HNGĐ-TL12

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 26

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NHẤT VÀ THỨ HAI: KẾT HÔN – HUỶ KẾT

HÔN TRÁI PHÁP LUẬT – GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ VIỆC CHUNG SỐNG
NHƯ VỢ CHỒNG
I. Lý thuyết
II. Tình huống
1. Tình huống 1:
Ông Thuận và bà Nga là vợ chồng. Con chung của họ là Bình, sinh năm 1998.
Năm 2016, để được chuyển, nhập khẩu tại thành phố H, ông Thuận bàn với bà
Nga thuận tình ly hôn (giả tạo) và hai người đã được Tòa án có thẩm quyền giải
quyết chấm dứt hôn nhân.
Năm 2017, ông Thuận kết hôn với chị Hằng (2000) rồi chuyển đến làm việc tại
thành phố H.
Tuy nhiên, sau hai năm được cấp giấy chứng nhận kết hôn với chị Hằng, sức khoẻ
ông Thuận suy kiệt. Kết quả xét nghiệm từ cơ sở y tế cho thấy ông Thuận bị nhiễm
HIV mà nguồn bệnh ông bị lây nhiễm là từ chị Hằng.
Tháng 7/2020, ông Thuận chết.
Tháng 12/2020, con đẻ ông Thuận (là Bình) yêu cầu huỷ việc kết hôn đã được xác
lập giữa ông Thuận, chị Hằng với lý do việc kết hôn này trái pháp luật. Đồng thời,
anh Bình còn yêu cầu Toà án phân định 2 tỷ đồng - khối di sản ông Thuận để lại.
Căn cứ tình tiết vụ việc và trên cơ sở quy định của pháp luật, anh (chị) cho biết:
Câu 1: Hành vi kết hôn giữa ông Thuận và chị Hằng có trái pháp luật, CSPL?
Chị Hằng sinh năm 2000. Vậy, vào năm 2017, chị Hằng chỉ mới 17 tuổi. Mà theo
điểm a khoản 1 Điều 8 Luật HNGĐ 2014, một trong các điều kiện để được kết hôn là
nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên. Hành vi kết hôn giữa ông Thuận và chị Hằng là hành vi
trái pháp luật.
CSPL: Điểm b khoản 2 Điều 5, điểm a khoản 1 Điều 8 Luật HNGĐ 2014.
Điều 8 Luật HNGĐ 2014:
1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên.
Điều 5 Luật HNGĐ 2014:
2. Cấm các hành vi sau đây:
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn.
Câu 2: Nếu xác định việc kết hôn giữa ông Thuận và chị Hằng là trái pháp luật,
hãy:
a) Nhận diện, phân tích làm rõ các hành vi kết hôn trái pháp luật.
Theo nội dung tình huống, năm 2017, ông Thuận kết hôn với chị Hằng (sinh năm
2000) khi chưa đáp ứng đủ điều kiện kết hôn vì chị Hằng khi đó chỉ mới 17 tuổi. Theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 của Luật HNGĐ 2014, thì điều kiện về độ tuổi kết
hôn của “nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên”.
Trong trường hợp này, ông Thuận kết hôn với chị Hằng khi chưa đủ điều kiện kết
hôn nên bị xem là hành vi trái pháp luật.
Trường hợp vi phạm này được xem là vi phạm pháp luật về hành vi tổ chức tảo
hôn thuộc diện cấm của pháp luật khi kết hôn (Tảo hôn được hiểu là việc kết hôn khi
chưa đủ tuổi theo quy định của pháp luật).
CSPL: Điểm b khoản 2 Điều 5, điểm a khoản 1 Điều 8 Luật HNGĐ 2014.
Điều 8 Luật HNGĐ 2014:
1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên.
Điều 5 Luật HNGĐ 2014:
2. Cấm các hành vi sau đây:
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn.
b) Cho biết chủ thể có quyền yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật
theo tình huống?
Chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật theo tình huống
là: anh Bình (con đẻ ông Thuận) theo điểm a khoản 2 Điều 10 Luật HNGĐ 2014. Đây
là chủ thể thứ ba, nhằm đảm bảo quyền lợi của mình nên pháp luật cũng quy định họ
có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật. Trong trường hợp này, việc
kết hôn giữa ông Thuận và chị Hằng là trái pháp luật, vì khi kết hôn chị hằng mới 17
tuổi. Tức là vi phạm về độ tuổi kết hôn theo luật định. Nên trong tình huống trên, anh
Bình có thể yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật để đảm bảo quyền lợi cho
mình.
Điều 10 Luật HNGĐ 2014:
2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự,
có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy
định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này:
a) Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ,
con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái
pháp luật;
c) Toà án có thụ lý giải quyết huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo yêu cầu?
Vì sao?
Tòa án sẽ thụ lý giải quyết hủy việc kết hôn trái pháp luật theo yêu cầu theo khoản
1 Điều 11 Luật HNGĐ 2014. Vì theo pháp luật hiện hành, căn cứ để hủy việc kết hôn
trái pháp luật bao gồm: kết hôn vi phạm về độ tuổi, sự tự nguyện, nhận thức và vi
phạm các điều kiện cấm kết hôn. Trong tình huống trên, ông Thuận kết hôn với chị
Hằng khi chị Hằng mới 17 tuổi, theo pháp luật họ đã vi phạm về độ tuổi khi kết hôn
“Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên” được quy định tại điểm a khoản 1
Điều 8 Luật HNGĐ 2014. Vì việc kết hôn của ông Thuận và chị Hằng đã vi phạm về
độ tuổi kết hôn nên Tòa án sẽ thụ lý giải quyết hủy việc kết trái pháp luật theo yêu
cầu.
Điều 11 Luật HNGĐ 2014:
1. Xử lý việc kết hôn trái pháp luật được Tòa án thực hiện theo quy định tại Luật này
và pháp luật về tố tụng dân sự.
2. Tình huống 2:
Năm 1990, ông Hoàng cưới bà Anh với sự chứng kiến của hai bên gia đình. Hai
người không có con chung và tài sản chung.
Năm 1994, vì mâu thuẫn, ông Hoàng bỏ nhà đến địa phương khác lập nghiệp.
Năm 1998, ông Hoàng chung sống như vợ chồng với bà Xuân.
Năm 2001, ông Hoàng trúng số 300 triệu đồng và sử dụng số tiền này mua, đứng
tên ngôi nhà số 42/5 đường A, quận B, thành phố G.
Ngày 2/12/2000, ông Hoàng, bà Xuân nộp hồ sơ đăng ký kết hôn. Ủy ban nhân
dân xã H nơi bà Xuân cư trú giải quyết đăng ký kết hôn cho ông Hoàng và bà Xuân
ngày 2/4/2004.
Năm 2019, ông Hoàng yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn giữa ông và bà Xuân
đồng thời phân định tài sản do các bên không thoả thuận được.
Hãy giải quyết yêu cầu của ông Hoàng theo quy định của pháp luật, biết rằng tại
thời điểm giải quyết vụ án, khối tài sản gồm nhà số 42/5 đường A, quận B, thành phố
G được định giá 3,5 tỷ đồng; diện tích 120m2 đất nông nghiệp được nhận chuyển
nhượng từ tiền lương của ông Hoàng vào năm 2016.
Bài làm
Năm 2019, ông Hoàng yêu cầu hủy kết hôn với bà Xuân và phân chia tài sản. Căn
cứ khoản 1 Điều 131 Luật HNGĐ 2014 thì quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập
trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời
điểm xác lập để giải quyết.
 Về quan hệ nhân thân:
Ông Hoàng cưới bà Anh năm 1990 nhưng không đăng kí kết hôn: Căn cứ
NQ35/2000 thì nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ 3/1/1987 trước
1/1/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HNGĐ 1986 thì có nghĩa
vụ đăng kí kết hôn trong thời hạn 2 năm tính đến ngày 1/1/2003. Sau ngày 1/1/2003
mà không đăng kí kết hôn thì pháp luật không công nhận vợ chồng. Mà không có
thông tin cho thấy ông Hoàng và bà Anh có đăng kí kết hôn. Vậy, ông Hoàng và bà
Anh không tồn tại quan hệ vợ chồng.
Vậy ông Hoàng chung sống với bà Xuân như vợ chồng là không thuộc trường hợp
cấm kết hôn quy định tại điểm a Điều 7 Luật HNGĐ 1986 vì ông Hoàng không là
người đang có vợ. Ông Hoàng và bà Xuân đủ điều kiện kết hôn theo Luật HNGĐ
1986. Căn cứ NQ35/2000, thì nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ
3/1/1987 trước 1/1/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Luật HNGĐ
1986 thì có nghĩa vụ đăng kí kết hôn trong thời hạn 2 năm tính đến ngày 1/1/2003.
Ông Hoàng bà Xuân chung sống như vợ chồng từ năm 1998 và nộp hồ sơ đăng kí kết
hôn năm 2000 vậy quan hệ vợ chồng của ông Hoàng và bà Xuân được xác lập vào
năm 1998 (Hôn nhân thực tế).
Việc ông Hoàng yêu cầu hủy việc kết hôn giữa ông và bà Xuân sẽ áp dụng Luật
HNGĐ 1986. Căn cứ tại Điều 40 Luật HNGĐ 1986: “Khi vợ hoặc chồng, hoặc cả hai
vợ chồng có đơn xin ly hôn thì Toà án nhân dân tiến hành điều tra và hoà giải. Trong
trường hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành thì Toà án
nhân dân xét xử. Nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo
dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Toà án nhân dân xử cho ly hôn”.
