Luận văn thạc sỹ về nHÀ THƠ NGUYỄN TRỌNG TẠO

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 129

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNGĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HẢO

ĐẶC ĐIỂM THƠ VÀ TRƯỜNG CA


NGUYỄN TRỌNG TẠO

LUẬN VĂN THẠC SĨ


Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HẢO

ĐẶC ĐIỂM THƠ VÀ TRƯỜNG CA


NGUYỄN TRỌNG TẠO

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam


Mã số: 60 22 01 21

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ VĂN ĐỨC

Hà Nội - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận văn về Đặc điểm thơ và trường ca Nguyễn Trọng
Tạo được hoàn thành trên cơ sơ nghiên cứu, tìm hiểu nghiêm túc, độc lập, trung
thực của tác giả và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hảo


LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành, tôi xin cảm ơn PGS.TS Hà Văn Đức đã tận
tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi thực hiện hoàn thành luận văn này.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo
trong khoa Văn học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tạo
mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian của khóa học.

Hà Nội, tháng 4 năm 2016


Nguyễn Thị Hảo
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu ................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................ 3
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 5
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu ..................................................... 8
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 9
5. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9
6. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 9
CHƯƠNG 1: HÀNH TRÌNH THƠ VÀ TRƯỜNG CA NGUYỄN TRỌNG
TẠO.. ................................................................................................................... 10
1.1. Đường đời, đường thơ Nguyễn Trọng Tạo ............................................... 10
1.1.1. Vài nét về tiểu sử, sự nghiệp ............................................................. 10
1.1.2. Quan niệm về thi ca........................................................................... 13
1.1.3. Những yếu tố hình thành tài năng và phong cách .............................. 16
1.2. Những chặng đường sáng tác.................................................................... 20
1.2.1. Thời kì tham gia quân đội (1969- 1988) ............................................ 20
1.2.2. Thời kì trở lại với cuộc sống đời thường............................................ 24
1.2.3. Một tâm hồn thơ giản dị mộc mạc ..................................................... 29
CHƯƠNG 2: NHỮNG CẢM HỨNG LỚN TRONG THƠ VÀ TRƯỜNG CA
NGUYỄN TRỌNG TẠO ..................................................................................... 36
2.1. Cảm hứng ngợi ca con người trong thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo.. 37
2.1.1. Hình tượng người mẹ ........................................................................ 37
2.1.2. Hình tượng người lính ....................................................................... 42
2.2. Cảm hứng về tình yêu trong thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo ............ 49
2.2.1. Tình yêu mang màu sắc cô đơn ......................................................... 49
2.2.2. Tình yêu và sự khát khao dâng hiến .................................................. 54
2.3. Cảm hứng thế sự trong thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo .................... 58
2.3.1. Lí giải về những nghịch lí nhân sinh.................................................. 58
2.3.2. Thơ viết về tình bạn và sự tri âm ....................................................... 64
2.3.3. Triết lí về thời gian và phận người..................................................... 69
CHƯƠNG 3: NHỮNG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT TRONG THƠ VÀ
TRƯỜNG CA NGUYỄN TRỌNG TẠO ............................................................ 75
3.1. Đổi mới hình thức biểu hiện ..................................................................... 75
3.1.1. Sự kết hợp hai yếu tố trữ tình và tự sự ............................................... 75
3.1.2. Sự kết hợp giữa hình thức cổ điển với nội dung đương đại ................ 79
3.1.3. Sự vận dụng hình thức vắt dòng ........................................................ 84
3.2. Ngôn ngữ ................................................................................................ 86
3.2.1. Ngôn ngữ hàm súc ............................................................................ 87
3.2.2. Ngôn ngữ giản dị đời thường ............................................................ 92
3.3. Giọng điệu................................................................................................ 99
3.3.1. Giọng điệu tâm sự giãi bày.............................................................. 100
3.3.2. Giọng điệu triết lý sâu lắng ............................................................. 104
3.3.3. Ngợi ca trầm hùng........................................................................... 108
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 119
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nếu như phong trào Thơ mới (1932 – 1945) nổi lên trên văn đàn như một
hiện tượng văn học với tư tưởng giải phóng nhu cầu của cái tôi cá nhân thì văn
chương Việt Nam sau 1945 lại đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, thơ
văn lúc này phải ca ngợi Đảng, ca ngợi nhân dân và đặt nhu cầu lợi ích của tập thể
lên trên nhu cầu lợi ích của cá nhân con người. Sau 1975 đất nước giải phóng, con
người được sống trong quyền tự do dân chủ thì lúc này nhiệm vụ đặt ra đối với văn
chương hiện đại là phải đổi mới để cho bắt kịp thời đại và hội nhập quốc tế. Vấn đề
đặt ra cho giới văn nghệ sĩ là biết kết hợp giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể
trong sáng tác mà không làm mờ đi tinh thần yêu nước dân chủ của con người hiện
đại. Đứng trước thách thức lớn của lịch sử dân tộc, thế hệ các nhà thơ cách tân sau
1975 đã xuất hiện như một luồng sinh khí mới, đa dạng và có sự chuyển động vượt
trội. Đặc biệt từ năm 1986, sự nghiệp đổi mới đã tạo cơ hội cho văn học Việt Nam
vươn ra tầm quốc tế. Trong điều kiện có tính chất bước ngoặt ấy đã xuất hiện số ít
nhà thơ có ý thức đổi mới và cách tân thơ Việt, mà Nguyễn Trọng Tạo là một trong
số ít những nhà thơ tiêu biểu đó.
Nói đến Nguyễn Trọng Tạo, mọi người không chỉ biết tới ômg là một nhạc sĩ
gắn liền với những ca khúc nổi tiếng như Khúc hát sông quê, Làng quan họ quê tôi.
Một họa sĩ đầy sáng tạo. Một nhà báo đầy tâm huyết. Mà hơn thế Nguyễn Trọng
Tạo còn được biết đến là một nhà thơ có rất nhiều đóng góp trong quá trình đổi mới
nền thơ ca đương đại Việt Nam bởi sự cách tân mới mẻ, đa dạng, phong phú trên
mọi phương diện, một nhà thơ đổi mới của thời kì đổi mới.
Từ khi bắt đầu sáng tác Nguyễn Trọng Tạo đã thể hiện rõ trách nhiệm của
người cầm bút, ông quan niệm: “Tôi kính nể các nhà thơ cổ điển. Nhưng lớp nhà
thơ sau không nên hướng tới họ mà nên hướng tới chính mình. Có như vậy mới có
thể hi vọng mình sẽ trở thành nhà cổ điển trong tương lai” [38]. Bằng cách nghĩ ấy
Nguyễn Trọng Tạo đã mang đến cho độc giả những vần thơ vừa truyền thống vừa
hiện đại, sự đổi mới và cách tân của thơ ông là cách tân trên nền truyền thống, cách

1
tân mà vẫn giữ được chất “chân quê”. Đổi mới và sáng tạo chính là một trong
những vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với người làm thơ và Nguyễn Trọng Tạo đã
làm được điều đó. Từ những sáng tác đầu tay như Tình yêu sáng sớm (1974),
Gương mặt tôi yêu (1980), Sóng thủy tinh (1988)… đến Thế giới không còn trăng
(2006), Em đàn bà (2008) tác giả đã thực sự tạo dựng được chỗ đứng của mình trên
văn đàn thi ca Việt Nam đương đại góp phần quan trọng trong việc khẳng định vị
thế nhà thơ trong lòng độc giả. Đến với làng thơ Việt Nam, Nguyễn Trọng Tạo
được chú ý rất nhiều bởi cá tính sáng tạo dồi dào có sức khái quát rộng lớn, nội
dung phản ánh trong thơ đa chiều, toàn diện mà đủ đầy: “ông làm mới thơ đôi khi
bằng nhịp điệu khác thường trong thơ lục bát, bằng một từ đột xuất, một đảo ngữ
chênh vênh hay một hư từ đặt không đúng chỗ hoặc bằng một hình ảnh không giống
ai” [36]. Mặc dù hoạt động nghệ thuật của Nguyễn Trọng Tạo trải rộng trên nhiều
lĩnh vực nhưng thơ vẫn là mảng quan trọng mang lại cho tác giả nhiều thành công
vang dội nhất. Trải qua hơn 40 năm cầm bút và sáng tác Nguyễn Trọng Tạo đã đóng
góp cho kho tàng văn học nước nhà một khối lượng lớn tác phẩm có giá trị đặc biệt
đối với nền văn học đang trong thời kì đổi mới. Cho nên nghiên cứu về thơ Nguyễn
Trọng Tạo luôn là một mảnh đất màu mỡ mang lại nhiều hứa hẹn và khám phá. Đã
có rất nhiều công trình nghiên cứu về thơ Nguyễn Trọng Tạo, tuy nhiên từ góc độ
đặc điểm thì thơ Nguyễn Trọng Tạo vẫn chưa được nghiên cứu nhiều.
Là một nhà thơ trưởng thành từ trong kháng chiến chống Mĩ cùng thế hệ với
các nhà thơ như Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo,… thơ Nguyễn Trọng
Tạo từ khi mới ra đời đã được đón nhận nhiệt tình như một sự ghi nhận đối với
công lao sáng tạo và lao động miệt mài không ngừng nghỉ của tác giả với nhiều tác
phẩm đạt chất lượng cao cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện. Trong thời kì kháng
chiến chống Mĩ cứu nước Nguyễn Trọng Tạo sáng tác không nhiều bởi thơ ông
“không nhằm phục vụ một nhiệm vụ hoặc một trào lưu gì” [5]. Nguyễn Trọng Tạo
“như một người lẻ loi đứng trên các nẻo đường mặc cho các lớp người cứ trùng điệp
ồn ào qua lại”. Cho nên “thật khó có thể xếp Nguyễn Trọng Tạo vào một lớp nhà
thơ nào” [5]. Thế nhưng khi nói đến thơ Nguyễn Trọng Tạo thì những đánh giá đầu

2
tiên được dành cho thơ ông đó là sự cách tân và đổi mới, chính điều đó đã khẳng
định thơ Nguyễn Trọng Tạo thật sự thành công và có giá trị hơn cả là ở thời kì hậu
chiến. Đúng như nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn Đăng Điệp đã nhận định
“Nguyễn Trọng Tạo thực sự là người có những đóng góp quý giá trong quá trình
đổi mới thơ ca. Trong những thi phẩm xuất sắc của mình ông đã ngộ ra được lẽ
sống của thơ là sự đổi mới không ngừng. Chính vì thế mà ông trở thành một gương
mặt sáng giá trong đội ngũ những nhà thơ mấy thập niên qua” [16]. Với mong muốn
thông qua các tác phẩm cụ thể của Nguyễn Trọng Tạo để làm nổi bật và sáng tỏ hơn
nữa những nét độc đáo mới lạ cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Đồng thời
góp phần vào việc định hình, định vị một giá trị thơ ca trong thời kì đổi mới. Đó là
lí do chúng tôi chọn và nghiên cứu đề tài “Đặc điểm thơ và trường ca Nguyễn
Trọng Tạo”.
Tìm hiểu đặc điểm thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo chúng tôi hi vọng sẽ
mang lại cho độc giả cách tiếp cận mới đối với một tên tuổi gắn liền với những thi
phẩm đã, đang và sẽ luôn song hành cùng hồn thơ dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
Đến với duyên nghiệp văn chương từ rất sớm Nguyễn Trọng Tạo nhanh
chóng đạt được những thành công vang dội và để lại nhiều dấu ấn sâu sắc trong
lòng người yêu thơ bởi phong cách độc đáo mang đậm cá tính sáng tạo. Nghiên cứu
về thơ ông đã có rất nhiều bài viết phê bình nghiên cứu, luận văn, luận án dưới các
góc độ khác nhau với những ý kiến chân thành, phong phú và đa dạng
Đề tài và chủ đề trong thơ Nguyễn Trọng Tạo tương đối đa dạng, không
thống nhất ở một miền nào. Ấn tượng đầu tiên khi đến với thơ Nguyễn Trọng Tạo
đó là mảng thơ tình. Ông viết về tình yêu bằng sự chiêm nghiệm với những triết lý
sâu xa, thâm túy trở thành một sợi dây vô hình buộc mãi vào lòng người. Nhận xét
của Mary E. Croy đã so sánh thơ tình của ông với Pablo Neruda - nhà thơ Chile
từng đoạt giải Nobel: "Nhưng có lẽ hơn tất cả, có sự tương đồng giữa thơ Nguyễn
Trọng Tạo với thơ của Pablo Neruda. Rất nhiều bài thơ tràn đầy nhạc điệu tình yêu -
điều này làm chúng rất ám ảnh. Đối với cả Nguyễn Trọng Tạo và Neruda, bài hát

3
tình yêu được sức mạnh thiên nhiên giải thoát khỏi những đè nén nhân tạo. Trong
thơ của cả hai người, ta có cảm giác rằng tình yêu có cuộc sống riêng của nó, không
bị ràng buộc bởi người yêu và người được yêu" [10].
Với Nguyễn Trọng Tạo đổi mới không có nghĩa là đập vỡ đi những cái
truyền thống mà phải là “cách tân trên nền truyền thống”. Trong bài viết “Nguyễn
Trọng Tạo với cái chớp mắt ngàn năm”, nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn
Đăng Điệp đã nhận định: “Là một thi sĩ có ý thức đổi mới, Nguyễn Trọng Tạo thấu
hiểu một cách sâu sắc rằng, sự sống còn của người viết là phải nương thân vào chữ
nghĩa. Nơi ấy, hồn nằm trong xác và xác ngụ trong hồn. Không còn cách nào khác,
tư cách của nhà thơ chỉ có thể đo ướm bằng sự tỏa sáng của chữ. Tại đó, anh ta trình
với mọi người cái vân tay “vân chữ” của mình trên tờ căn cước bằng giấy trắng mực
đen” [16].
Tác giả Cao Xuân Phát trong bài viết “Nguyễn Trọng Tạo người chọn thơ
làm nghiệp”, đã đưa ra nhận xét: “Thơ Nguyễn Trọng Tạo thường đặt ra những câu
hỏi nóng bỏng trước đời sống và thời cuộc. Những câu hỏi không dễ trả lời. Và ông
tìm cách trả lời những câu hỏi đó. Ông trả lời với tư cách người lính, tư cách công
dân và tư cách nhà thơ. Đó là khi thơ đã đẩy tới hoài nghi để làm sáng tỏ bản chất
của sự vật, đẩy tới bi kịch để tìm đến lạc quan, đẩy tới cái ác để nhận ra chân thiện
mỹ” [47].
Nhận xét về thơ Nguyễn Trọng Tạo nhà thơ Trần Ninh Hồ đã nói “Bảo anh
là thơ hướng nội hay hướng ngoại ư? Trữ tình hay Trào lộng ư? Trí tuệ hay Tâm
linh ư? Quân đội hay Dân sự ư?...Cứ là đủ cả, không phải trong từng tập mà trong
từng bài. Cái sự phân loại kia cứ bị cuốn theo cảm xúc mà chen lấn nhau, đan xen
nhau, rào rạt cùng nhau” [61].
Vũ Cao trong bài viết “Nguyễn Trọng Tạo một người thơ lẻ” đã nhận định:
“Ta thấy thơ anh không nhằm phục vụ một nhiệm vụ hoặc cổ vũ một trào lưu gì.
Anh như một người lẻ loi đứng trên các nẻo đường, mặc cho các lớp người cứ trùng
điệp ồn ào qua lại. Anh suy nghĩ một mình vẩn vơ với những điều bất chợt nhận ra

4
rồi bất chợt viết thành những câu thơ có lúc mộc mạc có lúc sang trọng, nhưng cũng
có lúc như chỉ viết cho riêng mình” [5] .
Nhà văn Nguyễn Đình Thi thì cho rằng: "Khác hẳn những nhà thơ không
hiểu chính mình đang viết gì, Tạo không viết những câu thơ bí hiểm, không viết
những câu thơ tự đánh đố mình và đánh đố bạn đọc để làm ra vẻ mình là một nhà
thơ có tư duy cao. Thơ Tạo thể hiện tư duy của chính Tạo, không phải tư duy vay
mượn của người khác", và ông khẳng định: "Trên bảng ghi công những văn nghệ sĩ
đổi mới thực sự và đổi mới hiệu quả, có tên Nguyễn Trọng Tạo" [69].
Ở phương diện nghiên cứu, phê bình các tác giả đều đã cho người đọc thấy
được một hồn thơ luôn dạt dào cảm xúc, yêu đời, yêu người thể hiện rõ phong cách
của tác giả. Ngoài ra còn có rất nhiều các bài báo, tạp chí đề cao thơ Nguyễn Trọng
Tạo của các nhà văn, nhà thơ bạn bè đồng nghiệp với ông. Lê Huy Mậu với bài
“Nguyễn Trọng Tạo người tự sắm vai mình” đã nhận xét “Thơ Nguyễn Trọng Tạo
là thơ tài hoa. Thơ tài hoa là thứ thơ khiến người ta có cảm tưởng như đó không
phải là kết quả logic của tư duy mà là sự thăng hoa của ngôn từ”. Văn Công Hùng
trong bài viết “Cộng cảm với Nguyễn Trọng Tạo” đã nói về thơ Nguyễn Trọng Tạo
“sâu thẳm nhưng lại đầy bất ngờ, thông minh và khắc khoải, ngùn ngụt như hoả
diệm sơn nhưng lại trầm tĩnh đến từng chi tiết”.
Về luận văn Thạc sĩ đã có không dưới 5 công trình nghiên cứu thơ Nguyễn
Trọng Tạo ở nhiều góc độ khác nhau. Luận văn Tư duy nghệ thuật thơ Nguyễn
Trọng Tạo của tác giả Nguyễn Hữu Công, Ngôn ngữ thơ Nguyễn Trọng Tạo của
Nguyễn Văn Hùng, Thơ Nguyễn Trọng Tạo từ góc nhìn tư duy nghệ thuật của
Nguyễn Thị Mừng, Khóa luận tốt nghiệp Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Trọng
Tạo của tác giả Trần Thị Hồng Hải…. Ở các bài nghiên cứu, các tác giả đã chỉ ra
được những đóng góp to lớn và sáng tạo không ngừng của nhà thơ trên hành trình
văn chương.
Như vậy ở những bài viết trên các tác giả, phê bình, nghiên cứu đã đi vào
những khía cạnh khác nhau của thế giới thơ Nguyễn Trọng Tạo và đã có những
nhận định, đánh giá đúng đắn thể hiện sự ghi nhận những đóng góp to lớn và có giá

5
trị của nhà thơ trên văn đàn. Tuy nhiên như thế vẫn còn là khiêm tốn khi nói về nhà
thơ - nghệ sĩ tài hoa như Nguyễn Trọng Tạo. Đặc biệt là về phương diện đặc điểm
thơ Nguyễn Trọng Tạo thì rõ ràng là chưa có công trình nghiên cứu nào mang tính
chất toàn diện, đầy đủ và sâu sắc. Cho nên trên cơ sở tiếp thu, lĩnh hội, chọn lọc các
quan điểm, ý tưởng từ nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình đi trước,
chúng tôi chọn đề tài này và mạnh dạn đưa ra những kiến giải riêng với hi vọng sẽ
mang đến những đóng góp mới trong cách tiếp cận, nghiên cứu đặc điểm thơ và
trường ca Nguyễn Trọng Tạo và khẳng định sự thành công của thơ Nguyễn Trọng
Tạo trên tiến trình thơ hiện đại Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Đặc điểm thơ và trường ca Nguyễn
Trọng Tạo trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát.
Tìm hiểu đặc điểm thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo, luận văn chủ yếu
khảo sát tuyển tập Nguyễn Trọng Tạo Thơ và trường ca (Nxb Hội nhà văn, Hà Nội,
2011).
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu đặc điểm thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo trong tính chỉnh thể
giữa nội dung và hình thức nghệ thuật
- Đi sâu nghiên cứu từng phương diện của đặc điểm thơ và trường ca Nguyễn
Trọng Tạo như: Hành trình thơ, Những cảm hứng lớn trong thơ, và Những sáng tạo
nghệ thuật trong thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng các thao tác nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: các thao tác phân tích, trao đổi và vận dụng lí
thuyết của lí luận văn học trong quá trình triển khai các chương mục là những thao
tác bổ trợ quan trọng cho người viết.

