Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 43

VIỆT BẮC

MB chung:
Tố Hữu là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt
Nam .Sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách
mạng.Ông đã để lại một sự nghiệp văn chương vô cùng phong
phú, giàu giá trị và một phong cách nghệ thuật độc đáo, không
chỉ mang tính chính trị sâu sắc mà còn đậm đà bản sắc dân
tộc. Một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của ông mà chúng
ta không thể không nhắc đến đó là bài “Việt Bắc”,được ông
sáng tác năm 1954. “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và
cũng là một trong số các tác phẩm xuất sắc nhất của thơ ca
Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp.Bài thơ được
in trong tập thơ cùng tên đã tái hiện lại một chặng đường đầy
khó khăn gian khổ của cả dân tộc để đi đến thắng lợi vẻ
vang.Đồng thời, thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng giữa con
người cách mạng với đồng bào Việt Bắc.
*Đặc biệt, 8 câu thơ đầu của bài đã làm cho nhìu độc giả không
khỏi xúc động trước tìnhcảm thân thương ,gắn bó ,sâu đậm giữa
cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Bắc trong buổi chia tay đầy
lưu luyến:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn

Tiếng ai tha thiết bên cồn


Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
1
Bốn câu thơ mở đầu là lời ướm hỏi của đồng bào Việt Bắc
với người ra đi để khơi gợi kỷ niệm về một giai đoạn đã qua, về
không gian nguồn cội, nghĩa tình:

Mình về mình có nhớ ta


Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn

Mở đầu là câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta ?” Trong


câu hỏi này, “Mình” là chỉ người ra đi - người chiến sĩ cách
mạng, “ta” chính là người ở lại –đồng bàoViệt Bắc. Câu hỏi
chính là lời của người ở lại hỏi người ra đi rằng khi người
chiến sĩ cách mạng về xuôi có còn nhớ đến người Việt Bắc
hay không? Với cách xưng hô “mình - ta” đậm chất ca dao
cùng với điệp từ “mình” đã cho ta thấy được tình cảm gắn bó
thân thiết đầy yêu thương, sự gắn bó tuy hai mà một giữa
người đi, kẻ ở.Điều đó,càng làm cho nỗi nhớ trở nên day dứt
khôn nguôi. Người Việt Bắc muốn hỏi người kháng chiến có
nhớ:
“Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”

“Mười lăm năm “ là từ chỉ thời gian, là khoảng thời gian gắn
bó keo sơn giữa người chiến sĩ và người dân Việt Bắc. Đó là
một khoảng thời gian dài cùng nhau chiến đấu, cùng nhau
vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ. Mười lăm năm có họa
cùng chia, có phúc cùng hưởng, tác giả thực sự đã rất trân
trọng năm tháng gắn bó ấy.Bốn chữ “ thiết tha mặn nồng”
càng cho thấy tình cảm giữa con người Việt Bắc và cán bộ
cách mạng thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Hai
câu thơ tiếp theo như một lời nhắc nhở đối với người chiến sĩ
cách mạng, một lời nhắc nhở chân tình , một lời dặn dò kín
đáo nhưng rất đỗi tha thiết
2
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
Lại một câu hỏi tu từ nữa xuất hiện. Lại là một lời nhắc nhớ,
gợi thương. Về Hà Nội rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng
chiến khu, nhìn sông hãy nhớ đến suối nguồn Việt Bắc.Cách
gợi nhắc này cho thấy được lời dặn dò kín đáo rất đỗi chân
thành: Việt Bắc là cội nguồn Cách mạng, là trung tâm đầu não
của cuộc kháng chiến, là cái nôi cách mạng , nuôi dưỡng
người cán bộ.Vì thế, xin người về đừng quên mà hãy nhớ mãi
về Việt Bắc-cội nguồn cách mạng . Câu thơ này phải chăng là
sự vận dụng rất linh hoạt và tài tình của Tố Hữu với câu tục
ngữ “Uống nước nhớ nguồn”. Qua đó, nhà thơ cũng nhắc nhở
thế hệ cháu con phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về
cái nôi cho ta hình hài.Đồng thời , ta có thể cảm nhận được
tấm lòng chân thực, tình cảm chân thành của người dân miền
núi dành cho các chiến sĩ. Dù nghèo khổ ra sao, nguy hiểm,
gian lao thế nào, họ vẫn luôn dành cho các cán bộ miền xuôi
một tình cảm da diết và mãi vững bền qua năm tháng.
Nếu như bốn câu thơ đầu lột tả tình cảm của người
Việt Bắc dành cho cán bộ về xuôi thì những câu thơ sau
nói lên tình cảm đáp lại của chiến sĩ, cán bộ với đồng bào
Việt Bắc
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Người chiến sĩ định bước đi, nhưng bỗng nghe tiếng “ai tha
thiết” khiến cho họ bước đi mà trong lòng bâng khuâng, bồn
chồn. Nhà thơ thật khéo léo khi chỉ qua hai câu thơ nhưng vẽ
lên được sự bịn rịn quyến luyến không muốn chia xa của cả
người ở lẫn người đi. Chỉ có những ai gắn bó với nhau lắm,
yêu nhau lắm thì mới khó lòng chia xa đến như vậy. Tác giả
3
sử dụng hai từ láy “bâng khuâng” và “bồn chồn” để diễn tả
tâm trạng người ra đi. “Bâng khuâng” có nghĩa là nhớ nhung,
luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn ,buồn vì phải xa VB, vui vì được
trở lại quê hương của mình nhưng có lẽ , buồn nhiều hơn vui.
“Bồn chồn” là từ láy diễn tả tâm trạng cảm xúc day dứt, hồi
hộp, nôn nao trong lòng khiến cho bước chân đi cũng ngập
ngừng, bịn rịn không muốn chia xa . Hai từ láy “bâng
khuâng” và “bồn chồn” như góp phần làm tăng thêm tâm
trạng người ra đi. Buổi chia tay ấy có hình ảnh “Áo chàm đưa
buổi phân ly” đầy cảm động.. Nói đến “áo chàm” là người ta
nghĩ ngay tới hình ảnh chiếc áo màu nâu, là màu áo của bà
con nông dân lam lũ, cực khổ đã lao động cần mẫn phục vụ
cho Cách mạng, là hình ảnh hoán dụ để chỉ con người Việt
Bắc. Chính màu áo ấy, con người ấy đã góp phần làm nên
chiến thắng vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hỏi
làm sao người đi có thể quên được màu áo ân tình ấy ? Họ và
các cán bộ cầm tay nhau mà không biết nói gì. Không phải họ
không có gì để nói với nhau là trong lòng quá nhiều thứ để
nói. Bao nhiêu ân nghĩa, sắt son chẳng thể nào dùng ngôn từ
để diễn tả, đành phải gửi tâm tình qua cái nắm tay thật chặt,
thật lâu. “Cầm tay” là biểu tượng của yêu thương đoàn kết.
“Cầm tay” là đã đủ nói lên bao cảm xúc trong lòng rồi. Mặt
khác, ba dấu chấm lửng đặt ở cuối câu như càng tăng thêm cái
tình cảm mặn nồng ấy. Nó giống như nốt lặng trong một
khuôn nhạc mà ở đó tình cảm cứ ngân dài sâu lắng. Dù tình
cảm vô cùng keo sơn gắn bó, nhưng giữa những con người ấy
vẫn có lí trí. Họ hiểu rằng, không còn cách nào khác. Cuộc vui
nào rồi cũng đến lúc chia li. Nhưng chia li trong nước mắt
hạnh phúc vẫn hơn là trong đau khổ. Dù là phải xa nhau
nhưng người dân Việt Bắc và các chiến sĩ vẫn có niềm vui của
chiến thắng.
Chỉ với tám câu thơ lục bát ngắn gọn nhưng nhà thơ đã
cho người đọc cảm nhận được biết bao ý nghĩa trong đây.
4
Chúng ta thấy được tình cảm thuỷ chung son sắt, sự gắn bó
đầy sâu đậm giữa người đi - người ở. Tất cả những tâm tư,
tình cảm này được tác giả thể hiện chân thực nhất qua thể thơ
lục bát và cách xưng hộ “mình - ta” vốn quen thuộc trong dân
gian và các câu hỏi tu từ, liệt kê, hoán dụ… vô cùng tinh tế và
đặc sắc đã góp phần không nhỏ vào việc làm nên thành công
cho tác phẩm. Bằng việc sử dụng đại từ linh hoạt cùng thể thơ
lục bát, những câu hỏi tu từ cùng nhịp thơ thiết tha Tố Hữu đã
khắc cuộc chia tay đầy cảm xúc của người dân Việt Bắc với
người chiến sĩ khiến người đọc thấy đồng cảm vô cùng.

(Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: phong cách trữ tình
chính trị. Câu chuyện chính trị, chuyện chia tay lịch sử giữa nhân dân
và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay của “ta” và
“mình”. Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật
đã được Tố Hữu vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo: thể
thơ lục bát truyền thống với âm điệu ngọt ngào, sâu lắng. Cách miêu
tả giàu hình ảnh. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú. Nhiều
biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo, ngôn ngữ trong sáng,
nhuần nhị. Tất cả đã hòa quyện lại và chắp cánh, nâng đỡ cho ngòi
bút của Tố Hữu thăng hoa cùng Việt Bắc. Tám câu thơ ngắn gọn
nhưng mang biết bao ý nghĩ cho người đọc cảm nhận sâu sắc về tình
cảm thủy chung son sắt, gắn bó sâu nặng giữa người Việt Bắc và
người cán bộ cách mạng về xuôi. Đó là nghĩa tình cách mạng, là đạo
lí ân nghĩa thuỷ chung của người Việt Nam. Vì thế, Việt Bắc đậm đà
tính dân tộc, là tiếng lòng của Tố Hữu khẳng định tình đồng chí, đồng
bào, tình yêu quê hương đất nước.)
Với tài hoa của một người nghệ sĩ và một trái tim luôn
sục sôi ý chí cách mạng, Tố Hữu đã viết nên một bản tình ca,
anh hùng ca đậm đà bản sắc dân tộc. Để rồi Việt Bắc đã thực
sự trở thành một trong những bài ca không bao giờ quên,
không thể nào quên. Qua đoạn thơ ta đã cảm nhận được một
cách rõ nét tình cảm, tấm lòng, tình yêu thương mà người
Việt Bắc và người cán bộ cách mạng dành cho nhau. Tám
5
câu thơ trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mang lại cho
người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Những ân tình ấy sẽ sống
mãi trong lòng người đọc hôm nay và mai sau.
Đoạn thơ mười hai câu thơ tiếp theo là lời tâm tình của Việt Bắc:
Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh
Mình đi mình lại nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa

Tố Hữu là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam .Sự nghiệp
thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng.Ông đã để lại một sự
nghiệp văn chương vô cùng phong phú, giàu giá trị và một phong
cách nghệ thuật độc đáo, không chỉ mang tính chính trị sâu sắc mà
còn đậm đà bản sắc dân tộc. Một trong những bài thơ tiêu biểu nhất
của ông mà chúng ta không thể không nhắc đến đó là bài “Việt
Bắc”,được ông sáng tác năm 1954. “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố
Hữu và cũng là một trong số các tác phẩm xuất sắc nhất của thơ ca
Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp.Bài thơ được in trong
tập thơ cùng tên đã tái hiện lại một chặng đường đầy khó khăn gian
khổ của cả dân tộc để đi đến thắng lợi vẻ vang.Đồng thời, thể hiện sự
gắn bó, ân tình sâu nặng giữa con người cách mạng với đồng bào Việt
Bắc.. Sự gắn bó ân tình ấy được khắc họa rõ nét qua khổ thơ sau:

Mình đi có nhớ những ngày


Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
6
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh
Mình đi mình lại nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa

Mở đầu đoạn thơ là hàng loạt những câu hỏi rất ngọt ngào,
gợi nhắc đến những kỷ niệm kháng chiến gian khổ, không thể nào
quên mà cán bộ và nhân dân đã từng trải qua:
Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai

Ở đây ,Tác giá Tố Hữu đã rất khéo léo khi sử dụng hàng loạt
những cụm từ lặp đi lặp lại . Điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần cùng
với hai câu hỏi tu từ “có nhớ những ngày”, “có nhớ chiến khu” đã
khơi gợi những kỷ niệm gian khổ nhưng nghĩa tình. Nhà thơ đã để
cho người ở lại hỏi mà không để cho người ra đi hỏi , là vì nhà thơ
muốn gợi lại những quãng thời gian , những năm tháng khó khăn
nhọc nhằn mà họ đã cùng nhau kề vai sát cánh vượt qua . Không chỉ
riêng nỗi nhớ con người với con người mà ở đây tác giá còn nhắc
đến : Nhớ thiên nhiên nơi chiến khu Việt Bắc “mưa nguồn suối lũ,
những mây cùng mù” , câu thơ đã đặc tả được cảnh thiên nhiên hoang
sơ, heo hút thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc, tuy khung
cảnh có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng,
phóng khoáng và hùng vĩ. Ngoài việc phải đối mặt với sự khắc
nghiệt,khó khăn của thiên nhiên,” mình” và “ta “ còn phải đối diện
với cuộc sống thiếu thốn, đầy gian khổ : “Miếng cơm chấm muối”. .
Hình ảnh “miếng cơm chấm muối” mà tác giả đã nêu lên khiến cho ta
thêm phần nào hiểu rõ hơn về cuộc sống khắc khổ của người dân nơi
7
đây. Cuộc sống gian khó đến như thế, chỉ có cơm và muối nhưng
không bao giờ chùn bước trước kẻ thù, mối thù dân tộc luôn đè lên
vai, trái tim luôn căng tràn ý chí chiến đấu, lúc nào cũng kề vai sát
cánh bên nhau một lòng căm thù giặc sâu sắc.Tác giả ở đây đã sử
dung hình ảnh hoán dụ “mối thù nặng vai”, gợi cho ta liên tưởng đến
“mối thù” sâu nặng của nhân dân , đồng bào Việt Nam ta đối với
những kẻ xâm lăng cướp nước, những kẻ đang tán tậm lương tâm bán
nước ta cho giặc..Đồng thời còn là lời nhắc nhở kín đáo của người ở
lại về một thời rất đỗi tự hào, mình và ta đã cùng sát cánh bên nhau,
cùng nhau tiêu điệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến
cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc,ấm no
Tiếp mạch cảm xúc, vẫn là những lời hỏi của Việt Bắc nhưng
ẩn chứa trong vần thơ lại là lời bộc bạch tâm sự của người ở lại,
bày tỏ tình cảm lưu luyến, khẳng định nghĩa tình với cán bộ về
xuôi:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
. Nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng biện pháp nhân hoá kết hợp với hoán
dụ “rừng núi nhớ ai”, rừng núi nhớ chính là người Việt Bắc nhớ nhấn
mạnh tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ da diết của nhân dân Việt Bắc
đối với những người cán bộ kháng chiến, Thiên nhiên và con người
VB nhớ cán bộ về xuôi nhiều đến mức “trám bùi để rụng, măng mai
để già”. Trám và măng là hai món ăn thường nhật của bộ đội và đồng
bào Việt Bắc trong kháng chiến. Cái hay của ý thơ là mượn cái thừa
để nói cái thiếu vắng, biểu đạt sâu sắc cái tình của người VB dành cho
cách mạng, cán bộ – thừa về lương thực thực chất là do thiếu vắng
tình cảm. “Mình về” khiến núi rừng Việt Bắc bỗng trở nên trống
vắng, buồn bã đến lạ thường, ngay cả khi trám đã bùi, măng mai đã
già cũng không ai thu hái. Câu thơ "Trám bùi để rụng, măng mai để
8
già" diễn tả nỗi nhớ, sự trống vắng, hẫng hụt, lan tỏa khắp núi rừng,
chi phối hoạt động sống của con người, nhớ đến mức ngẩn ngơ, thẫn
thờ. Bên cạnh đó nỗi nhớ còn được thể hiện bằng phép tương phản
"hắt hiu lau xám" và "đậm đà lòng son", đó là sự tương phản giữa
điều kiện vật chất với tình cảm, tấm lòng con người. Những mái nhà
rạ, vật chất sơ sài, hiu hắt nhưng tấm lòng của con người thì không sơ
sài, "đậm đà" là một từ láy khẳng định độ sâu sắc, mặn nồng của tình
cảm. Hình ảnh tương phản này đã nhấn mạnh rằng, người dân Việt
Bắc có vật chất nghèo nàn, đơn sơ nhưng không nghèo tình cảm, họ
luôn dành cho người cán bộ một ân tình sâu nặng, một tấm lòng thủy
chung.
.
Khép lại đoạn thơ , đồng bào Việt Bắc đã gợi nhắc lại những
sự kiện lịch sử gắn liền với những địa danh, những tên gọi đã trở
thành điểm mốc của chiến khu:Hỏi nhưng cũng nhắc nhở người
ra đi giữ gìn phẩm chất cách mạng vốn có ở Việt Bắc:
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.

Mình đi, mình có nhớ mình


Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa
Những từ chỉ thời gian “khi ...thuở...” gợi khoảng thời gian “ta” và
“mình” cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ
nặng nề, khó khăn.Mình đi liệu mình còn nhớ? Còn nhớ khoảng thời
gian cùng nhau kháng Nhật, thuở còn Việt Minh? Còn nhớ sự đồng
cam cộng khổ? Còn nhớ quê hương của Cách Mạng, cội nguồn nuôi
dưỡng cho Cách Mạng? Có lẽ, người ở lại cũng muốn căn dặn, nhắc
nhở người cách mạng phải luôn nhớ về cội nguồn, "nhớ núi non"
chính là nhớ tới vùng đất gắn liền với một thời gian khổ mà hào
hùng."Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh" là nhớ về buổi đầu
9
của cách mạng đầy gian khổ, hy sinh. Phải có những ngày tháng ấy
mới có được nền hòa bình, phải có giai đoạn gian khổ , khó khăn sóng
gió ấy mới có được độc lập, hòa bình như hôm nay, người cán bộ
phải luôn nhớ về điều đó, nhớ về cội nguồn của thành quả cách mạng.
Đặc biệt hai câu thơ “Mình đi, mình có nhớ mình/ Tân Trào, Hồng
Thái, mái đình, cây đa” gửi gắm rất nhiều tình cảm, ẩn chứa rất nhiều
điều . Có thể hiểu từ “mình” thứ nhất và thứ hai là người ra đi-cán bộ
kháng chiến, từ “mình” thứ ba là người ở lại-đồng bào VB. “Ta” với
“mình” gắn bó sâu sắc, như hoà làm một. Ta chính là mình, mình
chính là ta. Ý thơ là lời nhắc nhở người ra đi hãy nhớ những tình cảm
sâu sắc giữa VB và cách mạng . Tuy nhiên ở hàm nghĩa sâu sắc hơn,
ta cũng có thể hiểu từ “mình” thứ ba cũng chính là người ra đi, ý
muốn nhắc nhở người cán bộ về xuôi hãy biết tự nhìn lại mình, phải
biết giữ gìn bản chất cách mạng trong con người mình .Với cách hiểu
này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi
người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của
mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. “Mình”
đi đã để lại những trang sử oai hùng, “mình” gắn liền với những sự
kiện lịch sử vô giá “cây đa Tân Trào”, “mái đình Hồng Thái”. Giờ
mình về thủ đô, nơi ấy có nhà cao, đèn sáng, đầy đủ vật chất. Liệu
mình có nhớ chính mình hay không? Có còn nhớ đến quá khứ của bản
thân, nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ, nhớ cội nguồn cách
mạng, nhớ những phẩm chất của anh bộ đội cụ Hồ? mong rằng những
cán bộ về xuôi sẽ ghi khắc mãi năm tháng gian khổ nhưng vẻ vang
ấy.Ý thơ cũng là lời nhắc nhở về những bước ngoặc lịch sử, gìn giữ
phẩm chất của người cách mạng trước những đổi thay. Nhà thơ Tố
Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau
chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu
sắc.
Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã
được Tố Hữu vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo: lối điệp

10
cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 - 4/4 đều đặn của thể thơ lục bát khiến
cho âm điệu đoạn thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng, ngọt ngào, sâu
lắng. Cách miêu tả giàu hình ảnh. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu
phong phú. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo,
ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị. Tất cả đã hòa quyện lại và chắp
cánh, nâng đỡ cho ngòi bút của Tố Hữu thăng hoa cùng Việt Bắc. Chỉ
với 12 câu thơ Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỉ
niệm, vào một thế giới êm ái, ngọt ngào, du dương của tình nghĩa
Cách Mạng, là lời tự nhắc nhở mình đừng quên cội quên nguồn. Tất
cả những yếu tố này phù hợp với phong cách thơ trữ tình - chính trị
của nhà thơ.
Với tài năng thiên phú về văn học và bằng nghệ thuật biểu hiện
giàu tình cảm cùng giọng thơ tâm tình tha thiết, ngọt ngào, nhà thơ Tố
Hữu đã thành công khắc họa tình cảm giữa người đi và người, những
con người đã từng một thời gắn bó, sẻ chia gian khổ để giành lại chủ
quyền cho dân tộc. Đó không chỉ là tình quân dân mà còn là tình cảm
gắn bó thân thương, đáng trân trọng.