 Về quan hệ tài sản:
Ngôi nhà số 42/5 được ông Hoàng tạo lập năm 2001, vậy ngôi nhà được tạo lập
trong thời kì hôn nhân. Căn cứ Điều 32 Luật HNGĐ 2000 thì căn nhà trên không là tài
sản riêng của ông Hoàng, vậy phải đưa vào khối tài sản chung để chia.
Diện tích 120m2 đất nông nghiệp được nhận chuyển nhượng từ tiền lương của ông
Hoàng được tạo lập năm 2016 là tài sản hình thành trong thời kì hôn nhân, không có
thỏa thuận giữa vợ chồng đây là tài sản riêng của ông Hoàng. Do đó, quyền sử dụng
đất trên là tài sản chung, được chia theo khoản 2 Điều 62 Luật HNGĐ 2014.
3. Tình huống 3:
Năm 2011, ông Giang và bà Duyên kết hôn theo quy định của pháp luật.
Năm 2014, do bà Duyên biệt tích sau chuyến buôn bán đường xa trên hai năm
chưa về, người thân thích của ông Giang đã “mai mối” bà Tuyết (sinh ngày 2.3.1997,
định cư tại Úc) để ông Giang “se duyên vợ chồng”. Ngày 28/3/2014, Ủy ban nhân
dân xã G, huyện E, tỉnh BT đã cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho ông Giang và bà
Tuyết.
Tháng 5/2015, Tòa án huyện E, tỉnh BT thực hiện thủ tục tố tụng tuyên bố bà
Duyên mất tích theo yêu cầu của ông Giang. Hai tháng sau, Tòa án giải quyết cho
ông Giang được ly hôn bà Duyên. Phán quyết cho ly hôn có hiệu lực ngày 26/7/2015.
Tháng 9/2019, Hội liên hiệp Phụ nữ huyện E yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh BT
hủy hôn nhân của ông Giang và bà Tuyết.
Anh, chị hãy cho biết, Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của Hội phụ nữ
như thế nào cho phù hợp tinh thần pháp luật, biết rằng:
- Tại thời điểm Tòa án giải quyết vụ việc, ông Giang yêu cầu Tòa án giải quyết ly
hôn còn bà Tuyết yêu cầu thừa nhận hôn nhân;
- Ông Giang yêu cầu giải quyết khối tài sản do hai bên không thỏa thuận được gồm
24 chỉ vàng 9999 (số vàng ông Giang và bà Tuyết được mừng cưới năm 2014) và
ngôi nhà diện tích 100m2 trị giá 3 tỷ đồng do ông Giang đứng tên (nhà được mua
bằng số tiền ông Giang trúng số tháng 10/2015).
Bài làm
Xét thời điểm ông Giang và bà Tuyết kết hôn là 28/3/2014 thì ông Giang và bà
Duyên vẫn vẫn chưa có phán quyết ly hôn vì tới 26/7/2015 phán quyết mới có hiệu
lực. Vậy, ông Giang và bà Tuyết đã vi phạm nguyên tắc “một vợ một chồng” theo
điểm c khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ 2014 (Khoản 1 Điều 4 Luật HN&GĐ 2000).
Thế nên, đối chiếu với điểm a khoản 4 Điều 2 TTLT 01/2016 thì ông Giang là người
đang có vợ và đây là căn cứ cho việc kết hôn trái pháp luật. Xét điểm c khoản 2 Điều
4 TTLT 01/2016 thì theo đúng quy định pháp luật, ông Giang yêu cầu ly hôn và bà
Tuyết yêu cầu thừa nhận thì Toà sẽ giải quyết cho ly hôn.
Xét yêu cầu giải quyết khối tài sản của ông Giang thì căn cứ vào điểm c khoản 2
Điều 4 TTLT 01/2016/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BTP, 24 chỉ vàng 9999 (số
vàng ông Giang và bà Tuyết được mừng cưới năm 2014) là quan hệ tài sản từ thời
điểm kết hôn đến trước thời điểm đủ điều kiện kết hôn được giải quyết theo quy định
tại Điều 16 của Luật HN&GĐ 2014. Theo khoản 1 Điều 16 Luật HN&GĐ 2014, trong
trường hợp không thỏa thuận được thì giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự và
các quy định khác của pháp luật có liên quan. Vậy, Toà có thể xem xét phần đóng góp
giữa các bên nhưng theo khoản 2 Điều 16 Luật HN&GĐ 2014 phải đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan
để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập. Còn ngôi nhà diện tích
100m2 trị giá 3 tỷ đồng do ông Giang đứng tên (nhà được mua bằng số tiền ông Giang
trúng số tháng 10/2015) là quan hệ tài sản giữa các bên từ thời điểm đủ điều kiện kết
hôn đến thời điểm ly hôn được giải quyết theo quy định tại Điều 59 Luật HN&GĐ
2014. Nếu bà Tuyết chứng minh được công sức đóng góp của mình trong đó thì sẽ
được chia phần tương ứng.
4. Tình huống 4:
Đủ điều kiện kết hôn theo Luật HNGĐ 1959 nhưng ông Ngon và bà Bông chỉ
sống chung như vợ chồng từ năm 1982, tại phường 5, quận 6 thành phố TH mà không
đăng ký kết hôn. Hai người có khối tài sản chung trị giá 2 tỷ đồng (do bà Bông quản
lý).
Do không thể sinh con, tháng 8/1999, bà Bông đồng thuận để ông Ngon cưới bà
Mùi – người phụ nữ sinh ngày 11/11/1985, thường trú cùng địa phương với ông Ngon
và bà Bông. Sau cưới, ông Ngon, bà Mùi tiếp tục sống chung cùng bà Bông.
Năm 2002, ông Ngon và bà Mùi đăng ký kết hôn. Ngày 12/11/2002, UBND xã KL,
huyện NĐ, tỉnh NA nơi bà Mùi đăng ký tạm trú đã cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho
hai người.
Ngày 20/9/2019, do cuộc sống chung mâu thuẫn, bà Bông yêu cầu Tòa án nhân
dân huyện NĐ giải quyết hủy việc kết hôn giữa ông Ngon và bà Mùi
Hỏi, Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu (hủy việc kết hôn giữa ông Ngon và
bà Mùi) của bà Bông như thế nào, vì sao? Nếu ông Ngon và bà Mùi tranh chấp tài
sản và không thỏa thuận được về quyền lợi con chung thì Tòa án phải giải quyết các
vấn đề này ra sao cho phù hợp với tinh thần pháp luật, biết rằng ông Ngon và bà Mùi
có con chung là Quang, sinh ngày 4/12/2013 và hai bên có khối động sản chung trị
giá 1 tỷ 900 triệu đồng?
Bài làm
Để xét thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn giữa ông Ngon và bà Mùi
của bà Bông, trước tiên cần xác định quan hệ hôn nhân/quan hệ chung sống như vợ
chồng tồn tại giữa 3 người:
- Quan hệ giữa ông Ngon và bà Bông: Hai người chung sống như vợ chồng từ
năm 1982 nhưng không đăng ký kết hôn, đáp ứng được các điều kiện để được
xem là hôn nhân thực tế: Chung sống với nhau trước ngày 3/1/1987; chung
sống ổn định, không gián đoạn; Như vậy, các yếu tố trên cho thấy quan hệ giữa
ông Ngon và bà Bông đã đạt đủ các tiêu chí để được ghi nhận là quan hệ hôn
nhân thực tế, dù không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn nhưng ông Ngon và
bà Bông được pháp luật công nhận là vợ chồng của nhau.
- Thứ hai, quan hệ giữa ông Ngon và bà Mùi: tháng 8/1999, ông Ngon và bà Mùi
cưới nhau (có sự đồng thuận của bà Bông), đến ngày 12/11/2002, UBND xã
KL đã cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho ông Ngon và bà Mùi - quan hệ hôn
nhân của ông Ngon và bà Mùi được công nhận về mặt pháp lý thông qua Giấy
đăng ký kết hôn và phù hợp điều kiện về hình thức theo pháp luật Hộ tịch. Tuy
nhiên, xét đến điều kiện về nội dung để xác lập quan hệ hôn nhân, căn cứ Điều
10 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về trường hợp cấm kết hôn, trong đó có
trường hợp cấm người đang có vợ/chồng kết hôn với người khác. Theo như
quy định tại Điều 10 và việc xác định quan hệ giữa ông Ngon và bà Bông như
trên thì quan hệ hôn nhân của ông Ngon và bà Mùi vi phạm điều kiện nội dung.
Như vậy quan hệ hôn nhân của ông Ngon và bà Mùi là quan hệ hôn nhân trái
pháp luật.
=> Do vậy, việc giải quyết vấn đề hôn nhân này sẽ dựa trên quy định về giải quyết
quan hệ hôn nhân trái pháp luật theo Luật HN&GĐ năm 2014 (yêu cầu giải quyết phát
sinh vào ngày 20/9/2019).
- Theo điểm a Khoản 2 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014, việc bà Bông (vợ của
ông Ngon) yêu cầu giải quyết hủy việc kết hôn của ông Ngon và bà Mùi là hoàn
toàn phù hợp về chủ thể có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.
- Thẩm quyền giải quyết vụ việc của Tòa án sẽ căn cứ vào Điều 11 Luật HN&GĐ
năm 2014; Điều 12 về vấn đề tài sản, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và các
điều luật dẫn chiếu từ Điều 12 như sau:
 Về quan hệ tài sản, Tòa án sẽ giải quyết theo quy định tại Điều 16 - đầu tiên là
cho các chủ thể tự thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không
được thì Tòa án sẽ tiến hành giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự về
phân chia tài sản chung (Điều 209, Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2015).
