt nước. Từ “lừ lừ” ở đây khắc họa hình ảnh một người
lặng lẽ, chậm rãi, có cái nhìn dường như hơi bực bội.
• Tác giả so sánh mặt nước sông với biểu cảm trên khuôn mặt con người,
với trạng thái tâm lý của con người đầy sinh động
+) Khiến cho hình ảnh SĐ trở nên …

+) Màu nước lừ lừ bực bội phải chăng vì ….

+) Gợi nhắc tới mùa thu khi thực dân Pháp xâm lược đất nước, ta buộc phải đón
những vị khách không mời mà tới → dòng sông cũng bày tỏ thái độ không niềm
nở tiếp đón của mình với những kẻ có ý định xâm lược quê hương.

15 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
16 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

→ Nguyễn Tuân bày tỏ quan điểm đầy mạnh mẽ, dứt khoát:
“Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà là đen như thực dân Pháp đã đè ngửa con
sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào
bản đồ lai chữ.”
• “Chưa hề bao giờ” → lời khẳng định của một người nghệ sĩ tương tư Đà
giang, đã tìm hiểu và khám phá kĩ càng về dòng sông đến mức chắc chắn
không thể bỏ lỡ một giây phút nào, một sắc màu nào của con sông Tây
Bắc.
• Câu văn thể hiện rõ thái độ quả quyết và có phần khinh thường, châm
biếm của nhà văn NT với thực dân Pháp: “đè ngửa con sông ta ra mà đổ
mực Tây vào”, “cái tên láo lếu”, “bản đồ lai chữ”.
• Nhà văn gọi sông Đà là “con sông ta”

- Sông Đà gợi cảm như một cố nhân:


+ Dòng sông gợi cảm trong mắt kẻ “si tình”:
“Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sông Đà lại gợi một cách. Đã có lần tôi
nhìn Sông Đà như một cố nhân.
**gợi cảm:

**cố nhân:

• Nhà văn ưu ái dùng một tính từ thật diễm lệ để nói về dòng sông, đó là
“gợi cảm” → Đặc biệt hơn nữa, vẻ đẹp ấy thậm chí có sự thay đổi khi
dòng sông “gặp gỡ” từng người, như NT nhận định: Đối với mỗi người,
Sông Đà lại gợi một cách.
→ Dường như, NT tin rằng, SĐ giống như một cô gái không chỉ có diện mạo
yêu kiều, mà còn có nét duyên dáng trong cách ứng xử, giao tiếp…

16 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
17 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

• Với nhà văn NT, ông coi dòng sông TB như một “cố nhân” của cuộc đời
mình.

• Bên cạnh các yếu tố như miêu tả, biểu cảm; nhà văn Nguyễn Tuân còn
lồng ghép cả tính chất tự sự vào trang viết của mình một cách đầy tự
nhiên để giãi bày trải nghiệm với bạn đọc, đưa bạn đọc bước chân vào kỉ
niệm riêng tư của ông với Đà giang. Đó là một cuộc tái ngộ thật bình dị
mà đáng nhớ: “Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ
thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà.”

• Nhà văn so sánh thật bình dị về trải nghiệm lúc ấy, như cảm giác một
đứa trẻ nghịch gương chiếu sáng vào mắt mình rồi bỏ chạy. →

• Văn nhân đã liên tưởng màu nắng Sông Đà khi ấy với nắng tháng ba
trong thơ Đường, qua đó nhấn mạnh vẻ đẹp cổ điển, thơ mộng, nhuốm
màu thời gian của dòng sông cũng đẹp như những câu thơ xưa cũ vậy.
• Ý thơ của Lí Bạch cũng không chỉ dừng lại ở miêu tả, mà còn có tính tự sự - kể
chuyện, lồng ghép với những xúc cảm của người cầm bút khi tiễn bạn lên đường:
“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”
(Bạn cũ đi khỏi lầu Hoàng Hạc ở phía tây, xuôi xuống Dương Châu giữa tháng ba đang
mùa hoa khói). Nếu xét theo nghĩa thông thường của bản dịch, nhiều độc giả có thể chỉ
cảm nhận hai câu thơ như những câu thơ trần thuật, miêu tả đơn thuần với những

17 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
18 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

thông tin cụ thể đã được xác định rõ ràng: Nơi chia tay là lầu Hoàng Hạc; thời gian là
vào một ngày tháng ba; điểm đến của Mạnh Hạo Nhiên là Dương Châu. Nhưng khi ta
đọc kĩ, khi ta đặt mình vào buổi chia ly ấy, khi ta thấm thía hơn hai chữ “cố nhân”, ta
sẽ cảm nhận được cả một nỗi buồn sâu kín của người cầm bút khi tiễn đưa bạn lên
đường. “Cố nhân” đâu chỉ là từ để dùng gọi một người bạn thông thường, đó hẳn phải
là một người vô cùng đặc biệt, gắn bó sâu sắc thì người viết mới ưu ái gọi họ là “cố
nhân”. Riêng hai chữ ấy thôi đã buồn biết mấy… Để thấy rằng, giữa Nguyễn Tuân với
Đà giang cũng là một tình cảm đong đầy, nâng niu, tha thiết đến như vậy.