*Nỗi nhớ người và cảnh nơi chiến khu VB


Ta với mình , mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
mÌnh đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi…"

11
Tố Hữu là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam .Sự nghiệp
thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng.Ông đã để lại một sự
nghiệp văn chương vô cùng phong phú, giàu giá trị và một phong
cách nghệ thuật độc đáo, không chỉ mang tính chính trị sâu sắc mà
còn đậm đà bản sắc dân tộc. Một trong những bài thơ tiêu biểu nhất
của ông mà chúng ta không thể không nhắc đến đó là bài “Việt
Bắc”,được ông sáng tác năm 1954. “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố
Hữu và cũng là một trong số các tác phẩm xuất sắc nhất của thơ ca
Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp Bài thơ được in trong
tập thơ cùng tên đã tái hiện lại một chặng đường đầy khó khăn gian
khổ của cả dân tộc để đi đến thắng lợi vẻ vang.Đồng thời, thể hiện sự
gắn bó, ân tình sâu nặng giữa con người cách mạng với đồng bào Việt
Bắc. Nổi bật trong tác phẩm là nỗi nhớ nhung da diết của người
ra đi-cán bộ kháng chiến đối với mảnh đất, con người Việt Bắc
với biết bao kỷ niệm khó quên.Nỗi nhớ ấy được nhà thơ khắc họa
rõ nét qua đoạn thơ sau:
(Nỗinhớ thiên nhiên và con người Việt Bắc của người cán bộ về xuôi
được nhà thơ Tố Hữu phác họa một cách tinh tế qua đoạn thơ sau)
Ta với mình , mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi…"

12
Mượn lối đối đáp trong ca dao cùng lối xưng hô "mình-ta",
nhà thơ Tố Hữu không chỉ mở ra trước mắt người đọc không khí
lưu luyến, bịn rịn của buổi chia ly mà còn mang đến âm hưởng
ngọt ngào, tha thiết tựa như một lời tâm tình,Dường như đây
chính là lời bộc bạch trực tiếp của cán bộ về xuôi đối với đồng bào
Việt Bắc
"Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu..."

"Ta với mình, mình với ta" tuy hai nhưng là một, câu thơ thể hiện
sự đồng điệu, thống nhất trong tình cảm của người đi- người ở lại.
Câu thơ cũng là lời hồi đáp chắc chắn nhất về tình cảm của người ta
đi "sau trước mặn mà đinh ninh". Hai chữ “đinh ninh” như một sự
khẳng định chắc chắn về tình cảm mà người ra đi dành cho những
người ở lại. Những tình cảm gắn bó đã có với con người và vùng đất
chiến khu sẽ mãi vẹn nguyên, sống động trong trái tim, tâm hồn của
những người chiến sĩ cách mạng, trước đây như thế nào thì sau này
cũng sẽ như vậy. Cách so sánh "Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy
nhiêu" đã bộc lộ trọn vẹn tấm lòng, tình cảm của người ra đi. "Nguồn"
là nơi bắt đầu của dòng nước, bởi vậy mà lúc nào cũng dồi dào, mạnh
mẽ, không bao giờ vơi cạn, nó cũng giống như tình cảm của người
cách mạng, luôn sục sôi, đong đầy, không vì hoàn cảnh thay đổi mà
trở nên đổi thay. Cách so sánh tự nhiên, mộc mạc nhưng lại thành
công khơi dậy những tình cảm ấm áp, chân thành của người ở lại.
Tiếp mạch cảm xúc là nỗi nhớ nhung da diết tha thiết của người ra
đi-cán bộ về xuôi với cảnh vật , với thiên nhiên nơi núi rừng Việt Bắc
đầy ân tình,gắn bó.Gắn bó với nhau dài lâu như thế, chắc chắn tình
cảm mà người ra đi-cán bộ cách mạng dành cho người ở lại- nhân

13
dân VB là vô cùng lớn và sâu đậm.Cũng chính vì thế mà cảnh vật nơi
nay sẽ luôn sống mãi trong lòng người ra đi không sao quên được.
Nỗi nhớ ấy được khéo léo so sánh với nỗi nhớ người yêu. Có
lẽ đây là một nỗi nhớ đặc biệt:
“Nhớ gì như nhớ người yêu”
Một dòng thơ mà hai lần chữ “nhớ” được lặp lại. Nỗi nhớ cứ lơ lửng
ám ảnh mãi tâm trí người đi đến mức không thể kìm nén được. Lời
thơ buông ra với ngữ điệu hết sức đặc biệt, nửa như nghi vấn, nửa như
cảm thán tạo ấn tượng, ám ảnh người đọc. “Như nhớ người yêu” là
hình ảnh so sánh, ví von thật lãng mạn, tình tứ. Nỗi nhớ Việt Bắc
được cảm nhận như nỗi nhớ thương người yêu. Có khi ngẩn ngơ, ngơ
ngẩn; có khi bồn chồn, bối rối, bồi hồi. Khi da diết khắc khoải, khi lại
đau đáu thăm thẳm. Nỗi nhớ khi chia xa Việt Bắc phải chăng hàm
chứa mọi cung bậc cảm xúc ấy.
Chảy về trong nỗi nhớ niềm thương của người ra đi là cảnh
sắc Việt Bắc thơ mộng hiền hòa, con người Việt Bắc đậm sâu ân
nghĩa:
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương"
Nỗi nhớ thiên nhiên VB hiện hữu trong từng bước đi của thời gian
“sương sớm”, “nắng chiều”, “trăng đêm”. Mỗi thời điểm mang một vẻ
đẹp riêng, đặc trưng riêng. Có đêm trăng huyền ảo, mảnh trăng lấp ló
nơi đầu núi, có những chiều tỏa nắng trên nương và hình ảnh những
nếp nhà, bản làng thấp thoáng trong sương khói bồng bềnh. Không
miêu tả chi tiết, Tố Hữu chỉ chấm phá, khơi gợi. Tuy nhiên, với
những người trong cuộc, chỉ chừng ấy thôi cũng đủ bồi hồi, xao
xuyến biết bao. Hòa cùng vẻ đẹp bình dị và thơ mộng của thiên nhiên
Việt Bắc là hình ảnh con người Việt Bắc rất đỗi thân thương:
“Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.”
Hình ảnh thơ gợi tả tinh tế sự tần tảo, đảm đang, chịu thương, chịu
khó của những cô gái nuôi quân nơi chiến khu Việt Bắc. Không quản
14
khó nhọc gian nan, những người phụ nữ Việt Bắc vẫn sớm hôm cần
mẫn nuôi dấu cán bộ. Bếp lửa” - hình ảnh gợi ra khung cảnh của một
mái nhà ấm cúng nơi những đồng bào Việt Bắc hiện lên trong bóng
dáng của những người thân thương nồng đượm nghĩa tình. Họ dường
như đã trở thành gia đình, người thân đối với “người ra đi” Cách nói
“người thương” khéo léo, nhiều sức gợi, chứa chan tình cảm dịu dàng
mà nồng nàn, yêu thương.

Nỗi nhớ càng trở nên da diết, tỏa ra tràn ngập cả núi rừng
Việt Bắc. Những kỷ niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt
hiện ra trong tưởng tượng của người đi:
"Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Những đồi tre bát ngát, những dòng suối mát trong, con sông
hiền hòa, tất cả cứ in sâu trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng
sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là bao kỉ niệm đong đầy bao yêu
thương lại ùa về quẩn quanh trong tâm trí người cán bộ . “Nhớ từng”
là điểm lại cụ thể, tỉ mỉ, không bỏ sót. Những cái tên Ngòi Thia, sông
Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ là những địa danh mà còn ẩn
dấu bao kỉ niệm cảm xúc. Mỗi cảnh là một nét nhớ, nét thương về
VB.Chắc hẳn, các chiến sĩ hay chính là nhà thơ sẽ nhớ mãi và khắc
sâu những thứ thân thuộc gắn bó trông suốt 15 năm qua tại nơi chất
chứa bao kỉ niệm này. Trong giây bịn rịn ấy, bao nhiêu ký ức ngọt
ngào, kỷ niệm về nơi đây cứ hiện diện nguyên hình như một thước
phim quay chậm, càng khiến cho các chiến sĩ càng lưu luyến và chẳng
muốn rời đi.
Nhớ về Việt Bắc là nhớ những ngày tháng không thể nào
quên, ta – mình gắn bó chia ngọt, sẻ bùi:
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi...."

15
Cách xưng hô chan chứa yêu thương “ta – mình” kết hợp với từ chỉ vị
trí liền kề “đây – đó” khẳng định sự gắn bó mật thiết giữa người CM
và VB, cùng chia sẻ gian khổ niềm vui .Những gắn bó gian khổ, ngọt
bùi đã trở thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi khó có
thể quên được. Câu văn trên là lời khẳng định cho sự chia xa, là lời
khẳng định cho nỗi nhớ da diết. Nỗi nhớ không có hình thù, nhưng có
vị đắng và ngọt. Cay đắng là những vất vả của đời sống vật chất. Và
ngọt ngào là tình cảm giữa đồng bào chiến khu với cán bộ kháng
chiến Biết bao những xúc động bồi hồi dồn chứa trong mấy chữ
“đắng cay, ngọt bùi” cùng dấu chấm lửng cuối dòng thơ. “Đắng cay
ngọt bùi” là bốn tính từ chỉ bốn dư vị, bốn giai âm của cuộc sống,
cũng là ẩn dụ để nói đến những thăng trầm trong cuộc đời mà ta và
mình đã cùng nhau trải qua.. Cùng chia sẻ những gian khổ, mất mát,
hi sinh; cùng chung niềm vui, hạnh phúc, vinh quang. Ý thơ thể hiện
ý nghĩa sâu xa: ta và mình đã thấu hiểu, đồng cảm với nhau, đã mãi
mãi trở thành tri kỷ. Người đi muốn nhắn gửi với người ở lại rằng
người về xuôi sẽ không quên bất cứ một kỉ niệm, một kí ức nào về
Việt Bắc..Qua đây, ta càng xúc động và ngưỡng mộ trước tình cảm
gắn bó sâu đậm mà người ra đi dành cho thiên nhiên nơi núi rừng Việt
Bắc cũng như con người nơi đây.
Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: phong cách trữ
tình chính trị. Câu chuyện chính trị, chuyện chia tay lịch sử giữa nhân
dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay của “ta”
và “mình”. Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số yếu tố nghệ
thuật đã được Tố Hữu vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo:
thể thơ lục bát truyền thống với âm điệu ngọt ngào, sâu lắng. Cách
miêu tả giàu hình ảnh. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú.
Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo, ngôn ngữ trong
sáng, nhuần nhị. Tất cả đã hòa quyện lại và chắp cánh, nâng đỡ cho
ngòi bút của Tố Hữu thăng hoa cùng Việt Bắc, ca ngợi bản tình ca ân
nghĩa thuỷ chung, nghĩa tình cao đẹp giữa cán bộ và nhân dân Việt