 Về quan hệ nuôi dưỡng chăm sóc con chung sẽ giải quyết theo quy định tại
Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014. Ông Ngon và bà Mùi sẽ phải thỏa thuận với
nhau theo khoản 2 Điều 81 Luật này để quyết định người nuôi con.
- Trong trường hợp ông Ngon và bà Mùi tranh chấp tài sản và không thỏa thuận
được quyền lợi con chung thì Tòa án sẽ tiến hành giải quyết dựa trên quy định
của pháp luật như sau:
 Đối với vấn đề tài sản chung của 2 người: căn cứ khoản 1 Điều 16 Luật
HN&GĐ năm 2014, Tòa án sẽ phải giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân
sự và pháp luật khác có liên quan. Do đặc thù của quan hệ hôn nhân trái pháp
luật mà hậu quả pháp lý của việc giải quyết hủy việc kết hôn này sẽ không dựa
theo quy định của Luật HN&GĐ mà tài sản chung của vợ chồng sau khi hủy
kết hôn sẽ giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, trong đó, tài
sản riêng của mỗi người của ai thì trả lại cho người nấy, tài sản chung của 2
người sẽ được chia cho mỗi người theo tỷ lệ đóng góp của từng người vào khối
tài sản chung 1 tỷ 900 triệu đồng, nếu không xác định được thì chia đôi cho
mỗi người 1 nửa (1 tỷ 900 triệu đồng/2=950 triệu đồng/người).
 Về con chung (Quang - sinh 04/12/2013), tính đến thời điểm tranh chấp (2019),
Quang 6 tuổi - chưa thành niên. Ông Ngon và bà Mùi khi không thỏa thuận
được quyền lợi con chung thì theo khoản 2 Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014,
Tòa án sẽ quyết định giao con cho 1 bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về
mọi mặt của con. Bên cạnh đó, căn cứ khoản 1 Điều 82 Luật này, người còn lại
(không trực tiếp nuôi con) phải có nghĩa vụ cấp dưỡng, tôn trọng con.
5. Tình huống 5:
Anh Tâm định cư tại Cộng hòa liên bang Đức từ năm 2000. Năm 2013, trong
chuyến về thăm quê hương, anh Tâm cùng chị Trà (sinh ngày 12/9/1988) quyết định
“kết nghĩa vuông tròn”. Ngày 7/8/2015, Ủy ban nhân dân phường T, quận Y thành
phố H nơi chị Trà cư trú đã cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho anh Tâm và chị Trà
Tháng 11/2016, anh Tâm bàn với chị Trà mua số 11/6 đường TH, phường T, quận
Y trị giá 2,7 tỷ đồng. Do hai bên chỉ có số tiền chung là 100 triệu đồng nên anh Tâm
nhờ thân nhân chuyển từ nước ngoài về số ngoại tệ của anh – tương đương 2,6 tỷ
đồng để mua nhà này (có chứng cứ xác định việc chuyển tiền qua ngân hàng vào tài
khoản ngoại tệ của anh Tâm mở tại Việt Nam)
Năm 2019, do việc chung sống phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, anh Tâm yêu cầu
Tòa án giải quyết cho ly hôn và phân định tài sản.
Từ góc độ pháp lý, anh chị hãy phân tích và lý giải đường hướng xử của Tòa án
có thẩm quyền trước yêu cầu của anh Tâm, biết rằng trong quá trình tố tụng:
i) Chị Trà có nguyện vọng công nhận hôn nhân;
ii) Anh Tâm và chị Trà tranh chấp nhà số 11/6 đường Th, phường T, quận T hiện
do chị Trà đứng tên và trên thực tế, anh Tâm có đồng ý để chị Trà đứng tên trên Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà.
Bài làm
- Căn cứ theo khoản 25 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài và khoản 3 Điều 3 Luật quốc tịch 2008 quy định
kết hôn có yếu tố nước ngoài: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là công
dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”.
- Trong tình huống trên anh Tâm định cư ở tại Cộng hòa liên bang Đức từ năm
2000. Và đến năm 2013 anh Tâm kết hôn với chị Trà. Ngày 07/8/2015, Ủy ban
nhân dân phường T, quận Y thành phố H nơi chị Trà cư trú đã cấp Giấy chứng
nhận kết hôn. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh Tâm và chị Trả là quan hệ hôn
nhân có yếu tố nước ngoài (giữa công dân Việt Nam với người Việt Nam định cư
ở nước ngoài).
- Căn cứ theo khoản 1 Điều 19 NĐ 126/2014 quy định thẩm quyền đăng ký kết hôn
có yếu tố nước ngoài: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi đăng ký thường trú của
công dân Việt Nam, thực hiện đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài, giữa công dân Việt Nam với nhau mà ít nhất một bên định cư ở nước
ngoài". Theo quy định này thì thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài
là UBND cấp tỉnh. Như vậy trong tỉnh huống trên quan hệ hôn nhân giữa anh Tâm
và chị Trà đã vi phạm thẩm quyền đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.
Căn cứ theo khoản 3 Điều 3 TT01/06, Điều 9, Điều 13 Luật HN&GĐ năm 2014
thì việc kết hôn giữa anh Tâm và chị Trả không có giá trị pháp lý. Tòa án sẽ
không công nhận quan hệ vợ chồng.
- Giải quyết tài sản:
 Căn cứ theo khoản 3 Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT–TANDTC-
VKSNDTC–BP ngày 06/01/2016. Và bản chất tài sản, căn cứ theo Điều 209
Bộ luật Dân sự năm 2015 về sở hữu chung theo phần. Và căn cứ theo Điều 219
Bộ luật Dân sự năm 2015 về chia tài sản thuộc sở hữu chung sẽ phân chia theo
mức độ đóng góp của các bên.
 Trong tình huống trên cho thấy, tổng số tiền mua nhà là 2,7 tỷ đồng, trong đó
số tiến chung của anh Tâm và chị Trả là 100 triệu đồng sẽ được chia đôi, mỗi
người sẽ được 50 triệu đồng. Và do không đủ tiền nên anh Tâm đã nhờ người
thân chuyển tiền từ nước ngoài về số ngoại tệ của anh – tương đương 2.6 tỷ
đồng. Việc chuyển tiền này có chứng cứ xác minh. Nên số tiền này sẽ là tài sản
riêng của anh Tâm.
III. Bản án
1. Bản án 1
Đọc Bản án số 04/2019/HNGĐ-ST về “Hủy kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc
nuôi con chung” ngày 16 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh
C” và bình luận đường lối giải quyết vụ việc của Tòa án trên cơ sở áp dụng pháp luật
(có đối chiếu pháp luật hiện hành) về căn cứ hủy hôn (i), chủ thể yêu cầu hủy hôn (ii),
thẩm quyền giải quyết (iii) và hậu quả pháp lý việc hủy kết hôn trái pháp luật (iv).
Ngày 16 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố C, tỉnh C xét
xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 92/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm
2019 về: “ Hủy kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc nuôi con chung theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 04/2019/QĐXX-ST ngày 20 tháng 9 năm 2019 giữa các đương
sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị A, sinh năm 1992. Nơi ĐKHKTT: Số nhà 1110,
Tầng 11, Tòa nhà C, Đường 70, Phường M, Quận N, Thành phố H. 2.
2. Bị đơn: Anh Đoàn Văn B, sinh năm 1986. Nơi ĐKHKTT: Số nhà 1110, Tầng
11, Tòa nhà C, Đường 70, Phường M, Quận N, Thành phố H. Chỗ ở hiện nay: Số nhà
516, đường T, Tổ 6, phường T, thành phố C, tỉnh C.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân phường T, thành phố
C, tỉnh C. Địa chỉ trụ sở: Tổ 9 phường T, thành phố C, tỉnh C. Người đại diện theo
pháp luật: Ông Đoàn Văn C – Chức vụ: Chủ tịch. Người đại dại theo ủy quyền: Ông
Vàng Văn D – Phó chủ tịch (Theo văn bản ủy quyền tham gia tố tụng ngày 26 tháng 8
năm 2019 của Chủ tịch UBND phường T, thành phố C, tỉnh C). Địa chỉ: Bản M,
phường T, thành phố C, tỉnh C (Các đương sự đều có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai trong quá trình tố tụng
và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị A trình bày: Chị kết hôn với anh Đoàn Văn
B kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc, trước khi kết hôn chị và anh B đã
có thời gian tự do tìm hiểu và yêu thương nhau, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới
theo phong tục. Có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thị xã C (nay là
thành phố C), tỉnh C theo Giấy chứng nhận kết hôn số 59, Quyển số 01/2008 ngày 07
tháng 7 năm 2008 của Ủy ban nhân dân phường T, thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh
C, ghi chị sinh ngày 27/12/1992 và anh B sinh ngày 15/3/1986. Chị và anh B chung
sống với nhau được khoảng 6 năm, đến năm 2014 do mất giấy ĐKKH năm 2008 nên
chị và anh B tiếp tục đi đăng ký kết hôn lần hai mà không khai tình trạng hôn nhân tại
Ủy ban nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh C nên được cấp Giấy chứng nhận kết
hôn số 09, Quyển số 01/2014 ngày 10 tháng 3 năm 2014 của Ủy ban nhân dân
phường T, thành phố C, tỉnh C ghi chị sinh ngày 27/12/1989, anh B sinh ngày
15/3/1985 là không đúng năm sinh của chị, của anh B.