6
- Phương pháp lịch sử - xã hội: Đặt thơ Nguyễn Trọng Tạo trong bối cảnh vận động
chung của thơ hiện đại Việt Nam để nghiên cứu.
- Vận dụng phương pháp thi pháp học để nghiên cứu các đặc điểm về ngôn ngữ,
giọng điệu, hình ảnh,...
- Phương pháp hệ thống - cấu trúc: phương pháp này giúp người viết tìm kiếm một
cách có hệ thống những nội dung, hình ảnh, và nghệ thuật đặc sắc nhất trong thơ và
trường ca Nguyễn Trọng Tạo.
- Phương pháp so sánh: giúp người viết khẳng định lí giải các yếu tố, phương diện
của đặc điểm thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo, đồng thời qua việc đối chiếu so
sánh với những tác giả thời trước và sau ông khác để nhận rõ hơn phong cách riêng
cũng như chiều sâu tư duy của thơ Nguyễn Trọng Tạo.
5. Đóng góp của luận văn
Về mặt lí luận: luận văn cung cấp cho người đọc một cái nhìn toàn diện và
khoa học về những đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Trọng Tạo. Từ đó
nhận diện phong cách và vị trí của nhà thơ trong nền văn học đương đại Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: luận văn gợi mở thêm cho người đọc một cách nhìn mới về
thơ Nguyễn Trọng Tạo trong thời kì đổi mới thi ca sau 1975, đồng thời ghi nhận
những đóng góp của nhà thơ trong quá trình làm phong phú thơ Việt Nam đương
đại khi hội nhấp quốc tế và khu vực.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo luận văn gồm 3 chương:
- Chương I: Hành trình thơ Nguyễn Trọng Tạo
- Chương II: Những cảm hứng lớn trong thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo
- Chương III: Những sáng tạo nghệ thuật trong thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo.

7
CHƯƠNG 1: HÀNH TRÌNH THƠ VÀ TRƯỜNG CA
NGUYỄN TRỌNG TẠO
Gôgôn đã nói một câu rất hay: “Hãy mang theo tất cả những cảm xúc của
nhân loại. Đừng bỏ nó ở dọc đường rồi sau đó nhặt lên”. Hành trình thơ và trường
ca của Nguyễn Trọng Tạo có phải là sự lượm lặt những cảm xúc của nhân loại
không chúng ta không biết. Chỉ biết một điều, thơ ông là sự mang đến những điều
trải nghiệm sâu lắng, cảm động nhất của một tâm hồn đa đoan, nhạy cảm.
1.1. Đường đời, đường thơ Nguyễn Trọng Tạo
1.1.1. Vài nét về tiểu sử, sự nghiệp.
Nói đến Nguyễn Trọng Tạo là nói đến một người nghệ sĩ đa tài. Độc giả
đương đại biết đến ông không chỉ với vai trò là một nhạc sĩ tài danh gắn liền với các
ca khúc nổi tiếng Làng quan họ quê tôi, Đôi mắt đò ngang, Khúc hát sông quê… ,
mà tên tuổi của ông còn được biết đến với tư cách là một nhà thơ tài hoa nghệ sĩ.
Ông đã cho ra đời những tác phẩm thơ đặc biệt nổi tiếng như Chia, Đồng dao cho
người lớn, Cỏ may trên sân thượng... Mặc dù hoạt động nghệ thuật của Nguyễn
Trọng Tạo trải rộng trên nhiều lĩnh vực nhưng ở cương vị nào ông cũng rất thành
công và để lại những dấu ấn sâu sắc. Là một nhạc sĩ, ông rất thích sáng tác những ca
khúc về quê hương. Là một họa sĩ ông lại rất thích vẽ tranh cho thiếu nhi. Là một
nhà phê bình văn học ông luôn luôn bày tỏ tiếng nói chân thành xuất phát từ tấm
lòng yêu thơ và kính thơ, như Hoài Thanh đã nói “nếu anh đồng cảm đúng anh là
một người bạn, anh phê bình đúng anh là một người thầy”. Song vượt lên trên tất
cả những sở trường ấy Nguyễn Trọng Tạo còn là một nhà thơ của công chúng
đương đại với quan niệm “Thơ là nghiệp, nhạc là hứng, họa là chơi”.
Nguyễn Trọng Tạo sinh năm 1947 tại làng Trường Khê, huyện Diễn Châu,
tỉnh Nghệ An trong một gia đình nho học giàu truyền thống yêu nước và hiếu học.
Từ nhỏ Nguyễn Trọng Tạo đã tỏ ra là một người có năng khiếu về thơ. Năm 14 tuổi
ông đã sáng tác bài thơ đầu tiên, tuy có chịu ảnh hưởng tư tưởng và phong cách thơ
Hàn Mặc Tử song đã thể hiện tiềm năng của một tài năng thơ sau này.

8
Năm 20 tuổi Nguyễn Trọng Tạo sáng tác bài hát đầu tiên và xuất bản tập thơ
đầu tay (Tình yêu sáng sớm, in chung cùng Nguyễn Quốc Anh) năm 1974. Với các
bút danh như Cẩm Ly, Nguyễn Vũ Trọng Thi, Bảo Chi, Tào Ngu Tử... trong khoảng
gần 40 năm cầm bút cho đến thời điểm hiện tại Nguyễn Trọng Tạo đã cho ra đời
liên tiếp hơn 15 tập thơ với hàng trăm bài thơ có giá trị cao cùng ba bản trường ca
có tầm vóc và quy mô lớn. Đồng thời ông còn cho xuất bản gần 20 đầu sách gồm
thơ, văn, nhạc, phê bình tiểu luận. Nguyễn Trọng Tạo vinh dự mang về cho mình
nhiều giải thưởng danh giá và cho đến nay ông vẫn không ngừng cống hiến cho
nghệ thuật nước nhà những công trình có giá trị cao.
Đạt được thành công vang dội như ngày hôm nay với Nguyễn Trọng Tạo là
cả một sự cố gắng nỗ lực và phấn đấu không ngừng của bản thân, nhưng chính điều
đó lại phản ánh cuộc đời của một con người đa tài. Nguyễn Trọng Tạo nhập ngũ
năm 1969 rồi làm Đội trưởng Đội tuyên truyền văn hóa Đoàn 22B, Trưởng đoàn
văn công xung kích Sư đoàn 341B. Đến năm 1976 ông được Tổng cục Chính trị
điều về Hà Nội tham gia Trại viết văn quân đội rồi vào học trường viết văn Nguyễn
Du khóa I. Năm 1982 ông làm trưởng ban biên tập Nhà văn hoá Quân khu Bốn.
Năm 1988 chuyển về làm công tác biên tập xuất bản tại Hội văn học Nghệ thuật
Bình Trị Thiên. Năm 1990 cùng nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường và nhà văn
Nguyễn Quang Lập sáng lập tạp chí Cửa Việt, làm biên tập và phụ trách mỹ thuật
tạp chí này, bộ đầu tiên gồm 17 số. Năm 1997 làm Thư kí Toà soạn tạp chí Âm
nhạc thuộc Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Từ năm 2000 - 2005 là Uỷ viên Hội đồng thơ
Hội Nhà văn Việt Nam, kiêm trưởng ban biên tập báo Thơ thuộc báo Văn nghệ.
Việc dấn thân cho nghệ thuật đã mang lại cho ông sự ngưỡng mộ, cảm phục
nơi người đọc và đồng nghiệp nhưng cũng để lại cho ông nhiều thách thức. Vượt
qua chặng đường dài với những áp lực nặng nề của cuộc sống, công việc vốn luôn
đè nặng trên đôi vai gầy gò của cái tạng người “bốn mươi chín kí thấp cao chân
mình” (Tự họa) ấy, Nguyễn Trọng Tạo tiếp tục tìm đến thơ như một mối lương
duyên đã định sẵn và cho ra đời những tác phẩm thơ không thể thiếu trong văn
chương đương đại Việt Nam. Nói đến thi ca, Nguyễn Trọng Tạo đã chia sẻ “Thơ là

9
cái bóng của tôi hay tôi là cái bóng của thơ, tôi nào có biết. Những yêu ghét giận
hờn, những vui buồn sống chết... không có gì thuộc về con người lại xa lạ với thơ.
Thơ dạo gót nhẹ nhàng tới những chỗ tăm tối tận cùng của Cõi Người. Trên con
đường vô định, tôi đã đi tìm thơ gần trọn cuộc đời” [60]. Nhìn lại quãng đường mà
nhà thơ đã đi qua ta càng thấy cảm phục thật nhiều cái nghị lực phi thường của
người nghệ sĩ đa tài. Trên hành trình thơ mình, Nguyễn Trọng Tạo đã gặt hái được
những thành công nhất định nhưng thơ anh lúc nào cũng phảng phất tâm sự buồn
của một tâm hồn quá nhạy cảm trước cuộc sống.
Tiễn bạn đi uống rượu với trăng vàng
Lòng thương nức ngỏ cùng muôn năm cũ
Nuôi chí lớn nào lo đêm lạnh giá
Thấy sao trời run rẩy, sợ sao rơi…
(Nhà thơ thuở ấy)
Cách nói, cách cảm và cách thơ ấy mang đậm dấu ấn Nguyễn Trọng Tạo
bởi:“Cô đơn là phần sâu nhất trong bản ngã Nguyễn Trọng Tạo. Không quá khó
khăn, người đọc nhận thấy phía sau niềm trắc ẩn kia của Nguyễn Trọng Tạo là nỗi
cô đơn, đắng đót của kẻ mang bản mệnh đa đoan” [16]. Nguyễn Đăng Điệp đã phát
hiện ra cái tôi cô đơn như là một bản thể cần được giãi bày, sẻ chia trong thơ
Nguyễn Trọng Tạo “cái mầm cô đơn ấy có đủ vị, có cả niềm cay đắng xen lẫn nỗi
ngọt ngào” [16]. Thơ ông là thế, nhiều khi “nó cứ mấp mé bờ vực giữa thực và hư,
giữa đời và đạo, giữa cái mong manh và vĩnh cửu, giữa khoảnh khắc và trường tồn,
giữa có thể và không thể, giữa chỉn chu và phá cách, giữa nhất thời và mai hậu... và
như thế nó làm nên một Nguyễn Trọng Tạo tài hoa trẻ trung, một Nguyễn Trọng
Tạo thu hút, một Nguyễn Trọng Tạo "Ham chơi" [73], nhưng lại có một lượng tác
phẩm đồ sộ, đa tài ở nhiều thể loại.
Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa
Chỉ vết thương rồi thời gian làm sẹo
Vầng trăng mọc vào thơ mỗi ngày dường đổi mới
Người lo toan vầng trăng chẳng yên tròn

10
(Tản mạn thời tôi sống)
Mặc dù luôn gặp phải những chuyện không may mắn trong cuộc sống nhưng
Nguyễn Trọng Tạo đã không đầu hàng số phận, sự dũng cảm, cố gắng cùng nghị lực
phi thường đã giúp ông vượt qua mọi khó khăn trở ngại và đến với công chúng yêu
thơ như một sự tỏa sáng của người nghệ sĩ. Gần 300 bài thơ, ba bản trường ca và
hàng loạt bài viết phê bình nghiên cứu văn học đã đủ để xếp Nguyễn Trọng Tạo vào
hàng ngũ tác gia văn học đương đại.
Nội dung tư tưởng trong sáng tác của Nguyễn Trọng Tạo luôn phản ánh chân
thực mọi khía cạnh cuộc sống của con người đương đại, chủ đề và đề tài trong thơ
ông cũng hết sức phong phú, đa dạng. Với chủ trương đưa thơ về gần với cuộc sống
đời thường hơn ông đã không ngừng cho ra đời những tác phẩm mang đậm tính chất
thời sự. Đó là việc mượn thể loại đồng dao của con trẻ để nói chuyện người lớn,
những câu chuyện Tản mạn: thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi / Câu trả lời thật
không dễ dàng chi?... Tinh thần dũng cảm, thẳng thắn ấy đã mang đến cho ông
không ít phiền lụy, nhưng rồi sóng gió qua đi ông lại đường hoàng, đĩnh đạc đi
những bước chân vững chắc trên con đường mà ông đã chọn.
1.1.2. Quan niệm về thi ca
Trong suốt hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình, Nguyễn Trọng Tạo là
người luôn suy tư trăn trở một cách nghiêm túc về nghề nghiệp. Ông phát ngôn các
quan niệm về thơ không chỉ trong sáng tác mà còn trong trong các công trình nghiên
cứu, tiểu luận phê bình. Nói như nhà văn Nam Cao: “muốn có cách sống đúng phải
có cách nhìn đúng”, đó là quan niệm sống của nhà văn hiện thực chủ nghĩa. Suy
rộng ra, một tác gia văn học lớn bao giờ cũng có một quan niệm đúng đắn về nghệ
thuật. Chúng ta sẽ cảm thấy điều đó thật đúng khi tìm hiểu quan niệm về thi ca của
nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo.
Năm 1974, Nguyễn Trọng Tạo bắt đầu bước chân vào làng thơ hiện đại Việt
Nam với tập thơ đầu tay Tình yêu sáng sớm và nhanh chóng gặt hái được những
thành công nhất định. Sau khi rời xa quân ngũ trở về với cuộc sống đời thường,
ngòi bút Nguyễn Trọng Tạo càng trở nên vững vàng hơn khi đứng trước những đề

11
tài nhạy cảm của cuộc sống mang đậm tính thời sự. Ông quan niệm “thơ phản ánh
chân thực hiện thực đời sống” [65] và cho rằng thơ thường viết ra từ kinh nghiệm
sống. Có thể nói mỗi bài thơ là một kinh nghiệm sống. Nhưng những kinh nghiệm
sống chỉ có thể thành thơ khi có một tia chớp cảm xúc đánh thức nó. Trong sáng tác
của Nguyễn Trọng Tạo có rất nhiều tác phẩm được ông viết ra bằng chính sự trải
nghiệm của bản thân.
Gió hỏi trời sâu hay biển sâu
Sông hỏi đam mê hồn mắc cạn
Thưa xanh ngả bạc một sợi đầu
(Mắc cạn)
Câu thơ vừa mang ý hỏi nhưng chứa đựng tiếng lòng của thi nhân. Con
người luôn mải chạy theo những tham vọng, đam mê mà vô tình quên đi tuổi xuân
của mình. Đó là một thực tế chúng ta gặp rất nhiều trong cuộc sống và đã được tâm
hồn nhạy cảm của tác giả phản ánh vào trong thơ. Với Nguyễn Trọng Tạo, thơ là
điểm tụ của lăng kính cá nhân hướng ra thế giới. Ở đó, ông học được kinh nghiệm
sống của nhân loại và cũng là kinh nghiệm sống của mình, kinh nghiệm sống được
đánh thức bởi một cái cớ ngẫu nhiên không định trước. Thơ xuất thần, thơ vụt hiện
cũng đều được “chuẩn bị” như thế.
Yêu nhiều sao chẳng kết ai
Trớ trêu đời thực sắc tài kỵ nhau
Bây giờ ngày ấy mai sau
Người không còn tuổi và câu thơ thiền…
(Gửi H)
Với Nguyễn Trọng Tạo, “thơ là những ám ảnh tâm hồn”, “thơ là một chớp
sáng”, “thơ được làm bằng máu, thơ gần với nước mắt hơn là tiếng cười”. Ông bộc
bạch: “Tôi nương thân vào chính thơ tôi. Thơ lại nương nấu trong từng con chữ và
điệu nhạc vang lên từ cõi tâm linh nào xa thẳm. Thơ là cái bóng của tôi hay tôi là
cái bóng của thơ, tôi nào có biết” [60]. Thơ là nguồn cảm hứng, là nơi ông giãi bày
những buồn vui của đời tư, thế sự: “Thơ làm cho ta buồn vui lúc nào không hay.