16
Bắc. Đoạn thơ là tiếng lòng của Tố Hữu về tình đồng chí, đồng bào,
tình yêu quê hương đất nước, là lời tự nhắc nhở mình đừng quên cội
quên nguồn. Đó là đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn vô
hạn của cách mạng dành cho nhân dân. Đó cũng chính là tính dân tộc
đậm đà trong thơ Tố Hữu.
Với tài năng thiên phú về văn học, nhà thơ Tố Hữu thực sự đã
rất thành công khi làm đọng lại trong lòng độc già biết bao cảm xúc
khó tả. Những dòng thơ ấy đã để lại trong lòng bạn đọc những ấn
tượng về hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc với những hình ảnh giản dị,
đó là khói của bếp lửa, là hình ảnh suối đèo, bờ tre thân thuộc… Tất
cả đã để lại một hoài niệm khó quên trong lòng người ra đi về cái
nghĩa, cái tình của đồng bào thân thương cùng nhau chia sẻ miếng
cơm, manh áo trong những giây phút khó khăn, từ đó cũng cho thấy
sự đoàn kết của hậu phương và tiền tuyến trong giai đoạn lịch sử
thăng trầm bấy giờ. Nó cũng là lời nhắc nhở cho thế hệ hôm nay đang
được sống trong hòa bình cần trân trọng lịch sử, trân trọng những
thành quả của cha ông để lại, phát huy những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

*Hồi ức về cuộc sống của những năm tháng chiến tranh ác liệt,
đầy gian khổ nơi núi rừng Việt Bắc đã được nhà thơ Tố Hữu tái
hiện qua thước phim quay chậm như một cuốn sách lịch sử bằng
thơ:
"Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng."
"Sắn lùi", "bát cơm sẻ nửa", "chăn sui" là những hình ảnh hiện
thực cụ thể phản ánh một cuộc sống vô cùng thiếu thốn, khó khăn,
gian khổ. Nơi đây không chỉ có mưa bom bão đạn của kẻ thù mà còn
có cả bệnh tật, đói rét, khổ cực, gian khó. Nhưng cũng chính từ trong

17
đói khổ, thiếu thốn đó lại nhen nhóm lên tình nghĩa gắn bó giữa đồng
bào VB với những người lính kháng chiến. Một củ sắn lùi cũng chia
nhau, bát cơm sẻ nửa để làm ấm lòng nhau và một chiếc chăn sui đắp
cùng để sưởi ấm cho nhau trong đêm đông lạnh giá. Họ không chỉ
vượt qua thử thách bằng lòng dũng cảm mà còn bằng tình yêu thương,
bằng sức mạnh của tinh thần đoàn kết. Dẫu vật chất thật thiếu thốn, ít
ỏi, đơn sơ nhưng nghĩa tình thật sâu sắc, thiêng liêng. Tình đồng bào,
đồng chí trở nên ấm áp thân thương như tình cảm gia đình ruột thịt.
Các chi tiết nghệ thuật ở đây vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có tính khái
quát. Tất cả khẳng định sự đồng cam, cộng khổ giữa nhân dân Việt
Bắc với những người chiến sĩ cách mạng.

Nghĩ về người con Việt Bắc, những đồng bào thân thương
một thời gắn bó thủy chung, nghĩa tình, nhà thlơ gợi ra hình ảnh
người mẹ của nhân dân, người mẹ nuôi bộ đội với hình ảnh gần
gũi và rất đỗi thiêng liêng:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”
Hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng” gợi cho người đọc liên tưởng
đến thiên nhiên Việt Bắc vô cùng khắc nghiệt. Nắng thì đến cháy
lưng, mà rét thì như cắt da cắt thịt. Hai chữ “cháy lưng” nhói lên nỗi
xót thương vô hạn của tác giả đối với những bà mẹ Việt Bắc. Các
động từ “địu con”, “bẻ từng” gợi lên sự tần tảo, cần cù lao động, vất
vả gian khổ của bà mẹ trong kháng chiến đã đùm bọc, cưu mang
chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Người mẹ không quản ngại thời tiết khắc
nghiệt, dữ dội “nắng cháy lưng” vẫn cần mẫn vừa địu con vừa lao
động. Hai chữ “bẻ từng” gợi ra dáng vẻ người mẹ đang cặm cụi lao
động, mẹ đang chắt chiu, dành dụm từng hạt bắp làm lương thực nuôi
quân. Đó là những ân tình không thể nào quên trong ký ức của người
về.Bên cạnh đó còn là tình cảm yêu mến của nhà thơ và sự trân trọng,
biết ơn đối với những người mẹ kháng chiến
18
( Hơn hết không chỉ là những con người cao cả ấy mà cả cuộc sống
sinh hoạt ở VB cũng để lại ấn tượng sâu đậm trong trí nhớ của nhà
thơ)

Tiếp nối trong dòng chảy ký ức dạt dào, thiết tha ấy, nhà thơ
Tố Hữu gợi ra một bức tranh Việt Bắc với khung cảnh, với nhịp
sống, âm thanh quen thuộc:
"Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”
Điệp từ “nhớ” và kiểu câu bắt đầu bằng “nhớ sao” khiến cho nỗi
nhớ như mênh mang, như trải dài vô tận. Đó là kỷ niệm với lớp học
bình dân học vụ – nơi cán bộ dạy chữ cho nhân dân vùng cao “lớp học
i tờ” trong những ngày đầu kháng chiến .Ta có thể cảm nhận được đó
là cả một sự cố gắng và tinh thần giác ngộ cách mạng của con người
VB .Bỡi lẽ biết chữ họ mới có thể tiếp cận được với thông tin kháng
chiến,để góp một phần công sức vào sự độc lập của dân tộc. Hình ảnh
“những giờ liên hoan” cũng được hiện lên với không khí vui tươi náo
nhiệt ,phấn khởi sau những ngày chiến đấu và lao động vất vả. Không
khí hồ hởi, vui tươi đó dường như ắp đầy khắp các bản làng Việt Bắc,
ngập tràn trong hình dung tưởng tượng của mỗi người đọc khi đến với
trang thơ giàu hình ảnh, cảm xúc của Tố Hữu.Đó là những phút giây
khiến con người kháng chiến quên đi những mệt nhọc để tiếp tục
chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc.
Nhớ nhịp sống những ngày tháng gian khổ nhưng tràn đầy
sự lạc quan, yêu đời:
“Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”.
Khó khăn gian khổ là thế nhưng đâu đó vẫn vang vọng tinh thần lạc
quan yêu đời tin tưởng vào ngày mai tươi sáng của những con người
19
Việt Bắc qua âm thanh tiếng hát ca vang .Với vốn ngôn ngữ phong
phú, giàu hình ảnh của mình, nhà thơ Tố Hữu đã giúp người đọc hình
dung ra không gian, không khí rộn ràng niềm vui của quân dân Việt
Bắc sau những giờ phút chiến đấu ác liệt. Câu thơ “gian nan đời vẫn
ca vang núi đèo” có sự tương phản giữa đời sống vật chất gian khổ và
tinh thần luôn lạc quan, yêu đời. Dù có khó khăn đến đâu thì vẫn cứ
“ca vang” tiếng hát.
Đến cả những âm thanh của đời thường cũng đi vào nỗi nhớ
của người ra đi:
“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nên cối đều đều suối xa”.
Hai câu thơ cuối gợi nhớ vẻ đẹp thanh bình của núi rừng Việt
Bắc. Văng vẳng trong không gian thanh bình ấy là tiếng “mõ rừng
chiều” gọi trâu về của người lao động. Âm thanh tiếng giã gạo đêm
khuya, tiếng chày tiếng cối hòa cùng tiếng suối xa càng đậm tô thêm
bức tranh sinh hoạt thân thương, gần gũi, tràn đầy sức sống nơi núi
rừng Việt Bắc. Những âm thanh ấy cùng hòa quyện lại, một cách rất
riêng, tạo nên một khúc nhạc ấn tượng mà chỉ riêng núi rừng Việt Bắc
có, do những con người Việt Bắc cùng cán bộ cách mạng thời kỳ
kháng chiến xây đắp nên.
Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: phong cách
trữ tình chính trị. Câu chuyện chính trị, chuyện chia tay lịch sử giữa
nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay của
“ta” và “mình”. Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số yếu tố
nghệ thuật đã được Tố Hữu vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng
tạo: thể thơ lục bát truyền thống với âm điệu ngọt ngào, sâu lắng.
Cách miêu tả giàu hình ảnh. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong
phú. Nhiều biện pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo, ngôn ngữ
trong sáng, nhuần nhị. Tất cả đã hòa quyện lại và chắp cánh, nâng đỡ
cho ngòi bút của Tố Hữu thăng hoa cùng Việt Bắc, ca ngợi bản tình ca
20
ân nghĩa thuỷ chung, nghĩa tình cao đẹp giữa cán bộ và nhân dân Việt
Bắc. Đoạn thơ là tiếng lòng của Tố Hữu về tình đồng chí, đồng bào,
tình yêu quê hương đất nước, là lời tự nhắc nhở mình đừng quên cội
quên nguồn. Đó là đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn vô
hạn của cách mạng dành cho nhân dân. Đó cũng chính là tính dân tộc
đậm đà trong thơ Tố Hữu.
Với tài năng thiên phú về văn học, nhà thơ Tố Hữu thực sự đã
rất thành công khi làm đọng lại trong lòng độc già biết bao cảm xúc
khó tả. Những dòng thơ ấy đã để lại trong lòng bạn đọc những ấn
tượng về hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc với những hình ảnh giản dị rất
đỗi thân thuộc… Tất cả đã để lại một hoài niệm khó quên trong lòng
người ra đi về cái nghĩa, cái tình của đồng bào thân thương cùng nhau
chia sẻ miếng cơm, manh áo trong những giây phút khó khăn, từ đó
cũng cho thấy sự đoàn kết của hậu phương và tiền tuyến trong giai
đoạn lịch sử thăng trầm bấy giờ. Nó cũng là lời nhắc nhở cho thế hệ
hôm nay đang được sống trong hòa bình cần trân trọng lịch sử, trân
trọng những thành quả của cha ông để lại, phát huy những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước.