Thời gian đầu chị chung sống với anh B hạnh phúc, thời gian từ tháng 3 năm
2017 đến nay hai vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm
và cách làm ăn, chị thấy cuộc sống chung không có hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng
trầm trọng dẫn đến chị và anh B đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2017. Tại thời điểm
đăng ký kết hôn năm 2008 chị chưa từ 18 tuổi trở lên, do thiếu hiểu biết về pháp luật
nên chị đã tự ý sửa năm sinh trên bản sao giấy khai sinh của chị và không ai biết việc
chị tự sửa năm sinh của chị.
Đến nay chị nhận thức được việc chị và anh B đăng ký kết hôn vào năm 2008 khi
chị chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn (chị chưa từ 18 tuổi trở lên); do mất giấy đăng ký kết
hôn năm 2008 nên năm 2014 chị và anh B tiếp tục đi đăng ký kết hôn mà không khai
rõ đã kết hôn năm 2008. Tuy nhiên đăng ký kết hôn năm 2014 ghi không đúng năm
sinh của chị và anh B. Đối chiếu các giấy tờ hiện nay trong sổ hộ khẩu gia đình của
chị, anh B, giấy khai sinh của chị và giấy chứng minh nhân dân của chị, giấy chứng
minh nhân dân của anh Đoàn Văn B, xác định chị sinh ngày 27/12/1992 và anh B
sinh ngày 15/3/1986 đều không khớp với đăng ký kết hôn nhưng khớp với giấy khai
sinh của con nên chị tự xác định cả hai lần đăng ký kết hôn của chị và anh B đều trái
quy định của pháp luật và hiện tại vợ chồng không muốn chung sống với nhau nữa
nhưng anh B không nhất trí về việc hủy kết hôn trái pháp luật, do đó chị đã viết đơn
khởi kiện đề nghị Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa chị và anh Đoàn Văn B.
Việc nuôi con chung: Chị và anh Đoàn Văn B có 02 con chung tên Đoàn Thị L,
sinh ngày 13/12/2008 và Đoàn Văn K, sinh ngày 12/01/2015. Trước khi nộp đơn khởi
kiện và trong quá trình hòa giải tại Tòa án, chị và anh B đã không thống nhất được
việc nuôi con chung chị có yêu cầu Tòa án giải quyết việc nuôi con chung do chị và
anh Đoàn Văn B đều có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
hai con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
Tại phiên tòa, chị và anh B đã tự nguyện thỏa thuận về việc nuôi con chung nên
chị đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận cụ thể: chị là người trực tiếp
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Đoàn Thị L, sinh ngày 13/12/2008 cho
đến khi con chung đủ 18 tuổi và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Đoàn
Văn B là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Đoàn Văn K,
sinh ngày 12/01/2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và không yêu cầu cấp dưỡng
nuôi con chung.
Việc tài sản chung, nợ chung, cho vay chung: Không có, không yêu cầu Tòa án
giải quyết.
Tại bản tự khai, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, bị đơn anh Đoàn Văn B
trình bày: Anh kết hôn với chị Trần Thị A trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc,
được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân
phường T, thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh C theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 59,
Quyển số: 01/2008 ngày 07 tháng 7 năm 2008. Việc chị A khai chị đã tự ý sửa chữa
năm sinh của chị A thì tại thời điểm đăng ký kết hôn anh không biết do đó anh xác
định kết hôn giữa anh và chị A là hợp pháp nên chị A yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn
trái pháp luật giữa anh và chị A, anh không nhất trí. Tuy nhiên anh có thừa nhận sau
6 năm chung sống, do bị mất đăng ký kết hôn năm 2008 nên đến năm 2014 anh và chị
A tiếp tục đi đăng ký kết hôn lần hai mà không khai tình trạng hôn nhân nên Ủy ban
nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh C đã cấp giấy chứng nhận kết hôn số 09,
Quyển số 01/2014 ngày 10 tháng 3 năm 2014 ghi anh sinh ngày 15/3/1985, chị A sinh
ngày 27/12/1989 là không đúng năm sinh của anh. Quá trình chung sống hạnh phúc,
thời gian sau này hai vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan
điểm sống dẫn đến anh và chị A đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2017 cho đến nay.
Về năm sinh của chị A, trong quá trình tự do tìm hiểu và chung sống anh chỉ nghe
chị A nói chị sinh năm 1989 và anh không biết các giấy tờ khác như sổ hộ khẩu gia
đình (do chung sổ hộ khẩu với bố mẹ anh nên anh không biết), giấy khai sinh, giấy
chứng minh nhân dân của chị Phương Anh nên anh vẫn xác định chị A sinh năm 1989
và đủ 18 tuổi khi kết hôn do đó kết hôn giữa anh và chị A là hợp pháp. Về năm sinh
của anh, anh xác định theo giấy chứng minh nhân dân và hộ khẩu gia đình, giấy khai
sinh của con là anh sinh ngày 15/3/1986 nên trong giấy đăng ký kết hôn năm 2014
ghi sai năm sinh của anh. Hiện tại vợ chồng không muốn chung sống với nhau nữa
nhưng chị A yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật, anh không nhất trí vì anh cho rằng
kết hôn giữa anh và chị A là hợp pháp, nhưng anh nhất trí ly hôn với chị A và đề nghị
Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Việc nuôi con chung: Anh và chị Trần Thị A có 02 con chung tên Đoàn Thị L,
sinh ngày 13/12/2008 và Đoàn Văn K, sinh ngày 12/01/2015. Trước khi nộp đơn khởi
kiện và trong quá trình hòa giải tại Tòa án, anh và chị A đã không thống nhất được
việc nuôi con chung nên anh có yêu cầu Tòa án giải quyết việc nuôi con chung. Tại
phiên tòa, chị và anh B đã tự nguyện thỏa thuận về việc nuôi con chung nên đề nghị
Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận, cụ thể: chị Trần Thị A là người trực tiếp
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Đoàn Thị L, sinh ngày 13/12/2008 cho
đến khi con chung đủ 18 tuổi và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Anh là
người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Đoàn Văn K, sinh ngày
12/01/2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con
chung.
Về chia tài sản chung, nợ chung, cho vay chung: Không có, không yêu cầu Tòa án
giải quyết
Tại bản tự khai, biên bản làm việc giữa Ủy ban nhân dân (UBND) phường T với
các đồng chí nguyên cán bộ công chức UBND phường T, Báo cáo về việc kiểm tra hồ
sơ, sổ lưu trữ đăng ký kết hôn năm 2008, 2014 của UBND phường, trong quá trình tố
tụng và tại phiên tòa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, UBND phường T trình
bày : Ủy ban nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh C có thực hiện 02 lần đăng ký kết
hôn giữa chị Trần Thị A và anh Đoàn Văn B vào ngày 07/7/2008 và ngày 10/3/2014.
Khi chị Trần Thị A và anh Đoàn Văn B đến UBND phường làm thủ tục đăng ký kết
hôn, do cán bộ hộ tịch tư pháp phường đã không kiểm tra đầy đủ giấy tờ thủ tục theo
quy định dẫn đến đăng ký kết hôn trái pháp luật tại thời điểm đăng ký kết hôn chị A
chưa từ 18 tuổi trở lên. Việc đăng ký kết hôn năm 2014, tuy chị Trần Thị A và anh
Đoàn Văn B đã đủ tuổi kết hôn, tuy nhiên UBND phường đã không xác minh tình
trạng hôn nhân, không kiểm tra đầy đủ giấy tờ thủ tục theo quy định dẫn đến việc cấp
giấy chứng nhận kết hôn năm 2014 trong khi giấy chứng nhận kết hôn số 59 ngày 07
tháng 7 năm 2008 vẫn tồn tại và chưa được cơ quan có thẩm quyền xử lý việc hủy kết
hôn trái pháp luật. Ủy ban nhân dân phường đề nghị Tòa án xem xét hủy kết hôn trái
pháp luật giữa chị Trần Thị A và anh Đoàn Văn B đối với hai giấy Chứng nhận kết
hôn số 59 quyển số 01/2008 ngày 07/7/2008 và số 09 quyển số 01/2014 ngày
10/3/2014.
Kết quả xác minh tại UBND phường T, thành phố C, tỉnh C xác định UBND
phường T, thành phố C, tỉnh C có thực hiện 02 lần đăng ký kết hôn cho chị Trần Thị A
và anh Đoàn Văn B. Lần 1 vào ngày 07/7/2008 số 59 quyển số 01/2008 xác định chị
Trần Thị A sinh ngày 27/12/1989 anh Đoàn Văn B sinh ngày 15/3/1985 (trong sổ lưu
đăng ký kết hôn tại phường có sự sửa chữa năm sinh của chị A thành năm 1992, anh
B thành năm 1986); lần 2 vào ngày 10/3/2014 số 09 quyển số 01/2014 xác định chị
Trần Thị A sinh ngày 27/12/1989 anh Đoàn Văn B sinh ngày 15/3/1985. Hồ sơ lưu về
thủ tục kết hôn trên do có sự thay đổi về cán bộ công chức hộ tịch tư pháp phường
nên hồ sơ không còn, hiện Ủy ban nhân dân phường còn lưu sổ đăng ký kết hôn.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh C phát biểu ý
kiến
Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử, quyết
định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm
quyền của BLTTDS; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ
tục đối với quy định về phiên tòa dân sự. Những người tham gia tố tụng đều thực hiện
đúng quyền và nghĩa vụ của mình, chấp hành đúng nội quy phiên tòa.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 9 Luật HNGĐ năm
2000; Các Điều 10, 11, 12, 81, 82, 83 của Luật HNGĐ năm 2014, Các Điều 28, 147
Bộ luật Tố tụng Dân sự; NGhị quyết số 36/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:
+ Hủy kết hôn trái pháp luật giữa chị Trần Thị A và anh Đoàn Văn B, hai bên kết
hôn phải chấm dứt quan hệ vợ chồng.