+ Niềm vui khi gặp lại “cố nhân”:


“Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con
sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như
gặp lại cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc
dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.”
• Ở câu văn đầu, nhà văn sử dụng phép liệt kê với hình thức câu đặc biệt,
qua đó trải dài trước mắt bạn đọc những sự vật thiên nhiên phong phú,
đa dạng, tràn đầy sức sống quanh dòng sông ấy: đó là bờ, là bãi, là chuồn
chuồn bươm bướm trên sông.
➔ Nhịp điệu chậm rãi, nhẹ nhàng, trìu mến:

• Để rồi sau đó, dòng chảy cảm xúc miên man tuôn trào nơi đầu ngọn bút,
bộc lộ niềm vui vỡ òa của cả người cầm bút và có lẽ của cả dòng sông
ấy trong giây phút tái ngộ tri kỉ của mình: Chao ôi, trông con sông, vui như
thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.
+) Thán từ “Chao ôi” bộc lộ cảm xúc trực tiếp → tình cảm của văn nhân thiết
tha, dạt dào, chẳng thể kìm nén…
+) Nhà văn sử dụng 2 so sánh khắc họa một cách tinh tế nhưng không kém
phần độc đáo, duyên dáng cảm xúc của người nghệ sĩ khi gặp lại con sông
của mình:
vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm

18 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
19 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

vui như nối lại chiêm bao đứt quãng

- Khi đi dạo hai bên bờ, nhà văn ngắm nhìn dòng sông:
+ Vẻ đẹp trầm mặc, sử thi của dòng Đà giang:
“Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời
Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một
nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ
gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh
đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.”
+ Đoạn văn mở đầu bằng một câu văn toàn thanh bằng: “Thuyền tôi trôi trên
Sông Đà.” gợi cảm giác nhẹ nhàng, bình yên, êm ả… Tác giả sử dụng động từ
“trôi” như khắc họa hình ảnh con thuyền thả lỏng mình, buông mình theo làn
nước, để nước sông Đà dịu dàng đưa mình tới đâu thì tới… Hình ảnh con sông
Tây Bắc ở đây sao mà tha thiết, hiền dịu, an toàn quá – như chẳng hề có chút
thử thách nào với con người.
+ Nếu như ở những quãng trên, sông Đà đem tới biết bao thanh âm ghê sợ để
đe dọa, thậm chí uy hiếp con người; thì tới đây, không gian xung quanh dòng
sông như rơi vào sự tĩnh mịch đến tuyệt đối, mọi điều đều chìm trong lặng yên,
hiền hòa. “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng
sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi.”

19 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
20 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

• Từ “lặng tờ” như khắc họa đậm nét sự im ắng của khung cảnh, đồng thời
gợi cảm giác trang nghiêm như đang bước vào miếu, vào đền. →

• Cái “lặng tờ” ấy còn được Nguyễn Tuân nhấn mạnh tới hai lần, trong nỗ
lực ngược dòng thời gian để khắc họa sự tồn tại giàu ý nghĩa của Đà
giang qua năm tháng. Từ đời Lí đời Trần đời Lê, dòng sông này đã luôn
hiện hữu hiền hòa đến như vậy. →

Nghĩ về hai từ "lặng tờ", ta còn nhớ đến nữ sĩ Hồ Xuân Hương với cảm nhận đầy nhẹ
nhàng cũng về cái lặng im của cảnh vật, của dòng sông: "Trắng xóa tràng giang phẳng
lặng tờ". Dường như, chỉ có hòa vào sự lặng lẽ, tĩnh lặng trong tâm tư, ta mới có thể
cho mình một cơ hội để nhìn sâu vào bên trong chính mình, để mình được nép vào
những êm ái của cảnh vật, được quên đi những ồn ã bộn bề ngoài kia mà tìm ra được
những câu trả lời mình vẫn luôn khao khát.
➔ Nhà văn NT như quay trở về với quá khứ của dân tộc, không chỉ bày tỏ
sự say mê dành cho Đà giang mà còn là niềm tự hào, biết ơn vô tận với
những điều đã qua, với những thế hệ đi trước, với những dấu mốc vàng
son nơi trang sử hào hùng.
+ Nhà văn tiếp tục đưa nét cọ của mình để phác họa cảnh vật đôi bờ, tạo nên
một bức tranh thơ mộng mà căng tràn nhựa sống. Dường như, mọi sự vật thiên
nhiên qua con mắt của NT đều đang tràn đầy sức sống: cỏ gianh đang ra nõn búp
đầu mùa, nương ngô nhú lên mấy lá ngô non, đàn hươu thì cúi đầu ngốn búp cỏ gianh
đẫm sương đêm…

+ Tác giả sử dụng hai hình ảnh so sánh liên tiếp kết hợp phép điệp để khắc họa
rõ nét vẻ đẹp trầm mặc, sử thi, giàu cảm xúc của dòng sông. Điều thú vị là nhà
văn không sử dụng phép so sánh để cụ thể hóa sự vật như thường thấy, mà

20 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
21 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

ông lại mượn những liên tưởng để thơ mộng hóa, lãng mạn hóa, trừu tượng
hóa một sự vật cụ thể: bờ sông.
“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử.” →

