Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 5

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ (NGUYỄN TUÂN)

Phạm Minh Anh - 12SN1

Câu 4: Phân tích đoạn “Còn xa lắm…giao việc cho mỗi hòn”, từ đó nhận xét những sáng tạo
độc đáo của Nguyễn Tuân.

Nghệ thuật là một lĩnh vực độc đáo. Nó đòi hỏi người nghệ sĩ phải không ngừng sáng tạo, không
được phép lặp lại dấu chân của mình và dẫm lên dấu chân của người khác. Nói như Nam Cao:
“Văn chương không cần tới người thợ khéo tay hay làm theo những kiểu mẫu có sẵn. Văn
chương đòi hỏi phải khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra những gì chưa có”. Điều đó
hoàn toàn chính xác khi ta đến với tác giả Nguyễn Tuần người đã in đậm dấu ấn cá nhân của
mình vào những trang viết kết tinh tài năng và tấm lòng của tác giả. Nguyễn Tuân là một cây
bút có sức sống dồi dào mãnh liệt, mội nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông là
một nhà văn có trí tưởng tượng phong phú, sáng tạo với sự uyên bác thể hiện ở vốn hiểu biết sâu
rộng, được tổng hợp từ các tri thức đa ngành. Vì vậy sau nhiều chuyến du ngoạn vòng quanh Tổ
quốc, ông đã tìm đến Tây Bắc và phát hiện ra “thứ vàng mười đã qua thử lửa”. Sau đó, với tình
yêu quê hương sâu nặng cùng bầu nhiệt huyết sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã thành công viết nên
tùy bút “Người lái đò sông Đà”, đặc biệt phong cách nghệ thuật sáng tạo cùng ngôn ngữ phong
phú của ông đã được thể hiện qua đoạn trích: “Còn xa lắm … giao việc cho mỗi hòn.”

Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập “sông Đà” (1960). Đây là một thành quả nghệ
thuật vô cùng đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được vào một chuyến đi thực tế tại vùng
Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi ấy, tác giả đã có cơ hội sống những khoảnh khắc vô cùng
thân thuộc và hào hứng đối với một người nghệ sĩ như ông. Dưới ngòi bút vô cùng tài hoa,
Nguyễn Tuân đã đưa người đọc bước vào một thiên nhiên kì ảo hùng vĩ ở vùng núi Tây Bắc,
khắc hoạ sông Đà với nhiều nét tính cách khác nhau: hung bạo và trữ tình:
“Chúng thuỷ giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu”
Hai câu thơ chữ Hán đã bộc lộ được nét độc đáo của sông Đà khi mọi con sông đều chảy về
hướng Đông thì chỉ có một mình con sông Đà chạy theo hướng Bắc - đó cũng là một trong
những đặc điểm lí thú đã khơi gợi hứng thú khám phá và châm ngưỡng của một nhà văn suốt
đời đi tìm kiếm cái đẹp và sự khác biệt. Lời đề từ của thiên bút kí đặc sắc đã hé lộ khát vọng
mãnh liệt của Nguyễn Tuân trên hành trình khám phá thiên nhiên kì thú và thể hệ cái tài hoa
trong phong cách nghệ của của nhà văn.