+ Việc nuôi con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận của chị Trần Thị A và anh Đoàn
Văn B tại phiên tòa: Chị Trần Thị A là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con chung tên Đoàn Thị L, sinh ngày 13/12/2008 cho đến khi con chung đủ 18
tuổi. Anh Đoàn Văn B là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung
tên Đoàn Văn K, sinh ngày 12/01/2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Các bên
không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Chị Trần Thị A và anh Đoàn Văn B
có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
+ Việc chia tài sản chung, nợ chung, cho vay chung: chị Trần Thị A và anh Đoàn
Văn B không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không giải quyết.
+ Án phí: Chị Trần Thị A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của
pháp luật là 300.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về trình tự, thủ tục tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình tranh chấp về
việc: “ Hủy kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc nuôi con chung” nên thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Quá
trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C đã tiến hành các thủ tục
tống đạt các văn bản tố tụng đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các
đương sự tự nguyện thỏa thuận được với nhau về việc nuôi con chung là đảm bảo
theo quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử cần ghi nhận sự thỏa thuận theo
quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa các đương sự đều không có
bổ sung, rút yêu cầu. Do đó Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định chung.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ lời khai của các đương sự, căn cứ các tài liệu,
chứng cứ do nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cung cấp và
do Tòa án thu thập có đủ căn cứ xác định: Chị Trần Thị A và anh Đoàn Văn B kết hôn
với nhau do tự nguyện, không bị ép buộc và được Ủy ban nhân dân phường T, thành
phố C, tỉnh C cấp các giấy chứng nhận kết hôn: số 59 quyển số 01/2008 ngày
07/7/2008 và số 09 quyển số 01/2014 ngày 10/3/2014.
Hội đồng xét xử xét thấy: Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 59 quyển số 01/2008
ngày 07/7/2008 của Ủy ban nhân dân phường T, thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh
C, xác định khi kết hôn chị Trần Thị A, sinh ngày 27/12/1992 chưa đủ tuổi đăng ký kết
hôn (15 tuổi 06 tháng 10 ngày), như vậy việc đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân
phường T, thành phố C, tỉnh C đã vi phạm khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000. Tại khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về kiện
kết hôn như sau: “ Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên” Theo
Giấy chứng nhận kết hôn số 09 quyển số 01/2014 ngày 10/3/2014 của Ủy ban nhân
dân phường T, thành phố C, tỉnh C xác định khi tiếp tục thực hiện đăng ký kết hôn
giữa chị Trần Thị A, sinh ngày 27/12/1989 và anh Đoàn Văn B sinh ngày 15/3/1985,
Ủy ban nhân dân phường T đã không xác minh tình trạng hôn nhân dẫn đến thực hiện
đăng ký kết hôn năm 2014 trong khi chị A và anh B vẫn còn tồn tại giấy đăng ký kết
hôn số 59 ngày 07 tháng 7 năm 2008 mà chưa được cơ quan có thẩm quyền xử lý việc
kết hôn trái pháp luật đồng thời có nhầm lẫn năm sinh của anh Đoàn Văn B, ghi đúng
anh B sinh năm 1986. Nên có đủ căn cứ xác định quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị
A và anh Đoàn Văn B là quan hệ không hợp pháp do vậy không được pháp luật thừa
nhận và bảo vệ. Mặt khác quá trình chung sống chị A và anh B xảy ra nhiều mâu
thuẫn, đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2017 cho đến nay, do đó nhận thấy cuộc sống
vợ chồng không có hạnh phúc. Vì vậy chị Trần Thị A có đơn khởi kiện yêu cầu hủy kết
hôn trái pháp luật là có căn cứ cần được chấp theo quy định tại các Điều 10, 11, 12
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số
01/2016/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BP ngày 06/01/2016.
[3]. Việc nuôi con chung: Anh Đoàn Văn B và chị Trần Thị A có 02 con chung tên
Đoàn Thị L, sinh ngày 13/12/2008 và Đoàn Văn K, sinh ngày 12/01/2015.
Trong quá trình thụ lý, giải quyết và hòa giải tại Tòa án, anh Đoàn Văn B và chị
Trần Thị A đã không thống nhất được việc nuôi con chung nên anh B, chị A có yêu
cầu Tòa án giải quyết việc nuôi con chung. Tuy nhiên tại phiên tòa các đương sự tự
nguyện thỏa thuận được với nhau về việc nuôi con chung và đề nghị Hội đồng xét xử
ghi nhận sự thỏa thuận, cụ thể: Chị Trần Thị A là người trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con chung tên Đoàn Thị L, sinh ngày 13/12/2008 cho đến khi con
chung đủ 18 tuổi; Anh Đoàn Văn B là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
con chung tên Đoàn Văn K, sinh ngày 12/01/2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi;
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Các bên không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung cho
nhau.
Xét thấy việc tự nguyện thỏa thuận của các đương sự không vi phạm điều cấm
của luật và không trái đạo đức xã hội là đảm bảo theo quy định của pháp luật nên
Hội đồng xét xử cần ghi nhận sự thỏa thuận trên theo quy định tại Điều 5 Bộ luật tố
tụng dân sự. Về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con được quy định tại các Điều
69, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Chị Trần Thị A, anh Đoàn Văn B
có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở anh B, chị Phương
Anh thực hiện quyền này.
[4]. Việc chia tài sản: Tài sản chung, nợ chung, cho vay chung chị Trần Thị A,
anh Đoàn Văn B tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét
xử không xem xét.
[5].Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị A phải chịu 300.000 đồng án phí theo
quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30
tháng 12 năm 2016.
[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được kháng cáo Bản án theo quy định tại
Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
[7]. Kiến nghị đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Ủy ban nhân dân
phường T, thành phố C, tỉnh C.
Từ nội dung vụ án trên, Hội đồng xét xử kiến nghị Ủy ban nhân dân phường T
cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ công chức,
viên chức thuộc phạm vi UBND phường quản lý để kịp thời phát hiện sai sót, khắc
phục, xử lý theo quy định. Nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện
nhiệm vụ đối với công chức thực hiện công tác đăng ký và quản lý hộ tịch
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000; các Điều 10, 11, 12, 69, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm
2014, điểm b khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-
VKSNDTC- BTP ngày 06/01/2016; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm
a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Hủy kết hôn trái pháp luật giữa chị Trần Thị A và anh
Đoàn Văn B, chị Phương Anh và anh B phải chấm dứt quan hệ vợ chồng.
2. Việc nuôi con chung: Áp dụng thêm Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự, ghi nhận sự
thỏa thuận của chị Trần Thị A và anh Đoàn Văn B tại phiên tòa.
Anh Đoàn Văn B và chị Trần Thị A có 02 con chung tên Đoàn Thị L, sinh ngày
13/12/2008 và Đoàn Văn K, sinh ngày 12/01/2015, anh B và chị Phương Anh thỏa
thuận cụ thể:
Chị Trần Thị A là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên
Đoàn Hà Linh, sinh ngày 13/12/2008 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi; Anh Đoàn
Văn B là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Đoàn Quang
Vinh, sinh ngày 12/01/2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung
cho nhau.
Chị Trần Thị A, anh Đoàn Văn B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà
không ai được cản trở anh B, chị Phương Anh thực hiện quyền này.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị A phải chịu 300.000 đồng tiền án phí
dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố C, tỉnh C theo biên lai thu tiền số AA/2010/0004022 ngày
26/7/2019.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên.
Bài làm
 Tóm tắt bản án số 04/2019/HNGĐ – ST ngày 16 tháng 10 năm 2019 của
Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C:
Nguyên đơn: chị Trần Thị A.
Bị đơn: anh Đoàn Văn B.
Nội dung: Chị Trần Thị A sinh ngày 27/12/1992 và anh Đoàn Văn B sinh ngày
15/3/1986 có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thị xã C (nay là thành phố C), tỉnh
C ngày 7/7/2008. Việc kết hôn dựa trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc, được
hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục. Đến năm 2014, vì mất giấy đăng ký
kết hôn năm 2008 nên anh chị tiếp tục đi đăng ký kết hôn lần 2 mà không khai tình
trạng hôn nhân tại UBND phường T, thành phố C, tỉnh C. Nên ngày 10/3/2014, anh
chị được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 09, quyển số 01/2014. Sau một thời gian
chung sống không còn hạnh phúc, thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, chị A và anh B
đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2017. Đến nay chị A nhận thức được việc chị và anh B
đăng ký kết hôn vào năm 2008 khi chị chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn; việc đăng ký kết
hôn năm 2014 không khai rõ đã kết hôn năm 2008 và không ghi đúng năm sinh của
chị và anh B. Sau khi tự đối chiếu với các giấy tờ, chị tự xác định cả hai lần đăng ký
kết hôn đều trái pháp luật và hiện tại hai vợ chồng chung sống không hạnh phúc với
nhau nữa, nhưng anh B không nhất trí về việc hủy kết hôn trái pháp luật, nên chị A đã
viết đơn khởi kiện đề nghị Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa chị và anh
Đoàn Văn B.