Đó phải chăng cũng tựa như vẻ đẹp đầy ngây thơ mà mãnh liệt của sông Hương ở
thượng nguồn, qua ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường bỗng biến thành “một cô gái
Di-gan phóng khoáng và man dại”? Dường như, hai dòng sông dẫu có rất nhiều điểm
khác biệt, nhưng chung một sự thu hút ở chính vẻ đẹp nguyên sơ nhất – vẻ đẹp do bàn
tay tạo hóa khắc tạc nên.
“Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.” Một sông Đà nhuốm màu
thời gian nhưng không vì thế dòng sông trở nên “già nua” hay “cũ kĩ”. Nhà
văn khẳng định vẻ đẹp của bờ sông vẫn hồn nhiên, ngây thơ, trong trẻo, thuần
khiết. Ông ví đó với “một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

Không phải chỉ một mình Nguyễn Tuân tìm thấy những kí ức cũ khi soi mình vào dòng
nước. Dường như, trong thi ca, những dòng sông cũng đóng một vai trò đặc biệt, đó
là chuyên chở những hoài niệm mà con người chẳng muốn lãng quên. Như Tế Hanh
đã từng bộc bạch đầy xúc cảm trong thi phẩm “Nhớ con sông quê hương”:
“Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỉ niệm giữa dòng trôi?”
Người cầm bút cũng tin rằng dòng sông quê hương sẽ giữ lại bao tháng năm trôi qua
trong chính dòng chảy của mình, để những kỉ niệm được vương mắc lại giữa dòng mà
không bao giờ phai mờ theo năm tháng. Có lẽ đò là lý do mà cũng trong bài thơ này,
cây bút đã khẳng định dòng sông ấy chính là “Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ”.

21 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
22 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

Khao khát hướng tới sự đổi mới trong tương lai của quê hương, đất nước – khiến
ở giữa không gian tĩnh lặng ấy, Nguyễn Tuân bỗng “thèm được giật mình” vì
một thanh âm náo động hơn – như mộng mơ hướng về sự huyên náo của thời
đại. Từ giấc mơ về một bờ tiền sử hoang dại, nhà văn đưa người đọc đến giấc
mơ về một tương lai huy hoàng, rực rỡ:
“Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp – lê của một chuyến xe lửa
đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung
khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn
tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông
khách Sông Đà, có phải ông vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”
+ Thán từ “Chao ôi” mở đầu câu văn như bộc lộ nỗi lòng dạt dào của người
cầm bút, chẳng thể kìm nén hay giấu diếm. Ở giữa cái tĩnh lặng của quá khứ, ở
giữa những mênh mông của nỗi niềm cổ tích tuổi xưa ngây dại, nhà văn vẫn
hướng lòng mình – hướng ngòi bút mình về sự phát triển của quê hương trong
thì tương lai, với dấu hiệu là tiếng còi của chuyến xe lửa đầu tiên.
+ Phải chăng đó là những chuyến xe lên Tây Bắc để xây dựng quê hương, để
kiến thiết cuộc sống mới, để đưa đời sống con người lên một nấc thang cao hơn
nữa?
➔ Nhà văn thèm được giật mình giữa một không gian đang chìm trong tĩnh
mịch, như khao khát về một cái gõ cửa đầy háo hức, hăng say của tương
lai rực rỡ đang tới…
+ Ở đoạn trên, nhà văn vẽ nên một bực họa tràn đầy sức sống với các sự vật
thiên nhiên đang trong độ trẻ trung nhất. Trong đó có hình ảnh đàn hươu đang
ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Đến đây, cây bút đã tạo nên một sự kết nối
thật tự nhiên giữa một con hươu với “tôi” đang ngồi trên thuyền trôi trên dòng
sông ấy. “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn
tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò.”

+ Vậy nên, bằng tiếng nói riêng của mình, nó mới có thể cất lên một câu hỏi
trong tâm tưởng của người cầm bút: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông vừa
nghe thấy một tiếng còi sương?”

22 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
23 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

Để rồi sau đó, tiếng cá đập nước khiến đàn hươu bỏ chạy, và khiến ông khách
Sông Đà cũng như sực tỉnh mà quay về với thực tại – với dòng nước trôi êm ả,
lặng tờ:
Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập
nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước
lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen
biết” (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác
xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những
giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy
buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.”

+ Nối tiếp những sự vật trong bức tranh thiên nhiên về dòng sông Tây Bắc, nhà
văn khắc họa hình ảnh đàn cá dầm xanh cũng đang trong trạng thái vận động,
với sắc trắng như bạc rơi thoi – điểm xuyết cho không gian sông nước. “Tiếng
cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến.”

+ Đến đây, văn nhân nhớ tới hình ảnh sông Đà trong khắc họa của Tản Đà
Nguyễn Khắc Hiếu – một người bạn thơ mà ông luôn trân quý ngoài đời.
Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu
tình” của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà).

23 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
24 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

+ Nhà văn đã nhân cách dòng sông xuyên suốt tùy bút của mình, khắc họa sông
Đà như một sinh thể độc lập, có cá tính, có xúc cảm, có linh hồn. Dòng sông ấy,
kể cả khi ở quãng hạ lưu, vẫn nhung nhớ những thác đá xa xôi trên thượng
nguồn Tây Bắc.

+ Dòng sông cũng “như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”,
cũng đang nghiêng mình để đón nhận và chắt chiu những thanh âm thường
nhật của cuộc sống, của con người.

