Ôi tổ quốc nếu cần ta chết Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, dòng sông….. Cảm hứng về đất nước đã trở thành mạch chủ lưu trên dòng sông văn học 1945 – 1975. Nằm trong cảm hứng chung ấy, chương thơ Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến những nhận thức sâu sắc và mới mẻ về đất nước với tư tưởng: Đất Nước của Nhân dân. Đoạn thơ …. Chính là định nghĩa nghệ thuật về đất nước: Đất Nước có từ bao giờ? Qua đó ….. Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm cuốn hút người đọc bằng cảm xúc trữ tình nồng thắm và chất suy tư sâu lắng, ông cất lên tiếng nói của một người trí thức thiết tha gắn bó với quê hương, giàu ý thức trách nhiệm với nhân dân, đất nước. Đoạn trích Đất Nước là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng. Trường ca này được hoàn thành năm 1971, thể hiện sự thức tỉnh của thế lệ trẻ miền Nam về trách nhiệm thiêng liêng với nhân dân, đất nước. Bao trùm đoạn trích Đất Nước là cảm hứng ngợi ca công lao vĩ đại của nhân dân trên hành trình dựng nước và giữ nước. Nhà thơ đã cảm nhận và lí giải của nhà thơ về đất nước, thể hiện tư tưởng đất nước là của nhân dân. Trong câu thơ mở đầu: Khi ta……. hai chữ Đất Nước được viết hoa, thể hiện sự trân trọng, yêu kính đối với đất nước. Đại từ nhân xưng ta xác định sự hiện diện của nhân vật trữ tình, khiến lời thơ như lời thủ thỉ, chiêm nghiệm, suy tư. Trạng ngữ phiếm định khi ta lớn lên, chỉ thời điểm bắt đầu và lớn lên của đất nước, trả lời cho câu hỏi “Đất Nước có từ bao giờ?”. Câu trả lời không xác định bằng một mốc thời gian cụ thể nào nhưng lại khẳng định chắc chắn một điều: Đất Nước đã có từ trước khi có sự hiện diện của ta, từ rất lâu, từ xa xưa... Sau lời khẳng định sự tồn tại của Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lý giải nguồn gốc của Đất Nước một cách mới lạ nhưng cũng đầy thuyết phục: Đất nước có trong….. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” thường được dùng mở đầu cho các câu chuyện cổ tích, gợi ý niệm: Đất Nước đã có từ rất lâu, trước cả sự ra đời của truyện cổ tích nên Đất Nước mới xuất hiện trong “cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Không khí cổ tích huyền diệu đã được gợi nhắc đến qua nhịp điệu "ngày xửa ngày xưa". Đó chính là nhịp điệu ngàn đời của thần thoại, cổ tích và nó đã đánh thức trong tâm trí mỗi người không gian riêng của những phép màu thần thoại với đôi hài bảy dặm, với Thánh Gióng vươn vai thành tráng sĩ, với cô Tấm thảo hiền từ quả thị bước ra... Gắn với không khí cổ tích ấy, Đất Nước càng trở nên kì diệu, thiêng liêng. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Từ câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm, ta nhớ đến miếng trầu têm cánh phượng của cô Tấm, nhớ đến một trong những truyện cổ tích xưa nhất của người Việt: "Sự tích trầu cau", nhớ đến câu thành ngữ "Miếng trầu là dầu câu chuyện" và những lời hát dân ca da diết trữ tình: "Ăn một miếng trầu, gặp đây ăn một miếng trầu/ Không ăn cầm lấy cho nhau vừa lòng/ Trầu này trầu tính trầu tình/ Ăn vào cho đỏ môi mình môi ta"...Miếng trầu vốn là biểu tượng đẹp của nhân duyên tình nghĩa. Lời thơ hàm súc Nguyễn Khoa Điềm gợi lên những nét riêng trong đời sống sinh hoạt, trong phong tục tập quán và bản sắc tâm hồn người dân Việt Nam. Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước hiện lên với truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, lời thơ như có sự cộng hưởng của những câu ca dao xưa: Thù này ắt hẳn còn lâu Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què. Suốt chiều dài lịch sử bốn nghìn năm, dân tộc ta luôn luôn phải đương đầu với những thế lực ngoại xâm hung bạo. Trong những cuộc trường chinh không nghỉ ấy, cây tre Việt Nam đã lập nên bao kì tích. Từ truyền thuyết "Thánh Gióng" – khúc ca hào hùng về truyền thống yêu nước yêu nước chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam đã thấy hiển hiện hình bóng cây tre. Chàng trai làng Gióng nhổ tre làm vũ khí đánh tan giặc Ân xâm lược. Trong những cuộc kháng chiến vệ quốc anh hùng, cây tre, đòn gánh tre, chông tre, mũi tên tre ... đã tham dự vào cuộc chiến đấu và lập nên bao chiến công. Lời thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa làm hiện lên sống động hình ảnh cây tre trong lịch sử dân tộc chống ngoại xâm, vừa đem lại những nhận thức về đất nước ở phương diện: Đất Nước có trong truyền thống yêu nước đánh giặc ngàn đời của nhân dân ta. Đất Nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm còn hiện lên với vẻ đẹp thuần phong mĩ tục của người dân nước Việt. Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam với phong tục “búi tóc sau đầu ” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu): Tóc mẹ thì búi sau đầu Đó là đạo lý ân tình ân nghĩa ngàn đời: Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Thành ngữ “gừng cay muối mặn ” được nhà thơ vận dụng một cách tài tình: gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau càng lâu thì càng tình nghĩa. Tình cảm chân thành ấy là nguồn gốc của mọi tình yêu thương như suối nguồn chảy qua muôn thế hệ. Ta như nhận thấy bóng dáng của những lời ca dao, dân ca: Em ơi chua ngọt đã từng Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau. Và: Muối ba năm muối đang còn mặn Gừng chín tháng gừng hãy còn cay Đôi ta nghĩa nặng tình dày Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa. Tình nghĩa thủy chung chồng vợ là một trong những bản sắc tâm hồn của những con người đất Việt. Bản sắc ấy góp phần làm nên chân dung tinh thần của Đất Nước. Có lẽ vì thế mà trong những đoạn thơ sau, khi kể tên những danh lam thắng cảnh của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng đề cập đến phương diện này... Câu thơ: “Cái kèo cái cột thành tên ” gợi nhắc một nét văn hóa của người Việt. Đó là truyền thống làm nhà “kèo-cột”, cột đẩy nhà lên cao, kèo giữ cột lại với nhau tạo nên sự bền vững. Cũng từ gian nhà ấy, thói quen đặt tên con bằng những vật dụng quen thuộc cũng ra đời. Vì vậy mà “cái kèo cái cột” cũng thành tên. Dân tộc ta với nền văn minh “lúa nước” cùng truyền thống cần cù lao động, chịu thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Ở đây, nhà thơ sử dụng thành ngữ “một nắng hai sương” gợi lên truyền thống lao động cần cù, chịu thương, chịu khó của người dân ta. Để có được hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua quá trình gieo, cấy, xay, giã, giần, sàng rất vất vả. Hình ảnh hạt gạo gợi nhớ đến sự tảo tần lam lũ của người nông dân đất Việt: Cày đồng đang buổi ban trưa, Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày. Ai ơi bưng bát cơm đầy, Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần. Thấm vào trong hạt gạo nhỏ bé ấy là vị mặn mồ hôi nhọc nhằn của người dân “chân lấm tay bùn”. Câu thơ đã khéo léo nhắc nhở chúng ta đạo lý: “Uống nước nhớ nguồn ”, ăn hạt cơm dẻo thơm hôm nay phải biết nhớ đến công lao người làm ra nó. Câu thơ cuối, khẳng định sự ra đời của Đất Nước một cách đầy tự hào: Đất Nước có từ ngày đó... Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khẳng định với một niềm tự hào “Đất Nước có từ ngày đó... ”. “Ngày đó ” là ngày nào ta cũng không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có nền văn hóa, mà có văn hóa tức là có Đất Nước. Dấu ba chấm (...) nối dài những truyền thống văn hóa văn hiến, phong tục tập quán, thể hiện sự bất tận, sự trường tồn vĩnh hằng từ xa xưa của Đất Nước. Đánh giá: Như vậy, qua đoạn thơ, Đất Nước hiện lên dung dị, gần gũ thức người đọc cả một bề dày và chiều sâu văn hóa nghìn đời của dân tộc với những nét rất đặc thù, rất