Quyết định của Tòa án: Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án quyết định hủy kết hôn trái
pháp luật giữa chị Trần Thị A và anh Đoàn Văn B. Chị Trần Thị A và anh Đoàn Văn
B phải chấm dứt quan hệ vợ chồng.
 Căn cứ hủy hôn:
- Việc đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh C đã vi
phạm khoản 1 Điều 9 Luật HN&GĐ năm 2000. Tại khoản 1 Điều 9 Luật HN&GĐ
năm 2000 quy định về kiện kết hôn như sau: “Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ
mười tám tuổi trở lên”.
- Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 09 quyển số 01/2014 ngày 10/3/2014 của Ủy
ban nhân dân phường T, thành phố C, tỉnh C xác định khi tiếp tục thực hiện đăng
ký kết hôn giữa chị Trần Thị A, sinh ngày 27/12/1989 và anh Đoàn Văn B sinh
ngày 15/3/1985, Ủy ban nhân dân phường T đã không xác minh tình trạng hôn
nhân dẫn đến thực hiện đăng ký kết hôn năm 2014 trong khi chị A và anh B vẫn
còn tồn tại giấy đăng ký kết hôn số 59 ngày 07 tháng 7 năm 2008 mà chưa được
cơ quan có thẩm quyền xử lý việc kết hôn trái pháp luật đồng thời có nhầm lẫn
năm sinh của anh Đoàn Văn B, ghi đúng anh B sinh năm 1986. Nên có đủ căn cứ
xác định quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị A và anh Đoàn Văn B là quan hệ
không hợp pháp do vậy không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
- Mặt khác quá trình chung sống chị A và anh B xảy ra nhiều mâu thuẫn, đã sống ly
thân từ tháng 3 năm 2017 cho đến nay, do đó nhận thấy cuộc sống vợ chồng
không có hạnh phúc. Vì vậy chị Trần Thị A có đơn khởi kiện yêu cầu hủy kết hôn
trái pháp luật là có căn cứ theo quy định tại các Điều 10, 11, 12 Luật HN&GĐ
năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT –
TANDTC – VKSNDTC – BP ngày 06/01/2016.
 Chủ thể yêu cầu hủy hôn: chị Trần Thị A
 Thẩm quyền giải quyết: đây là vụ án Hôn nhân và gia đình tranh chấp về
việc: “Hủy kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc nuôi con chung” nên thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng
Dân sự
 Hậu quả pháp lý:
- Việc nuôi con chung: Anh Đoàn Văn B và chị Trần Thị A có 02 con chung tên
Đoàn Thị L, sinh ngày 13/12/2008 và Đoàn Văn K, sinh ngày 12/01/2015. Chị
Trần Thị A là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Đoàn
Thị L, sinh ngày 13/12/2008 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi; anh Đoàn Văn
B là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Đoàn Văn
K, sinh ngày 12/01/2015 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi
con chung: các bên không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.
- Việc chia tài sản: tài sản chung, nợ chung, cho vay chung chị Trần Thị A, anh
Đoàn Văn B tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét
xử không xem xét.
2. Bản án 2
Đọc quyết định giám đốc thẩm số 04/2021/HNGĐ-GĐT về “Yêu cầu huỷ việc kết hôn
trái pháp luật” ngày 07/7/2021 của Toà án nhân dân tối cao và bình luận về việc áp
dụng pháp luật, tiêu chí xác định hôn nhân thực tế cũng như đường lối giải quyết
quan hệ nhân thân, con chung trong phán quyết của Toà án các cấp.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại Đơn đề nghị hủy việc kết hôn trái pháp luật đề ngày 28/6/2017 và lời khai
trong quá trình tham gia tố tụng của bà Nguyễn Thị S và người đại diện theo ủy
quyền của bà S là chị Lương Thị T trình bày:
Bà S và ông Phạm Bá H chung sống, có tổ chức đám cưới theo phong tục của địa
phương và đã đăng ký kết hôn tại UBND xã (nay là phường) P, thành phố U, tỉnh
Quảng Ninh ngày 23/11/1980. Tháng 4/1981, vợ chồng bà S, ông H sang Hồng Kông
và sau đó được nhập cư tại Canada. Đến năm 2008, vợ chồng bà S, ông H trở về Việt
Nam sinh sống tại nhà số 24, Tổ 14, Khu 03 phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh
(sổ hộ khẩu số 5002964xx ngày 03/11/2014, họ và tên chủ hộ: Phạm Bá H; quan hệ
với chủ hộ: vợ Nguyễn Thị S). Quá trình chung sống, ông bà sinh được 03 người con
chung là anh Phạm Hồng K, sinh năm 1981; chị Phạm Thị Thu H1, sinh năm 1984 và
chị Phạm Thị Thu H2, sinh năm 1991. Hiện tại các con của bà S và ông H đều đang
định cư tại Canada.
Từ năm 2011, khi ông H có quan hệ ngoại tình với bà Nguyễn Thị L thì vợ chồng
bà S và ông H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất hòa. Bà S bị ông H đánh đập, đuổi
ra khỏi nhà, nên bà S đã sang Canada chơi với các con cho khuây khỏa. Mấy tháng
sau, khi bà S trở về thì ông H đã đón bà L cùng con chung của hai người về nhà bà S,
ông H ở và không cho bà S vào nhà mặc dù bà S đã báo với chính quyền địa phương
can thiệp giải quyết. Nay bà S biết được ông H và bà L đã đăng ký kết hôn theo Giấy
chứng nhận kết hôn số 09 ngày 17/4/2017 của UBND thành phố M, tỉnh Quảng Ninh.
Do đó, bà S yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh hủy việc kết hôn trái pháp luật
giữa ông Phạm Bá H với bà Nguyễn Thị L.
Người đại diện theo ủy quyền của UBND thành phố M, tỉnh Quảng Ninh trình
bày:
UBND thành phố M khẳng định thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn và
cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho bà Nguyễn Thị L và ông Phạm Bá H là đảm bảo
đúng quy định của pháp luật. Nay bà S có đơn khởi kiện yêu cầu tuyên hủy việc kết
hôn giữa bà L và ông H là trái pháp luật; nếu có căn cứ thì đề nghị Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ninh giải quyết việc dân sự nêu trên theo quy định của pháp luật.
Tại Quyết định giải quyết việc dân sự sơ thẩm số 01/2018/QĐDS-ST ngày
02/02/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh quyết định:
Chấp nhận yêu cầu “Hủy việc kết hôn trái pháp luật” của bà Nguyễn Thị S.
- Hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa ông Phạm Bá H và bà Nguyễn Thị L theo
Giấy chứng nhận kết hôn số 09 đăng ký ngày 17/4/2017 của UBND thành phố M, tỉnh
Quảng Ninh. Buộc ông H và bà L phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng.
- Giao con chung của ông Phạm Bá H và bà Nguyễn Thị L là cháu Phạm Thành
Đ, sinh ngày 12/12/2015 cho bà Nguyễn Thị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục đến khi cháu Đ đủ 18 tuổi. Ông Phạm Bá H không phải cấp dưỡng nuôi con
chung. Ông H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về lệ phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 23/02/2018, bà Nguyễn Thị L có đơn kháng cáo đối với Quyết định nêu trên.
Tại phiên họp phúc thẩm, ông Phạm Bá H trình bày:
Năm 1980, ông H có quen biết bà Nguyễn Thị S nhưng không có chuyện tổ chức
đám cưới hay chung sống với nhau ngày nào khi ở Việt Nam. Năm 1981, khi sang
Hồng Kông, ông và bà S gặp lại nhau mới trở nên thân thiết, chung sống với nhau.
Mặc dù có con chung nhưng ông bà không đăng ký kết hôn, độc lập kinh tế, tài sản.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào Nghị quyết 35/2000/NQ- QH10 ngày
09/6/2000 của Quốc Hội để xác định giữa ông và bà S là quan hệ hôn nhân thực tế là
không có căn cứ.
Quan hệ hôn nhân giữa ông với bà Nguyễn Thị L là hợp pháp vì hai bên có đăng
kí kết hôn. Trước khi thực hiện thủ tục đăng kí kết hôn, cơ quan có thẩm quyền đã tiến
hành xác minh tại nhiều nơi, trong đó có việc xác minh lãnh sự quán Việt Nam tại
Canada về việc ông chưa đăng ký kết hôn với bất cứ ai, không đang trong thời kỳ hôn
nhân với ai.
Tại phiên họp phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị L là
ông Đặng Thành V trình bày: Đề nghị Tòa án bác đơn yêu cầu của bà S về việc hủy
hôn nhân hợp pháp giữa ông H và bà L. Ông H và bà S có chung sống với nhau ở
Hồng Kông nhưng không đăng ký kết hôn. Năm 2008, ông H về nước trước, ông H và
bà S không chung sống với nhau như vợ chồng ở Việt Nam mà chỉ cùng tổ chức đám
cưới cho các con.
Tại Quyết định phúc thẩm giải quyết việc dân sự số 12/2019/QĐPT-DS ngày
18/9/2019, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã quyết định:
Chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị L và sửa Quyết định giải quyết việc dân
sự sơ thẩm số 01/2018/QĐDS-ST ngày 02/02/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Ninh về việc không chấp nhận yêu cầu “Hủy việc kết hôn trái pháp luật” của bà
Nguyễn Thị S. Công nhận quan hệ giữa ông Phạm Bá H và bà Nguyễn Thị L là quan
hệ hôn nhân hợp pháp, theo giấy chứng nhận kết hôn số 09 đăng ký ngày 17/4/2017
của UBND thành phố M, tỉnh Quảng Ninh.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về lệ phí và chi phí ủy thác tư
pháp.