Sông Đà không chỉ hùng vĩ, hung bạo ở cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, cảnh mặt ghềnh
Hát Loóng với “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”
hay những cái hút nước xâu ngoắm “xoáy tít đáy” mà nó còn nguy hiểm ở trùng trùng điệp điểm
những thác nước sông Đà “Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng thác
nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn lên chế
nhạo”. Với hệ thống từ ngữ phong phúm truyền cảm, Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang
điều khiển một dàn giao hưởng thật hùng tráng của gió thác sông Đà. Hai chữ “từ xa” đã nhấn
mạnh tiếng vang, âm thanh giận dữ đầy nội lực của sông Đà, hiện lên như một loài thuỷ quái
đang giận giữ, gầm gào, đe doạ con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Sông Đà với muôn
vàn âm điệu, tăng dần theo những cung bậc của cảm xúc giận giữ “Nhưng đã thấy tiếng nước
réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi
lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Với biện pháp nhân hoá cùng các động từ mạnh
“réo”, “oán trách”, “van xin” “khiêu khích”, “gằn”, “chế nhạo”, Sông Đà như trải qua hàng ngàn
cung bậc cảm xúc mạnh mẽ, khiến nó mất kiểm soát, không thể làm chủ mình. Giọng điệu kì bí,
không lặp lại của sông Đà tạo nên một âm thanh dữ dội, thể hiện sức mạnh thiên nhiên hoang dã
như đang chế ngự, áp đảo mọi sự vật xung quanh nó. Thế rồi, âm thanh bất ngờ vang lên như
được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở
đỉnh điểm của cơn phấn khích mạnh mẽ đến tột cùng “Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn
con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng nứa nổ lửa, đang phá tuông từng lửa, rừng lửa
cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Sự liên tưởng phong phú qua phép so sánh
“như những con trâu mộng” cùng những câu văn trung điệp, liên hoàn đã tạo giọng văn dồn dập,
căng thẳng gợi ấn tượng hãi hùng, rùng rợn về sực mạnh huỷ diệt khủng khiếp của con sông Đà
giang. Âm thanh được phóng lên hết cỡ “rống lên” và so sánh với âm thanh của một ngàn con
trâu mộng gợi nên một khúc nhạc hùng tráng của thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của sự phấn
khích man dại và cuồng loạn. Là một ngòi bút tài hoa và đầy sáng tạo, nhà văn đã lấy hình ảnh
gợi tả âm thanh, lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông và đặt những hình ảnh vốn không liên quan,
tương phản với nhau để miêu tả sự hung bạo, cuồng nộ của dòng sông thuỷ quái. Có thể nói,
Nguyễn Tuân đã chơi ngông tài hoa bằng ngôn từ, tạo nên cái đẹp phi thường, mãnh liệt của Đà
giang. Nước thác sông Đà hiện lên với như một sinh thể với tâm trạng phong phú, tính cách vừa
dữ dội vừa mang lại một bản hùng ca tráng kiệt của đại ngàn.