+ Trên dòng chảy ấy đâu chỉ có chiếc thuyền chứa đầy những đam mê khám
phá của “tôi”, mà còn có “những con đò mình nở chạy buồm vải”. Không gian
dường như cũng tấp nập hơn, sôi động hơn với sự tham gia của con người, trở
thành một phần trong bức tranh xây dựng cuộc sống thời kì mới mà sông Đà
góp một phần quan trọng.
+ Quả thật, những dòng sông đã đi vào thi ca, đi vào tâm hồn con người một cách thật
đặc biệt. Chúng không chỉ là sự vật thiên nhiên đơn thuần, vô tri vô giác, mà còn là
người bạn của con người, còn là một tấm gương đặc biệt để ta soi chiếu bản thân và
tìm thấy những điều mình luôn trông ngóng. Trong thi phẩm “Tôi thấy mình…”, nhà
thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã mở đầu các khổ thơ một cách đầy chiêm nghiệm: “Tôi thấy mình
như bầu trời thấy mình qua dòng sông”. Chỉ có dòng sông mới đủ bao la để chứa đựng
cả bầu trời. Chỉ có dòng sông mới đủ rộng lớn để bầu trời soi mình vào đó. Và có lẽ
cũng chỉ có dòng sông, qua ngòi bút của nữ thi sĩ, mới đủ mãnh liệt và bao dung để
“tôi” soi chiếu chính mình.

2. Diện mạo dòng sông trong cuộc đấu tranh khốc liệt với người lái đò:
“Cuộc sống của người lái đò Sông Đà … tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở dưới
chân thác.”

24 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
25 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

- “Một thứ kẻ thù số một”:

“Cuộc sống của người lái đò Sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với
thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và
tâm địa một thứ kẻ thù số một… → câu văn đầu tiên này các bạn hoàn toàn có
thể đưa vào phân tích ngắn gọn trong đoạn khái quát về ông đò trước khi đi
vào phân tích đoạn trích đề cho, kể cả khi đề không cho đoạn này

Nhìn cái thiên nhiên ấy, có những lúc thấy nó không “thơ đời Đường” nhàn hạ, mà
thấy nó chính là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó
về tay mình. Tôi xin ghi ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò
trên chiến trường Sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận Sông Đà.

+ Nhà văn tái hiện một cách khái quát và thật cô đọng về cuộc sống lao động
của ông đò Lai Châu qua cụm từ: “một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên”.

• “một cuộc chiến đấu”


• “hằng ngày”
• Cũng trong câu văn này, nhà văn đã thật tinh tế khi sử dụng từ “Cuộc
sống” chứ không phải từ “Công việc”.

+ “Đối thủ” của ông lão không phải là một dòng sông êm ả, hiền hòa, dễ dàng
để chinh phục. Đó là sông Đà hung bạo, dữ dội, mang diện mạo và tâm địa một
thứ kẻ thù số một.

+ Công việc của ông đò không chỉ là lái đò qua sông, mà còn là giao tranh trực
tiếp với thiên nhiên Tây Bắc để giành sự sống từ tay nó về tay mình.

25 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
26 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

- Trận địa thác đá được dàn bày để uy hiếp con người, bắt đầu với những
thanh âm vô cùng khó chịu của tiếng nước thác:

“…Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại
réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi
lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một
ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá
tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.” (một ngàn
con trâu mộng đang chạy khỏi một đám cháy rừng)

+ Cấu trúc “Còn xa lắm… Nhưng đã thấy tiếng nước…” cho độc giả cảm nhận
được rõ nét về âm lượng khủng khiếp của tiếng nước thác, kể cả khi con người
chưa trực tiếp đối diện với thác dưới.

+ Nhà văn sử dụng động từ “réo” lặp lại hai lần kết hợp với hai chữ “mãi”
khắc họa một tiếng kêu to, vang khắp núi rừng, đồng thời bộc lộ thái độ không
hề niềm nở đón chào của con sông Tây Bắc dành cho con người.

+ Nhà văn sử dụng một loạt so sánh để khắc họa các cung bậc khác nhau của
tiếng nước, mỗi thanh âm dường như đều đem theo thái độ, biểu cảm riêng
biệt của dòng sông ấy:

• Oán trách:
• Van xin:
• Khiêu khích:

+ Nhà văn bất ngờ phóng to âm thanh đến hết cỡ, qua đó khuếch đại cả nỗi sợ
của con người khi đối diện với cơn phẫn nộ, giận dữ từ thiên nhiên:

• Không chỉ còn là “réo”, tiếng nước giờ đây đã “rống” lên những thanh
âm khủng khiếp, đã “gầm thét” để thể hiện những xúc cảm đầy hỗn loạn
của mình.
• So sánh độc đáo, giàu sức liên tưởng: như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa. →

26 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
27 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

➔ Nhà văn lấy hình ảnh sinh động để khắc tạc cụ thể thanh âm, lấy đám
cháy rừng để miêu tả về tiếng thác nước (lấy lửa tả nước), ngòi bút của
ông thật điêu luyện làm sao.
➔ Quả thật, con sông đang liên tiếp tung ra những ngón đòn thanh âm để
uy hiếp tinh thần con người. Nếu như ai không đủ bản lĩnh, chắc chắn sẽ
không dám đi tiếp chặng đường đầy thử thách này.

- Diện mạo những hòn đá:

“Tới cái thác rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân
trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần
có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào
nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn
đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước
chỗ này. Mặt sông càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng nó
đứng nó ngồi nó nằm tùy theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như Sông
Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông.”