đáng tự hào. Tác giả đã sử dụng sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian, ngôn từ, hình ảnh bình dị, dân dã, giàu sức gợi. Nhà thơ sáng tạo một cách nhuần nhuyễn thành ngữ dân gian, ca dao, tục ngữ, cổ tích, truyền thuyết... Lời thơ giàu hình ảnh, điệu thơ cảm xúc tha thiết hơn nhờ những biện pháp tu từ như điệp ngữ, nhân hóa, ẩn dụ, liệt kê….. Sức truyền cảm lớn từ sự hòa quyện giữa chất chính luận và trữ tình. 2. Nhận xét về cách nhìn Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. -Trong thời phong kiến, người ta thường quan niệm: đất nước là của vua, thuộc về các triều đại, của các tầng lớp thống trị như trong “Nam Quốc Sơn Hà ”, Lý Thường Kiệt đã khẳng định: “Sông núi nước Nam vua Nam ở”; trong “Bình Ngô Đại Cáo ”, Nguyễn Trãi cũng khẳng định: Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập…. - Trong thời đại Hồ Chí Minh, chúng ta nhận ra Đất Nước là của nhân dân. Nhưng nếu Chế Lan Viên nhìn Đất nước trong chiều dài lịch sử hào hùng với những cá nhân tinh hoa; Nguyễn Đình Thi thấy Đất nước đau thương mà anh dũng trong kháng chiến, Tố Hữu ngợi ca tầm vóc vĩ đại của Đất nước, thì Nguyễn Khoa Điềm lại thủ thỉ tâm tình về một Đất Nước thật gần gũi, thân thương. - Trong quan niệm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước không phải là cái gì đó to lớn, siêu nhiên mà Đất Nước được hình thành từ những phong tục tập quán, những thói quen hàng ngày, những vẻ đẹp thuần phong mĩ tục, truyền thống văn hóa của nhân dân. Nhà thơ không tạo ra khoảng cách sử thi để chiêm ngưỡng và ca ngợi đất nước hoặc dùng những hình ảnh mĩ lệ , mang tính biểu tượng để cảm nhận và lý giải, mà dùng cách nói rất đỗi giản dị, tự nhiên với những gì gần gũi, thân thiết, bình dị nhất. Đất nước không xa lạ, trừu tượng, Đất nước chính là ở trong ta, hiện hữu trong đời sống của mỗi con người bình thường chúng ta, hôm qua, hôm nay và mai sau. - Lí giải nguồn gốc của đất nước, nhà thơ chọn giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm; cấu trúc thơ theo lối tăng cấp: Đất nước đã có; Đất Nước bắt đầu; Đất Nước lớn lên; Đất Nước có từ… giúp cho người đọc hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian trường kỳ của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Đặc biệt là cách nhà thơ viết hoa hai từ Đất Nước (vốn là một danh từ chung) cũng đã giúp ta cảm nhận tình yêu và sự trân trọng của nhà thơ khi nói về đất nước, quê hương của mình. - Sự mới mẻ, sâu sắc ở chính cách nhìn Đất Nước ở tầm gần, ở chiều sâu văn hoá, qua lối tâm tình. Vì vậy mà đoạn trích Đất Nước nói riêng, trường ca MĐKV nói chung, đã đã tìm được tiếng nói đồng vọng của biết bao thế hệ thanh niên Việt Nam, thôi thúc những lớp người trẻ tuổi góp phần làm nên Đất nước muôn đời. 2. Nhận xét về chất chính luận – trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm: Chính luận: Thể hiện quan điểm về Đất Nước: Đất nước của Nhân dân. Lí giải nguồn gốc của đất nước, cấu trúc thơ theo lối tăng cấp, lo gic: Đất nước đã có; Đất Nước bắt đầu; Đất Nước lớn lên; Đất Nước có từ… giúp cho người đọc hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian trường kỳ của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Liệt kê các phương diện, minh chứng Đất Nước được hình thành từ những phong tục tập quán, những thói quen hàng ngày, những vẻ đẹp thuần phong mĩ tục, truyền thống văn hóa của nhân dân. Trữ tình: Nhà thơ dùng cách nói rất đỗi giản dị, tự nhiên với những gì gần gũi, thân thiết, bình dị nhất. Đặc biệt là cách nhà thơ viết hoa hai từ Đất Nước (vốn là một danh từ chung) cũng đã giúp ta cảm nhận tình yêu và sự trân trọng của nhà thơ khi nói về đất nước, quê hương của mình. Giọng thơ tâm tình – đây là tâm sự của Anh nói với Em, khiến vấn đề được thể hiện chân thành, giản dị.