12
Thơ làm cho ta thoát ngoài tục lụy phiêu diêu cùng trời đất, hoà nhập với thiên
nhiên, hoặc đồng cảm cùng đồng loại” [60].
Thơ Nguyễn Trọng Tạo không phải là sự miêu tả ngợi ca hay đả kích, lên án
những hiện tượng xã hội nóng bỏng mặc dù ông chủ trương làm thơ gắn với đời
thật: “Thơ là sự đối diện với sự thật được chưng cất… Làm thơ là hoá giải thời đại
vào ngôn từ. Thơ tôi không bao giờ thoát khỏi những xung đột thời đại, dù đó là
những bài thơ tưởng như riêng tư nhất. Tôi muốn thơ tôi là thơ của đương đại” [61].
Bằng quan niệm sống và viết đúng đắn như vậy, thơ Nguyễn Trọng Tạo đã được
đông đảo công chúng đón nhận như một sự trân trọng những cống hiến của ông đối
với nền văn chương Việt Nam đương đại.
Với quan niệm “Thơ là sự đổi mới không ngừng” [65]. Nguyễn Trọng Tạo
thấu hiểu một cách sâu sắc rằng, đổi mới trong thơ bao giờ cũng là sự đổi mới đồng
bộ giữa cái nhìn nghệ thuật của nhà thơ và ngôn ngữ, giọng điệu thơ. Trong thơ,
chữ cũng chính là tư duy, là cách nói và thái độ nghệ thuật của chủ thể sáng tạo.
Không còn cách nào khác, tư cách nhà thơ chỉ có thể “đo ướm bằng sự toả sáng của
chữ” [16]. Nguyễn Trọng Tạo đã tỏa sáng và xứng đáng là lá cờ đầu trong phong
trào đổi mới thi ca thời kì hậu chiến của đất nước.
Nếu Octavio Paz nói: “Con người thiếu thơ, đến cả nói năng cũng trở nên ú
ớ” thì Nguyễn Trọng Tạo cho rằng: Thơ giải tỏa ẩn ức sống, kinh nghiệm sống. Thơ
chia sẻ và cứu rỗi cô đơn hay tuyệt vọng của con người [64]. Bởi lẽ, trong cuộc
sống, con người thường cần phải có sức mạnh để vượt qua những điều không mong
muốn, thơ chính là người bạn đồng hành chia sẻ tâm sự. Đó là lí do giải thích vì sao
chúng ta có thể tìm thấy một phần của chính mình trong những thi phẩm mà ta yêu
thích. Nguyễn Trọng Tạo cũng cho rằng, thơ phải nói lên được những ước mơ, niềm
tin và khát vọng về cuộc đời và tình yêu. Thơ còn là sự cứu rỗi, là đôi cánh để nâng
đỡ, xoa dịu lòng người khi chống chếnh, hụt hẫng, tìm lại sự bình an nơi lòng mình.
Nhưng đồng thời, thơ phải thuyết phục người đọc thích ứng với cái lạ bằng lí lẽ,
ngôn ngữ riêng của mình để họ không cảm thấy chơi vơi, huyễn hoặc. Khát vọng
phản ánh hiện thực trên cả bề rộng lẫn bề sâu như thế đã làm cho thơ Nguyễn Trọng

13
Tạo trở nên gần gũi hơn với đời sống con người. Ông luôn quan niệm: “Thơ chỉ có
ở chốn thiện tâm” [65].
Thơ chưa hay thì thơ nói thật lòng.
Ai giả dối rồi biết mình lầm lỗi
Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi
Câu trả lời thật không dễ dàng chi
(Tản mạn thời tôi sống)
Để có được những câu thơ mộc như vậy, nhà thơ đã phải nâng mình lên rất
nhiều trong nhận thức, trong tư duy, nhập thân vào đối tượng, lặng lẽ đem bản thân
mình ra làm đối tượng cho mình chiêm cảm, thổn thức cùng nỗi đau của bản thân,
nhặt nhạnh từng mảnh hồn rơi vãi.
Là một người nghệ sĩ, Nguyễn Trọng Tạo đến với thơ như có một mối lương
duyên tiền định. Ông say thơ, yêu thơ và đã có những bài thơ rất hay từ lúc tuổi còn
nhỏ. Thơ ông tỏa sáng bởi nội dung phong phú, đa dạng, sự phản ánh sâu sắc toàn
diện đa chiều đối với những vấn đề có tính chất bức thiết của đời sống. Với tinh
thần mạnh dạn đổi mới, cách tân và hiện đại, Nguyễn Trọng Tạo đã mang lại cho
người yêu thơ một cảm giác mới lạ mỗi khi đọc thơ ông. Đó là cảm giác nhớ quê
hương da diết, cảm giác hạnh phúc khi nhớ đến người mình yêu, cảm giác được hòa
mình cùng thiên nhiên, cuộc sống…nhưng trên tất cả là người đọc luôn được thấy
như có tâm trạng của mình trong từng câu chữ của thơ ông. Đó là bởi thơ Nguyễn
Trọng Tạo đã luôn nói lên tiếng lòng của mỗi người, nó như mang một sự đồng cảm
sẻ chia để văn học tiếp tục thực hiện chức năng “nghệ thuật vị nhân sinh”.
1.1.3. Những yếu tố hình thành tài năng và phong cách
Viết về lối tư duy mới trong việc định hình phong cách thơ, PGS.TS Nguyễn
Bá Thành cho rằng: “nội dung tư tưởng có vai trò quyết định và chi phối mạnh mẽ
các yếu tố hình thức. Trí tưởng tượng dường như tuân theo một cách nghiêm ngặt
sự hướng dẫn của tư tưởng, của lí trí” [68]. Trong quá trình sáng tác của mình, nhà
thơ Nguyễn Trọng Tạo đã rất chú ý đến điều này, nội dung tư tưởng trong thơ ông
là sự suy tư sâu sắc về con người, thời đại mang giá trị nhân văn hết sức lớn lao. Tư

14
duy thơ của Nguyễn Trọng Tạo là sự suy tưởng về hiện thực, thời đại, đất nước,
nhân dân. Điều này được thể hiện rất rõ qua hai bản trường ca là Tình ca người lính
và Con đường của những vì sao, mới đây nhất nhà thơ cũng vừa cho ra đời trường
ca Biển mặn ca ngợi tình yêu quê hương đất nước của những con người yêu lao
động đang ngày đêm hăng say miệt mài bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của
tổ quốc. So với thế hệ các nhà thơ cùng thời như Thanh Thảo, Lâm Thị Mỹ Dạ,
Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Duy… sáng tác của Nguyễn Trọng Tạo luôn bám sát đời
sống hiện thực đất nước, thể hiện chiều sâu trong nhận thức của nhà thơ về trách
nhiệm công dân trước đời sống. Vì thế mà nội dung tư tưởng trong thơ Nguyễn
Trọng Tạo luôn phản ánh một cách đa chiều, toàn diện những vấn đề nóng hổi của
thời cuộc. Nếu thế mạnh của Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo là trường ca thì Nguyễn
Trọng Tạo tự tin khẳng định tài năng và phong cách ngòi bút của mình ở thơ trữ
tình. Thơ Nguyễn Trọng Tạo luôn hướng đến những vấn đề liên quan đến con người
và thuộc về con người.
Xuất phát từ yêu cầu của hiện thực đất nước đối với thơ, như chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nói, là thơ phải “ca tụng chân thật những con người mới và việc mới
chẳng những để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay mà còn để giáo dục con
cháu ta đời sau”. Và trường ca Con đường của những vì sao của nhà thơ Nguyễn
Trọng Tạo đã ra đời trong hoàn cảnh như thế. Ở đó tác giả đã tái hiện lại hình ảnh
những con người kiên cường dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì tổ quốc, họ là
những cô gái thanh niên xung phong tham gia chiến đấu ngay dưới mưa bom bão
đạn của quân thù, những chàng trai là người lính lái xe vận tải chở hàng vào tiền
tuyến khói lửa. Họ xa nhau mà vẫn gặp nhau trên con đường bảo vệ dân tộc: Ngày
ấy gió Hòa Bình / Mang chúng mình về ngôi nhà của mẹ (Trường ca Con đường
của những vì sao)
Trong sự nghiệp cầm bút của mình để có được những thành công vang dội
như ngày hôm nay Nguyễn Trọng Tạo đã thực hiện một thái độ lao động nghệ thuật
hết sức nghiêm túc, một trong những nội dung làm nên phong cách nhà thơ chính là
sự thể hiện một tư duy mới “thơ Tạo thể hiện tư duy của chính Tạo, không phải tư

15
duy vay mượn của người khác” (Nguyễn Đình Thi) mà cụ thể ở đây là quan niệm
tiến bộ của Nguyễn Trọng Tạo về nghệ thuật và thơ ca: "Tôi không làm thơ theo
cách của bạn, cũng như bạn đừng làm thơ theo cách của tôi. Nhưng dẫu sao đi nữa,
nhà thơ - người sáng tạo phải dấn bước tới tương lai - dù chỉ là một tương lai ảo.
Đôi lúc ảo tưởng lại đưa tới cho ta những sáng tạo mới" [59]. Kiên trì, tìm tòi, mày
mò, sáng tạo và đổi mới là những từ mà người ta thường hay dùng khi nói về nhà
thơ Nguyễn Trọng Tạo. Trong sáng tác thơ, ông luôn quan niệm “Thơ thuộc nghệ
thuật hàn lâm” đòi hỏi người nghệ sĩ phải trau dồi vốn chữ nghĩa và sự hiểu biết
hàn lâm để mỗi tác phẩm thơ ra đời là một công trình nghệ thuật công phu mang giá
trị nhân bản sâu sắc.
Và tôi hiểu ngoài đời những gì chưa được thắp
Đã sáng lên trong trái tim nhà thơ
Và tôi hiểu ngoài đời những gì đã tắt
Lại cháy lên đầu ngọn bút nhà thơ
(Gửi anh Trần Hữu Thung)
Với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế khi nhận ra những biến thiên tinh vi trong cuộc
sống, Nguyễn Trọng Tạo đã cho ra những vần thơ không chỉ là tiếng lòng của riêng
thi sĩ mà còn là tiếng nói tâm tư của cả cộng đồng. Cho nên “người đọc thấy ở ông
một tư duy thơ sắc sảo, trẻ trung, đầy dự cảm” [66].
Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi
Câu trả lời thật không dễ dàng chi
(Tản mạn thời tôi sống)
Đỗ Trọng Khơi đã đánh giá “Thơ Nguyễn Trọng Tạo là thơ của người nhàn.
Ông như vừa thong thả lao động, thong thả tản bộ và thong thả nêu ra những điều
suy nghĩ tinh vi và sâu sắc về cuộc đời. Nhờ ở cái cách, cái khí cốt ấy, thơ ông có
chỗ đạt tới sự minh triết” [3]. Có lẽ với Nguyễn Trọng Tạo “Nhà thơ không chỉ là
công dân của một quốc gia mà phải là công dân của thời đại… Nhà thơ phải biết
biến hiện tại, tương lai thành quá khứ để tạo ra kinh nghiệm sống và cảm xúc mới”

16
[65]. Bằng lối tư duy tiến bộ, hiện đại ấy ông đã chứng tỏ được tham vọng chính
đáng của mình “Tôi muốn thơ tôi là thơ của đương đại”.
Nói đến Nguyễn Trọng Tạo ai cũng biết ông là con người của những chuyến
đi, con người của bè bạn và đồng thời cũng là con người của quê hương xứ sở. Quê
hương với ông không chỉ là một nơi chôn rau cắt rốn mà còn đúng như nhà thơ
Nguyễn Đình Thi đã viết:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn
(Đất nước)
Như thế với Nguyễn Trọng Tạo, xứ Huế mộng mơ có lẽ là quê hương thứ hai
của ông, là nơi ông gắn bó cùng gia đình, người thân, bè bạn với biết bao kỉ niệm
vui buồn. Vì lẽ đó thơ ông viết dành cho Huế cũng rất nhiều. Nếu như Thu Bồn
viết: “Con sông dùng giằng con sông không chảy / Sông chảy vào lòng nên Huế rất
sâu” mà mỗi khi đến Huế người ta không thể không đọc hai câu thơ bất hủ này thì
Nguyễn Trọng Tạo đã viết một bài thơ đặc biệt chỉ có hai câu thơ rất ngắn ngủi
nhưng ẩn chứa bao điều. Những điều mà càng nghĩ chúng ta càng cảm thấy sâu sắc
Sông Hương hóa rượu ta đến uống
Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say
(Huế 1)
Với lối tư duy thơ này có lẽ chỉ có dưới ngòi bút Nguyễn Trọng Tạo bởi thơ
ông là “thơ của đương đại. Trên văn đàn thơ đương đại Việt Nam, thơ Nguyễn
Trọng Tạo đã tạo được bước đột phá trong cách tư duy và hình thức thể hiện. Thơ
ông là sự “hòa giải” giữa cái mới và cái cũ, là tiếng nói chân thành tình cảm giữa
người với người. Suốt hành trình sáng tạo thơ ca của mình, Nguyễn Trọng Tạo mê
mải với những tìm tòi về nội dung và hình thức. Với ông “chủ thể sáng tạo có tài
luôn hướng tới cái mới lạ. Không mới lạ thì không thể gọi là sáng tạo” [59].
Lướt một vòng qua các trang thơ Nguyễn Trọng Tạo chúng ta sẽ thấy ở ông
là một tâm hồn thơ với tư duy hoàn toàn mới. Nét mới trong thơ ông được thể hiện
từ việc lựa chọn đề tài, nội dung biểu hiện, cách sử dụng ngôn từ, nhịp điệu. Hình

17
thức thể hiện bằng cách xuống thang, vắt dòng, cách dùng dấu chấm giữa câu
thơ…cho đến việc nhà thơ liên tục cập nhật và lạ hóa ngôn ngữ thơ của mình. Tất
cả những điều tác giả thể hiện dưới ngòi bút của mình đều chứng minh một điều
rằng thơ ông không hề đơn điệu, nhàm chán mà rất có phong cách nên tạo được
bước đột phá mới trong tư duy. Nghệ thuật biểu hiện trong thơ cũng hết sức tinh vi
sâu sắc khẳng định sự vững vàng sắc sảo của một cây bút từng trải qua khói lửa
chiến tranh nay trở về hòa nhập với cuộc sống đời thường.
1.2. Những chặng đường sáng tác.
1.2.1. Thời kì tham gia quân đội (1969- 1988)
Nguyễn Trọng Tạo là một trong những người thuộc thế hệ các nhà thơ thời kì
chống Mĩ cứu nước. Cùng với Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo, Lâm Thị
Mĩ Dạ…, anh đã nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc “xếp bút nghiên lên đường tranh
đấu” vì nền độc lập tự do thống nhất của nước nhà. Tham gia quân đội từ năm 1968
đến năm 1988, trong khoảng gần 20 năm ấy dù có nhiều sự kiện xảy ra nhưng
Nguyễn Trọng Tạo vẫn đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ kép của mình đó là vừa
sáng tác vừa đánh giặc cho nên thơ ông thời kì này mang một niềm nhiệt huyết vô
cùng sôi nổi và hào sảng.
Như đóa hoa nở giữa sa mạc, người lính Nguyễn Trọng Tạo ngày ấy đã tạo
ra tiếng nói riêng trong các tập thơ của mình. Trong không khí ồn ào nóng bỏng của
thời cuộc, năm 1974 Nguyễn Trọng Tạo đã cho ra đời tập thơ đầu tay Tình yêu sáng
sớm in chung cùng Nguyễn Anh Quốc như bước đánh dấu cho sự nghiệp thơ ca.
Tập thơ tập hợp một số bài thơ thể hiện phẩm chất kiên trung, nỗi nhớ và tình yêu
quê hương da diết trong lòng người lính trẻ đang trên đường xa nhà đi chiến đấu.
Tình yêu sáng sớm gồm những bài thơ như Quê cát, Đêm miền trung, Người chèo
đò thời chiến, Tổ phá bom trên đường Rú Trét, Có đôi bàn tay nhỏ… đã cho thấy
những nhận thức sâu sắc của người lính về vai trò, sứ mệnh đối với Tổ quốc
Nếu lịch sử là dòng sông
Đang chảy dọc trong lòng Tổ quốc

18
Đêm miền Trung là quãng sóng dồn xiết nhất
Cho bình minh, nước tràn đến vô cùng.
(Đêm miền trung)
Tham gia quân đội là thời kì có tính chất bước ngoặt đối với Nguyễn Trọng
Tạo. Sau khi nhận được giải thưởng thơ của tỉnh ông tiếp tục dùng bút viết để phục
vụ cách mạng, phục vụ quân đội, vừa là một nhu cầu của thời cuộc, vừa thỏa mãn
niềm đam mê thơ ca. Như hạt giống ươm mầm, năm 1980 ông cho ra đời tập thơ
Gương mặt tôi yêu và tiếp đến là hai trường ca là Con đường của những vì sao
(trường ca Đồng Lộc 1981) và Tình ca người lính (1984) từng bước khẳng định
ngòi bút vững vàng của mình đồng thời thể hiện những tìm tòi sáng tạo và đóng góp
không ngừng đối với nền thơ ca cách mạng của dân tộc.
Nguyễn Trọng Tạo sáng tác khá nhiều và rất có duyên với thể loại thơ dài.
Những bài thơ có dung lượng lớn chiếm phần nhiều trong sáng tác của ông, điều đó
chứng tỏ Nguyễn Trọng Tạo có tài năng đặc biệt trong việc diễn đạt nguồn cảm xúc
dồi dào của mình và được thể hiện đậm nét khi ông viết trường ca. Trường ca của
Nguyễn Trọng Tạo có dung lượng lớn, kết cấu chặt chẽ, giàu chất trữ tình và tính sử
thi. Ông là một trong số ít những nhà thơ thời hậu chiến viết trường ca và đã gặt hái
được những thành công nhất định. Chính ông đã thổi linh hồn vào trường ca và
ngược lại, nó giúp ông bộc lộ rõ cái nhìn sâu sắc chân thực đối với lịch sử của dân
tộc. Không phải ngẫu nhiên mà một ai đó có thể dễ dàng thành công với trường ca.
Nói theo Chu Văn Sơn thì “do mấu chốt của trường ca là ở chữ “trường”, nên một
tác giả trường ca, theo tôi, ít nhất phải có đủ “tam trường”: trường vốn, trường lực
và trường hơi. Vốn trải nghiệm, vốn tri thức, vốn nhân văn phải dồi dào; năng lực
sáng tạo hình thức trong ngôn ngữ phải sung mãn; và phải nuôi được cảm hứng,
cảm xúc thật bền, không đuối, không hụt, không cụt. “Tam trường” đó phải hiện ra
thành kiểu tư duy trường ca” [50]. Và nếu nhìn nhận theo cách đó, một hồn
thơ như Nguyễn Trọng Tạo không thể không bén duyên với trường ca. Bởi “dòng
sống” [50] ấy chỉ thực sự thoải mái khi thỏa sức vung bút trong một hình thức
phóng khoáng với một cấu trúc luôn mở. Trường ca chính là một thể loại đầy hứa