+ Nhà văn khắc họa “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá” để khẳng định
một bức tranh hùng vĩ và “đồ sộ” của đá trên dòng chảy Đà giang.

+ Tác giả sử dụng thủ pháp nhân hóa một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt để
biến những hòn đá tưởng chừng vô tri vô giác ấy trở thành những “tay sai”
đắc lực, những “binh lính” tinh nhuệ của “tướng” Đà giang. Chúng sẽ viện
trợ, tiếp tay kịp thời cho trận chiến giữa thiên nhiên và người lái đò.

• ngàn năm vẫn mai phục: nhiệm vụ của những hòn đá suốt bao thế kỉ qua
vẫn luôn là chờ đợi con người để tấn công bất ngờ
• một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền:

• Ông cũng miêu tả đây là một quãng ầm ầm mà quạnh hiu

27 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
28 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

+ Khuôn mặt những hòn đá cũng được khắc họa chi tiết và dí dỏm thông qua
những từ láy như “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm méo mó”, qua đó khắc họa bản
tính khó bảo, cứng đầu, ngông nghênh của đá.

+ Mới nhìn, tưởng là những hòn đá chỉ được sắp xếp một cách ngẫu nhiên bởi
bàn tay của tạo hóa, nhưng Nguyễn Tuân lại tin rằng chính sông Đà đã giao
việc cho mỗi hòn →

- Thạch trận trên sông và âm mưu của “thủy quái” Đà giang:

“Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền,
một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá
dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng
chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến
giữa rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vô hồi lại. Nếu lọt vào đây rồi mà cái
thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke
chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải
tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở dưới chân thác.”

+ Mục đích của đám tảng đám hòn: “đòi ăn chết cái thuyền” →

➔ Đối thủ của ông đò Lai Châu là sông Đà cùng những “tay sai” của nó,
không chỉ có sức mạnh khủng khiếp mà còn có âm mưu, sự tính toán,
những chiến lược trong bày binh bố trận. Chúng giăng mắc những
“thành lũy” trong trận địa của riêng mình để con thuyền đơn độc kia
không còn sự lựa chọn nào khác, bắt buộc phải đối đầu với một cuộc giáp
lá cà khập khiễng về thế lực đôi bên.
+ Từng đá to đá nhỏ đều được đặt vào một vị trí cố định theo tính toán của Đà
giang: Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai
đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa. Tưởng là có chỗ sơ hở để

28 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
29 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

người lái đò băng qua, nhưng thực chất lại chỉ là một cái “bẫy” để “dụ” người
lái đò đi thuyền vào – rồi luồng nước sóng sẽ đánh khuýp quật vu hồi lại

+ Thậm chí, Đà giang còn lên sẵn phương án dự phòng cho những tình huống
có thể xảy ra: Nếu chiếc thuyền đơn độc ấy vượt qua được tuyến hai, tuyến ba
của thiên nhiên sẵn sàng vào vị trí: nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài
đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất
cả thuyền trưởng thủy thủ ngay ở dưới chân thác.” →

3. “Cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về tay
mình” - trên “quãng thủy chiến ở mặt trận Sông Đà”: (3 vòng trùng vi
thạch trận)
Hình tượng người lái đò – tượng trưng cho “thứ vàng mười đã qua thử lửa”
ở tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền núi sông
hùng vĩ, thơ mộng ấy:
a. Lời đề từ
“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”
Tác giả bày tỏ thái độ ngợi ca, trân trọng với “tiếng hát trên dòng sông”:
+ “Tiếng hát” ấy có thể là những thanh âm dịu dàng, xôn xao của thiên nhiên
+ “Tiếng hát” ấy cũng có thể là những giai điệu, lời ca mà người lao động cất
lên trên những chuyến đò vượt sông nước. Tiếng hát ấy bộc bạch tình yêu lao
động, niềm say mê công việc của mình, cũng như sự lạc quan – yêu đời của
những người ngày ngày chèo thuyền qua sông. Tiếng hát ấy cũng như tiếp

29 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
30 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

thêm sức mạnh, động lực cho họ vượt qua mọi thử thách trên con đường mà
mình đã chọn.
➔ Dường như, tiếng hát ấy đã trở thành linh hồn của dòng sông, hình tượng
con người lao động đã trở thành trung tâm của bức tranh thiên nhiên
khoáng đạt, rộng lớn. Ta không còn thấy hình ảnh con người bơ vơ, cô
độc, bé nhỏ trước vũ trụ bao la, rộng lớn như trong văn học trung đại;
mà giờ đây, là hình tượng con người vươn lên chinh phục thiên nhiên,
làm chủ cuộc sống của chính mình.

b. Cuộc chiến đấu cam go của ông đò qua 3 vòng trùng vi thạch trận:
Trùng vi: vòng vây có nhiều lớp
Thạch trận: trận địa được bố trí bằng đá

b.1 Vòng trùng vi thạch trận thứ nhất


“Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo
hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trong
nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi
giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến
gần vào. Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng
vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên
cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối
vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như
đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la
não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất
chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc loà sáng lên như
một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén
vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng
đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn
chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ
huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng
thứ nhất.”

- Bản chất, đây vốn là một trận chiến không cân sức.

