Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 10

Bản chất của con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin

và việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay


Con người luôn là trung tâm của mọi nghiên cứu xã hội và triết học. Trong
các hệ tư tưởng khác nhau, quan niệm về bản chất con người cũng có sự khác biệt.
Chủ nghĩa Mác - Lê Nin đưa ra một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về con người,
xem họ như một tổng hòa của các mối quan hệ xã hội và là chủ thể của lịch sử.
Việc hiểu rõ bản chất con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin không
chỉ giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về con người mà còn có ý nghĩa quan trọng
trong việc xây dựng một xã hội công bằng, văn minh và phát triển. Bài luận này sẽ
phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về bản chất con người và áp dụng
vào việc xây dựng con người Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.

1. Bản chất con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin
- Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Theo Karl Marx, con người không thể tách rời khỏi các mối quan hệ xã hội.
Marx nhấn mạnh rằng: "Bản chất con người không phải là một trừu tượng cố hữu
của từng cá nhân riêng biệt. Trong thực tế của nó, bản chất con người là tổng hòa
các mối quan hệ xã hội." Điều này có nghĩa là con người chỉ thực sự tồn tại và phát
triển trong bối cảnh các mối quan hệ với những người khác và với xã hội.
Mỗi cá nhân không chỉ bị chi phối bởi các yếu tố sinh học mà còn bởi các
yếu tố xã hội như gia đình, trường học, cộng đồng và quốc gia. Những mối quan hệ
này định hình cách suy nghĩ, hành động và cảm nhận của mỗi người. Ví dụ, một
người sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống học vấn cao sẽ có xu
hướng coi trọng việc học và phát triển trí tuệ.
- Con người là một thực thể tự nhiên và xã hội
Chủ nghĩa Mác - Lê Nin khẳng định rằng con người là một thực thể vừa tự
nhiên vừa xã hội. Điều này có nghĩa là để hiểu con người, chúng ta phải xem xét cả
khía cạnh tự nhiên và khía cạnh xã hội của họ.
Khía cạnh tự nhiên: Con người là một phần của tự nhiên, có các nhu cầu cơ
bản như ăn, uống, ngủ, và sinh sản. Những yếu tố sinh học như di truyền, môi
trường tự nhiên ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của con người.
Khía cạnh xã hội: Con người không chỉ sống trong tự nhiên mà còn trong
xã hội. Các yếu tố xã hội như giáo dục, văn hóa, kinh tế và chính trị có ảnh hưởng
sâu sắc đến con người. Chẳng hạn, môi trường giáo dục có thể ảnh hưởng đến tư
duy và cách hành động của con người.
- Con người là chủ thể của lịch sử
Theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin, con người là lực lượng chính tạo ra và thay
đổi lịch sử. Lịch sử không phải là một quá trình tự nhiên mà là kết quả của các hoạt
động của con người thông qua lao động, sản xuất và đấu tranh. Marx và Engels
nhấn mạnh rằng: "Con người tạo ra lịch sử của chính mình, nhưng họ không tạo
ra nó trong những điều kiện do họ tự chọn, mà trong những điều kiện trực tiếp gặp
phải, được truyền lại từ quá khứ."
Điều này cho thấy con người không phải là những đối tượng thụ động bị lịch
sử chi phối, mà là những chủ thể tích cực tham gia vào quá trình lịch sử. Qua các
cuộc cách mạng, đấu tranh giành quyền lực và thay đổi xã hội, con người đã chứng
minh khả năng thay đổi lịch sử và xây dựng một tương lai mới.
- Lao động là yếu tố cốt lõi của bản chất con người
Lao động là hoạt động cơ bản phân biệt con người với các loài động vật
khác. Theo Marx, "Lao động là sự hoạt động có mục đích của con người nhằm tạo
ra của cải vật chất và các giá trị văn hóa." Lao động không chỉ là phương tiện để
con người tồn tại mà còn là quá trình qua đó con người tự phát triển và hoàn thiện
mình.
Qua lao động, con người không chỉ biến đổi tự nhiên, tạo ra các sản phẩm
phục vụ cuộc sống mà còn tự biến đổi chính mình, phát triển các khả năng, kỹ
năng và phẩm chất. Ví dụ, qua quá trình học tập và làm việc, một người có thể phát
triển kỹ năng chuyên môn, tinh thần trách nhiệm và tính kỷ luật.