*Bức tranh tứ bình

Tố Hữu là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam .Sự
nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng.Ông đã để lại
một sự nghiệp văn chương vô cùng phong phú, giàu giá trị và một
phong cách nghệ thuật độc đáo, không chỉ mang tính chính trị sâu sắc
mà còn đậm đà bản sắc dân tộc. Một trong những bài thơ tiêu biểu
nhất của ông mà chúng ta không thể không nhắc đến đó là bài “Việt
Bắc”,được ông sáng tác năm 1954. “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố
21
Hữu và cũng là một trong số các tác phẩm xuất sắc nhất của thơ ca
Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp Bài thơ được in trong
tập thơ cùng tên đã tái hiện lại một chặng đường đầy khó khăn gian
khổ của cả dân tộc để đi đến thắng lợi vẻ vang.Đồng thời, thể hiện sự
gắn bó, ân tình sâu nặng giữa con người cách mạng với đồng bào Việt
Bắc. Cả bài thơ là một bầu trời nhớ thương tuôn chảy về những
năm tháng ở chiến khu Việt Bắc tuy gian khổ nhưng vui tươi hào
hùng. Để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong lòng nhìu độc giả có lẽ
là nỗi nhớ về thiên nhiên bốn mùa tươi đẹp ở Việt Bắc. Cảnh đẹp
bốn mùa xuân-hạ_thu_đông đã tạo nên một bức tranh tứ bình đa
màu sắc . Khung cảnh tuyệt đẹp ấy hiện lên vô cùng rõ nét qua đoạn
thơ sau:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợ giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Hai câu thơ mở đầu mang đến cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn
thơ. Đó là cảm xúc nhớ nhung không nguôi về Việt Bắc:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Mở đầu đoạn thơ là một câu hỏi tu từ bâng khuâng, thấm vào hồn
người và cảnh vật “ta về mình có nhớ ta”. Đây là câu hỏi đầu tiên từ
phía người ra đi , ột câu hỏi ngọt ngào phảng phất hương vị của tình
yêu. Hỏi chỉ là cái cớ để bộc lộ cảm xúc, hỏi để rồi lại bồi hồi xao
xuyến phút chia xa. Vẫn là cách xưng hô “mình – ta” ngọt ngào gợi
nhiều cảm xúc . Người về mang theo nỗi nhớ “những hoa cùng
22
người”. ”Hoa” là biểu tượng cho những gì tinh túy nhất của núi rừng
Việt Bắc.Nhắc đến hoa là ta nhớ ngay đến người dân Việt Bắc nơi
đây-những con người giản dị rất đỗi chân thành.Hoa và người là sự
hòa quyện gắn bó làm cho bức tranh thiên nhiên thêm phần sinh
động . Nhớ hoa thì trong hoa lấp lánh bóng người, mà nhớ người thì
trên khuôn mặt người lấp lánh bóng hoa. Hoa và người đan cài vào
nhau dệt nên bộ tứ bình lộng lẫy .Cấu trúc của đoạn thơ thực sự rất
độc đáo, cứ một câu nói về cảnh lại là một câu nói về người tạo nên
bức tranh tứ bình với cảnh sắc 4 mùa tuyệt đẹp.
Khung cảnh Việt Bắc mở ra trong nỗi nhớ của người ra đi là
bức tranh thiên nhiên mùa đông-bức tranh mở đầu của bộ tứ
bình với sự hòa phối màu sắc tuyệt vời:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Bức tranh mùa đông gợi lên bởi không gian mênh mông với chìu rộng
của rừng xanh đại ngàn.Tất cả trở nên sáng hơn khi tô điểm trên nền
màu xanh bát ngát của núi rừng là màu đỏ tươi của hoa chuối đang nở
rộ.Hai từ “đỏ tươi” làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng,
ấm áp,dạt dào sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh lẽo vốn có của mùa
đông. Có nhà phê bình đã không tiếc lời ngợi ca: Tố Hữu giống như
một nhà hội họa vậy, ông đã mang đến cho câu thơ một bức tranh
sống động, hài hòa. Màu đỏ của hoa chuối giống như nét chấm phá
trên thảm xanh của núi rừng. Từ xa nhìn tới, hoa chuối giống như
những bó đuốc đỏ rực đang thắp sáng cả cánh rừng già làm bừng sáng
cả mùa đông Việt Bắc. Giữa bao la nắng gió, con người lao động
vùng chiến khu xuất hiện với vẻ đẹp lộng lẫy: “Đèo cao nắng ánh dao
gài thắt lưng”.Ấy là con người lên núi làm nương, phát rẫy, sản xuất
lương thực cung cấp cho kháng chiến. Ở đây nhà thơ không khắc họa
gương mặt, dáng hình, mà chớp lấy một khoảnh khắc rực sáng nhất.
Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng gài ở thắt lưng làm con
23
người hiện lên như một điểm hội tụ của ánh sáng. Con người ấy cũng
đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Tư thế ấy là
tư thế của con người làm chủ: làm chủ tự do, làm chủ lao động, làm
chủ tình thế. Qua hai câu thơ ta thấy giữa hoang sơ tráng lệ, giữa trời
cao bao la và rừng rộng mênh mong, con người đã trở thành linh hồn
của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Chưa hết ngỡ ngàng bởi bức tranh mùa Đông thơ mộng, người
đọc lại đắm mình trong bức tranh xuân đang bừng sáng sức sống
hoang dại, mãnh liệt của hoa mơ:
(Khép lại bức tranh mùa đông là sự bao trùm với màu trắng tinh
khiết của hoa mơ đã làm cho núi rừng VB mang vẻ đẹp trong trẻo
lạ thường

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Mùa xuân là mùa của những loài hoa khoe sắc. Nếu người miền
Nam đón xuân với sắc mai vàng rực rỡ, người Hà Nội rạo rực với sắc
đỏ của hoa đào; thì Việt Bắc tự hào với sắc trắng của hoa mơ. Hoa mơ
là linh hồn của mùa xuân nơi đây.Nhà thơ đã sử dụng thành công
động từ “nở” để miêu tả sức sống mùa xuân như lan tỏa khắp không
gian núi rừng Tây Bắc. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng
dịu dàng, tinh khiết của hoa mơ .Hai từ” trắng rừng” đã làm cho
không gian Vb như sáng rực cả một khoảng trời, cũng như đã khoác
lên mình một chiếc áo mới. Màu trắng dường như lấn át tất cả mọi
màu xanh của lá, làm bừng sáng cả khu rừng tạo nên bức tranh thơ
lãng mạn mang đến cảm giác mơ màng, bâng khuâng. Thấp thoáng
dưới cánh rừng xuân thơm mát bởi sắc trắng tinh khiết của hoa mơ là
hình ảnh con người lao động với hoạt động “chuốt từng sợi giang”.
Người Việt Bắc đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày, đó là

24
công việc đan nón thủ công – một nghề truyền thống của Việt Bắc. Từ
“chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay và phẩm chất của con
người lao động: cần mẫn, cẩn thận, tỉ mỉ, khéo léo, tài hoa, nhanh
nhẹn, chăm chút, trau chuốt… đó cũng chính là phẩm chất tần tảo
của con người Việt Bắc, tạo nên nét đáng yêu của con người làm chủ
nơi đây.Từ đó, vẻ đẹp của con người VB đã khắc sâu trong tâm trí của
người ra đi ,trở thành một dấu ấn khó có thể phai mờ.
Bức tranh mùa xuân qua đi, màu trắng cũng mờ dần, để
nhường chỗ cho cho âm thanh tiếng ve kêu rạo rực cả một góc
trời VB vào mùa hạ. Đó là âm thanh rộn rã tươi vui , một âm
thanh rất đặc trung báo hiệu mùa hạ đã về:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Câu thơ thứ nhất là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của mùa hè
với hai ấn tượng: tiếng ve và phách đổ vàng. Tiếng ve là đặc trưng
của mùa hạ; còn phách đổ vàng là đặc trưng của mùa hè Việt Bắc.
Chữ “đổ” được dùng thật chính xác, tinh tế. Nó làm hiện lên đồng
thời cùng lúc hai hoạt động. Hoạt động của âm thanh và hoạt động
của sắc màu.Dường như cảnh vật có sự giao cảm với nhau. Khi tiếng
ve vừa đổ xuống thì cũng là lúc cả cánh rừng phách đồng loạt chuyển
sang màu vàng. Tiếng ve lan đến đâu, sắc vàng dậy lên đến đó. Đó là
nghệ thuật dùng âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để
miêu tả thời gian. Bởi vậy, cảnh thực mà vô cùng huyền ảo. Nghệ
thuật ấy vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài
tình và chính xác khoảnh khắc hè sang. Bức tranh mùa hè vì thế mà
hiện lên tươi tắn, thơ mộng, dịu mát chứ không hề chói chang như
trong thơ ca cổ kim. Hiện lên giữa nền thiên nhiên óng vàng và rộn rã
ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng: “Nhớ
cô em gái hái măng một mình”. Cô sơn nữ một mình lao động trong
không gian núi rừng không gợi ấn tượng buồn hiu hắt lẻ loi mà lại
25
mang vẻ đẹp khoẻ khoắn, âm thầm, lặng lẽ góp sức mình cho cuộc
kháng chiến từ những điều bình dị, nhỏ bé. .Ý thơ ẩn chứa nỗi nhớ,
niềm yêu, sự trân trọng của nhà thơ dành cho người em gái thương
yêu, dành cho con người Việt Bắc.
Khép lại bộ tranh tứ bình Việt Bắc là bức tranh mùa thu cùng
tiếng hát chia tay, để lại âm vang nghĩa tình kháng chiến:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Động từ “rọi” rất gợi. Mùa thu có ánh trăng tràn ngập cả không gian
bao la. Đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên
từng cánh rừng, từng bản làng Việt Bắc. Giữa bao la ánh trăng vàng
dịu mát ấy lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng
bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình: mình về Hà
Nội, sống trong cuộc sống hòa bình đừng quên những năm tháng
chiến tranh, ăn một miếng ngon đừng quên những tháng ngày khốn
khó; sống ở miền xuôi đừng quên miền ngược. Hãy luôn nhớ về cội
nguồn kháng chiến – nơi núi rừng Việt Bắc mà ta đã cùng nhau đi qua
bao cay đắng ngọt bùi .Qua đây,có thể nói, bức tranh mùa thu Việt
Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại
đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về người
ở lại và cả những độc giả những rung động sâu xa của tình yêu quê
hương đất nước.
Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: đậm đà tính dân
tộc. Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số yếu tố nghệ thuật đã
được Tố Hữu vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo: thể thơ
lục bát truyền thống với âm điệu ngọt ngào, sâu lắng. Cách miêu tả
giàu hình ảnh. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú. Nhiều biện
pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo, ngôn ngữ trong sáng,

26
nhuần nhị. Tất cả đã hòa quyện lại và chắp cánh, nâng đỡ cho ngòi
bút của Tố Hữu thăng hoa cùng Việt Bắc, ca ngợi bản tình ca ân nghĩa
thuỷ chung, nghĩa tình cao đẹp giữa cán bộ và nhân dân Việt
Bắc.Đoạn thơ đã tái hiện một bức tranh tứ bình rất đặc trưng của Việt
bắc. Mùa nào cũng đẹp cũng mang một diện mạo riêng, vừa đậm đà
tính dân tộc song cũng rất mới mẻ, hiện đại. Bên cạnh đó là vẻ đẹp
của những con người nơi đây, tuy nghèo khổ nhưng cần cù, chịu
thương chịu khó, sống tình nghĩa, thủy chung, son sắt với Cách
mạng.
Với những nét phác họa đơn sơ, bình dị, bức tranh tứ bình Việt
Bắc được vẽ ra với sự hòa quyện giữa cổ điển và hiện đại, giữa con
người và thiên nhiên, tất cả tạo nên một bức tranh tổng hòa về thiên
nhiên và cuộc sống. Đoạn thơ chính là một nét độc đáo trong phong
cách trữ tình chính trị của Tố Hữu mà khi nhắc đến Việt Bắc, người ta
lại nhớ ngay đến những tâm hồn hồn hậu, giàu nghĩa tình, thủy chung.