30 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
31 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

- Ngay từ đầu, sông Đà đã chủ động tấn công và chiếm ưu thế lớn:
+ Ngay khi “cái thuyền vụt tới”, đúng vào thạch trận vừa được dàn bày xong,
nước và đá sông Đà lập tức vào vị trí, viện trợ cho nhau để sẵn sàng cuộc chiến.
• “nước thác reo hò làm thanh viện cho đá” →

• Nhà văn tiếp tục khắc họa về chân dung của các binh lính đá đã được
sông Đà giao việc cho từng hòn, từng tảng: những hòn đá bệ vệ oai phong
lẫm liệt. Khác hẳn với vẻ ngỗ ngược nhăn nhúm ở đoạn trên, dường như
lúc này, lính của Đà giang mới thực sự bước vào thế lâm trận, vô cùng
nghiêm túc để đối đầu với đối thủ dám cả gan đi vào khúc sông này.

- Trước đợt tấn công dồn dập phủ đầu từ thiên nhiên, trước “sóng trận địa
phóng thẳng vào mình”, ông đò vẫn bình tĩnh giữ chặt mái chèo. Cũng như
câu tục ngữ mà ông cha ta đã răn dạy đời sau: “Chớ thấy sóng cả mà ngã
tay chèo”:

- Thiên nhiên tiếp tục tung ra liên tiếp những đợt tấn công vào thẳng người
lái đò:

31 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
32 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

+ Mặt nước hò la vang dậy, ùa vào bẻ gãy cán chèo, như lăm le cướp lấy võ khí
duy nhất của đối thủ: Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo võ khí trên cánh tay mình.

• Dường như, Nguyễn Tuân không chỉ là một người ngoài cuộc ghi chép
lại về cuộc vượt thác của ông lão, mà còn

• Bên cạnh đó, đại từ này khiến độc giả có cảm giác như

+ Nhà văn so sánh sóng nước “như thể quân liều mạng”, nghĩa là chúng sẵn
sàng chiến đấu bằng cả sinh mệnh của mình. Chúng lao vào đá trái, thúc gối
vào bụng và hông thuyền. Thậm chí có lúc chúng “đội cả thuyền lên”

+ Tác giả cũng ví von trận chiến như là một trận đấu đô vật, nước như đang
“túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”. Đây quả là một liên hệ thú vị, khiến
cho cuộc chiến đấu giữa thiên nhiên và người lao động hiện lên trên trang văn
như một màn trình diễn đẹp mắt, không chỉ mãn nhãn mà còn có cả những
thanh âm náo nhiệt, sôi động, tưng bừng từ “thanh la não bạt”. Không khí trận
chiến như càng thêm sức sống khi có sự góp mình từ hai nhạc cụ bộ gõ bằng
đồng ấy.
+ Sóng thác tung ra “miếng đòn hiểm độc nhất”, bóp chặt lấy hạ bộ người lái
đò. Nhà văn gọi đó là một luồng nước “vô sở bất chí” nghĩa là không biết thế
nào là cùng, không sợ bất cứ điều gì và cũng chẳng có giới hạn nào cho những
đợt tấn công dồn dập, liên tiếp ấy từ thiên nhiên Tây Bắc. →

32 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
33 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

- Kể cả khi đã bị thương, ông đò vẫn không lung lay tinh thần chiến đấu.
Ông cố nén vết thương, dù cho vết thương ấy khiến ông đau đớn đến
mức “mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng
ùa xuống”

 Nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa sông Đà và người lái đò trong mối tương
quan chặt chẽ với nhau để làm bật lên hình ảnh một dòng sông Tây Bắc hung
bạo, dữ dội, hiếu chiến – và hình tượng một người lái đò bình tĩnh, quyết
đoán, bản lĩnh giữa dòng thác dữ. Như trong một bộ phim điện ảnh, “nhân
vật phản diện” càng nguy hiểm bao nhiêu – giá trị của người anh hùng càng
được khẳng định bấy nhiêu. “Nhà biên kịch – đạo diễn” Nguyễn Tuân đã
thực sự tạo nên một thước phim kịch tính, sống động, để ta hình dung được
trận thủy chiến cam go ngay từ vòng trùng vi thứ nhất, để ta run sợ trước
sóng nước Đà giang – và qua đó, càng thêm thán phục, ngưỡng mộ trước
người anh hùng sông nước.

b.2 Trùng vi thạch trận vòng 2


“Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn
chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc
quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra
năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng
thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố
trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là
cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được
cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà

33 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
34 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm
bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn
cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì
ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau
thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt
khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt
xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh trúng vào cửa sinh nó trấn lấy.”