19
hẹn cho hình thức ấy, cấu trúc ấy. Đối với Nguyễn Trọng Tạo, trường ca trở thành
phương tiện đắc lực để gửi gắm những cảm nhận sâu sắc về phẩm chất truyền thống
con người Việt Nam. Trường ca của ông được kết cấu đan xen bởi yếu tố tự sự và
trữ tình. Đó là một dòng chảy lớn, trong bản thân tác giả chứ không chờ đến sự kiện
bên ngoài tác động đến. So với các tác giả viết trường ca cùng thời như Hữu Thỉnh,
Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo…. trường ca của Nguyễn Trọng Tạo tuy chưa đạt
được độ chín và sâu đối với yêu cầu thể loại nhưng đã thể hiện được sự sáng tạo độc
đáo, mới lạ của tác giả. Đến với trường ca của Nguyễn Trọng Tạo, người đọc sẽ
nhận ra điều thú vị này.
Trường ca Tình ca người lính được tác giả viết năm 1984 đó là khoảng thời
gian mà cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ đã lùi xa gần 10 năm nhưng cảm giác
chua xót, đớn đau và ớn lạnh từ trong sâu thẳm tâm hồn người chiến sĩ vẫn còn
nguyên: “Chiến tranh/ Ngỡ đôi lần ớn lạnh” (Tình ca người lính). Trong cuốn sách
“Tuyển tập thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo”, Tình ca người lính được trích in
ba phần gồm "Tình ca số 1", "Tình ca số 2", "Tình ca số 3", kể lại câu chuyện người
lính vào cuộc chiến mang theo tình yêu thầm kín, những cuộc trở về và tiếp tục ra
chiến trường, cuối cùng trở về trong hòa bình.
Rồi một ngày
Bình yên
Anh trở về
Vừa đi vừa huýt sáo
Bài “Tình ca người lính” thuở chiến tranh
(Tình ca số 3)
Ở trường ca Con đường của những vì sao nhà thơ đã hư cấu câu chuyện của
hai chiến sĩ Mùa và La bên 10 cô gái Đồng Lộc nhằm làm hiện lên thân phận và tâm
trạng của người công dân trong cuộc chiến tranh vệ quốc, như lời tác giả đã chia sẻ.
Trong các chương khúc rất nhiều mảng tự sự diễn tả bối cảnh cách mạng và chiến
đấu của hai cuộc kháng chiến làm nền cho hành trạng các nhân vật, đan xen bên
cạnh những suy cảm trữ tình của tác giả. Như thế quan điểm sử thi đã tạo cho nhà

20
thơ một chỗ đứng ở tầm cao để bao quát thời đại và lịch sử, tái hiện và ca ngợi
những chiến công hào hùng của dân tộc
Hai mươi đôi chân hai mươi tuổi trẻ
Giẫm lên mình ta buốt giá
Ta phun lửa. Nhưng họ không hề sợ
Họ vẫn lên từng bậc dốc cao cao
Họ đi hái sao
Hay đi trẩy mặt trời
(Con đường của những vì sao)
Việc kết hợp chất sử thi trữ tình trong loại hình trữ tình sử thi là một việc làm
thể hiện sự tìm tòi sáng tạo trong việc đan xen thể tài lịch sử với chất liệu cuộc sống
hàng ngày và đời sống riêng tư của Nguyễn Trọng Tạo qua hai trường ca. Nếu trong
trường ca Tình ca người lính, người chiến sĩ trong tư thế hiên ngang tiến lên phía
trước để “cắm cờ độc lập” thì trong trường ca Con đường của những vì sao, hình
ảnh những cô thanh niên xung phong mà cụ thể là hình tượng 10 cô gái nơi ngã ba
Đồng Lộc đã đi vào những dòng thơ tràn đầy niềm xúc động và cảm phục của tác
giả.
Đồng đội tựa vào vai nhau dáng một tượng đài
Ôi, dáng đứng của những người bám trụ
Những cặp mắt tuổi hai mươi không ngủ
Những khoảng trời khói đạn chẳng thể che
(Con đường của những vì sao)
Trường ca viết về chiến tranh nói chung và trường ca của Nguyễn Trọng Tạo
nói riêng không hề né tránh những hi sinh. Ở Trường ca Con đường của những vì
sao với 2.500 câu thơ chia làm 10 chương và một "Khúc hát tặng" thay lời ngỏ, tác
giả đã dựng lên một "bức tượng đài bằng thơ" về cuộc chiến đấu ở Ngã ba Đồng
Lộc lịch sử. Phải chăng khi viết hai bản trường ca, điều mà Nguyễn Trọng Tạo
muốn nói đến đó là quá khứ hào hùng của dân tộc, dù trải qua bao mất mát đau
thương nhưng cái đọng lại sau cùng vẫn là tinh thần chiến đấu, lòng yêu nước, sức

21
sống bất diệt của dân tộc Việt Nam. Và chính điều này đã góp phần thể hiện sâu sắc
tấm lòng yêu nước của nhà thơ.
Máu anh đổ xuống bây giờ
Nơi cao điểm, chẳng bất ngờ đâu em
Khi con đường đỏ màu tim
Khi từng mạch máu gọi tên: Con Đường!
Khi non nước hóa chiến trường
Con đường nối vời con đường đi lên
(Con đường của những vì sao)
“Thơ viết xong tôi nhìn màu áo lính / Ngỡ màu xanh quá nửa đã vào thơ”
(Hà Nội của tôi). Trong các sáng tác ở giai đoạn này Nguyễn Trọng Tạo đã từng
bước khẳng định được phong cách sáng tạo của mình bằng việc thể hiện một cách
chân thực, sinh động hình ảnh chiến tranh và con người Việt Nam qua chính những
trải nghiệm thực tế của bản thân. Nội dung sáng tác trong giai đoạn này của nhà thơ
nhằm ca ngợi đất nước anh hùng cách mạng với những người con ưu tú giàu đức hi
sinh sẵn sàng xả thân vì nền độc lập của dân tộc. Những vần thơ của ông ra đời
trong hoàn cảnh chiến tranh bom đạn nên phản ánh được hiện thực trần trụi của đời
sống đất nước đi lên từ trong muôn vàn khó khăn, thử thách. Điều này càng góp
phần khẳng định vị trí của Nguyễn Trọng Tạo trong đội ngũ các nhà thơ hiện đại
thời kì chống Mĩ cứu nước. Tuy nhiên, thơ ông lúc này vẫn còn sự chi phối mạnh
mẽ bởi cảm hứng sử thi lãng mạn, đặc biệt được thể hiện ở hai trường ca của ông, từ
đó chúng ta cảm nhận được cuộc kháng chiến thật hào hùng nhưng cũng rất trữ tình.
Ngôn ngữ thơ thật giản dị và mộc mạc. Và chính những sáng tác của Nguyễn Trọng
Tạo trong giai đoạn này đã làm tiền đề vững chắc để ông bước những bước tiếp theo
chứng tỏ tài năng lẫn đam mê đồng thời khẳng định thêm tầm vóc của nhà thơ trên
hành trình thơ đương đại Việt Nam .
1.2.2. Thời kì trở lại với cuộc sống đời thường.
Nguyễn Trọng Tạo thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mĩ nên thơ ông đi vào đời
sống kháng chiến khá nhiều nhưng chỉ thực sự nở rộ và có giá trị hay nhất là ở thời

22
hậu chiến. Trở lại với cuộc sống đời thường Nguyễn Trọng Tạo đã trở thành một
nhà thơ vượt qua đề tài chiến tranh vốn dĩ là chủ đạo của thế hệ nhà thơ chống Mỹ,
gặt hái được nhiều thành tựu trong sáng tác thời hậu chiến kể từ thập niên tám mươi
của thế kỷ trước đến nay. Đứng trước hoàn cảnh đất nước với những bộn bề khó
khăn trong công cuộc đổi mới Nguyễn Trọng Tạo đã nhanh chóng nhập cuộc và chủ
trương một lối thơ đời thường với mục đích kéo những cái gì của đời sống về gần
hơn với thơ ca. Đây là thời kì nhà thơ thoát dần ra khỏi "dòng thơ chiến tranh" để
hướng tới sự thật trần trụi của đời sống một cách quyết liệt.
Gửi người không quen (1989) là tập thơ đầu tiên khi rời xa quân ngũ trở lại
với đời thường của tác giả tập hợp gần 30 bài thơ. Ở đó nhà thơ đã đúc kết được
những triết lí, kinh nghiệm sống quý báu trong cuộc sống cũng như trong tình yêu
mà có lẽ chính những năm tháng còn trong quân ngũ đã giúp ông tích lũy được.
Những ngọn gió chẳng hề mang tư tưởng
Cũng thổi dịu mùa hè thổi buốt mùa đông
Cái ngọn lửa, con người tìm ra nó
Biết bao điều Thiện – Ác cháy bên trong
(Cuộc sống)
Những niềm tâm tình của người lính đã được Nguyễn Trọng Tạo thể hiện thật
xúc động. Cũng là một người lính từng tham gia chiến tranh nên hơn ai hết, nhà thơ
thấu hiểu một cách sâu sắc tình yêu gia đình, quê hương xóm làng là điều không thể
thiếu vắng ở mỗi con người, đặc biệt là nỗi nhớ người yêu, nó càng trở nên da diết
hơn khi đặt vào tâm hồn của những người lính phải đi chiến đấu xa nhà. Tuổi trẻ
của họ đã gửi lại nơi chiến trường bom đạn ngày đêm vần vũ, đến khi được về đoàn
viên thì tuổi đã sang chiều.
Bây giờ qua cuộc chiến tranh
Bây giờ qua tuổi xuân xanh tôi về
Bàn tay người có gầy đi
Run run nước mắt ướt nhòe ngực tôi
(Thơ tình người đứng tuổi)

23
Bằng những trải nghiệm thực tế của bản thân, Nguyễn Trọng Tạo đã truyền
tải thật chính xác những tâm tư của lòng người, điều mà văn học thời hậu chiến cần
phải làm. Việc phải hi sinh cả tuổi thanh xuân để tham gia chiến đấu trên chiến
trường của người lính vẫn luôn là vấn đề nhức nhối ám ảnh mỗi nhà thơ, nhà văn.
Cho nên nỗi lòng bồi hồi, xúc động của người lính trải qua bao tháng năm bom đạn
cày xới nay được trở về gặp lại người yêu đã được Nguyễn Trọng Tạo thể hiện như
một sự đồng cảm đầy xúc động.
Các sáng tác của ông trong giai đoạn này là tiếng hát tươi vui ca ngợi sự hồi
sinh trở lại từ chiến trường chết chóc của bao người lính năm xưa trong đó có cả
chính tác giả. Sau Gửi người không quen (1989) tập thơ Đồng dao cho người lớn
(1994) đã đánh dấu bước đột phá mới trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trọng
Tạo. Tập thơ ra đời như một tất yếu của sự lớn lên từ những chiêm nghiệm về bản
thân và cuộc đời tác giả cho nên đã được đánh giá là “tiếng hát ngu ngơ của Người
Ham Chơi” [73].
Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi
Có con người sống mà như qua đời
Có câu trả lời biến thành câu hỏi
Có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
(Đồng dao cho người lớn)
Đồng dao cho người lớn đã gây được ấn tượng mạnh mẽ với người đọc ngay
từ cái tên. Tác giả viết bài đồng dao này cho người lớn chứ không phải đơn thuần
đồng dao là những bài hát vui của con trẻ. Mượn tính chất đồng dao, Nguyễn Trọng
Tạo đã thành công khi đưa những triết lí nhân sinh, thế sự của mình vào thơ. Cho
nên “chọn xong đồng dao, Nguyễn Trọng Tạo đã chọn cho mình một vương quốc,
mà ở đó, ông tuỳ nghi tung hoành, cười cợt, giễu nhại và buồn đau” [51]. Tập thơ là
một tìm tòi độc đáo của Nguyễn Trọng Tạo nên dễ đi vào lòng người và tồn tại mãi
với thời gian. Đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp đã nói: “đến “Đồng
dao cho người lớn” Nguyễn Trọng Tạo đã hiện rõ một phong cách độc đáo trong

24
bản đồ thơ Việt cuối thế kỷ hai mươi. Sự sáng tạo này còn được tiếp tục trong tập
“Nương thân” sau đó” [16].
Như vậy, sau khi trở về với cuộc sống đời thường phong cách thơ Nguyễn
Trọng Tạo đã có sự thay đổi quan trọng. Nếu như thời kì tham gia quân ngũ, thơ
viết về chiến tranh của ông bộc lộ khả năng nắm bắt và thể hiện một cách vững
vàng đề tài chiến tranh và tâm hồn con người thời chiến, người đọc đã tìm thấy ở
anh một tư duy thơ sắc sảo, trẻ trung, đầy dự cảm thì ở giai đoạn sau này, đặc biệt là
những năm đất nước đầy biến động khi đứng trước công cuộc đổi mới thơ ông đã có
bước chuyển từ tính chất sử thi sang trữ tình. Sự chuyển mình trong thơ Nguyễn
Trọng Tạo nằm trong sự vận động chung của văn học sau 1975, khẳng định tên tuổi
Nguyễn Trọng Tạo bên cạnh Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Trần Mạnh Hảo, Hữu
Thỉnh...làm thành đội ngũ các nhà thơ thời kì hậu chiến mang chất giọng trẻ trung,
sôi nổi.
Trong giai đoạn này đề tài sáng tác của Nguyễn Trọng Tạo đã đi sâu phản
ánh mọi khía cạnh của đời sống. Một không gian nghệ thuật lấm láp chất đời
thường đã xuất hiện trong thơ ông. Từng khía cạnh, từng mảnh vụn trong muôn mặt
của đời sống đã dần hé lộ dưới ngòi bút của một tâm hồn thơ nhạy cảm. Tập thơ
Thư trên máy chữ và tản mạn thời tôi sống (1995) chính là kết quả của quá trình đào
sâu tìm tòi và phát hiện của tác giả. Ở đó ta gặp một giọng thơ mới mẻ, một cách
nhìn và tái tạo cuộc sống thật tinh tế. Nguyễn Trọng Tạo đề cập đến một hiện thực
đau đớn, trần trụi, phơi bày cái nghèo nàn, cái hoang mang, sự thất vọng và cả sự
sụp đổ thần tượng một thời.
Như con chiên sùng đạo chợt bàng hoàng
Nhận ra Chúa chỉ ghép bằng đất đá
(Tản mạn thời tôi sống)
Triết lý thơ đời thường đã đưa nhà thơ về những lo toan, vất vả thường nhật
của cuộc sống. Hai tác phẩm thơ Tản mạn thời tôi sống & Thơ tình của người đứng
tuổi đã đưa Nguyễn Trọng Tạo lên hàng những tác giả được ngưỡng mộ nhất đương
thời, nhưng cũng đem đến cho ông nhiều thách thức: Thời tôi sống có bao nhiêu câu

25
hỏi / Câu trả lời không dễ dàng chi”. Đó như là điệp khúc nhức nhối liên tục xoáy
vào lòng người đọc làm dấy lên những vấn đề quan ngại cho tất cả mọi người, đặc
biệt là những người lính vừa trở về từ trong chiến tranh như chính bản thân nhà thơ.
Sau chiến tranh (1975), Nguyễn Trọng Tạo chủ trương “Thơ đời thường”,
nghĩa là ông muốn: thơ len lỏi vào mọi ngóc ngách đời sống thường nhật lam lũ của
con người, thơ đứng về phía những con người bất hạnh, những vẻ đẹp bị trù dập
[65]. Hai tập thơ Thư trên máy chữ và Tản mạn thời tôi sống (viết xong năm 1983,
xuất bản năm 1995) thể hiện rõ quan điểm nghệ thuật đó của tác giả. Từ đó, thơ
Nguyễn Trọng Tạo phát hiện ra những nghịch lý trong cuộc sống mà bây giờ nhiều
người vẫn gọi là “nghịch lý Việt Nam”.
Tập thơ “Nương thân” sau đó cũng tiếp tục cái đà của “Đồng dao cho người
lớn” đó là sự kế tiếp và hoàn thiện những gì đã đặt ra trong các tập thơ trước từ vấn
đề đổi mới chất liệu, nhạc điệu và giọng điệu thơ, việc sử dụng nhịp chẵn với một
thi pháp riêng.
Một khuya / một mình / một tình / một mưa
Đèn đường / lưa thưa / em đi / giao mùa
(Người đang yêu)
Đặc điểm nổi bật về nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Trọng Tạo là cách
ngắt nhịp theo kiểu truyền thống, ông trung thành với nhịp chẵn trong thơ lục bát
Việt Nam nhưng luôn có những cách tân mới mẻ bằng việc ngắt câu xuống dòng tạo
ra tính chất lạ hóa cho câu thơ đồng thời mang lại giá trị thẩm mĩ cao cho tác phẩm.
Ở các tập thơ về sau như Thế giới không còn trăng (2006), Em đàn bà
(2008), Kí ức mắt đen (song ngữ Anh- Việt 2010) Nguyễn Trọng Tạo xác định thơ
là lẽ sống: “Tôi muốn thơ tôi là thơ của đương đại. Sự ra đời tập thơ Thế giới không
còn trăng chính là sự câu thúc của cảm xúc và kinh nghiệm tôi đã nếm trải trong 7
năm qua. 60 bài thơ muốn “gói” lại sự thật tâm hồn tôi” [61]. Trở lại với cuộc sống
đời thường, hành trình thơ Nguyễn Trọng Tạo đã đi một chặng đường dài, có nhiều
biến cố với những lúc thăng trầm, có cả niềm vui ngọt ngào xen lẫn cay đắng, ông

26
cũng rút ra được nhiều giá trị sống cho bản thân. Vì thế mà thơ ông ngày càng trở
nên mượt mà gần gũi hơn với đời sống.
Tập thơ Em đàn bà (2008) của Nguyễn Trọng Tạo là tập thơ tình được viết ra
khi tác giả tuổi đã sang chiều. Do đó tình yêu được đề cập đến trong tập thơ không
sôi nổi, vô tư mà chứa đựng sự chín chắn của một người từng trải.
Giữa thành phố lá phong không còn chiếc lá phong
Thu đã rụng tình em không thể hái
Tuyết đầu đông thả buốt xuống hai vai
Tuyết đầu đông bạc trắng tiếng thở dài…
(Chiếc lá phong cuối cùng)
Từ một người lính nay trở lại với cuộc sống đời thường, Nguyễn Trọng tạo
nhanh chóng hòa nhập vào đời sống của dân tộc. Hành trình thơ của ông đã cho
người đọc thấy một bút lực dồi dào, tinh tế, sâu sắc và đặc biệt nhạy cảm với những
vấn đề nóng hổi của thi ca đương đại. Những sáng tác của Nguyễn Trọng Tạo trong
giai đoạn này hứa hẹn mang đến cho người đọc nhiều bất ngờ và khám phá thú vị về
tình người, tình đời, những triết lí sâu sắc từ sự trải nghiệm của chính tác giả được
đúc kết từ thực tế cuộc sống và đưa vào trong thơ. Với vị trí danh dự và đóng góp
quan trọng ấy, Nguyễn Trọng Tạo xứng đáng là người giữ lửa trên văn đàn thi ca
đương đại.
1.2.3. Một tâm hồn thơ giản dị, mộc mạc.
Sinh ra và lớn lên ở vùng đất Hoan Diễn của tỉnh Nghệ An với quanh năm
đầy nắng gió và cát bụi, hồn thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng giản dị mộc mạc như
chính mảnh đất đã nuôi dưỡng và cưu mang ông thuở thiếu thời. Trong cuộc đời
mỗi con người có ai lớn lên mà không trải qua quãng thời gian tuổi thơ? Tuổi hồn
nhiên nô đùa cùng sách vở bè bạn nên đáng nhớ vô cùng và có lẽ hình ảnh dòng
sông luôn là những nỗi nhớ cụ thể nhất trong kí ức mỗi chúng ta. Tôi nhớ có một
bài hát mang tên “Trở về dòng sông tuổi thơ” với những câu “Quê tôi ai cũng có
một dòng sông bên nhà/ Con sông quê gắn bó với tuổi thơ đời tôi/ Bao năm xa quê
ấy trong mơ tôi vẫn thấy/ Hôm nay tôi trở về lòng chợt vui thấy sông không già”.