2: Việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay


- Giáo dục và đào tạo
Giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển con người
toàn diện. Hệ thống giáo dục cần được cải cách để không chỉ cung cấp kiến thức
mà còn phát triển kỹ năng, tư duy sáng tạo và phẩm chất đạo đức.
Thực trạng giáo dục: Hiện nay, giáo dục Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế,
bao gồm chất lượng giảng dạy, cơ sở vật chất và phương pháp giáo dục. Chất
lượng giáo dục ở các vùng nông thôn còn thấp, thiếu đồng đều so với thành thị.
Cải cách cần thiết: Đổi mới phương pháp dạy và học, tăng cường đầu tư vào
cơ sở hạ tầng giáo dục, nâng cao trình độ giáo viên và phát triển giáo dục toàn
diện. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức, kỹ năng sống và tinh thần sáng tạo trong học
sinh.
- Phát triển kinh tế
Kinh tế là nền tảng quan trọng cho sự phát triển con người. Một nền kinh tế
phát triển sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện chất
lượng cuộc sống.
Thực trạng kinh tế: Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế trong
những năm qua, nhưng vẫn đối mặt với nhiều thách thức như bất bình đẳng thu
nhập, thất nghiệp và chất lượng lao động.
Chính sách phát triển: Tăng cường đầu tư vào các ngành công nghệ cao, cải
thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, và phát triển
kinh tế bền vững. Đảm bảo rằng mọi người dân đều có cơ hội tiếp cận với các
nguồn lực kinh tế và hưởng lợi từ sự phát triển.

- Xây dựng đạo đức và lối sống


Đạo đức và lối sống là nền tảng văn hóa quan trọng cho sự phát triển con
người và xã hội. Việc xây dựng một xã hội có đạo đức và lối sống lành mạnh cần
được chú trọng.
Thực trạng đạo đức: Một số vấn đề đạo đức trong xã hội hiện nay bao gồm
tham nhũng, gian lận và suy thoái đạo đức. Những vấn đề này gây ảnh hưởng tiêu
cực đến sự phát triển xã hội và làm suy giảm niềm tin của người dân.
Biện pháp xây dựng đạo đức và lối sống lành mạnh:
- Giáo dục đạo đức trong trường học: Đưa các môn học về đạo đức, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào chương trình giáo dục để hình thành lối sống và tư tưởng
đúng đắn cho học sinh từ khi còn nhỏ.
- Phát động các phong trào xã hội: Tổ chức các hoạt động tình nguyện, các
phong trào thi đua yêu nước để khơi dậy tinh thần trách nhiệm, lòng yêu nước và ý
thức cộng đồng.
Nâng cao vai trò của gia đình: Gia đình là nơi đầu tiên và quan trọng nhất
trong việc hình thành nhân cách con người. Cần tuyên truyền và khuyến khích các
giá trị truyền thống gia đình, giúp xây dựng một nền tảng đạo đức vững chắc từ gia
đình.
- Đảm bảo công bằng và phúc lợi xã hội
Công bằng và phúc lợi xã hội là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng một
xã hội phát triển bền vững và hài hòa.
Thực trạng bất bình đẳng: Hiện nay, bất bình đẳng về kinh tế và cơ hội xã
hội vẫn tồn tại, đặc biệt là giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa các nhóm dân
cư khác nhau.
Chính sách cần thiết:

- Cải thiện hệ thống phúc lợi xã hội: Đảm bảo mọi người dân đều có quyền
tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục, an sinh xã hội.
- Giảm bất bình đẳng thu nhập: Áp dụng các chính sách thuế công bằng, hỗ
trợ tài chính cho các nhóm dân cư yếu thế.
- Tạo cơ hội việc làm bình đẳng: Tạo ra môi trường làm việc công bằng,
không phân biệt đối xử, khuyến khích sự tham gia của tất cả các nhóm dân cư vào
lực lượng lao động.
- Thúc đẩy nghiên cứu khoa học và công nghệ
Khoa học và công nghệ là động lực quan trọng cho sự phát triển con người
và xã hội hiện đại.
Thực trạng nghiên cứu khoa học và công nghệ: Mặc dù Việt Nam đã đạt
được một số tiến bộ trong lĩnh vực này, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế về đầu tư, cơ
sở vật chất và nguồn nhân lực.
Chiến lược phát triển:
- Đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D): Tăng cường nguồn lực cho
các viện nghiên cứu, trường đại học, và doanh nghiệp để thúc đẩy các hoạt động
nghiên cứu khoa học và công nghệ.
- Hợp tác quốc tế: Mở rộng hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế để
học hỏi và ứng dụng các công nghệ tiên tiến.
- Phát triển nguồn nhân lực: Đào tạo và phát triển đội ngũ nhà khoa học, kỹ
sư và các chuyên gia công nghệ cao.
Tóm lại bản chất con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin,
nhấn mạnh rằng con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội, là một thực thể
tự nhiên và xã hội, là chủ thể của lịch sử và lao động là yếu tố cốt lõi định hình bản
chất con người.
Việc hiểu rõ bản chất con người theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin
không chỉ giúp chúng ta nhìn nhận đúng đắn về con người và xã hội mà còn tạo ra
nền tảng lý luận vững chắc để xây dựng một xã hội phát triển, công bằng và nhân
văn. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hiện nay khi Việt Nam đang tiến
hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
Để thực hiện thành công các mục tiêu phát triển con người Việt Nam, cần sự
tham gia và nỗ lực từ mọi tầng lớp xã hội, từ chính phủ, các tổ chức xã hội đến mỗi
cá nhân. Mỗi người dân cần nhận thức rõ vai trò và trách nhiệm của mình, chung
tay xây dựng một xã hội phát triển bền vững, công bằng và nhân văn.