- Câu văn mở đầu đã khắc họa cho độc giả áp lực của một trận thực chiến,
không có lấy một giây một phút ngơi nghỉ, cũng chẳng có đủ thời gian
để chăm sóc vết thương hay tính toán lại về chiến thuật kĩ càng. Mọi thứ
đều phải “luôn”, nghĩa là ngay lập tức tiếp tục chiến đấu, vô cùng gấp
gáp vì thiên nhiên đâu thể chờ đợi đối thủ của nó.
- Thế nhưng, với bản lĩnh và kinh nghiệm chiến đấu dày dặn của mình,
ông đò đã ngay lập tức hoạch định một chiến thuật mới để phá vòng
trùng vây thứ hai. Sự chủ động ấy đến từ chính việc ông đò thấu hiểu
tường tận con sông Tây Bắc:
• nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá
• thuộc quy luật phục kích của lũ đá

- Ở vòng này, sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn và bố trí lệch cửa sinh
so với vòng đầu để đánh lừa con thuyền, nhân mức độ nguy hiểm lên
gấp bội phần.
- Thế nhưng, với kinh nghiệm chiến đấu của mình, ông đò không hề mảy
may run sợ. Lời văn ở đây không chỉ là lời kể kết hợp miêu tả chi tiết,
tỉ mỉ từ văn nhân Nguyễn Tuân, mà còn như lời tự sự đầy chiêm nghiệm
của chính ông đò – đưa ra những quan điểm để truyền cho hậu thế.
Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ.

34 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
35 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

+ Động từ “cưỡi” → gợi cảm giác chinh phục loài thú dữ, chế ngự sự giận
dữ và hung hăng của nó để vươn mình về cửa sinh, vượt qua khỏi những
cửa ải hiểm trở
+ So sánh “như là cưỡi hổ” →

➔ Câu văn giống như một lời khuyên nhủ, chia sẻ “kinh nghiệm trận mạc”
từ một “vị tướng” đã dày dặn sương gió nơi chiến trận. Một khi đã bước
vào trận đấu, đã cưỡi lên “dòng thác hùm beo” là phải chiến đấu tới cùng.
+ Dòng thác ấy vẫn tiếp tục tấn công con người dồn dập, mạnh mẽ, nó “hồng
hộc tế mạnh” – nghĩa là phi nhanh, lao mạnh để tạo nên những đòn đánh
hiểm hóc.
- Nhà văn khắc họa cách người lái đò “cưỡi hổ”:
+ Nắm chặt bờm sóng
+ Ghì cương lái

+ Bám chắc luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh – lái miết một
đường chéo

+ Khi lũ thủy quân định lôi tuột con thuyền về tập đoàn cửa tử, ông đò vẫn nhớ
mặt từng đứa và nhẹ nhàng, khéo léo vượt qua từng cửa ải một. → Cách gọi
“đứa” cho thấy đối với người chỉ huy tài ba và dày dặn kinh nghiệm sông
nước ấy, những hòn đá đó chỉ như một lũ trẻ, không thể nào ảnh hưởng đến
chặng đường băng băng về đích, chinh phục cửa sinh ở vòng trùng vây thứ hai

35 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
36 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

này. Một cách dứt khoát và nhịp nhàng, ông bỏ lại hết cửa tử ở phía sau, đi về
phía sóng thác luồng sinh.

b.3 Trùng vi thạch trận vòng 3


“Còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả.
Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng
thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép.
Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là hết thác.”

- Ở vòng trùng vi cuối cùng, thiên nhiên giăng mắc ít cửa hơn, bên phải
bên trái đều là luồng chết cả. → Cách gọi “luồng chết” chứ không phải
là “cửa tử”

- Ông đò đã đưa ra những quyết định và hành động một cách nhanh gọn,
dứt khoát, mạnh mẽ - bởi lẽ, trong thực chiến, đâu có thời gian cho phân
vân, chần chừ, do dự: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó.

+ Sông Đà tạo ra nhiều thử thách chồng chất, hết lớp này đến lớp nọ, hết cửa
trong rồi lại cửa ngoài → nhưng thuyền vẫn băng qua
+ So sánh: “thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước” như một cách
nhà văn nhấn mạnh rằng động tác của người lái đò không chỉ đòi hỏi tốc độ
nhanh, lực khỏe, mà còn cần sự chính xác đến mức tuyệt đối. Luồng sống duy
nhất ấy chính là “hồng tâm” mà “mũi tên tre” kia cần phải hướng đến. Với sự
điều khiển điêu luyện của người lái đò, mũi tên “vừa xuyên vừa tự động lái được
lượn được” để hoàn thành đúng mục tiêu.

36 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
37 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

- Để rồi cuối cùng, câu văn khép lại vòng trùng vi thứ ba vang lên một
cách ngắn gọn như tiếng chỉ huy tỉnh táo, cô đọng của người cầm lái ấy:
“Thế là hết thác.” →

c. Phản ứng của ông đò sau khi giành chiến thắng trước con thác dữ:
“Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác xèo xèo tan trong
trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống
cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa
khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai
bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải nước đủ tướng dữ
quân tợn vừa rồi. Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ
dội, ngày nào cũng giành lấy cái sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không
có gì là hồi hộp đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo.”

Khi đạt được một chiến tích rực rỡ, ta thường có xu hướng chia sẻ thật nhiều
về những điều bản thân đã làm được; ta tưởng rằng sau khi vượt qua trận chiến
cam go ấy, những người lái đò sẽ tiếp tục trò chuyện về con thác dữ. Thế nhưng,
họ ngay lập tức trở về với nhịp sống bình dị của đời thường…
- Quay trở về sau trận chiến với con thác dữ, “sóng thác xèo xèo tan trong trí
nhớ” →

- Những câu chuyện của người lao động chốn ấy cũng chỉ còn xoay quanh
cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang cá mùa khô, … chứ
tuyệt nhiên chẳng ai nhắc đến việc mình đã chiến thắng sông Đà oanh
liệt đến thế nào.