27
Và cũng với dòng sông quê ấy thì trong kí ức của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo là
“Sông còn nhớ chăng nơi ta ngồi ngóng mẹ/ Vời vợi tuổi thơ một xu bành đa vừng”
thật giản dị hồn nhiên và mộc mạc biết chừng nào. Từng lời thơ câu hát như gõ vào
kí ức và tâm hồn con người làm dấy lên những gì đang diễn ra nơi thôn quê, ngõ
xóm. Cái đẹp chân quê với hình ảnh con sông, bãi lúa, nương dâu nơi đó có người
mẹ quê, người em thôn nữ từ lâu đã đi vào thơ ca như một món ăn tinh thần không
thể thiếu đối với mỗi người dân Việt Nam. Để rồi trên hành trình đi tới những vùng
đất của mọi miền của tổ quốc có lẽ nhà thơ khó lòng quên được hương vị quen
thuộc ấm áp như hơi thở của mảnh đất xứ Nghệ quê mình.
Cỏ may khâu áo làng quê
Cớ chi gió thổi bay về trời cao
Ta lên sân thượng chạm vào
Cỏ may! Ta cúi xuống chào cỏ may
(Cỏ may trên sân thượng)
Một trong những yếu tố làm nên hồn thơ giản dị mộc mạc Nguyễn Trọng Tạo
đó chính là cái chất nhà quê, là tình yêu quê hương sâu sắc đậm đà không lúc nào
nguôi ngoai trong tâm trí nhà thơ. Mà “cái gốc quê ấy không đơn giản là nơi sinh
trưởng, lớn lên nhìn từ góc nhìn địa lý mà rộng hơn, là hồn vía văn hóa của quê
mình, dân tộc mình ám vào hồn thơ Nguyễn Trọng Tạo và qua nhạc, qua vần điệu,
tiết tấu, chữ nghĩa mà rung lên thành thơ” [16]
Ngơ ngác giữa phố
Một thằng nhà quê
Nhớ thương mộ tổ
Biết bao giờ về
(Lưu lạc)
Thật là những câu thơ đầy thổn thức và tâm trạng mà có lẽ chỉ có những người
mang trong mình nỗi nhớ, tình yêu quê hương da diết mới có thể hiểu được. Cho
nên nỗi nhớ nguồn cội trong thơ Nguyễn Trọng Tạo trở nên day dứt hơn bao giờ
hết. Bên cạnh Nguyễn Trọng Tạo một “Người Ham Chơi” (cách nói của Hoàng Phủ

28
Ngọc Tường) còn là một người nhà quê luôn canh cánh nặng lòng với nỗi niềm xưa
cũ. Thơ ông, vì thế, “là khúc hát ngân lên từ cõi nhớ của một kẻ nhà quê lưu lạc.
Lưu lạc mà vẫn nhớ mình là nhà quê, là phương Đông chính hiệu” [16]. Sau “quá
nửa đời phiêu dạt” vẫn là một tâm hồn quê giản dị mộc mạc đi về trong thơ ông.
Anh là cọng rơm vàng dưới bánh xe em đó
Cọng rơm vàng dập nát vẫn vàng rơm”
(Bản sắc)
Và trong tập thơ Thế giới không còn trăng tác giả lại tái hiện lên mảnh hồn
quê giữa lòng thành phố: “người thành phố kẻ nhà quê/ mời nhau cơm nắm thơm về
xưa xa” (Món quê). Với Nguyễn Trọng Tạo tình yêu quê hương còn là việc kế thừa
phát huy và cách tân thể thơ truyền thống của dân tộc vì thế chất ca dao, lục bát từ
tiền nhân đã được ông nhân lên, và làm mới hơn rất nhiều nhưng vẫn không mất đi
sự mượt mà, gần gũi của con người đồng quê mà Đồng dao cho người lớn, là một
minh chứng tiêu biểu:
“… Có cha có mẹ có trẻ mồ côi
Có ông trăng tròn nào phải mâm xôi
Có cả đất trời mà không nhà ở
Có vui nho nhỏ có buồn mênh mông…
(Đồng dao cho người lớn)
Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo chất giản dị mộc mạc như soi sáng tâm hồn con
người từ tâm tư tình cảm đến những nhận thức mới mẻ về quan niệm nhân sinh cao
cả. Trong cuộc sống bộn bề những lo toan bươn chải thì những phút giây yên bình,
lắng đọng để được thả hồn cùng mây gió thật là ý nghĩa biết bao và nó càng trở nên
sâu sắc hơn khi ta nghĩ về miền quê nơi có người mẹ hiền đang ngày ngày ngóng
trông tin con.
Mẹ tôi dòng dõi nhà quê
Trầu cau từ thuở chưa về làm dâu
Áo sồi nâu, mấn bùn nâu
Trắng trong dải yếm bắc cầu nên duyên

29
(Mẹ tôi)
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo một người con của mảnh đất xứ Nghệ đã viết lên
bài thơ thật cảm động về người mẹ của tác giả cũng như bao bà mẹ khác ở khắp mọi
làng quê trên đất nước Việt Nam. Với tấm lòng chân thành mà giản dị của người
con xa mẹ, nhà thơ đã phác họa thành công bức chân dung về người mẹ chân quê
tuyệt đẹp. Bài thơ như một sự hội ngộ kì lạ giữa hội họa thần kì và ngôn ngữ lục bát
chân phương nơi họa sĩ – thi sĩ Nguyễn Trọng Tạo. “Chỉ mười tám câu, chín cặp lục
bát mà nhà thơ đã dựng lên chân dung cuộc đời của mẹ mình thật sinh động với các
thần thái, thần sắc và thần tình” [49]. Ngôn từ tự nhiên giản dị nhưng có khả năng
biểu hiện tâm hồn nhạy cảm. Tình yêu đồng ruộng, cây lúa quê hương đã ngấm vào
mẹ bằng những làn điệu dân ca “ca dao ru lúa”. Dường như thơ Nguyễn Trọng Tạo
là những bức tranh muôn hình muôn vẻ mà ở đâu cũng hiện lên vẻ đẹp và nét mộc
mạc của cuộc sống.
Sự giản dị mộc mạc trong tâm hồn người thi sĩ còn thể hiện ở việc sử dụng
chất liệu dân gian trong thơ từ nội dung, đề tài, cảm hứng đến ngôn từ bình dân
chân mộc như lời ăn tiếng nói hàng ngày của dân gian, có sự thân quen gần gũi và
chứa đựng những tình cảm sâu lắng.
Ngủ cho ngoan, ngủ cho ngoan
Lời cha đứng tuổi ru con vụng về
Ru mà lại sợ con nghe
Mẹ con về, nép bờ tre mỉm cười…
(Lời ru của người đứng tuổi)
Mạch dân gian là nguồn sữa mẹ ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn thơ Nguyễn
Trọng Tạo mang vẻ đẹp bình dị, cổ điển nhưng cũng không kém phần hiện đại.
Ngôi đền thời gian làm sao che chở
Hoa biết vì ai đến thì hoa nở
À ơi cái ngủ quyến rũ giấc hoa
Ngủ thì rực rỡ thức mà phôi pha
(Ru hoa)

30
Có lẽ tứ thơ đã được khởi phát từ câu ca dao “Hoa đến thì, hoa phải nở/
Thuyền đầy khách thuyền phải sang sông/ Đến duyên em phải lấy chồng” nhưng
nhà thơ đã vận dụng một cách sáng tạo và nhuần nhuyễn để cho ra câu thơ mang
đầy đủ ý nghĩa ru hoa đấy nhưng cũng là bóng gió nói đến quy luật của tạo hóa và
thời gian mang theo cái duyên và nhan sắc người con gái.
Hình thức nghệ thuật là một mặt của nội dung đôi khi lại chứa đựng cả nội
dung. Điều làm nên chất giản dị mộc mạc trong thơ Nguyễn Trọng Tạo chính là
việc sử dụng thể thơ truyền thống của dân tộc: lục bát và song thất lục bát với cách
ngắt nhịp truyền thống. Nhưng bằng sự sáng tạo và cách tân Nguyễn Trọng Tạo đã
làm nên sức sống riêng cho những bài thơ lục bát tạo hương vị lạ cho thơ. Đến với
hiện đại từ truyền thống Nguyễn Trọng Tạo say mê lục bát là điều không khó hiểu
bởi đây là thể loại mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc mà tác giả đã khẳng định:
“Thơ lục bát Việt Nam chính là một hình thức đặc sắc độc đáo, không thua kém bất
cứ một hình thức thơ đặc sắc nào của các dân tộc khác trên thế giới” [59].
Bài thơ Chia đã xếp Nguyễn Trọng Tạo vào hàng những cây lục bát hiện đại
trong dòng chảy lục bát trữ tình truyền thống bởi cách ngắt nhịp, vắt dòng khác lạ.
Chia cho em / một đời Thơ
Một lênh đênh /
Một dại khờ /
Một tôi
Chỉ còn / cỏ mọc / bên trời
Một bông hoa nhỏ/ lặng rơi/ mưa dầm
(Chia)
Tác phẩm chính là “một nỗ lực cách tân của nhà thơ trên con đường làm mới
thể thơ lục bát” [16]. Nhà phê bình nghiên cứu văn học Nguyên Đăng Điệp đã nhận
định “cái riêng của lục bát Nguyễn Trọng Tạo là sự phiêu diêu của cảm xúc, ma lực
của âm nhạc và sự kĩ lưỡng nghiêng về phía sang trọng của chữ nghĩa” [16].
Ngôn từ trong thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng giản dị đến lạ cho nên người đọc
sẽ không lấy gì làm thắc mắc bởi một hồn thơ giản dị như ông thì khi yêu có lẽ cũng

31
chân thành mộc mạc. Trong bài thơ “Ngày không em” tác giả khiêm nhường tự ví
mình như những vật dụng đơn sơ, những con vật hoang dại để diễn tả nỗi cô đơn,
hoang hoải.
Ngày không em
Anh cây chổi tựa mòn góc bếp
Anh cái chảo mốc meo
Anh con mèo đói kêu khan
Anh con chồn hoang ngủ vùi trong hốc tối
(Ngày không em)
Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo chúng ta biết ông không thể nào thoát ra khỏi
gánh nặng yêu thương của “Lèn Hai Vai” của “Rú Cài” mặc dù thời đại hôm nay
đã không còn cái ngày khổ cực cay đắng và “áo quần chẳng rách như xưa” thì
Nguyễn Trọng Tạo vẫn như con chim “vừa bay vừa hát”, hát cả quan họ đò đưa
pop rock bằng cái giọng ngũ âm của xứ Nghệ quê nhà để làm nên một Nguyễn
Trọng Tạo rất riêng và cũng rất bản lĩnh.

32
Tiểu kết chương một
Chương một của luận văn trình bày một số nội dung về hành trình thơ và
trường ca Nguyễn Trọng Tạo. Trong đó giới thiệu những nét chính về cuộc đời ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự nghiệp sáng tác cũng như việc hình thành phong cách của
nhà thơ tài hoa. Các tập thơ lần lượt ra đời đánh dấu sự trưởng thành không ngừng
của tác giả, đặc biệt là sự đổi mới và cách tân trong việc lựa chọn đề tài, sử dụng
nghệ thuật phản ánh chân thực vấn đề bức thiết của cuộc sống. Dưới ngòi bút
Nguyễn Trọng Tạo, từng mảnh hiện thực được phản ánh sâu sắc mang đậm giá trị
nhân văn. Từ tập thơ Tản mạn thời tôi sống cho đến trường ca Biển mặn ngày hôm
nay sau 35 năm, thơ ông vẫn luôn gắn liền cùng đời sống dân tộc khẳng định một
hồn thơ yêu người, yêu đời gắn bó với quê hương đất nước. Mặt khác, quan niệm
thi ca hết sức tiến bộ của nhà thơ giống như chiếc chìa khóa giúp người đọc mở ra
thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Trọng Tạo vô cùng phong phú và đa dạng.
Nhìn chung, các nội dung thể hiện trong thơ Nguyễn Trọng Tạo đều được
chúng tôi xem xét trong tính chỉnh thể toàn vẹn của quá trình vận động thơ, đặc biệt
nhấn mạnh ở thành công trong trường ca của Nguyễn Trọng Tạo. Một bản trường ca
hay là bản trường ca có giá trị tư tưởng cao và có giá trị văn chương tương ứng.
Thiếu một trong hai thứ là không trọn vẹn và trường ca của Nguyễn Trọng Tạo đã
làm được điều đó. Sự trọn vẹn về giá trị tư tưởng và giá trị văn chương của các tập
trường ca này là nằm trong văn mạch yêu nước, ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng
cảm của dân tộc Việt Nam. Ngoài bố cục chặt chẽ liền mạch, hợp lí, còn có rất
nhiều câu thơ được viết bởi một tài hoa đang vào độ chín đã kéo người đọc theo dõi
cả tập trường ca vốn dài và khó đọc chỉ trong khoảnh khắc. Đó là những điều mang
lại thành công vượt trội cho sự nghiệp sáng tác của ông trong thời kì đất nước đổi
mới.

33
CHƯƠNG 2: NHỮNG CẢM HỨNG LỚN TRONG THƠ VÀ TRƯỜNG CA
NGUYỄN TRỌNG TẠO
Tác phẩm văn chương là sản phẩm tinh thần của nhà thơ, và, để có được sản
phẩm tinh thần đặc biệt ấy, nhà thơ sẽ phải trải qua nhiều quá trình suy tư trăn trở.
Khi những “đứa con tinh thần” ra đời đánh dấu cho cả chặng đường dày công khổ
luyện, chứa đựng bao tâm huyết, lòng nhiệt thành sẽ giúp người đọc nhận định được
tài năng của người cầm bút. Một trong những yếu tố góp phần định hình nên phong
cách nghệ thuật nhà thơ chính là cảm hứng sáng tác. Ngoài vốn sống, những trải
nghiệm phong phú trước cuộc đời và một năng khiếu bẩm sinh thì đòi hỏi nhà thơ
phải có một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế.
Xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, cảm hứng của mỗi nhà văn, nhà thơ đều
gắn liền với tư tưởng, tình cảm của bản thân người sáng tác tạo nên những thăng
hoa trong cảm xúc. Trước khi đề cập đến những cảm hứng lớn trong thơ và trường
ca Nguyễn Trọng Tạo, chúng ta cần tìm hiểu một cách ngắn gọn khái niệm về cảm
hứng chủ đạo trong sáng tác văn chương.
Theo Pospelov, cảm hứng (tiếng Hy lạp cổ: pathos – một tình cảm nồng
nàm, sâu sắc) để chỉ “trạng thái hưng phấn cao độ” của người nghệ sĩ do việc
chiếm lĩnh được bản chất cuộc sống mà họ miêu tả. Biêlinxki coi cảm hứng chủ đạo
là điều kiện không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực, bởi nó “biến
sự chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành tình yêu đối với tư tưởng, một
tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành” [48].
Trong từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả Lê Bá Hán - Trần Đình Sử -
Nguyễn Khắc Phi đã định nghĩa cảm hứng chủ đạo là “trạng thái tình cảm mãnh
liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định,
một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác
phẩm”[23, tr.45]. Bên cạnh đó, các tác giả này còn khẳng định rằng “lí luận văn học
xem cảm hứng chủ đạo là một yếu tố của bản thân nội dung nghệ thuật, của thái độ
tư tưởng xúc cảm ở nghệ sĩ đối với thế giới được mô tả” và “có thể gọi tắt những
cảm hứng chủ đạo là cảm hứng”[23, tr.45].