*TÂY TIẾN
14 CÂU ĐẦU
Quang Dũng là trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của nền văn học
VN thời kì kháng chiến chống Pháp.Ông là một nghệ sĩ đa tài làm
thơ viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Thơ Quang Dũng chiếm lĩnh tâm
hồn người đọc bởi tâm hồn phóng khoáng ,hồn hậu vừa mang vẻ đẹp
đào hoa, vừa đậm chất lãng mạn .Và khi nhắc đến sự nghiệp sáng tác
của ông chúng ta không thể không nhắc đến tác phẩm “Tây Tiến”-1
trong những bài thơ đã làm nên tên tuổi của ông.Có thể nói đây là bài
thơ xuất sắc nhất trong tập “mây đầu ô” của Quang Dũng.Bài thơ là
nỗi nhớ da diết tác giả khi nhớ về những kỉ niệm hành quân cùng
đồng đội qua những vùng núi Tây Bắc hoang sơ, hiểm trở.Chỉ với 14
27
câu thơ đầu, nhà thơ cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp hùng
vĩ ,hoang sơ, dữ dội mà trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên núi
rừng TB cũng như làm hiện lên hình ảnh người lính TT trên
chặng đường hành quân đầy gian nan, nguy hiểm; tuy vất vả, hi
sinh nhưng vẫn ngang tàng, trẻ trung, :
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

“Tây Tiến” được bắt đầu bằng nỗi nhớ về một dòng sông với
âm hưởng vô cùng tha thiết, nhớ thương:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

28
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Trở về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như một biểu
tượng đầu tiên của nỗi nhớ. Đây là dòng sông chạy dọc theo địa bàn
biên giới Việt Nam với nhiều ghềnh thác dữ dội, một mình băng băng
giữa núi rừng hùng vĩ. Sông Mã còn là dòng sông gắn liền với chặng
đường hành quân vất vả của trung đoàn , từng chứng kiến và sẻ chia
những buồn vui, những mất mát, hi sinh của người lính. Sông Mã
không còn là dòng sông vô tri trên bản đồ địa lí, nó đã trở thành người
bạn, người thân, là nhân chứng lịch sử đi theo bước quân hành của
người lính Tây Tiến, ghi dấu bao nhiêu kỉ niệm. Hai tiếng “xa rồi” gợi
nhắc về thời gian, tất cả những kỉ niệm với đoàn quân Tây Tiến nay
đã lùi xa vào dĩ vãng. Bao tình cảm được dồn nén vào từ “ơi” dâng
lên một dấu chấm than để mở ra bao nhiêu dạt dào của cảm xúc nỗi
nhớ. Nỗi nhớ vang vọng lên, khắc sâu tình cảm nhớ thương của người
chiến sĩ năm nào. Điệp từ “nhớ” đi liền với tính từ “chơi vơi” xoáy
sâu vào tâm hồn độc giả, ào ạt như một cái thác lũ trong ký ức Quang
Dũng. Đặc biệt, “nhớ chơi vơi” là một cách diễn tả nỗi nhớ rất riêng
của Quang Dũng. Đó là cảm giác, trơ trọi, hụt hẫng, chông chênh
trong một nỗi hoài niệm xa xôi, bởi Tây Bắc đã xa lắm rồi. Một Tây
Bắc đầy sương mù, mây vờn quanh núi chơi vơi, hoang vắng, nhưng
lắm oai hùng.
Vẻ đẹp của người lính gắn liền với những chặng đường hành
quân đầy thử thách khó khăn. Thiên nhiên và con người đan xen hoà
quyện lẫn nhau để tạo nên bức tranh kì vĩ, dữ dội mà thơ mộng trữ
tình của thiên nhiên cùng với tầm vóc lớn lao của con người. Bức
tranh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, bí hiểm mà thơ
mộng, trữ tình như một cái nền làm nổi bật hình tượng người lính.
Là người từng trải qua những ngày tháng khốc liệt chiến
tranh, hơn ai hết, Quang Dũng hiểu rõ về khó khăn, gian khổ nơi
biên cương:

29
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Cái khắc nghiệt đầu tiên mà đoàn quân nếm trải là màn sương dày đặc
ở bản làng Sài Khao. Nó bao phủ, che mờ của đoàn quân, nó thấm
vào từng thớ thịt lạnh buốt. Sượng giá khiến đoàn quân lãnh lẽo, thấm
mệt. Những khắc nghiệt của tự nhiên không làm tinh thần người chiến
sĩ nao núng. Tình yêu nước đã khiến những chàng trai Hà thành thêm
quật cường, bất khuất, xua tan mọi giá rét, cực khổ, đẩy lùi tất thảy
mệt mỏi gian lao. Quang Dũng đã sử dụng động từ “hoa về” thay vì
“hoa nở”, “đêm hơi” chứ không phải “đêm sương”. Cách kết hợp từ
này gợi tả không gian đầy trữ tình, huyền ảo, lung linh như không có
thực. Giờ đây, nỗi nhớ của nhà thơ như dàn trải khắp không gian rộng
lớn. Mỗi nơi mà nơi bước chân người lính đã đi qua, họ đều dành
những tình cảm yêu thương đặc biệt, khiến chúng trở thành những kỷ
niệm khắc sâu trong lòng mãi mãi không thể quên.

Hằn sâu trong kí ức của người chiến binh Tây Tiến, thiên
nhiên miền Tây với hình thế sông núi hiểm trở nhưng không kém
phần thơ mộng của miền Tây trên đường hành quân của người
lính lại được hiện lên rõ nét và đầy sức gợi:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Ba câu thơ đầu miêu tả sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và
hiểm trở qua đó làm hiện lên cuộc hành quân vất vả, gian lao và ý chí
bất khuất, kiên cường của những người chiến binh Tây Tiến. Điệp từ
“dốc” gợi lên cảnh những đỉnh dốc nối tiếp nhau, hết đỉnh dốc này lại
tới đỉnh dốc khác, chẳng biết bao giờ mới hết. Từ láy “khúc khuỷu”,
“thăm thẳm” gợi lên sự hiểm trở, quanh co, lắt léo gập ghềnh, thêm
vào đó là sự chênh vênh của núi rừng, bên là vách núi bên là vực
thẳm. Cả câu thơ gợi mở một không gian hành quân vừa cao lại vừa
sâu rộng và người lính đang phải nỗ lực hết sức mình để vượt qua
30
những chặng đường đầy nguy khó. Điệp ngữ “Ngàn thước” kết hợp
với nghệ thuật tương phản “lên cao-xuống”, cũng tiếp tục vừa gợi ra
độ cao chót vót của đỉnh dốc, vừa gợi ra độ sâu thăm thẳm của đáy
dốc. Lời thơ làm nổi bật được tính chất hùng vĩ, hiểm trở nổi bật của
núi rừng Tây Bắc và nỗ lực vượt lên trên những khó khăn địa hình
hành quân của người lính chiến lúc bấy giờ.Nhưng dẫu thiên nhiên có
hùng vĩ, trùng điệp, khúc khuỷu đến mấy thì cũng trở nên vô nghĩa
dưới bước chân của binh đoàn Tây Tiến. Từ láy “heo hút” thể hiện sự
hoang vắng, lạnh lẽo của núi rừng. Hình ảnh “súng ngửi trời” là một
hình ảnh nhân hóa thú vị và đầy sáng tạo của Quang Dũng. Những
khẩu súng khoác trên vai, mũi súng dường như đang chọc thủng trời
xanh kia. Nói là “súng ngửi trời” là cách cảm nhận thật tinh nghịch
của người lính trẻ lãng mạn, hài hước và hồn nhiên. Câu thơ cuối có
âm điệu thật khác so với ba câu thơ trên, lời thơ nhẹ nhàng trầm
xuống, tưởng tượng như người lính chiến từ trên đỉnh núi cao mà
phóng tầm mắt xuống, thấy những cảnh vật mơ hồ. Chi tiết “mưa xa
khơi” gợi cảm giác khoan khoái mát lạnh của làn mưa trắng xóa. Đó
là nét đẹp lãng mạn của núi rừng Tây Bắc, đồng thời cũng gợi lên
trong tâm hồn người lính cảm giác yên bình, tiếp thêm động lực cho
những chặng đường trước mắt.
Sau những ngày hành quân gian khổ, thì hồi ức của Quang
Dũng tiến về sự hi sinh của một người lính Tây Tiến.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

Những con người này đẹp lắm, dũng cảm lắm bởi họ đã làm nên lịch
sử, góp phần vào sự trưởng thành của đất nước, họ cũng chính là
những con người “sinh ra trong thời đại của anh hùng”. Tất cả thương
mến, tự hào dành cho đồng đội dường như đã được Quang Dũng gửi
gắm trọn vẹn trong từ “anh bạn”. Dãi nắng dầm mưa, trải qua khắc
nghiệt của thiên nhiên núi rừng người chiến sĩ đã hy sinh. Nhưng