37 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
38 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

d. Liên hệ mở rộng khi phân tích hình tượng người lái đò:
“Lặng lẽ Sa Pa” – Nguyễn Thành Long
- Nhân vật anh thanh niên
“- Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao xa,
cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này cháu không
nghĩ như vậy nữa. Vả, khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình
được?”
“Ơ, bác vẽ cháu đấy ư? Không, không, đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những
người khác đáng cho bác vẽ hơn.” (sự khiên tốn)
➔ Cơ sở liên hệ:
+ Đều là những người lao động cống hiến âm thầm, lặng lẽ cho quê hương
+ Đều say mê công việc của mình dù phải làm việc một mình, họ coi công việc
là người bạn đồng hành, là tình yêu, là động lực để vượt qua mọi thử thách
+ Đều không tự ngợi ca những cống hiến của bản thân, khiêm tốn nhìn nhận
công việc của mình, coi đó chỉ là những điều bình thường, bé nhỏ.

- Nhân vật người họa sĩ:


“- Tuần lễ này, ở nhà, anh em định làm tiệc tiễn tôi về hưu. Tôi xin anh em hoãn bữa
tiệc đến cuối tuần sau. Đợi tôi đi chuyến “thực tế” này về đã. Đối với một nghệ sĩ,
trong cuộc đời có hai hồi thích nhất, đó là hồi mình còn trẻ và hồi này của tôi. Mình có
thể năng nổ đi, vẽ, như thời thanh niên. Mình có thêm sự chín chắn hồi ấy mình chưa
có. Không bi quan, không ảo tưởng, tôi cho tôi cũng còn được mười năm sống nữa.
Phải vẽ được cái gì suốt đời mình thích, cô nhỉ?”
➔ Cơ sở liên hệ:
+ Cốt cách nghệ sĩ trong tâm hồn những người lao động, ưa khám phá, ưa
những trải nghiệm thực tế, luôn đặt hết tấm lòng vào từng công việc mình lựa
chọn
+ Có thể so sánh với chính nhà văn Nguyễn Tuân – một người nghệ sĩ chân
chính

“Đoàn thuyền đánh cá” – Huy Cận

38 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
39 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,


Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
➔ Cơ sở liên hệ:
+ Sự bền bỉ, chăm chỉ, miệt mài trong công việc lao động thường nhật – ngày
nào cũng sẵn sàng làm việc.
+ “Câu hát” cũng tượng trưng cho tình yêu và sự hăng say trong công việc lao
động (như câu thơ đề từ mà Nguyễn Tuân đã lựa chọn cho tùy bút của mình
để khắc họa về vẻ đẹp của người lái đò)

“Quê hương” – Tế Hanh


"Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm"
➔ Liên hệ về vẻ đẹp của người lao động – những đặc điểm của công việc
trở thành một phần trong diện mạo, ngoại hình của những người dân
luôn nỗ lực cống hiến hết mình để dựng xây quê hương.

“Vượt thác” – Võ Quảng


“Những động tác thả sào, rút sào rập ràng nhanh như cắt. Thuyền cố lấn lên. Dượng
Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn
chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của
Trường Sơn oai linh hùng vĩ”. → vẻ đẹp của người lao động trên sông nước

“Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân


Ta có thể so sánh nhân vật người lái đò với nhân vật Huấn Cao để làm nổi bật
sự tài hoa và thay đổi trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước
và sau Cách mạng tháng 8:
- Nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”:
+ là một con người tài hoa, khí phách hiên ngang bất khuất, “thiên lương” trong
sáng.
+ Vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao là vẻ đẹp lãng mạn, có sức chinh phục, cảm
hóa mãnh liệt đối với những con người có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”.
+ Huấn Cao đối lập sâu sắc với xã hội, trở thành kẻ tử tù của xã hội bất công.
→ Ông là một người phi thường, hiếm thấy khó gặp trên trần gian. Huấn Cao
là con người của quá khứ, của lịch sử, nay chỉ còn “vang bóng một thời’’.

39 | # h o c v a n c o s u o n g m a i
40 | H Ọ C V Ă N C Ô S Ư Ơ N G M A I

- Nhân vật ông lái đò:


+ chỉ là con người bình thường của cuộc sống thường nhật
+ là con người của hiện tại, của hôm nay; đang ngày đêm đem sức lực và trí tuệ
xây dựng quê hương, đất nước.
=> Từ việc tìm hiểu về sự khác biệt trong vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn
Cao so với ông lái đò, chúng ta dễ thấy được sự thay đổi trong cách tiếp cận
con người và ngòi bút của Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng tháng Tám.
Trước Cách mạng, ông mải mê đi tìm về quá khứ, khắc họa chân dung những
con người “đặc tuyển”; còn sau Cách mạng, với niềm tin vào quá khứ - hiện tại
– tương lai, ngòi bút của ông trở nên đôn hậu hơn, đối tượng trong áng văn của
ông là những con người lao động đời thường đang ngày đêm cống hiến cho
non sông xứ sở. → Mặc dù vậy hai tác phẩm “Người lái đò sông Đà” và “Chữ
người tử tù” đều đã nói lên phần nào đặc điểm phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Tuân với sự ổn định lẫn sự vận động trong phong cách ở hai giai đoạn
trước và sau Cách mạng.

40 | # h o c v a n c o s u o n g m a i

You might also like