34
Cảm hứng luôn thống nhất với đề tài và tư tưởng của tác phẩm. Cảm hứng
gắn liền với cảm xúc mạch suy tưởng đem lại cho tác phẩm một không khí xúc cảm
tinh thần nhất định thống nhất các cấp độ và yếu tố nội dung của tác phẩm. Trong
sáng tác văn chương nghệ thuật, cảm hứng được biểu hiện ở các hình thái: cảm
hứng lãng mạn, cảm hứng sử thi, cảm hứng anh hùng, cảm hứng thế sự, cảm hứng
trữ tình, châm biếm, trào lộng… Bao quát trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Trọng
Tạo, chúng ta thấy nổi bật với ba dạng cảm hứng chủ đạo: cảm hứng ngợi ca con
người, cảm hứng tình yêu và cảm hứng thế sự.
2.1. Cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp con người trong thơ và trường ca Nguyễn
Trọng Tạo.
2.1.1. Hình tượng người mẹ
Đã có lần nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo tâm sự rằng: “là một nhà thơ mà
không có bài thơ nào viết về mẹ thì thật bất hiếu”. Từ lâu hình ảnh người mẹ đã đi
vào thơ ca trong đời sống văn học dân tộc và trở thành một hình tượng đẹp, một
điển hình mẫu mực về người phụ nữ đảm đang giàu đức hi sinh. Từ ca dao tục ngữ
cũng đã có không ít những vần thơ ca ngợi phẩm chất tốt đẹp, cao cả của Mẹ
Mẹ già như ánh trăng khuya
Dịu dàng soi tỏ bước đi con hiền
(Ca dao)
Viết về mẹ, có lẽ không giấy mực nào có thể diễn tả hết nhưng chúng ta vẫn
muốn mượn thơ ca để bày tỏ tấm lòng, những nghĩ suy đối với mẹ kính yêu. Nhà
thơ Nguyễn Duy đã viết lên những câu thơ thật cảm động về tình mẹ.
Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí tay bầu
Váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa- Nguyễn Duy)
Trong cuộc sống đời thường mẹ luôn là người chịu nhiều vất vả gian truân để
mang lại cho con cái và gia đình một cuộc sống yên ấm. Là người lính từng tham

35
gia quân ngũ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, như bao người lính khác, Nguyễn
Trọng Tạo cũng có những cảm xúc bồi hồi khi nhớ về mẹ. Mẹ của nhà thơ nhưng
cũng là bà mẹ Việt Nam tiêu biểu, chân thật và cảm động mang đầy đủ phẩm chất
của người phụ nữ truyền thống.
“Mẹ tôi dòng dõi nhà quê
Trầu cau từ thuở chưa về làm dâu”
Áo sồi nâu, mấn bùn nâu
Trắng trong dải yếm bắc cầu nên duyên
(Mẹ tôi)
Trầu cau có thể là quà vật trong lễ dạm hỏi nhưng trầu cau cũng là một vị ẩm
thực bình dị thường ngày của người dân quê. Vị trầu cau mở đầu bài thơ đã ấm dần,
ngấm dần vào tình người vị quê. Viết về mẹ, tác giả đã không đi ngay vào hình ảnh
người mẹ trong lửa đạn chiến tranh mà trở về với hình ảnh người mẹ quê tảo tần.
Chồng con duyên phận phải chiều
Ca dao ru lúa câu Kiều ru con
(Mẹ tôi)
“Mẹ tôi” trong thơ Nguyễn Trọng Tạo là một bà mẹ cụ thể, hiện lên hết sức
chân thực, mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Câu ca, lời ru
ngọt ngào mà êm đềm cất lên từ làn môi mẹ, những đứa con lớn lên từ đó. Để rồi
khi đất nước có chiến tranh thì chính mẹ lại là người động viên các con mình lên
đường đi chiến đấu, chìm lắng những ngày đắng cay một mình mẹ âm thầm chịu
đựng bởi hơn bao giờ hết mẹ luôn thấu hiểu một điều mất nước là mất tất cả. Và
chính mẹ cũng đã dạy cho người chiến sĩ phải uống nước nhớ nguồn, phải biết đến
tình yêu thương và lòng căm thù cái ác:
Tập con bước vịn vào ca dao tục ngữ
Dù uống nước đâu lòng vẫn nhớ nguồn
Thương từ cái kiến con ong
Tím ruột bầm gan thù bọn ác
(Nguồn sông hát - Thanh Thảo)

36
Trong hoàn cảnh đất nước có giặc ngoại xâm mẹ lại tiếp tục trở thành hậu
phương vững chắc kiên cường để cho chồng và các con của mẹ ra đi bảo vệ bờ cõi
biên cương tổ quốc. Ta bắt gặp vóc dáng tảo tần hôm sớm của mẹ trong thơ Tố Hữu
với những thi phẩm như Mẹ Tơm, Mẹ Suốt, Quê mẹ, Bầm ơi. Ở đó, với dòng cảm
xúc cao quý nhà thơ viết về mẹ với tất cả tấm lòng thành kính và ngợi ca.
Có thể nói giá trị của văn học cách mạng chính là những bài thơ viết về mẹ.
Dù là ở thời nào mẹ luôn là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho những đứa con,
đặt vào hoàn cảnh đất nước có chiến tranh thì điểm tựa ấy càng trở nên ý nghĩa hơn
rất nhiều. Mẹ đã sinh cho đất nước những người con ưu tú, sẵn sàng chấp nhận đau
thương mẹ lại hi sinh những người con mẹ dứt ruột đẻ ra vì nền độc lập tự do cho
dân tộc. Rồi mẹ lại cưu mang, nuôi dưỡng che chở cho những chiến sĩ đang ngày
đêm chiến đấu với kẻ thù. Dù không trực tiếp cầm súng chiến đấu nhưng tấm lòng
yêu nước, đức hi sinh và lí tưởng cao quý của người mẹ Việt Nam thì không ngôn
từ nào có thể diễn tả hết được. Cho nên nhớ về mẹ cũng chính là nhớ về quê hương.
Mẹ chính là cội nguồn sức mạnh của dân tộc, là chỗ dựa tinh thần, là hậu phương
vững chắc cho người thân của mẹ yên tâm đánh giặc. Tình cảm của mẹ thật giản dị
mà lớn lao, tình cảm ấy hòa vào tình yêu tổ quốc. Yêu nước thương con mẹ lặng lẽ
âm thầm đào hầm che chở cho biết bao sư đoàn ẩn mình dưới đất.
Khi viết về mẹ âm hưởng chính trong các tác phẩm luôn là cảm xúc tự hào,
nhớ thương da diết của tác giả. Từ người mẹ riêng của mỗi người con đã hòa nhập
làm một và trở thành người mẹ chung của các chiến sĩ, người mẹ nhân dân, người
mẹ đất nước. Thấu hiểu nỗi lòng của mẹ, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã khái quát
thành những câu thơ thật xúc động.
Mẹ già ơi thương nhớ dẫu dâng trào
Mẹ cứ nhắc tên con đừng lo con vấp ngã
Lối con đi - nào lối mòn thuở nhỏ
Và mẹ là Mẹ Lính - dễ dàng đâu
(Những người lính đi qua thành phố)

37
Trên con đường chiến đấu đầy gian lao thử thách, có lẽ người lính sẽ cảm
thấy ấm lòng hơn khi nhớ về mẹ với những lời dặn dò ân cần trìu mến. Và đó cũng
chính là những điều mà các cô gái thanh niên xung phong nơi ngã ba Đồng Lộc
không quên được khi nhớ đến mẹ.
Hôm mẹ tiễn con đi đến vùng bom đạn
Mẹ chỉ dặn
Sống cho xứng với chị em bầu bạn
(Trường ca Con đường của những vì sao)
Khi những đứa con ra đi ngoài chiến trường xa xôi nguy hiểm, lòng mẹ lại tái
tê muôn chiều “Ba lần tiễn con đi hai lần khóc thầm lặng lẽ” chờ mong tin con
“Các anh không về, mình mẹ lặng im” (thơ Tạ Hữu Yên). Trong thơ Nguyễn Trọng
Tạo, lòng mẹ luôn là chốn bình an nhất để cho các con, những người lính tìm nơi
nương tựa.
Mẹ chờ con lòng mẹ rộng bao la
Như cỏ xanh gọi bê đàn tung vó
Như bờ bến cho cánh buồm về ở
Sau bao nhiêu cơn bão. Lại ra khơi
(Con đường của những vì sao)
Và có lẽ, trong kí ức của nhà thơ, hình ảnh người mẹ “tóc bạc răng đen” hiền
hậu sẽ luôn là động lực mạnh mẽ giúp người lính vượt lên phía trước chiến đấu với
quân giặc. Bởi trên chặng đường hành quân, hình ảnh người mẹ bao giờ cũng là
hình ảnh sáng nhất soi tỏ mỗi bước đi cho người lính.
Anh đi đi đường dài đội ngũ
Đất quê mình gió nóng tạt xiên vai
Mẹ vẫn chờ anh trước ô kính cửa xe này
Mẹ phía trước mỗi chặng đường kháng chiến
(Con đường của những vì sao)
Hình tượng người mẹ trong thơ ca
kháng chiến đã trở thành niềm tin sắt đá để mỗi nhà thơ lại khắc họa lên hình ảnh

38
một người mẹ cho riêng mình. Nhưng cho dù mỗi người lính có một kí ức khác
nhau về mẹ thì mẹ vẫn sẽ mãi là người mẹ Việt Nam trung hậu, đảm đang suốt đời
lam lũ. Dù là trong bất cứ hoàn cảnh nào mẹ vẫn luôn là ngọn đuốc rực sáng soi
đường cho con đi “Nơi anh đến hậu phương hay tiền tuyến” (Con đường của
những vì sao). Lời thơ của Nguyễn Trọng Tạo như càng có sức lan tỏa, lay động
cao khi từ hình tượng người mẹ bằng xương bằng thịt cụ thể, nhà thơ đã có sự cảm
nhận và chuyển hóa thành mẹ của quê hương, đất nước.
Mẹ cánh đồng, mẹ nhà máy, mẹ dòng sông
Mẹ đất đai dàn trận địa mênh mông
(Con đường của những vì sao)
Từ đây bóng hình của mẹ sẽ mãi mãi in sâu trong dáng hình của đất nước quê
hương mẹ “nhớ thương xanh thắm một miền nhà quê” (Mẹ tôi).
Mặc dù thơ viết về mẹ của Nguyễn Trọng Tạo tuy không nhiều, nhưng từng
câu từng chữ là tấm lòng ghi nhớ, là cảm xúc sâu sắc, mãnh liệt của nhà thơ đối với
công lao trời biển mà mẹ đã dành cho các con và cho tổ quốc của mẹ. Câu thơ vì thế
mà da diết lắng đọng và có sức lan tỏa trong lòng người đọc.
Mẹ nâng niu xúc động nước mắt rơi
Anh hãy mang vào tiền phương, anh ơi
Tấm lòng Mẹ-hậu-phương-miền-Bắc
Dẫu chum sập không còn nhiều thóc gạo
Với con xa lòng mẹ gửi phần nhiều
(Con đường của những vì sao)
Tình yêu thương của mẹ đã hòa vào tình yêu quê hương đất nước. Mẹ đã trở
thành người mẹ đất nước, người mẹ Việt Nam anh hùng. Trường ca Con đường của
những vì sao là nơi tác giả tập trung bút lực viết nhiều về mẹ và người lính, những
người đã đi qua cuộc kháng chiến gian khổ trường kì mà oanh liệt của dân tộc. Thơ
Nguyễn Trọng Tạo nói riêng và thơ ca đương đại Việt Nam nói chung, hôm nay vẫn
đang không ngừng đổi mới và phát triển góp phần không nhỏ vào dòng chảy chung
của văn học dân tộc trong đó những vần thơ viết về mẹ hôm qua, hôm nay và cả mai

39
sau thì vẫn còn nguyên giá trị. Và văn học sẽ còn viết tiếp những trang thơ xúc động
nhất về cuộc đời cao đẹp của những người mẹ để những câu hát về mẹ tiếp tục bay
cao, bay xa như lời ru mẹ đã từng vỗ về, nuôi nấng các con của mình.
2.1.2. Hình tượng người lính
Chiến tranh và người lính luôn là đề tài không bao giờ cạn trong dòng chảy
thi ca của mỗi dân tộc và nó càng trở nên đặc biệt hơn đối với một đất nước từng
trải qua nhiều cuộc chiến tranh như Việt Nam. Từ đó hình tượng người lính đã đi
vào văn học như một điều tất yếu. Mặc dù xuất thân khác nhau nhưng cùng chung
chí hướng “cầm súng xa nhà đi chiến đấu” bảo vệ tổ quốc là những con người ấy
đã trở thành người lính, thành đồng đội sát cánh bên nhau. Trong cuộc kháng chiến
chống Pháp gian khổ ta được gặp những người lính mộc mạc chất phác qua Đồng
chí của Chính Hữu.
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
(Đồng chí – Chính Hữu)
Khác với người lính trong kháng chiến chống Pháp. Tinh nghịch, hào hoa,
lạc quan, yêu đời chính là những đức tính nổi bật của người lính trong kháng chiến
chống Mĩ. Họ đã đi vào từng trang sách văn chương với tư thế là những con người
“chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” (Tây tiến – Quang Dũng). Để rồi sau khi
đất nước hòa bình, xuất ngũ trở về, những người lính năm nào lại bắt tay hòa nhập
với cuộc sống đời thường giản dị.
Là một người lính từng tham gia quân ngũ trong thời kì kháng chiến chống
Mĩ nên Nguyễn Trọng Tạo thấu hiểu sâu sắc những tâm tư, tình cảm, khát vọng của
người lính đi qua kháng chiến nay trở về với cuộc sống bình thường. Khi Nguyễn
Trọng Tạo viết về người lính cũng có nghĩa là anh đang viết về chính bản thân mình
cho nên tiếng nói của người trong cuộc cũng vì thế mà trở nên chân thực, cảm động.
Thời gian tham gia quân ngũ của Nguyễn Trọng Tạo chỉ trong khoảng 10 năm, đối
với một người lính tuy chưa phải là dài nhưng cũng đủ để mang lại cho nhà thơ

40
những trải nghiệm thực tế quý báu. Và chính điều đó đã giúp ông có cái nhìn khách
quan, đa chiều hơn về người lính trong kháng chiến. So với văn học cách mạng
trước năm 1975 khi viết về chiến tranh và người lính, chỉ mang tính chất ngợi ca, cổ
vũ. Nguyễn Trọng Tạo đã có sự chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, số phận của họ
từ lúc còn trong chiến tranh cho đến khi trở về với cuộc sống đời thường, từ những
người anh hùng ngã xuống nơi chiến trường bom đạn đến những người may mắn
còn sống sót trở về. Họ thật sự là những con người xứng đáng được văn học lưu giữ
lại bởi tinh thần chiến đấu kiên trung, lý tưởng yêu nước chính nghĩa.
Thơ viết về người lính của Nguyễn Trọng Tạo chủ yếu xuất hiện trong tập
thơ Thời chiến và Hà Nội tôi yêu cùng hai trường ca Tình ca người lính và Con
đường của những vì sao. Ở đó hình ảnh người lính hiện lên thật sống động chân
thực, không chỉ là những con người bằng xương bằng thịt mà chân dung tinh thần
của người lính - một thế hệ cầm súng hiện hình rõ rệt qua thái độ lựa chọn và cống
hiến. Họ lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc mang theo bao hoài bão,
khát vọng của tuổi trẻ.
Ngày mai chàng trai thành người lính
Đường người lính - đường ra mặt trận
Bàn tay người lính - bàn tay cầm súng
Trái tim người lính - chọi cùng đạn bom
(Con đường của những vì sao)
Nguyễn Trọng Tạo sáng tác hai bản trường ca vào đầu những năm 80 của thế
kỷ nhưng hình ảnh người chiến sĩ khi bước vào trận chiến với những đau thương và
lòng quả cảm luôn sống dậy trong mỗi trang của trường ca. Việc phải đối mặt với
bom đạn quân thù không còn là điều gì xa lạ với người lính nhưng điều quan trọng
là ở họ luôn có tinh thần vững tin và lòng dũng cảm, ý chí kiên cường.
Cái chặng đường anh sắp vượt lên
Để tới đích cắm lá cờ chiến thắng
Để tới đích tình yêu cháy bỏng
Lại là chặng gian truân anh chưa gặp bao giờ

41
(Tình ca người lính- tình ca số 1)
Hình tượng trung tâm của trường ca đương đại chính là người lính. Nếu như
trước đây hình tượng văn học này được miêu tả còn đơn giản thì nay đã được đổi
mới tạo ra sự phức tạp, đa chiều. “Người lính trong trường ca thời chống Mỹ hiện
lên với bút pháp lãng mạn bay bổng luôn tỏa hào quang chiến thắng, nay được miêu
tả với bút pháp hiện thực tỉnh táo, nhân vật hiện ra sống động, thật hơn” [71]. Hình
ảnh người chiến sĩ trong trường ca Nguyễn Trọng Tạo hiện lên chân thực với bao
vất vả, gian khổ. Trên những chặng đường hành quân họ luôn phải chấp nhận và
vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt không chỉ là sự nguy hiểm của kẻ thù “Bom nổ
chậm vãi đen trời Đồng Lộc/ Chui xuống đất sâu mang cái chết nằm rình” (TC
Con đường của những vì sao), mà còn là sự thiếu thốn mọi mặt, bệnh tật hoành
hành. “Với ngày hai thỏi lương khô/ Với cơn sốt rét mùa mưa tái rừng” (Tình ca
người lính - số 2). Không hề né tránh sự thật, ở đây nhà thơ đã tái hiện một cách
sinh động những khó khăn thử thách mà người lính phải vượt qua. Cũng như
Nguyễn Trọng Tạo, nhà thơ Nguyễn Anh Nông trong trường ca Trường Sơn đã tái
hiện những bước hành quân khó nhọc của người lính qua câu thơ hai chữ nhiều
thanh sắc với âm vực cao: “Gió thốc/ Nắng xém/ Tóc cứng/ Miệng khát/ Họng rát/
Mắt chói/ Bụng đói…”.
Viết về đề tài chiến tranh và người lính có lẽ chỉ có thể loại trường ca mới có
thể đáp ứng được bởi dung lượng rộng lớn của đề tài. Bên cạnh Nguyễn Trọng Tạo
còn có Thanh Thảo, Lâm Thị Mĩ Dạ, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Đức Mậu, Xuân
Quỳnh, Hữu Thỉnh… làm thành một đội hình hùng hậu thế hệ các nhà thơ nghệ sĩ
thời kì chống Mĩ góp phần to lớn cho sự phát triển của thể loại trường ca trong thơ
ca đương đại. Các tác giả đã không lên giọng hay tô hồng mà tái hiện chiến tranh
như nó vốn có cùng những suy nghĩ về lẽ sống, về sự hy sinh, trân trọng, và có cả
những xót xa, đau buồn trước những bi kịch của chiến tranh. PGS.TS Nguyễn
Thanh Tú đã nhận đinh rằng: “Trường ca hôm nay có xu hướng khái quát tìm ra, chỉ
ra những cái được, mất của lịch sử thông qua số phận con người, số phận nhân
dân… Từ cái cao cả, lớn lao của thời đại đến cái bình dị nhỏ bé của đời thường đều

42
được thể hiện bằng cái nhìn chân thành, đầy đặn hơn” [71.] Trong tác phẩm của
Nguyễn Trọng Tạo, đó là những cảm xúc rất thực của người lính
Ôi! Tổ quốc ta muôn đời muốn khóc
Sau cơn bão chiến tranh quyết liệt
Tóc biển xanh ôm vai đất mỡ màu”
(Con đường của những vì sao).
Đôi khi còn là đời sống nội tâm với bao điều thầm kín riêng tư của người
lính được bộc lộ hết sức chân thực, đời thường.
Anh xa thế
Con đường dài lắm thế
Anh là lính bao lần thay địa chỉ
Vắng tin em biền biệt mấy năm rồi
(Tình ca người lính- tình ca số 1)
Ngày đêm chiến đấu với kẻ thù và nguy hiểm nhưng đời sống tinh thần của
người lính trong chiến tranh không vì thế mà trở nên khô khan, đơn điệu. Trái lại họ
vẫn luôn lạc quan, yêu đời và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước bởi nơi
hậu phương luôn có hình bóng những người mẹ và người yêu đang ngày đêm mong
ngóng họ sớm trở về trong niềm vui chiến thắng.
Nhưng khi đất nước đang còn chiến tranh thì tình yêu của những người lính
trẻ thực sự trở nên mong manh và để lại nhiều tiếc nuối
Ngỡ như mất anh rồi
Em đơn chiếc một mình trên trái đất
Và anh nữa, anh yêu em chân thật
Anh không về hi vọng vỡ trên tay
(Tình ca người lính- tình ca số 1)
Tuy nhiên với người lính, hạnh phúc cá nhân luôn được đặt trong tình yêu Tổ
quốc. Họ thấm thía hơn bao giờ hết “hạnh phúc là đấu tranh” (Các Mác), là “cho
anh được quên để nhớ về Đất Nước”. Dường như cái bình thường đã được đẩy lên
đến mức quan niệm. Ở người lính có trái tim nóng bỏng, nhạy cảm trong tình yêu cá