Khi con thác hiện ra trước mắt, nhà văn bỗng reo lên đầy bất ngờ, thích thú: “Tới cái thác rồi”,
gợi cảm giác như được gặp lại “người cố nhân”, như khi sông Hương chảy qua thành phố Huế
hằng mong ước của nó trong tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” vậy. Dưới con mắt say mê,
Nguyễn Tuân đưa sông Đà vào trong trang viết với một vẻ đẹp hung bạo mà kì vĩ: “Ngoặt khúc
sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời đá”. Tính từ “trắng xoá” được lặp lại hai
lần gây ấn tượng về những đợi sóng xô mãnh liệt tạo nên những bọt nước trắng trên mặt nước
sông Đà giang. Đồng thời, câu văn gợi tả sự điệp trùng của những cơn sóng trắng cuồn cuộn xô
nhau, làm “trắng xoá” cả một không gian thiên nhiên hoang sơ. Đặc biệt, hình ảnh “chân trời
đá” tạo sự choáng ngợp với độc giả về sự hùng vĩ của thác đá sông Đà. Cùng với phép so sánh
“như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập”, không gian thiên nhiên giờ đây như đang chìm
trong một chấn động khủng khiếp với những trận sóng mạnh mẽ xô không ngừng khiến ngay cả
độc giả cũng gợn lên cái chóng mặt, hoảng sợ trước sức mạnh của con sông. Trong trí tưởng
tượng phong phú của Nguyễn Tuân, dòng sông Tây Bắc hiện lên vô cùng khủng khiếp, nham
hiểm khi nó “bày thạch trận trên sông” để uy hiếp và mưu hại con người. Nghệ thuật nhân hoá
đã khiến sông Đà hiện nguyên hình là một con thuỷ quái hung tợn mang tâm địa xảo quyệt, sẵn
sàng bày ra cả một trận đồ bát quái với rất nhiều cửa tử để ngăn không ai có thể vượt qua đoạn
thác Đà giang: “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có
chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào
đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Sử dụng những kiến thức
độc đáo về quân sự cùng quan sát thực tế, Nguyễn Tuân đã miêu tả trận địa đầy hiểm nguy một
cách vô cùng chân thực. Đá ở đoạn thác này được miêu tả trong thời gian vĩnh hằng của thiên
nhiên “ngàn năm”, khi thì chúng ấn mình “mai phục”, khi thì đột ngột “nhổm cả dậy để vồ lấy
thuyền”. Dường như, những tảng đá ngầm dưới lòng sông luôn chực chờ để tiêu diệt những
người lái đò đi qua quãng sông đó. Không chỉ vậy, thủ pháp nhân hoá còn khiến người đọc dễ
dàng nhận ra từng sắc diện người trong những hình thú đá vô tri. Mỗi hòn đá lại được khắc hoạ
với những nét tính cách và hình dạng vô cùng giống nhau, không chỉ bộc lộ vẻ hung hãn mà còn
vô cùng nham hiểm, xảo quyệt “mặt hòn đá nào cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó”. Cái độc
đáo trong trí tưởng tượng của Nguyễn Tuân đó là ông hình dung sông Đà như giao việc cho
từng hòn đá để sẵn sàng lật ngửa bụng bất cứ con thuyền nào qua đây - một mệnh lệnh đã có từ
rất lâu và sẽ luôn áp đặt với mỗi hòn “Mặt sông trắng xoá càng làm bật rõ lên những hòn những
tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tuỳ theo sở thích tự động của đá to đá bé.
Nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn”. Tưởng chừng như vị trí của những tảng đá
là ngẫu nhiên, tuỳ theo sở thích của đá to đá bá song chính sông Đà đã tự mình “bày bình bố
trận” cho những hòn đá “nhăn nhóm méo mó kia”, tạo nên một chiến trường với những trận
“hỗn chiến” ác liệt giữa con người và thiên nhiên hùng vĩ. Từ đó, bằng sự uyên bác về kiến thức
đa ngành cùng sự tỉ mỉ, sáng tạo trong những liên tưởng thú vị, Nguyễn Tuân đã dựng nên một
trong những những phần khủng khiếp nhất của con sông Đà giang, đó là nước thác và thạch trận
đá trên dòng sông một cách chân thực mà đây lôi cuốn, hồi hộp.

Sử dụng hiệu quả các phép tu từ như nhân hoá, so sánh cùng ngôn ngữ đa dạng, phong phú với
lối viết tài hoa, uyên bác, hình tượng sông Đà được ví như “kẻ thù số một” của con người. Vẻ
hung bạo của Đà giang qua cảm nhận của Nguyên Tuân bao trùm nhiều khía cạnh từ vốn kiến
thức sâu rộng đến kinh nghiệm sống dày dặn, tạo nên những quan sát, liên tưởng vô cùng ấn
tượng. Tài năng ấy như nổi bật, phù hợp thể loại bút ký khó, kén người viết, nhà văn đã tạo ra
những phối cảnh kỳ thú ở đó sông Đà như con thuỷ quái không ngừng đe dọa, tấn công những
con thuyền cả gan muốn vượt qua nó.

Những tác phẩm nghệ thuật đạt đến chuẩn mực của cái hay, cái đẹp sẽ “vượt qua mọi sự băng
hoại của thời gian và chỉ mình nó không thừa nhận cái chết” cũng như dù thời gian có trôi
qua, những giá trị về quan niệm và cuộc sống nghệ thuật qua cái nhìn của “Người lái đò sông
Đà” vẫn nguyên vẹn và tỏa sáng. Tác phẩm ấy cùng tên tuổi Nguyễn Tuân sẽ còn sống mãi,
ghi một dấu ấn không phai trong nền văn học nước nhà.

You might also like