31
không vì thế mà bài thơ trở nên bị thảm, tang thương. Người lính ra đi
trong một tư thế rất đỗi hào hùng:
“Gục lên súng mũ bỏ quên đời”.
Tư thế hi sinh “gục lên súng mũ”, thể hiện tinh thần người lính chiến
dẫu có hy sinh cũng không hề rời đi trách nhiệm. Đó là một tư thế
ngang tàng, gan góc, quả cảm của người lính. Bút pháp lãng mạn “bỏ
quên đời” phần nào làm cho cái chết không còn nặng nề, giảm nhẹ
đau thương và mất mát. Quang Dũng viết về anh như viết về một đất
nước dẫu có mưa bom bão đạn cũng không chịu cúi đầu: “quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh”. Họ là những chàng trai còn mang trong
mình ước mơ và hoài bão tuổi trẻ. Vậy mà giờ đây, họ hy sinh vì lý
tưởng chung của dân tộc.. Có thể nói trong hai dòng thơ trên có sự
đau đớn xót xa của nhà thơ với người đồng đội, đồng thời cũng là tấm
lòng cảm phục với sự hy sinh anh hùng ấy. Lời thơ cũng cho thấy cái
nhìn tỉnh táo và dũng cảm của Quang Dũng khi viết về chiến tranh,
nhưng không hề giấu đi những nỗi đau mất mát.
Người chiến sĩ ấy nằm lại nhưng đồng đội anh vẫn tiếp
bước. Khó khăn gian khổ vẫn còn:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".
Sự bí hiểm, dữ dội của núi rừng còn được mở ra theo chiều thời
gian.Từ láy “đêm đêm”, “chiều chiều” gợi ra thời gian tiếp nối, nguy
hiểm luôn đe doạ, rình rập những người lính Tây Tiến..Hình ảnh “cọp
trêu người” cùng với âm điệu đặc biệt “Mường Hịch” như những
tiếng bước chân cọp luôn rậm rịch xung quanh lán trại của người
lính.. Khó khăn vất vả cộng hưởng nỗi nhớ nhà dễ khiến người ta nhụt
chí nhưng với người lính Tây Tiến nó không những không ngăn được
lý tưởng cách mạng, ngược lại còn là động lực thôi thúc anh mạnh mẽ
hơn, can đảm hơn. Hai câu thơ gieo vào lòng người đọc tất cả khắc
nghiệt và dữ dội về một miền đất âm u, khắc khổ.
Tưởng rằng những khó khăn, gian khổ kia sẽ làm mờ đi trong
tâm hồn những chàng trai trẻ Hà Nội nét hào hoa, lãng mạn vốn
có. Nhưng không, nét hào hoa, lãng mạn vẫn chẳng hề mất đi dọc
cuộc hành trình:
32
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.
Bao nhiêu lãng mạn gửi vào những chữ "nhớ ôi Tây Tiến...", "Mai
Châu mùa em...". Đó là những chữ đã để lại trong tâm hồn người lính
những vẻ đẹp của miền núi hoang sơ kia, vẻ đẹp mang đậm tình người
với "cơm lên khói" và "mùa em thơm nếp xôi". Lòng người Tây Tiến
nhớ mãi "mùa em", mùa những người lính Tây Tiến gặp em giữa
khung cảnh hạnh phúc của xóm làng. Hương nếp xôi cũng từ mùa em
mà thơm mãi trong tâm hồn người lính. Tình quân dân tha thiết, ấm
nồng với hương lửa, nắm xôi, những ngày còn chiến đấu cứ ám ảnh
mãi không thôi. Sau tất cả, con người và tình cảm quân dân luôn là
nỗi nhớ đọng lại nơi người lính, là chút nương tựa của tâm hồn họ
mỗi khi mỏi mệt, gian nan.
Trong 14 dòng thơ mở đầu, bút pháp hiện thực và lãng mạn luôn
nâng đỡ lẫn nhau trong các câu thơ và trong từng hình ảnh. Đoạn thơ
chủ yếu khắc tạc bức tranh thiên nhiên vô cùng hoang sơ, hiểm trở từ
đó làm nổi bật hình ảnh những ngươì lính Tây Tiến với tầm vóc lớn
lao, với ý chí kiên cường, với tâm hồn phơi phới niềm tin, niềm lạc
quan đã tạo nên sức mạnh đạp bằng mọi gian khổ hy sinh để đi tới.
Đây là những câu thơ có sức tạo hình hết sức độc đáo. Cảm hứng lãng
mạn đã làm cho hình tượng người lính trở nên rực rỡ. Hình tượng
nghệ thuật vừa bám sát hiện thực lại có sự bay bổng trong sức tưởng
tượng của người đọc bởi chất lãng mạn ấy của hồn thơ Quang Dũng.
Với sự kết hợp hài hòa giữa tả thực và lãng mạn, ngôn ngữ giàu
chất tạo hình, nhiều yếu tố nghệ thuật sinh động, tác giả đã tái hiện lại
bức tranh khá hoàn chỉnh và sinh động về thiên nhiên Tây Bắc vừa
hùng vĩ, hiểm trở vừa ấm áp nên thơ và tinh thần xả thân vì Tổ quốc
của người lính Tây Tiến năm xưa.

*8 câu thơ :
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
33
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Quang Dũng là trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của nền văn học
VN thời kì kháng chiến chống Pháp.Ông là một nghệ sĩ đa tài làm
thơ viết văn, vẽ tranh và soạn nhạc. Thơ Quang Dũng chiếm lĩnh tâm
hồn người đọc bởi tâm hồn phóng khoáng ,hồn hậu vừa mang vẻ đẹp
đào hoa, vừa đậm chất lãng mạn .Và khi nhắc đến sự nghiệp sáng tác
của ông chúng ta không thể không nhắc đến tác phẩm “Tây Tiến”-1
trong những bài thơ đã làm nên tên tuổi của ông.Có thể nói đây là bài
thơ xuất sắc nhất trong tập “mây đầu ô” của Quang Dũng.Bài thơ là
nỗi nhớ da diết tác giả khi nhớ về những kỉ niệm hành quân cùng
đồng đội qua những vùng núi Tây Bắc hoang sơ, hiểm trở. Để lại
trong lòng người đọc những ấn tượng sâu đậm nhất có lẽ là hình
tượng người lính anh dũng bất khuất, kiên cường vượt qua bao
gian khổ trong chiến tranh.Điều ấy đc thể hiện qua khô thơ sau:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

34
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Trên những nẻo đường hành quân, chiến đấu, vượt qua bao
đèo cao dốc hiểm, đoàn quân Tây Tiến hiện ra giữa núi rừng
trùng trùng điệp điệp vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến
binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da phong
sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Hai câu thơ trần trụi như hiên thực chiến tranh những năm tháng
kháng chiến chống Pháp. Các chi tiết tả thực “không mọc tóc”, “quân
xanh màu lá” đã khắc họa được diện mạo của người lính Tây Tiến,
đồng thời phản ánh hiện thực về những gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật
nơi chiến trường miền Tây. Nhà thơ không hề né tránh những khó
khăn gian khổ mà người lính gặp phải trong buổi đầu chống Pháp,
cách nói của nhà thơ cho ta cảm giác ông đang tô đậm, nhấn mạnh cái
vẻ ngoài khác thường của họ. . “Ý thơ gợi nên sự ngang tàng, chai lì
của người lính trước gian khổ, khó khăn “không mọc tóc” chứ không
phải “rụng tóc”, “Quân xanh” chứ không phải “Da xanh”. Đó là tư thế
chủ động của con người trước hoàn cảnh. Đối lập với vẻ ngoài ốm
yếu xanh xao đó là tinh thần mạnh mẽ, hình ảnh “dữ oai hùm” đã nói
lên được điều ấy: vẻ dũng mãnh như hổ báo, làm chủ núi rừng chính
là kết quả của lòng yêu nước, căm thù giặc mãnh liệt. Cái tài của
Quang Dũng là khắc họa chân dung bên ngoài của chiến sĩ Tây Tiến
tuy gầy gò, xanh xao nhưng vẫn toát lên được cái oai phong, khí
phách của người lính.
* Dù trong gian khổ, thiếu thốn nhưng tâm hồn của những người
lính Tây Tiến vẫn hào hoa, lãng mạn.

35
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.
.
Hình ảnh “Mắt trừng” chứa đầy cảm xúc, đầy nội tâm. Phải
chăng đó là ánh mắt căm phẫn, uất nghẹn như muốn nuốt chửng kẻ
thù xâm lăng, cũng có thể là ánh mắt đau đáu hướng về quê hương.
Đằng sau ánh mắt ấy là cả một niềm khao khát, mang theo giấc mộng
chiến công, lập nhiều chiến thắng, hứa hẹn ngày trở về., Hai câu thơ
thể hiện sự đối lập rõ rệt về hình ảnh người lính Tây Tiến. Nếu câu
thơ trên miêu tả một đôi mắt tràn ngập sự căm thù giặc, lòng quyết
tâm đánh đuổi kẻ thù của người lính thì đến câu thơ thứ hai, hình ảnh
người lính lại hiện lên rất đỗi dịu dàng, lãng mạn. Vất vả, gian lao là
thế nhưng vẫn luôn nghĩ về quê nhà, mơ về Hà Nội với những giấc
mơ hào hoa và lãng mạn. Chính những điều tưởng chừng như đơn
giản ấy lại là một động lực tiếp thêm sức mạnh cho họ trên đường
hành quân gian lao, giúp họ có thể trụ vững trong hiện tại khốc liệt..
Có thể thấy Quang Dũng đã khéo léo khắc họa hình tượng người lính
Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng bi tráng nhưng cũng rất đỗi lãng mạn
tình tứ chỉ qua vẻn vẹn hai câu thơ nhưng thấm đượm nỗi lòng thầm
kín của nhà thơ.
Sự hi sinh của người lính Tây Tiến cũng rất bi tráng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Giọng thơ lắng xuống, da diết, dấy lên những nỗi mất mát, tang tóc
đau thương được dồn nén trong từ láy rải rác. Hình ảnh những nấm
mồ vô danh đó rải rác khắp biên cương nơi xứ lạ. Họ hi sinh không có
một manh chiếu để chôn, họ nằm xuống với chính chiếc áo bạc phai
đời lính. Thế nhưng cái chết không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi
tráng. “Đời xanh” là đời trai trẻ, tuổi xuân.” Chiến trường đi chẳng
36
tiếc đời xanh “là họ sẵn sàng ra trận vì lí tưởng cao đẹp: bảo vệ biên
cương, tiêu diệt kẻ thù, giành độc lập tự do.. Dẫu thấy cái chết trước
mắt họ vẫn không sợ, họ sẵn sàng quyết tử cho Tố quốc quyết
sinh .Qủa thực câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” rất đặc
biệt ,đó như là lời khẳng định dứt khoát vì nước quên mình sẵn sàng
hiến dâng tuổi xuân cho Tổ quốc. Cách ngắt nhịp thay đổi, âm vang
mạnh mẽ để phản ánh lí tưởng cao đẹp. “Chẳng tiếc đời xanh” như
một lời khẳng định hùng hồn, xem thường cái chết.
. Cách sử dụng biện pháp nghệ thuật nói giảm “anh về đất”
khiến ta có cảm giác sự ra đi này trở nên thanh thản, nhẹ nhàng lạ
thường. Anh “về” với đất mẹ, vĩnh hằng cùng quê hương đất nước.
Chết là một sự “trở về”. Hình ảnh trang trọng “áo bào”. Thực tế
những người Tây Tiến chết không có đến một manh chiếu quấn thây.
Họ chỉ được bọc trong những chiếc áo lính cũ sờn. Nhưng hình ảnh
“áo bào” trong câu thơ gợi sự trang trọng, oai phong trong cái chết
của những người chiến sĩ.
Cách kết hợp giữa một câu bi và một câu hùng làm vợi nhẹ nỗi tang
thương. Nỗi bi thương ấy bị át hẳn trong tiếng gầm vang dữ dội của
con sông khiến bài thơ mang âm hưởng anh hùng ca, thấm đẫm tinh
thần bi tráng, hào hùng. Câu thơ cuối diễn tả sự hi sinh thầm lặng mà
cao cả, cái chết trang trọng, hào hung, gây xúc động lớn lao trong
lòng người, làm lay động cả thiên nhiên.
Bao trùm toàn bộ đoạn thơ là cảm hứng lãng mạn, giọng thơ
hào hùng, các yếu tố nghệ thuật đa dạng.Đoạn thơ vẽ nên bức chân
dung độc đáo, mới mẻ về người lính Tây Tiến: hào hùng, hào hoa,
vừa mang dáng dấp của một tráng sĩ xưa vừa mang vẻ đẹp tinh thần
thời đại. Đó là hình tượng chung của những người lính trong thời
kháng chiến chống Pháp. Cảm xúc trong đoạn thơ đã góp phần không
nhỏ làm nên giá trị cho Tây Tiến trong nền thi ca Việt Nam.
Khổ thơ đã dựng nên một tượng đài bất tử về người lính.
Người chiến sĩ Tây Tiến hào hoa, anh dũng, kiêu hùng một thời đã
gây nên ấn tượng sâu sắc cũng như mối xúc động lớn lao cho bao thế
37
hệ người đọc. Hình tượng ấy dù vẫn có những hi sinh mất mát nhưng
vượt lên tất cả vẫn là một khí phách hiên ngang, một khát vọng, lí
tưởng sống cao đẹp đáng trân trọng. Đây cũng chính là chất bi tráng
của tác phẩm