43
nhân nhưng trái tim ấy cũng biết hoà nhịp đập yêu thương với tình yêu Tổ quốc. Đó
chính là sự thống nhất riêng chung, là sự hoà hợp làm một với lòng yêu nhân dân,
yêu quê hương đất nước. Và trên mọi phương diện thì người lính luôn sẵn sàng hi
sinh tình cảm cá nhân vì mục đích cao cả là chiến đấu và bảo vệ đất nước.
Có người lính nào như người lính chúng ta
Bận đánh giặc chục năm không một lần về phép
Giặc tan rồi
Lo canh giữ đất nước
Anh xa em như một lẽ thường tình
(Tình ca người lính- tình ca số 3)
Gác lại tình cảm riêng tư và nỗi nhớ quê nhà vào trong tim, những người lính
lại tiếp tục chiến đấu với niềm nhiệt huyết vững tin vào tương lai độc lập của nước
nhà. Vượt lên trên mọi khó khăn gian khổ của cuộc chiến người lính luôn mang
trong mình tinh thần lạc quan, yêu đời.
Đường ra trận đêm trăng vui nhất thôi
Trăng trên cao vẫy người lên dốc
Người lên rồi thấy trăng dưới thấp
Lại vẫy trăng lên…
(Đường ra trận đêm trăng)
Nếu như ở trường ca Tình ca người lính, hình tượng người chiến sĩ quả cảm
với tư thế hiên ngang tiến lên phía trước được Nguyễn Trọng Tạo tái hiện một cách
chân thực và sống động thì ở trường ca Con đường của những vì sao hình ảnh 10 cô
gái ngã ba Đồng Lộc đã đi vào trang thơ tràn đầy xúc động và niềm cảm phục của
nhà thơ. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác “không phân biệt già trẻ gái trai...hễ là
người Việt Nam thì đứng lên đánh giặc cứu nước” những cô gái thanh niên xung
phong nơi ngã ba Đồng Lộc đã góp phần xây dựng lên trang sử vẻ vang cho dân tộc
bằng tinh thần chiến đấu dũng cảm.
La cắn môi đứng dậy giữa đau thương
Dáng đứng tạc vào trời bom đạn

44
Đồi Đồng Lộc như bất ngờ vụt lớn
Trái tim yêu nước dựng đỉnh cao
(Con đường của những vì sao)
Ở chương Đỉnh cao, nhà thơ dựng lên bức tượng đài bi tráng về hình tượng
10 chiến sĩ thanh niên xung phong nơi Đồng Lộc ác liệt:
Tiếng La gọi nghẹn ngào trong khói đắng
Tiếng La gọi xiên qua tầng đất nặng
Xiên qua bom đạn rú gầm
Chỉ có gió ầm ầm
(Con đường của những vì sao).
Nguyễn Trọng Tạo khi viết về chiến tranh đã không né tranh những hi sinh
mất mát. Trên chiến trường cam go và quyết liệt, người chiến sĩ luôn cận kề với
nguy hiểm cho nên cái chết đối với họ “nhẹ tựa lông hồng”.
Nhưng em ơi, biết bao đồng đội
Nằm lại với non sông như đá tảng cây rừng
(Tình ca người lính)
Người lính ngã xuống nằm trong lòng đất mẹ cùng anh em đồng đội của mình,
hóa thân vào dáng hình đất nước. Có lẽ từ trong sâu thẳm suy nghĩ của mình, họ
luôn nhận thức rõ ràng đây là cuộc chiến đấu chấp nhận hi sinh cho thắng lợi cuối
cùng cho nên cái chết của người lính trở nên bi tráng hơn. Giữa không gian chiến
trận đặc quánh mùi khói súng bom đạn thì hình ảnh những nữ chiến sĩ thanh niên
xung phong đang ngày đêm bảo vệ các tuyến đường vẫn tỏa sáng. Thế nhưng sức
công phá của dã tâm hủy diệt đã không chỉ băm vằm những tuyến đường của chúng
ta mà còn vùi lấp những “mái tóc tuổi 20” nơi ngã ba Đồng Lộc. Điệp khúc La
quẫy mình…không làm sao gượng dậy trở đi trở lại trong trường ca như khắc họa
tình thế của người chiến sĩ trong tư thế vẫy vùng để tiến lên phía trước. Song đó
cũng là một hiện thực đau xót của người chiến sĩ khi họ đã bị bom đạn vùi lấp trong
đất đá để rồi Nguyễn Trọng Tạo phải buông một câu thơ đầy tính lãng mạn nhưng
đã để lại trong lòng người đọc niềm xúc động thật khó tả.

45
Mái tóc bay trong đất - tóc hai mươi
Tóc trong đất, gió thời gian thổi mãi
(Con đường của những vì sao)
Ngoài việc thể hiện thành công hình tượng người lính trong chiến tranh với
những gian khổ, hy sinh mất mát thì số phận người lính trở về sau chiến tranh cũng
được tác giả quan tâm đặc biệt. Tuổi trẻ của người lính đã gửi lại trên chiến trường,
họ đã chiến đấu quên mình với kẻ thù nên khi trở về với cuộc sống đời thường họ
khao khát mãnh liệt một mái ấm gia đình, tình yêu và hạnh phúc.
Hãy đến anh
Vợ anh mới sinh con
Mừng vợ anh sinh được vuông tròn
Mừng đứa con của mong chờ gặp gỡ
Đứa con đầu lòng, của đôi vợ chòng tuổi không còn trẻ nữa
(Tình ca số 2)
Ở trường ca Nguyễn Trọng Tạo nói riêng và trường ca đương đại nói chung
đã có một sự đa dạng hoá trong cấu trúc hình tượng người lính, không chỉ nơi chiến
trường mà có cả nơi hậu phương, cả trong và sau trận chiến. Ở không gian nào thì
người lính cũng phải đối mặt với những mâu thuẫn, ngoài chiến trường thì là sự
sống chết, ra khỏi chiến tranh thì đối mặt với cuộc sống bầm dập đời thường. Phải
chăng đó là nỗi đau hậu chiến, là những bi kịch tất yếu. Đây là hình ảnh người lính
thời bình qua cái nhìn chân thực và cảm động của Nguyễn Trọng Tạo:
Nếu em là vợ lính thời bình
Hãy xem bài cho con sau mỗi giờ học
Con khó bảo đừng một mình ngồi khóc
Đừng đợi anh xách nước thổi cơm chiều
(Những người lính đi qua thành phố)
Dường như tâm trạng của người lính thời bình có phần khác với tâm trạng
của người lính thời kháng chiến. Họ thấu hiểu những nhu cầu đời sống thường nhật
đang dồn lên đôi vai mảnh mai của người vợ. Tâm sự của người lính khi trở về cũng

46
vì thế mà trở nên sâu nặng hơn. Và nó càng trở nên day dứt hơn khi vết thương
chiến tranh vẫn hằn sâu trong tâm hồn người lính.
Đến Trường Sơn nhớ Trường Sơn
Đạn bom thuở ấy gian thương bây giờ
Rừng đâu? Chỉ gốc cây khô
Ta già mượn lệ trẻ thơ khóc rừng
(Khóc rừng)
Trường ca đương đại đã thể hiện một cách chân thực, thẳng thắn những tâm
tư, tình cảm, nỗi niềm, số phận của người lính trong và sau chiến tranh. “Âm hưởng
bi ca hòa vào âm hưởng tráng ca tạo ra một giọng bi tráng vừa thống thiết trữ tình,
vừa hào hùng sử thi, lắng gợi mà ngân vang...” [71].
Xây dựng hình tượng người lính đi qua chiến tranh Nguyễn Trọng Tạo đã đạt
được những thành công nhất định ở cả hai mảng thơ và trường ca. Qua ngòi bút nhà
thơ, người đọc có cơ hội hiểu sâu hơn nữa về phẩm chất cao đẹp của người lính cụ
Hồ. Nguyễn Trọng Tạo đã thực sự thành công khi khắc họa bức tượng đài bằng thơ
về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam mà bản thân nhà thơ cũng chính là
một hình ảnh chân thực, cụ thể.
2.2. Cảm hứng về tình yêu trong thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo.
2.2.1. Tình yêu mang màu sắc cô đơn.
Thơ tình là phần thể hiện rõ nhất phẩm chất tài hoa của Nguyễn Trọng Tạo
góp phần vang danh tên tuổi của nhà thơ trong tiến trình thơ đương đại Việt Nam.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình Nguyễn Trọng Tạo đã viết về nhiều mảng đề tài
khác nhau cho nên nội dung thơ ông vô cùng phong phú đa dạng nhưng nổi bật nhất
vẫn là thơ viết về tình yêu. Những vần thơ tình yêu thường được khơi nguồn cảm
hứng từ sự cô đơn. Nguyễn Trọng Tạo là người không may mắn trong chuyện tình
cảm nên thơ tình của ông luôn phảng phất nỗi buồn và sự cô lẻ. Ông đến với ái tình
bởi thấy cuộc đời mình thiếu vắng vô tận, sự thiếu khuyết một nửa trong tâm hồn
khiến nhà thơ nghĩ mình không bao giờ là một chỉnh thể hoàn chỉnh. Nhưng có lẽ

47
đây lại là nguồn cảm hứng mang lại cho Nguyễn Trọng Tạo những cảm nhận tinh tế
và sâu sắc khi ông đối diện một mình trong nỗi cô đơn, hoang hoải.
Anh trót để ngôi sao bay khỏi cát
Biếc xanh em, mãi chớp sáng vòm trời
Điều Có Thể đã hóa thành Không Thể
Biển bạc đầu nông nổi tuổi hai mươi
(Không đề I)
Tuổi hai mươi luôn là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con
người nhưng nó cũng mang lại cho chúng ta không ít những tiếc nuối khó quên bởi
sự nông nổi bồng bột của tuổi trẻ. Tình yêu luôn đẹp nhưng mong manh và dễ vỡ vô
cùng cho nên nhà thơ Hồ Dzếnh đã đưa ra một đúc kết thật chính xác “tình chỉ đẹp
khi còn dang dở”. Tình yêu không trọn vẹn khiến con người cả đời phải sống trong
tiếc nuối và cô đơn. Trong tình yêu chúng ta không thể nào tránh khỏi chuyện tái
hợp rồi chia ly. Xuân Diệu đã một lần nhắc đến trong bài thơ Vội vàng
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
(Vội vàng – Xuân Diệu)
Trong mỗi cung bậc của tình yêu đều có cái đẹp của riêng nó, tình yêu trong
thơ Nguyễn Trọng Tạo mang một màu sắc cô đơn nhưng đẹp tựa như một bức tranh
tâm hồn của người đang yêu với nỗi nhớ nhung, dang dở.
Biết là đất đợi mưa không
ở đây tôi nhớ tôi mong... một người
tiếng yêu tôi gửi lên trời
hóa cơn mưa ướt cả người lẫn tôi
(Ngã sáu chiều mưa)
Có lẽ tạo hóa trêu ngươi con người, bởi trong tình yêu có mấy ai khi yêu mà
không phải trải qua những sóng gió thăng trầm. Chuyện tình yêu là câu chuyện giữa

48
hai người cùng viết lên những dòng cảm xúc của mình, thế nhưng không phải cứ
yêu là sẽ được đền đáp cho nên cảm xúc một hướng vốn là con đường trống trải
nhất mà người ta thường nói và cũng là điều mà nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cảm
nhận một cách sâu sắc nhất
Em bỏ tôi đi dằng dặc mùa đông
Tôi tìm gầy guộc gặp em bạc lòng
Mùa xuân thương ai tươi ròng muôn sắc
Cả một trời hoa thương nhòa nước mắt
(Tìm hoa)
“Cô đơn là phần sâu nhất trong bản ngã Nguyễn Trọng Tạo. Cái mầm cô đơn
ấy có đủ vị, có cả niềm đắng cay xen lẫn nỗi ngọt ngào” [16]. Cô đơn là cảm giác
vô cùng đáng sợ, nó khiến con người cảm thấy như mình tồn tại không còn ý nghĩa
gì nữa nhưng thật may là Nguyễn Trọng Tạo đã tìm đến thơ như tìm đến một người
bạn tri âm để bày tỏ nỗi niềm sâu kín nhất từ trong đáy lòng, để thổ lộ tâm tình của
một con người đa tài nhưng cũng rất đỗi đa tình:
Trái tim đã bỏ tôi đi
Ai mà nhặt được gửi về giùm tôi
(Gửi)
Tình yêu giống như một thứ men say nhưng đã say rồi thật khó tỉnh lại được,
thậm chí ngay cả khi tình yêu đã bỏ đi mất rồi nhưng người ta cứ ngỡ đó chỉ là giấc
mơ: Cứ tin có một mối tình / Đắng cay vậy đó mà mình vẫn yêu (Hình như). Tình
yêu trong thơ Nguyễn Trọng Tạo luôn chứa đựng rất nhiều những cung bậc cảm xúc
khác nhau, có lẽ đây là điều được bắt nguồn từ một tâm hồn thật sự nhạy cảm của
người nghệ sĩ yêu thơ, yêu người và yêu cuộc sống say đắm nhưng vẫn luôn cảm
thấy cô đơn. Trên con đường vô định ấy nhà thơ đã phác họa lên bức chân dung con
người với những cái tên mang ý nghĩa thật chua xót và trớ trêu về phận người trong
cuộc sống.
Có một chàng Đơn Độc
Bước trên đường Không Tên

49
Có một nàng Hạnh Phúc
Ở số nhà Lãng Quên
(Nỗi nhớ không tên)
Đọc thơ tình Nguyễn Trọng Tạo chúng ta như tìm thấy một phần của mình
trong đó bởi nhà thơ viết không chỉ dành riêng cho bản thân mà cho tất cả mọi
người, những ai có chung một nỗi niềm to nhỏ như ông. Vietnam.net đã có một
nhận xét rất hay về Nguyễn Trọng Tạo: “Cảm nhận về nỗi ngang trái trong tình
yêu, tiên đoán về tai họa ẩn giấu dưới mỗi bước chân buồn bã của lữ khách cô đơn
khiến anh viết lên những bài thơ như khóc…”.
Cánh diều chẳng phụ dây diều
Tình yêu nỡ phụ người yêu bao giờ
(Hình như)
Cảm xúc này khiến ta nhớ đến nhà thơ Lý Hạ đời Đường của Trung Quốc đã
viết hai câu thơ rất nổi tiếng:
Thiên nhược hữu tình thiên diệc lão
Huề bàn độc xuất nguyệt hoang lương
(Trời có tình trời hẳn cũng già thôi
Trăng hoang vắng ôm mâm vàng cô lẻ)
Đó là tâm trạng rối bời và cảm giác lẻ loi buồn tủi khi con người phải đối
diện với sự cô đơn tuyệt vọng. Dường như có sự gặp gỡ giữa hai nhà thơ, mặc dù họ
sống cách xa nhau nhiều thế kỉ nhưng có một sự hội ngộ chung là tâm sự cô đơn,
nỗi trống trải hoang vắng tận sâu trong đáy lòng.
Tôi và em đứng trước biệt ly
Con chim xám bay về miền núi lạ
Lèn đá lung lay nỗi buồn muôn thuở
Sau lưng ta hoang vắng nhón chân đi
(Chân trời)
Tình yêu mang đến cho con người niềm hạnh phúc vô bờ bến nhưng nó cũng
có thể lấy đi những gì quý giá nhất thuộc về con người đó là niềm tin, là nhiệt huyết

50
sống và để lại một nỗi đau tinh thần không bao giờ có thể xoa dịu được. Nỗi cô đơn
trong tình yêu của Nguyễn Trọng Tạo đã lên đến tột cùng khi ông viết:
Chợt đi một đời chợt về cửa khép
Dưới chân vẫn dép trên đầu trời thanh
Đời lên chót đỉnh chợt mình mong manh
(Chợt)
Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo chúng ta không chỉ thấy những điều ông muốn
bày tỏ mà sâu xa hơn nữa nó còn mang một tầm triết lý sâu sắc về sự mong manh
của kiếp người nếu ta cứ mãi phải sống trong sự cô đơn, khắc khoải “anh không em,
chống chếnh mọi dáng hình” (Không em). Nhưng trong tình yêu, làm sao có thể
tránh khỏi chuyện chia ly. Người chủ động ra đi sẽ nhẹ nhàng hơn vì đã để cho
người ở lại sự hụt hẫng, trống trải, hoang vắng, nhớ nhung đượm buồn:
Không dưng hoa lí thơm buổi tối
Chợt nhớ một người không nhớ tuổi
(Không dưng)
Có lẽ cuộc đời và số phận không được may mắn trọn vẹn trong chuyện tình
cảm đã ảnh hưởng không nhỏ đến sáng tác của nhà thơ, cho nên viết là một cách để
ông giải tỏa nỗi buồn cô đơn “Khát tình – uống cạn tháng ngày buồn tênh”.
Đừng mơ rừng cũ người ơi
Lối xưa đã khép màu trời trinh nguyên
Đừng mơ xẻ ván đóng thuyền
Sông xưa đã lấp mấy triền dâu xanh
(Tình rơi)
“Cô đơn thoáng chốc đã hao hao gầy” (Ngôi sao buồn), trong cuộc đời một
nhà thơ - nhạc sĩ đa tài như Nguyễn Trọng Tạo những gì còn và mất, niềm vui ồn ào
rồi qua đi rất nhanh chỉ có nỗi buồn lắng xuống mỗi ngày, ông vẫn yêu, vẫn sống,
vẫn bạn bè và có lẽ cũng vẫn buồn.
Niềm vui rồi dễ phai nhanh
Cuộc đời lắng lại long lanh nỗi buồn

51
Em mù sương anh mù sương
Ngôi sao buồn ấy vẫn thường hiện lên
(Ngôi sao buồn)
Đã có lần nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn viết tặng ông bài “Bạn thơ” trong
đó có câu: “Chữ tình cầm mỏi bàn tay / Vẫn chưa gặp được một người tri âm”…Là
một nghệ sĩ lang bang lữ thứ, Nguyễn Trọng Tạo làm bạn với thơ rồi làm bạn với
rượu nhưng sau những cơn say và những ngày tháng phiêu du ấy cái đọng lại sau
cùng trong ông chỉ là một nỗi cô đơn, hoang hoải. Cho nên đọc thơ ông chúng ta
luôn nhận thấy chiều sâu của một nỗi cô đơn thường trực và niềm khát khao chia sẻ.
Với tâm hồn thi sĩ nhạy cảm và tinh tế, Nguyễn Trọng Tạo không chỉ mang đến
những vần thơ cảm động sâu sắc mà người đọc như còn cảm nhận được hình bóng
của mình trong thơ ông.
2.2.2. Tình yêu và sự khát khao dâng hiến.
Thơ tình của Nguyễn Trọng Tạo cũng có một hành trình biến đổi khá thú vị.
Tuổi đầu đời mười chín hai mươi, thơ tình của ông trong trẻo, e ấp và càng ngày
càng sung mãn, dữ dội. Điều lạ là khi đã qua tuổi sáu mươi ông vẫn giữ được men
say và có những bài thơ tình mãnh liệt, thấm thía bởi tình yêu vốn không có thời
gian và tuổi tác. Trước đây, ông hoàng thơ tình – Xuân Diệu đã nâng tình yêu lên
thành một triết lí sống.
Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ, không thương một kẻ nào
(Bài thơ tuổi nhỏ)
Tình yêu là đề tài muôn thuở của thi ca . Nhiều nhà thơ nổi tiếng đã viết về
tình yêu với tất cả sự nồng nhiệt của một trái tim tuổi trẻ. Ta bắt gặp một Xuân Diệu
nồng nàn, đắm say và khát khao dâng hiến cho tình yêu, một Nguyễn Bính mơ
màng tìm về tình yêu đồng nội, một Anh Thơ tha thiết nhưng thẹn thùng cái duyên
con gái. Và một Nguyễn Trọng Tạo cũng không kém phần sôi nổi, ngọt ngào.
Những câu thơ ngân lên trong thi phẩm Chia của Nguyễn Trọng Tạo đã cho người