Tài liệu tham khảo


- Karl Marx (1867). Tư bản.
- Vladimir Ilyich Lenin (1917). Nhà nước và cách mạng.
- Hồ Chí Minh (1946). Đường Kách Mệnh.
- Nguyễn Phú Trọng (2021). Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
- Giáo trình triết học (Dùng cho học viên Cao học và Nghiên cứu sinh không
chuyên ngành Triết học)
- Các tài liệu nghiên cứu khoa học và giáo dục hiện đại của Việt Nam.
1. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về bản chất của con người
- Con người là thực thể sinh vật - xã hội
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, dựa trên những thành tựu
của khoa học tự nhiên, trực tiếp là Thuyết tiến hoá và Thuyết tế bào, triết học Mác
khẳng định con người vừa là sản phẩm phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là
sản phẩm hoạt động của chính bản thân con người. Con người là thực thể thống
nhất giữa các yếu tố sinh vật và các yếu tố xã hội - là thực thể sinh vật - xã hội.
Là thực thể sinh vật vì con người, cho dù phát triển đến đâu cũng là một động
vật. "Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định
con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của động
vật".
Cũng như những động vật khác, con người là một bộ phận của tự nhiên, "Giới
tự nhiên... là thân thể vô cơ của con người... đời sống thể xác và đời sống tinh thần
của con người gắn liền với giới tự nhiên"(2) nhưng con người khác với động vật vì
con người còn là một thực thể xã hội.
Là thực thể xã hội vì: Các hoạt động xã hội, trước hết và quan trọng nhất là hoạt
động lao động sản xuất, đã làm cho con người trở thành con người với đúng nghĩa
của nó. "Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái
thuần tuý là loài vật(3)".
Theo Mác, xã hội suy cho cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những
con người(4). Con người tạo ra xã hội, là thành viên của xã hội. Mọi biểu hiện sinh
hoạt của con người là biểu hiện và là khẳng định của xã hội(5).
Như vậy, con người không phải là một động vật thuần tuý mà là một "động vật xã
hội" - một thực thể sinh vật - xã hội; con người "bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã
hội"(6). Thực thể sinh vật và thực thể xã hội ở con người không tách khỏi nhau,
trong đó thực thể sinh vật là tiền đề mà trên cái tiền đề đó thực thể xã hội tồn tại và
phát triển.
b) Con người là chủ thể của lịch sử:
Con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử với tư cách là sản phẩm quá trình tiến
hoá lâu dài của tự nhiên, mà con người còn là chủ thể của lịch sử.
Lịch sử, hiểu theo nghĩa rộng, là những quá trình đan xen, nối tiếp nhau với tất cả
những bảo tồn và biến đổi diễn ra trong quá trình ấy. Như vậy con người có lịch sử
và động vật cũng có lịch sử. Song lịch sử của con người và lịch sử của động vật
khác hẳn nhau. Lịch sử của động vật "… chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và
sự phát triển dần dần của chúng cho đến trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch
sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào
việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do
ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp
của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một
cách có ý thức bấy nhiêu; …"(1). Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động có ý thức của
chính bản thân con người(2).
Hoạt động của con người làm ra lịch sử nên để có lịch sử trước hết phải có con
người. Tiền đề đầu tiên của lịch sử là sự tồn tại của những cá nhân con người sống,
vì vậy, hành động lịch sử đầu tiên là hành động lao động sản xuất để con người
tách khỏi động vật. Con người tách khỏi động vật như thế nào thì họ bước vào lịch
sử như thế vậy.
Con người làm ra lịch sử song không phải làm theo ý muốn tuỳ tiện của mình,
trong những điều kiện mình có quyền tự lựa chọn mà là trong những điều kiện có
sẵn do quá khứ để lại. Với những điều kiện ấy, mỗi người, mỗi thế hệ một mặt tiếp
tục các hoạt động cũ của thế hệ trước trong những hoàn cảnh mới; một mặt tiếp tục
các hoạt động mới của mình để biến đổi hoàn cảnh cũ. Xét mối quan hệ giữa các
thế hệ và hoàn cảnh sống của con người thì "Bản thân xã hội sản xuất ra con người
như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế"(3).
Như vậy, nhìn chung quá trình phát triển của thế giới hay nhìn riêng quá trình phát
triển của con người thì từ khi con người ra đời cho đến lúc nào con người còn tồn
tại, con người vẫn luôn vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử.
Trong khi khẳng định: "Con người là thực thể sinh vật xã hội" và là chủ thể của
lịch sử", C.Mác đồng thời khẳng định: "Bản chất con người không phải là một cái
trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội"(1).
Quan điểm của C.Mác cho thấy:
- Bản chất con người hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực.
Đấy là những con người cụ thể, sống trong những điều kiện cụ thể mà ở đó những
mặt khác nhau tạo nên bản chất của con người sẽ được bộc lộ ở những mức độ cụ
thể.
- Tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành nên bản chất của con
người. Các quan hệ này không kết hợp với nhau theo phép tính cộng mà chúng
tổng hoà, nghĩa là chúng có vị trí, vai trò khác nhau nhưng chúng không tách rời
nhau, mà tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập lẫn nhau.
Có nhiều cách tiếp cận để tìm hiểu về tổng hoà những mối quan hệ xã hội:
Nếu theo thời gian thì đó là những quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại và quan hệ
tương lai, trong đó suy cho đến cùng thì những quan hệ hiện tại giữ vai trò quyết
định.
Nếu xét theo các loại quan hệ thì đó là những quan hệ vật chất và những quan hệ
tinh thần, trong đó suy cho đến cùng thì những quan hệ vật chất giữ vai trò quyết
định.
Nếu xét theo tính chất đó là những quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên, ngẫu
nhiên, ổn định, không ổn định, v.v. trong đó suy cho đến cùng thì những quan hệ
trực tiếp, tất nhiên, ổn định giữ vai trò quyết định.
Nếu cụ thể hoá các quan hệ (quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ kinh
tế, quan hệ chính trị, quan hệ tôn giáo, quan hệ đạo đức, v.v.) thì con người có bao
nhiêu quan hệ sẽ có bấy nhiêu quan hệ góp phần hình thành nên bản chất của con
người, trong đó suy cho đến cùng thì các quan hệ kinh tế hiện tại, trực tiếp, ổn định
giữ vai trò quyết định. Trong quan hệ kinh tế thì quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là
quan trọng hơn cả.
Khi các quan hệ xã hội thay đổi thì sớm hay muộn bản chất của con người cũng có
sự thay đổi.
Như vậy, bản chất của con người không phải được sinh ra mà được sinh thành, nó
hình thành và thay đổi theo sự hình thành và thay đổi của các quan hệ xã hội, trong
đó trước hết và quan trọng nhất là các quan hệ thuộc lĩnh vực kinh tế.

You might also like