*SÓNG
MB:
Xuân Quỳnh là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam,là
một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của thế hệ các nhà thơ thời
kỳ kháng chiến chống Mỹ.Thơ của bà là tiếng lòng của một tâm hồn
phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên,tươi tắn,đằm thắm và luôn da
diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường.Nhắc đến nữ thi sĩ Xuân
Quỳnh ta không thể không nhắc bài thơ "Sóng" -một bài thơ tiêu
biểu cho phong cách của Xuân Quỳnh và được xem là một trong
những sáng tác thành công nhất của bà về đề tài tình yêu. Bài thơ đc
in trong tập "Hoa dọc chiến hào" ,khoác lên cho mình câu
chuyện tình yêu muôn thuở về nỗi nhớ, sự thủy chung, những
trăn trở và khát vọng vĩnh viễn hóa tình yêu. Và lẽ ấy cho chúng
ta thấu hiểu hơn vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình
yêu. Điều này được thể hiện rất rõ qua đoạn thơ: Khổ 6,7,89
*Khái quát chung: Sóng là bài thơ tình yêu thời chiến và ở đó
người đọc cảm nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật trữ tình- người
phụ nữ khi yêu: chân thành, da diết,tận tụy, thủy chung và tin tưởng
vào tình yêu dù muôn vàng cách trổ.Sóng là hình tượng trung tâm
của bài thơ,là ẩn dụ cho tình yêu và khát vọng cao đẹp của tâm hồn
người phụ nữ.
*Đánh giá:
Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số thủ pháp nghệ
thuật: Ẩn dụ, nhân hóa, đối lập… kết hợp với thể thơ năm chữ đã
tạo nên âm hưởng của những con sóng: lúc dạt dào sôi nổi, lúc sâu
lắng dịu êm rất phù hợp với việc gởi gắm tâm tư sâu kín và những
38
trạng thái tình cảm phức tạp của tâm hồn. Âm điệu, nhịp điệu như
nhịp sóng thể hiện nhịp tâm hồn, nhịp tình cảm trong tâm hồn người
phụ nữ; hình tượng sóng, hình tượng trung tâm, xuyên suốt bài thơ
với đủ mọi sắc thái, cung bậc như tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
Cách xây dựng hai hình tượng song hành: sóng và em vô cùng độc
đáo.Qua đó, người đọc cảm nhận được những trạng thái cảm xúc,
những khát khao mãnh liệt của tám hồn người phụ nữ đang yêu.Tâm
hồn của người phụ nữ VN trong tình yêu vừa táo bạo mạnh mẽ vừa
giữ đc nét đẹp truyền thống: thủy chung,gắn bó thiết tha.Nét đẹp
đáng trân trọng, tin yêu
*KB:
Dù đã trôi qua nhiều năm, quan niệm về tình yêu của mỗi thế hệ
có những sự thay đổi, nhưng 'Sóng' của Xuân Quỳnh vẫn là niềm hy
vọng của những ai đang yêu, mong ước được yêu thương. Vì không
ai yêu mà không khao khát hạnh phúc, khao khát sự bền vững. Vì
thế, thơ của Xuân Quỳnh sẽ luôn gợi nhớ như cách mà người ta nhớ
về một người phụ nữ mẫu mực, luôn dành trọn cuộc đời cho mọi
người. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu đôi
lứa khi mang đến làn gió mới cho văn học thơ ca nước nhà.

VỢ CHỒNG A PHỦ
*MB
Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học VN hiện đại. Ông là
nhà văn có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán
của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta.Tác phẩm của ông hấp
dẫn người đọc với lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, vốn từ vựng
giàu có, nhiều khi rất bình dân, thông tục nhưng nhờ có cách sử
dụng đắc địa và tài ba nên có sức lôi cuốn và lay động lòng
người.Và khi nhắc đến sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài
chúng ta không thể không nhắc đến tác phẩm" Vợ chồng A Phủ"-
39
một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của ông viết về hiện thực
cuộc sống và con người vùng Tây Bắc.Tác phẩm vừa là bức tranh
sinh động về hiện thực của những năm tháng tối tăm trong cuộc
sống của đồng bào dân tộc vùng cao.Tác phẩm vừa là bức tranh sinh
động về hiện thực của những năm tháng tối tăm trong cuộc sống của
đồng bào dân tộc vùng cao, vừa là một bài ca về sức sống mãnh liệt
và niềm tin, khát vọng tự do, hạnh phúc của con người.Nổi bật
trong tác phẩm là nhân vật Mị .Dù bị rơi vào hoàn cảnh bất
hạnh, số phận trớ trêu nhưng sâu trong Mị vẫn có một sức sống
tiềm tàng mãnh liệt chờ cơ hội để bùng cháy.
Điều đó được thể hiện rõ nét nhất qua Đặc biệt với Mị - nhân vật
trung tâm xoay quanh câu chuyện đại diện cho cả một tầng lớp, số
phận con người bất hạnh. Cũng chính Mị đã cho chúng ta thấy rằng
sức sống mạnh mẽ, sự phản kháng không cam chịu số phận của con
người nơi đây, điều đó được thể hiện chi tiết qua hình ảnh Mị trong
đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ.
Có một điều đặc biệt ở tác phẩm này khác với những tác phẩm trước
năm 1945, nếu như trước năm 1945 hầu như các sáng tác của các
nhà văn đều hướng nhân vật của mình đến đường cùng, không lối
thoát như " Lão Hạc"," Tắt đèn"..thì sang đến giai đoạn này, các
nhân vật đã được mở ra một hướng đi mới, tìm được lối thoát cho
bản thân, như " Vợ nhặt". Đây là một chi tiết nổi bật, hấp dẫn và rất
mới mẻ có trong những sáng tác sau 1945.

*Đánh giá:
Bằng các bút pháp tả thực sắc sảo, nghệ thuật miêu tả diễn biến
tâm lý nhân vật tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật
Mị với sức sống tiềm tàng nhưng mãnh liệt. Nhân vật Mị chính là
điểm sáng trong toàn bộ bức tranh tiềm tàng, vươn lên mạnh mẽ.

*KB
40
Tóm lại, diễn biến tâm trạng trong đêm cởi trói cho A Phủ mang
tính chuyển biến mạnh mẽ, đánh dấu một cuộc lội ngược dòng táo
bạo. Qua đó, ta thấy được con đường giải thoát, niềm tin và lí tưởng
của các nhân vật trong tác phẩm của nhà văn Tô Hoài nói riêng và
các nhà văn sau cách mạng nói chung. Với tài năng văn học của
mình,nhà văn Tô Hoài thực sự rất thành công khi đã để lại đc trong
lòng nhìu độc giả một ấn tượng sâu đậm nhất về nhân vật Mị.Người
đọc không chỉ xúc động trc số phận bất hạnh éo le của Mị mà còn
đồng cảm thương xót với số phận đầy ngang trái ấy .Quả thật ,đoạn
trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã để lại ấn tượng khó phai
trong lòng nhìu bn đọc.Qua đó, còn thể hiện được giá trị hiện thực
và giá trị nhân đạo trong tác phẩm.

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ


*MB:
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học VN hiện đại,
là một nghệ sĩ tài ba, uyên bác, có cá tính độc đáo.Sự nghiệp cầm
bút của Nguyễn Tuân đạt được rất nhiều thành tựu kể cả trước và
sau cách mạng. đáo.Ông sáng tác rất nhìu thể loại, song đặc biệt
thành công ở thể loại tùy bút.“ Về tác phẩm tiêu biểu nhất của
Nguyễn Tuân ở thể loại này thì chúng ta không thể nào bỏ qua tác
phẩm" Người lái đò sông đà"-được in trong tập "sông Đà" xuất bản
năm 1960. Nổi bật trong tác phẩm là hình tượng con sông đà với
vẻ đẹp vừa hùng vĩ,hung bạo ,cũng vừa trữ tình, thơ mộng.Tác
giả đã khắc hoạ rõ nét vẻ đẹp ấy qua

*Đánh giá
41
Để thể hiện thành công vẻ đẹp của sông Đà, Nguyễn Tuân đã sử
dụng rất nhiều biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa,…
Những biện pháp này đã giúp cho hình tượng con sông Đà sinh động
và ấn tượng hơn. Thêm vào đó, nhà văn đã thành công khiến người
đọc tưởng tượng được cảnh hùng vĩ, bao la của thiên nhiên Tây Bắc
qua cách dùng từ ngữ độc đáo.

*KB:
Qua đoạn trích , quả thực sông Đà mang một vẻ đẹp độc đáo đến
nỗi khiến người đọc chúng ta phải ngỡ ngàng. Bằng tình yêu cái
đẹp, yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với vốn từ phong phú, tài hoa,
Nguyễn Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ
mà trữ tình, nên thơ. Sông Đà quả là một món quà ưu ái của thiên
nhiên, là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút
Nguyễn Tuân.
*Hình tượng ông lái đò
Nhà văn Nguyễn Tuân đã để lại ấn tượng vô cùng sâu sắc
trong lòng độc giả không chỉ ở hình tượng con sông Đà "hung
bạo,trữ tình" mà còn ở hình tượng người lái đò hiên ngang trên
thác dữ- một tay lái tài hoa

*Đánh giá
Tùy bút "Người lái đò Sông Đà" đích thực là trang hoa, tờ hoa.
Nguyên Tuân đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú trong thiên nhiên và
con người, đã nhìn sự vật ở phương diện văn hóa nghệ thuật, nhìn
con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Mạch văn tự do theo dòng
cảm xúc lai láng. Ông lái đò trong bài tùy bút là một sáng tạo nghệ
thuật sáng bừng lên vẻ đẹp nhân văn .Có thể nói Người lái đò sông
Đà được miêu tả trong tác phẩm vừa có tư thế của một người lao
động trí dũng, vừa có phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Hình
tượng người lái đò thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của
42
Nguyễn Tuân ở giai đoạn sau Cách mạng Tháng Tám: người lái đò
dù là người lao động bình dị vẫn hiện lên với chất tài hoa, nghệ sĩ;
m người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong lao
động thường ngày. Đó là “chất vàng” trong cuộc sống. Để miêu tả
vẻ đẹp của hình tượng, nhà văn sử dụng kiến thức của nhiều ngành
khoa học khác nhau; ngôn ngữ sinh động, giàu hình ảnh; câu văn
trùng điệp, nhiều nhân hóa, so sánh, ẩn dụ…

*KB
Với tài năng thiên phú về văn học của mình, tác giả Nguyễn
Tuân đã rất thành công khi làm nổi bật lên được vẻ đẹp của người
lái đó và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc.Qua nhân vật
người lái đò, Nguyễn Tuân cho rằng chủ nghĩa anh hùng đâu phải
tìm kiếm đâu xa. Hình ảnh có ngay trong cuộc sống tìm miếng cơm
manh áo của nhân

43

You might also like