Ngày 06/02/2020, bà Nguyễn Thị S có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc
thẩm đối với Quyết định phúc thẩm giải quyết việc dân sự số 12/2019/QĐPT-DS ngày
18/9/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, yêu cầu tuyên hủy việc kết hôn
trái pháp luật giữa ông Phạm Bá H và bà Nguyễn Thị L.
Ngày 27/4/2021, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quyết định kháng
nghị giám đốc thẩm số 05/2021/KN-HNGĐ đối với Quyết định phúc thẩm giải quyết
việc dân sự số 12/2019/QĐPT-DS ngày 18/9/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại
Hà Nội về việc “Yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật” giữa người yêu cầu giải
quyết việc dân sự là bà Nguyễn Thị S; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông
Phạm Bá H, bà Nguyễn Thị L và UBND thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Đề nghị Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Quyết định phúc
thẩm giải quyết việc dân sự số 12/2019/QĐPT-DS ngày 18/9/2019 của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội và giữ nguyên Quyết định giải quyết việc dân sự số
01/2018/QĐDS-ST ngày 02/02/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Tạm
đình chỉ thi hành Quyết định phúc thẩm giải quyết việc dân sự số 12/2019/QĐPT-DS
ngày 18/9/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội cho đến khi có quyết định
giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Tại phiên họp giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận Quyết định kháng nghị
giám đốc thẩm số 05/2021/KN-HNGĐ ngày 27/4/2021 của Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tại Công văn số 424/UBND ngày 07/9/2017 của UBND phường P, thành phố
U, tỉnh Quảng Ninh trả lời Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh có nội dung: “Hiện nay
tại Ủy ban nhân dân phường P sổ gốc đăng ký kết hôn chỉ còn lưu từ năm 1989 đến
nay, còn từ năm 1988 trở về trước UBND phường P không còn lưu trữ được. Sổ đăng
ký kết hôn của UBND phường P còn lưu từ năm 1989 đến nay không có lưu trường
hợp đăng ký kết hôn của ông Phạm Bá H, sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị S, sinh
năm 1960”. Quá trình giải quyết vụ án, bà S không cung cấp được Giấy chứng nhận
đăng ký kết hôn giữa bà S với ông H. Do đó, không có căn cứ xác định bà S và ông H
có đăng ký kết hôn tại UBND xã P vào năm 1980.
[2] Căn cứ Biên bản xác minh ngày 13/11/2014 của UBND phường P và lời khai
của những người làm chứng, trong đó có lời khai của ông Bùi Ngọc C (người cao
tuổi, hàng xóm bên cạnh nhà bố mẹ đẻ bà S), ông Nguyễn Văn N (Khu trưởng Khu H,
phường P) đều khai: Năm 1980, ông Phạm Bá H và bà Nguyễn Thị S có tổ chức đám
cưới, chung sống với nhau; sau đó, hai ông bà vượt biên.
[3] Tại Bản chứng thực bản sao sổ khai sinh của anh Phạm Hồng K, sinh ngày
07/8/1981, thể hiện tên cha là Phạm Bá H và tên mẹ là Nguyễn Thị S. Như vậy, có cơ
sở xác định bà S và ông H có thời gian chung sống tại Việt Nam và bà S sang Hồng
Kông sau khi đã mang thai anh Phạm Hồng K.
[4] Ngoài ra, Bản sao Sổ hộ khẩu số 5002964xx do Công an thành phố M cấp
ngày 03/11/2014 và Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ngày 13/4/2015 tại Phòng
Công chứng số xx tỉnh Quảng Ninh cũng thể hiện ông Phạm Bá H có vợ là bà Nguyễn
Thị S.
[5] Theo quy định tại điểm a Điều 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày
09/6/2000 của Quốc hội “a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước
ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực
mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có
yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000;…”
[6] Điểm d Mục 2 Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BTP
ngày 03/01/2001 quy định: Nam nữ được coi là sống chung với nhau như vợ chồng
nếu họ có đủ điều kiện để kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 và thuộc một trong các trường hợp sau: Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống
với nhau;Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc hai bên) chấp
nhận;Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;Họ
thực sự chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
[7] Điểm b khoản 4 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT- TANDTC-
VKSNDTC-BTP quy định người được coi là đang có vợ, chồng gồm “Người xác lập
quan hệ vợ chồng với người khác trước ngày 03/01/1987 mà chưa đăng ký kết hôn và
chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ
không bị tuyên bố là đã chết”.
[8] Do đó, có cơ sở xác định quan hệ giữa bà S và ông H sống chung với nhau
như vợ chồng trước năm 1987 là hôn nhân thực tế; tuy không đăng ký kết hôn nhưng
vẫn được pháp luật công nhận là quan hệ vợ chồng.
[9] Việc ông H đăng ký kết hôn với bà Nguyễn Thị L theo Giấy chứng nhận kết
hôn số 09 ngày 17/4/2017 tại UBND thành phố M, tỉnh Quảng Ninh trong khi đang
tồn tại quan hệ hôn nhân với bà Nguyễn Thị S là vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một
chồng và quy định tại điểm c khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
UBND tỉnh Quảng Ninh thực hiện việc đăng ký kết hôn cho ông H và bà L là không
đúng quy định của pháp luật.
[10] Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của bà S, tuyên hủy việc kết hôn trái
pháp luật giữa ông H và bà L và giải quyết hậu quả của việc kết hôn trái pháp luật là
có căn cứ.
[11] Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: “Theo pháp luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam năm 1986, năm 2000 và năm 2014 chỉ điều chỉnh và có hiệu lực về không
gian, thời gian và địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam. Còn việc ông H và bà S ăn ở với
nhau bất hợp pháp chủ yếu là ở nước ngoài và sinh sống vào thời điểm ở trước và sau
năm 1987, năm 2000 và trước năm 2013 khi có Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam
được ban hành, sửa đổi…” từ đó không công nhận quan hệ giữa ông H và bà S là vợ
chồng và công nhận quan hệ hôn nhân giữa ông H và bà L là quan hệ hôn nhân hợp
pháp, là không đúng quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 337, khoản 1 Điều 342, khoản 2 Điều 343 và
Điều 344 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 05/2021/KN-HNGĐ ngày
27/4/2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với Quyết định phúc thẩm giải
quyết việc dân sự số 12/2019/QĐPT-DS ngày 18/9/2019 của Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
2. Hủy Quyết định phúc thẩm giải quyết việc dân sự số 12/2019/QĐPT-DS ngày
18/9/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
3. Giữ nguyên Quyết định giải quyết việc dân sự số 01/2018/QĐDS-ST ngày
02/02/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
Bài làm
 Tóm tắt Quyết định GĐT số 04/2021/HNGĐ-GĐT về “Yêu cầu huỷ việc
kết hôn trái pháp luật” ngày 07/7/2021 của Toà án nhân dân tối cao:
Bà S, ông H có tổ chức đám cưới, chung sống với nhau năm 1980 dưới sự chứng
kiến của hàng xóm. Năm 2011, ông H ngoại tình với bà L và đuổi bà S ra khỏi nhà. Bà
S đã sang Canada ở cùng các con cho khuây khoả. Khi bà S trở về thì biết ông H và bà
L đã đăng ký kết hôn. Bà S yêu cầu Toà huỷ việc kết hôn trái pháp luật giữa ông H, bà
L.
Nhận định của Toà: Mặc dù ông H, bà S không có đăng ký kết hôn, nhưng hai
người có tổ chức đám cưới, chung sống với nhau năm 1980 dưới sự chứng kiến của
hàng xóm. Ngoài ra, dựa vào bản chứng thực bản sao sổ khai sinh của anh K, thì bà S,
ông H là cha mẹ anh K. Hai người từng có thời gian chung sống tại Việt Nam và bà S
sang Hồng Kông sau khi đã mang thai anh K. Bản sao Sổ hộ khẩu và Hợp đồng thuê
quyền sử dụng đất cũng thể hiện bà S là vợ ông H. Toà căn cứ vào Nghị quyết
35/2000/NQ-QH10, Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTCBTP để
xác định quan hệ giữa bà S và ông H là hôn nhân thực tế. Việc ông H đăng ký kết hôn
với bà L là vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng.
 Bình luận áp dụng pháp luật trong phán quyết của Toà án các cấp:
Đối với phán quyết của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (Toà sơ thẩm): Toà căn
cứ vào Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 để xác định giữa ông H, bà S có quan hệ hôn
nhân thực tế.
Đối với phán quyết của Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (Toà phúc thẩm): Toà
cho rằng việc Toà sơ thẩm xác định quan hệ giữa ông H và bà S là quan hệ hôn nhân
thực tế theo Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 là không có căn cứ. Ngoài ra, theo Toà
ông H, bà S không có đăng ký kết hôn mà chỉ chung sống với nhau, trong khi ông H,
bà L có đăng ký kết hôn.
Đối với phán quyết của Toà án nhân dân tối cao (Toà giám đốc thẩm): Toà dựa
vào điểm d Mục 2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP
để đưa ra các điều kiện được xem là nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng. Toà
căn cứ vào điểm a Điều 3 Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 để xác định quan hệ vợ
chồng xác lập trước ngày 03/01/1987 mà chưa đăng ký kết hôn là quan hệ hôn nhân
thực tế. Đồng thời, Toà áp dụng điểm b khoản 4 Điều 2 Thông tư liên tịch số
01/2016/TTLT - TANDTC - VKSNDTC - BTP để xác nhận như thế nào là người
được coi là đang có vợ, chồng.
Theo nhóm, việc áp dụng pháp luật của Toà sơ thẩm và Toà giám đốc thẩm là hợp
lý. Vì ông H, bà S chung sống với nhau như vợ chồng năm 1980 mà không đăng ký
kết hôn. Bên cạnh đó, cũng không có thông tin nào cho biết ông H, bà S không đáp
ứng các điều kiện kết hôn. Về nguyên tắc, vụ việc xảy ra tại thời điểm nào, thì phải áp
dụng luật đang có hiệu lực tại thời điểm đó để điều chỉnh. Vì thế, ta phải áp dụng
Thông tư liên tịch 01/2001/TTLT - TANDTC - VKSNDTC - BTP và Nghị quyết
35/2000/NQ-QH10 để xem xét đây có phải quan hệ hôn nhân thực tế hay không. Dựa
vào các tình tiết của vụ việc, thì quan hệ hôn nhân giữa ông H, bà S là hôn nhân thực
tế.
Còn việc áp dụng pháp luật của Toà phúc thẩm là không thuyết phục. Toà chỉ căn
cứ vào việc ông H, bà S không đăng ký kết hôn mà đã kết luận giữa hai người không
có quan hệ hôn nhân. Trong khi thời điểm ông H, bà S tổ chức đám cưới, chung sống
với nhau là năm 1980 - một giai đoạn đặc biệt. Trong giai đoạn này, Nhà nước thừa
nhận quan hệ hôn nhân thực tế đối với những cặp đôi chung sống với nhau như vợ
chồng mà chưa đăng ký kết hôn nhưng họ phải đáp ứng một số điều kiện nhất định.
 Bình luận tiêu chí xác định hôn nhân thực tế cũng như đường lối giải
quyết quan hệ nhân thân, con chung trong phán quyết của Toà án các cấp:
*Đối với Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh (tòa sơ thẩm):
- Tòa xác định quan hệ giữa bà S và ông H là hôn nhân thực tế dựa trên các tiêu
chí sau:
+ Lời khai của bà S về việc bà S và ông H đã tổ chức đám cưới tại địa
phương và đã đăng ký kết hôn tại UBND xã P, thành phố U, tỉnh Quảng
Ninh ngày 23/11/1980.
+ Sổ hộ khẩu cấp ngày 03/11/2014 của căn nhà mà bà S, ông H chung
sống tại Việt Nam có ghi họ tên của chủ hộ là Phạm Bá H và người có
quan hệ với chủ hộ là vợ Nguyễn Thị S.
+ Bà S và ông H có 3 người con chung.
- Hướng giải quyết của Tòa: Hủy việc kết hôn trái pháp luật giữa ông H và bà L.
+ Về quan hệ nhân thân nam, nữ: buộc ông H và bà L phải chấm dứt quan
hệ như vợ chồng.
+ Về con chung: giao con chung của ông H và bà L là cháu Đ (chưa thành
niên) cho bà L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi cháu Đ
đủ 18 tuổi. Ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Ông H có
quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Bình luận: Việc Tòa sơ thẩm khẳng định mối quan hệ của ông H và bà S là hôn
nhân thực tế dựa trên các tiêu chí trên còn khá mơ hồ, chưa thuyết phục. Dù rằng thời
điểm ông H và bà S tổ chức đám cưới được xác lập trước ngày 3/1/1987, việc đăng ký
kết hôn khi ấy chỉ mang tính chất được khuyến khích. Đồng thời, thời điểm xác lập
mối quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng của ông H và bà S là khi hai người đã
thỏa mãn đủ điều kiện kết hôn. Ngoài ra, ba người con chung của ông H và bà S là
minh chứng cho mối quan hệ sống chung như vợ chồng của hai người được duy trì
một thời gian dài. Tuy nhiên, bằng chứng thể hiện rằng ông H và bà S đã tổ chức đám
cưới ở Việt Nam vẫn chưa đầy đủ vì chỉ dựa trên lời khai của bà S. Bên cạnh đó dù bà
S khai là đã đăng ký kết hôn với ông H tại UBND phường P nhưng lại không trình
được sổ gốc, không đủ chứng minh được ông H và bà S có thật sự trải qua thời kỳ hôn
nhân vào giai đoạn trước năm 1987 hay chưa. Mặt khác, đường lối giải quyết vấn đề
con chung giữa ông H và bà L cũng chưa hợp lý, trong trường hợp việc kết hôn trái
pháp luật giữa hai người này bị hủy thì quyền lợi con chung sẽ giải quyết như trường
hợp cha mẹ ly hôn. Cha mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con chưa thành niên theo quy định của Luật HNGĐ 2014. Tòa sơ
thẩm phán quyết giao con chung chưa thành niên cho bà L chăm sóc là đúng với quy
định của khoản 3 Điều 81 Luật HNGĐ 2014 về việc con dưới 36 tháng tuổi được giao
cho mẹ trực tiếp nuôi, còn ông H không phải cấp dưỡng cho con là không đúng theo
quy định của Điều 58, khoản 2 Điều 82 Luật HNGĐ 2014 về việc cha, mẹ không trực
tiếp nuôi con thì có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
*Đối với Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội (Toà phúc thẩm):
- Tòa xác định quan hệ giữa ông H và bà S không là hôn nhân thực tế dựa trên
các tiêu chí sau:
+ Lời khai của ông H về việc không có tổ chức đám cưới hay chung sống
với bà H ở Việt Nam và chỉ chung sống, có con với bà H khi sang Hồng
Kông năm 1981; ông H và bà S không đăng ký kết hôn, độc lập kinh tế,
tài sản.
+ Việc xác minh của cơ quan có thẩm quyền tại nhiều nơi, trong đó có
lãnh sự quán Việt Nam tại Canada về việc ông H chưa đăng ký kết hôn
với bất kỳ ai, không đang trong thời kỳ hôn nhân với ai trước khi thực
hiện thủ tục đăng ký kết hôn với bà L.
Bình luận: Việc kết luận mối quan hệ của ông H và bà S không phải là hôn nhân
thực tế dựa vào các tiêu chí trên là đáp ứng được sự hợp lý về bằng chứng pháp lý có
liên quan tới tình trạng hôn nhân của ông H, tuy vậy vẫn còn thiếu sót về mặt thực tế.
Việc xác định ông H và bà S đã tổ chức đám cưới và từng chung sống với nhau ở Việt
Nam hay chưa chỉ dựa trên lời khai của ông H là chưa đủ thuyết phục. Hơn hết, tòa
vẫn chưa làm rõ về việc sổ hộ khẩu nơi ông H và bà L cùng chung sống có tên của bà
S với quan hệ là vợ của ông H, nếu ông H và bà S chưa từng kết hôn hay chung sống
như vợ chồng với nhau, độc lập tài sản như ông H trình bày thì vì sao trên sổ hộ khẩu
lại có tên bà S, được biết sổ được cấp vào năm 2014 trước thời điểm ông H kết hôn
với bà L.
*Đối với Toà án nhân dân tối cao (Toà giám đốc thẩm):
- Tòa xác định mối quan hệ của ông H và bà S là quan hệ hôn nhân thực tế dựa
trên các tiêu chí sau:
+ Lời khai của những người làm chứng là hàng xóm đều khai rằng: Năm
1980, ông Phạm Bá H và bà Nguyễn Thị S có tổ chức đám cưới, chung
sống với nhau; sau đó, hai ông bà vượt biên.
+ Tại Bản chứng thực bản sao sổ khai sinh của anh Phạm Hồng K, sinh
ngày 7/8/1981, thể hiện tên cha là Phạm Bá H và mẹ là Nguyễn Thị S.
+ Bản sao sổ hộ khẩu số 5002964xx do Công an thành phố M cấp ngày
3/11/2014 và Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ngày 13/4/2015 thể hiện
ông Phạm Bá H có vợ là bà Nguyễn Thị S.
- Hướng giải quyết của Tòa: Hủy Quyết định phúc thẩm và giữ nguyên Quyết
định sơ thẩm.
Bình luận: So với các tiêu chí của tòa phúc thẩm và sơ thẩm, thì ở tòa giám đốc
thẩm có bổ sung tiêu chí lời khai của những nhân chứng là hàng xóm của gia đình ông
H. Đây là bằng chứng quan trọng chứng minh được lời khai của bà S là có căn cứ.
Hơn cả thế, tòa giám đốc thẩm còn đưa ra bản chứng thực bản sao sổ khai sinh của
anh K có tên cha, mẹ là ông H, bà S. Như vậy, có cơ sở xác định bà S và ông H có
thời gian chung sống tại Việt Nam và bà S đã sang Hồng Kông sau khi đã mang thai
anh K. Tòa giám đốc thẩm đã đưa ra được nhiều bằng chứng pháp lý và bằng chứng
thực tế để làm sáng tỏ mối quan hệ của ông H và bà S có thật sự là hôn nhân thực tế.
Thế nhưng, dù đã chứng minh được quan hệ của ông H và bà S, tòa giám đốc thẩm
vẫn giữ nguyên đường lối giải quyết của tòa sơ thẩm về quyền lợi con chung của ông
H và bà L. Theo nhóm em, đây là một thiếu sót của Tòa khi chỉ làm rõ mối quan hệ
hôn nhân thực tế của ông H và bà S nhưng lại không kể đến nghĩa vụ cấp dưỡng của
ông H dành cho cháu Đ theo quy định của Luật HNGĐ 2014.

You might also like