52
đọc thấy được sự nồng nàn say đắm khi sẵn sàng dâng hiến và hi sinh tất cả cho tình
yêu trong tim mình.
Chia cho em một đời Thơ
Một lênh đênh
Một dại khờ
Một tôi
Chỉ còn cỏ mọc bên trời
Một bông hoa nhỏ lặng rơi mưa dầm…
(Chia)
Ai đã san sẻ, đã “chia cho em” cả “một đời tôi”, “một đời xanh”, “một lênh
đênh”, “một dại khờ” chia hết những đam mê nồng nàn và say đắm trong đời. Và
anh chia cả “đời say” với tình si mê và tâm bồ đề cho người yêu. Cách nói về tình
yêu trong thơ Nguyễn Trọng Tạo luôn đa chiều, nhiều cung bậc, nhưng dù hạnh
phúc hay đau buồn thì vẫn thể hiện một sự sống hết mình cho tình yêu. Cho nên tình
yêu trong thơ ông cũng như có một cuộc sống riêng, không bị ràng buộc bởi người
đang yêu và người được yêu.
Tôi yêu em, tôi tìm điều dễ ghét
Ở trong em. Em đừng vội giận hờn
Em yêu tôi em tìm điều đáng ghét
Ở trong tôi. Và em hiểu tôi hơn.
(Cuộc sống)
M.Gorki từng nói: “Tình yêu là thơ ca của cuộc đời. Cuộc sống thiếu tình
yêu không phải là sống mà chỉ là tồn tại. Không thể sống thiếu tình yêu vì con
người sinh ra có một tâm hồn để yêu”. Thơ tình Nguyễn Trọng Tạo không có cái
sôi nổi, rạo rực của tình yêu mười tám, đôi mươi. Ta bắt gặp ở trong thơ ông sự chín
chắn của một người quá ư từng trải. Tác giả yêu và chấp nhận tất cả:
Ta chấp nhận những gì ta đã biết
Cả những gì chưa biết cũng vậy thôi!
(Tình yêu qua)

53
Khi xưa, nhà thơ của hương đồng gió nội Nguyễn Bính cũng từng có cảm
xúc yêu thật mãnh liệt: “Tôi uống hồn em và uống cả / Một trời quan tái mấy cho
say". Tâm hồn người đang yêu thật khó có thể diễn tả được chính xác những cung
bậc cảm xúc dâng trào, lúc ồn ào mạnh mẽ, lại có lúc lặng lẽ thâm trầm.
"Thơ tình của Tạo chứa cả một trời thế sự, một biển tâm linh, thăm thẳm linh
hồn người" [51]. Từ những cảm xúc không lời của tình yêu, nhà thơ Nguyễn Trọng
Tạo đã diễn tả nỗi nhớ thủy chung sâu đậm bằng biển khơi, sóng tràn.
Biển đầy vơi thương nhớ, biển xanh ơi
Thân thể ai hồng hào pha ngọn sóng
Da thịt người chạm vào tôi nóng bỏng
Rồi có thể người quên
Còn tôi mãi giữ gìn…
(Hoa Li vàng)
Đọc thơ tình Nguyễn Trọng Tạo chúng ta luôn nhận ra những phát hiện mới
mẻ và độc đáo của ông không giống như những nhà thơ viết thơ tình đương đại
khác. Yêu và khát khao yêu, cảm giác xác thịt cũng có, nhu cầu bản năng cũng có
nhưng ông không phô diễn lộ liễu mà diễn tả một cách kín đáo và tế nhị bằng một
tâm hồn yêu dạt dào và từng trải nên chín chắn, chân thực hơn.
Anh nín thở đến kiệt cùng máu ứa
Cột lửa phun nham thạch phì nhiêu
Rồi chết lịm trong vỗ về mơn trớn
Mười ngón dài thon của gió chiều
(Cảm giác biển hồ hay là thơ bên miệng núi lửa)
nhưng có lúc cũng không kém phần mãnh liệt:
cứ tưởng một lần cho đỡ khát
nào ngờ bùa ngải lú trời xanh
nghìn sau gặp lại… em hăm mốt
môi ngực vòng tay vẫn thiên thần
(Thiên thần)

54
Lòng khát khao yêu và được yêu đến cháy bỏng, có lúc nhà thơ nảy ra ước
muốn thật ngông cuồng.
Ta muốn đổi không gian
Cho người gần ta mãi
(Hoa ơi ta yêu nàng)
Xuân Diệu, nhà thơ tình nổi tiếng của phong trào thơ mới, với sự phóng
khoáng đa tình cũng đã " mượn hình tượng sóng" để nói lên tình cảm nồng nàn,
mãnh liệt của mình: "... Anh xin làm sóng biếc / Hôn mãi cát vàng em / Hôn thật
khẽ, thật êm / Hôn êm đềm mãi mãi / Đã hôn rồi, hôn lại / Cho đến mãi muôn đời /
Đến tan cả đất trời/ Anh mới thôi dào dạt... " (Biển)
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, đa tình nhưng cũng rất nhạy cảm và tinh tế, ông
có cách riêng để nói về nỗi nhớ trong tình yêu của mình
nắng như nắng nhớ đất liền
tôi như tôi chẳng xa em bao giờ
bởi tôi tin tự trong mơ
em là biển biếc, bãi bờ là tôi...
(Biển, đảo, tôi và những cánh chim)
Có lúc tác giả giật mình, tỉnh táo, đọc những câu thơ tình thật dễ thương về
tình yêu đầy khao khát: Cây không tiếng chim /Lá cành tẻ nhạt / Đời không có em /
Mùa xuân phiêu dạt (Không đề). Cảm hứng về tình yêu đi liền với nỗi khát khao
dâng hiến được thể hiện trong thơ Nguyễn Trọng Tạo với rất nhiều những cung bậc
cảm xúc khác nhau. Và nỗi nhớ khôn nguôi luôn là biểu hiện rõ nét nhất của tình
yêu khi trái tim đã dành trọn cho người mình yêu.
Anh đứng anh ngồi anh thương anh nhớ
Anh ra anh vào nao nao mắt mở
(Người đang yêu)
Khát khao yêu và được yêu luôn là nội dung nổi bật trong thơ tình Nguyễn
Trọng Tạo. Với nhà thơ, “cơn sóng tình” lúc nào cũng không thôi chao đảo, dậy
sóng. Các cung bậc tình yêu được nhà thơ thể hiện tràn đầy trong thơ.

55
Ta không sống khi yêu
Ta chết khi yêu
(Tội đồ của thời gian)
Những lúc không em, để lấp đầy sự trống trải trong tim mình, nhà thơ ngồi
đếm thời gian, đếm thiên nhiên, đếm muôn mặt cuộc đời, vì… thấy nhớ em, mong
được đến ngày bên em là thế. Yêu và khát khao được yêu là một nhu cầu chính
đáng của mỗi con người và cũng là đề tài đặc sắc trong thơ tình đương đại Việt
Nam nói chung và thơ tình Nguyễn Trọng Tạo nói riêng. Với nhiều cung bậc cảm
xúc đậm chất thơ cùng những biểu hiện thật tinh tế, sắc sảo Nguyễn Trọng Tạo đã
giúp người đọc được trải nghiệm trong một thế giới của tình yêu tràn ngập những
sắc màu lung linh huyền diệu. Đồng thời, qua đó người đọc có dịp được hiểu hơn
nữa về tâm hồn nhà thơ, nhà nghệ sĩ đa tài nhưng cũng thật đa tình. Thơ tình
Nguyễn Trọng Tạo giàu cảm xúc chân thực và luôn ấm áp là vì thế.
2.3. Cảm hứng thế sự trong thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo
2.3.1. Lý giải về những nghịch lí nhân sinh
Lí giải về những nghịch lí nhân sinh, thế sự là một biểu hiện chủ đạo của nội
dung cảm hứng thế sự trong thơ Nguyễn Trọng Tạo. Sau khi chiến tranh kết thúc,
đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, thơ Nguyễn Trọng Tạo đã bắt nhịp một cách
nhanh nhạy trước những chuyển biến của xã hội, đặc biệt là những vấn đề liên quan
đến đời sống của con người thời hậu chiến. Nhà thơ đã đứng ở vị trí con người đời
thường quan sát và chiêm nghiệm những vấn đề thế sự. Với cảm quan thực sự tinh
nhạy, một năng lực nhạy bén với thời cuộc, Nguyễn Trọng Tạo đã đạt được nhiều
thành tựu khi viết những bài thơ mang cảm hứng biểu hiện và lý giải những nghịch
lý nhân sinh như: Đồng dao cho người lớn, Tin thì tin không tin thì thôi, Tản mạn
thời tôi sống, Mộng du, Nhân dân, Thế giới không còn trăng, Bóng, Tái diễn… bằng
một ý thức và trách nhiệm công dân thực sự thẳng thắn và dũng cảm. Ông đã không
ngần ngại đưa vào thơ tất cả sự, cuộc, nỗi, niềm nóng hổi của đời sống hiện thực với
đầy những mâu thuẫn và nghịch lí.
Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi

56
Có con người sống mà như qua đời
Có câu trả lời biến thành câu hỏi
Có kẻ ngoại tình ngỡ là tiệc cưới
(Đồng dao cho người lớn)
Mỗi nhà văn, nhà thơ có một thế giới quan riêng khi tiếp cận cuộc sống.
Phần mình, Nguyễn Trọng Tạo lại chọn một góc nhìn về những nghịch lý. Câu thơ
đã khơi lộ lên một cuộc vận động không ngừng của bản chất chung xã hội mang
tính quy luật của đời sống. Vẫn biết là trớ trêu, chênh vênh nhưng không làm gì
được. Ý thơ vì thế mà chứa đầy ẩn ức về sự bất lực của tư tưởng tác giả trước đời
sống xã hội. Nghịch lí mà Nguyễn Trọng Tạo đưa ra chính là có cánh rừng chết rồi
mà như vẫn còn sống, còn xanh nhưng lại có những con người còn sống mà chẳng
khác nào như đã chết, đó là một sự sống vô nghĩa của những người sống không
bằng chết, sống không có ích cho xã hội và những người chung quanh. Đây có lẽ
chỉ là một vấn đề nhỏ trong muôn vàn những chuyện thế sự mà nhà thơ được mắt
thấy tai nghe trong cuộc sống. Những cặp đối lập trong cuộc đời, những đối lập
ngay trong chính mỗi người. Cơm ăn, áo mặc, sự giải phóng tư tưởng, những căn
bệnh xã hội, tệ nạn,… luôn trái chiều. Những điều tác giả viết trong thơ đều là sự
thật. Những sự thật mà không phải người nghệ sĩ nào cũng dám dũng cảm nhìn
thẳng vào. Nhưng Nguyễn Trọng Tạo đã viết về nó một cách thẳng thừng đến
nghiệt ngã và ráo riết.
Trong giấc ngủ ta thấy ta lang thang thế giới
mặt nạ bày bán khắp nơi
trên sân bay trên xe con
trên bàn tròn bàn vuông bàn chữ U chữ nhật
trên đạn bom trên lợi nhuận
trên âm mưu mong cứu rỗi con người
(Mộng du)
Là một người lính từ trong chiến tranh trở về với cuộc sống đời thường,
Nguyễn Trọng Tạo nhận ra sự thật thường không như người ta mong đợi, con người

57
sống với nhau luôn phải che đậy sự giả tạo nên khổ sở vô cùng. Đó cũng là những
nghịch lí ở trong cuộc sống, nghe ra thật khó chập nhận nhưng nó lại là sự thật làm
nhức nhối trái tim của bao người có tâm hồn tinh nhạy như nhà thơ. Nguyễn Trọng
Tạo nhận ra sự nghịch lí ấy từ những vấn đề lớn lao như vận mệnh sống còn của tổ
quốc trong cơn bĩ cực mà vào thời điểm ấy, không mấy ai dám dũng cảm nói ra.
Có thể thay quan, không thay được Nhân Dân
Thay tên nước, không thể thay Tổ Quốc
Nhưng sự thật khó tin mà có thật
Không thể thay quan dù quan đã thành sâu!
Quan thành dòi đục khoét cả đất đai
Vòi bạch tuộc đã ăn dần biển đảo
(Nhân dân)
Câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo như một triết lí về sự đời thật trớ trêu và đầy
nghịch lý “Không thể thay quan, dù quan đã thành sâu”. Bằng việc lấy cớ “nằm
mơ” nhà thơ đã đưa người đọc đi đến những hiện thực đang phơi bày đầy nhức
nhối. Đất nước nhiễu sự, hàng triệu trai trẻ phải hi sinh cả tuổi thanh xuân để bảo vệ
sự bình yên cho Tổ quốc, vậy mà “sâu keo” lại ở giữa chốn thanh thiên bạch nhật
nảy nòi đục khoét. Đây quả là một sự bất công không hề nhỏ. Viết lên những dòng
tâm sự đầy ẩn ức như vậy, có lẽ nhà thơ muốn bày tỏ niềm khát khao và mơ ước
nhân văn của mình về một cuộc sống tốt đẹp, văn minh hơn. Như vậy “nhân văn
của thi sỹ là thức tỉnh cái đã chết của những con sâu”. Do đó, dù chỉ là giấc mơ
nhưng bài thơ cũng đầy ắp tính thời sự, không tránh né và đầy trách nhiệm.
Viết về những nghịch lí và những vấn đề nhạy cảm trong cuộc sống thì ở thời
nào, xã hội nào cũng có. Song vấn đề là mỗi con người chúng ta tiếp nhận và nhìn
nhận nó ở góc độ nào. Có người chọn cách thỏa hiệp, an phận và chấp nhận thì xã
hội nhất định sẽ không còn cơ hội để phát triển nữa. Nhưng cũng có những người
không bằng lòng và quyết đấu tranh đến cùng để bảo vệ sự công bằng cho xã hội.
Những người nhìn nhận thực tế như nó vốn có, dám nhìn thẳng vào sự thật, đối mặt
với sự thật chỉ có thể là những người lính đã từng được tôi luyện qua khói lửa chiến

58
tranh, lòng dũng cảm trên chiến trường gian khổ đã giúp họ đối diện với những sự
thật nghịch lí trong cuộc đời. Nguyễn Trọng Tạo là một trong số ít những người lính
- nhà thơ làm được điều đó. “Anh đã đi những bước chân vững chắc và đĩnh đạc của
số mệnh lúc chậm lúc nhanh, lúc nhẹ nhàng, lúc nặng trĩu lướt trên số phận cuộc
sống mỗi con người, tựu chung là những bước đi định sẵn rất ráo riết và quyết liệt”
[6].
Nguyễn Trọng Tạo là một nhà thơ luôn trăn trở, trách nhiệm đối với vận
mệnh đất nước. Vì thế mà ông luôn nói thẳng trước mọi quan niệm của mình.
Rồi một ngày người yêu ta đổi dạ
Rồi một ngày thần tượng ta tan vỡ
…như con chiên sùng đạo chợt bàng hoàng
Nhận ra chúa chỉ ghép bằng đất đá
(Tản mạn thời tôi sống)
Tản mạn thời tôi sống cất lên như một tiếng nói đau đớn bởi nó hàm chứa
bên trong rất nhiều cay đắng về sự đổ vỡ tinh thần của con người trước cuộc sống,
sự thất vọng về tình yêu, thần tượng. Nguyễn Trọng Tạo từng quan niệm: “Muốn
cho văn học khỏi nhợt nhạt, chỉ có con đường không né tránh sự thật” [59]. Sau
1975, thơ ca Việt Nam từ quỹ đạo của cái ta trở về với cái tôi cá nhân trong sự nhìn
nhận và đánh giá về con người qua những mối quan hệ chồng chéo phức tạp. Do đó,
những nhu cầu bức thiết của cá nhân con người trong cuộc sống đã được quan tâm
và thể hiện khá đầy đủ trong thơ ca. Đây cũng là thời kì đất nước đang bước vào
công cuộc đổi mới và khôi phục sau chiến tranh cho nên con người gặp phải không
ít những khó khăn trong việc tìm kiếm các chân giá trị của cuộc sống. Điều này
đồng nghĩa với việc “các cây bút phải biết xác lập vị thế của mình trong dòng chảy
lịch sử. Bản lĩnh nghệ thuật của nhà thơ phải được thiết lập bằng quan niệm riêng
của anh ta về đời sống” [15]. Nguyễn Trọng Tạo đã trổ được tài năng của mình
trước thời đại bằng việc nhìn nhận và phản ánh những thay đổi vừa mang tính quy
luật vừa mang tính bất biến của cuộc sống vào trong thơ ông. Những bài thơ viết về
cảm hứng thế sự đã cho thấy cái nhìn rất nhạy cảm, tinh vi và sâu sắc của nhà thơ.

59
Bệnh dạ dày tái diễn những cơn đau
Trái đất toát mồ hôi tái diễn trò súng đạn
Kẻ tái diễn những vinh quang nhàm chán
Người ngửa tay tái diễn nỗi buồn câm
(Tái diễn)
Đằng sau vẻ bề ngoài tưng tửng, ngu ngơ, ngả nghiêng, bông đùa của
Nguyễn Trọng Tạo là khát vọng trở về của người lính với niềm tin chân chính vào
sự thật cuộc sống, nhưng đáng tiếc là niềm tin của nhà thơ đã không được bù đắp
khi có nhiều kẻ cơ hội đã xuất hiện giữa gian khổ khó khăn của đất nước, cho nên
thơ ông đã không đứng ngoài cuộc mà lên tiếng cảnh báo và đánh thức lương tri
trước những cái xấu đang hoành hành xã hội. Nhà thơ tỏ ra ác cảm với những gì là
mờ mờ, tẻ nhạt, với những con người sống vật vờ như cái bóng
hắn là hắn hắn chính là chiếc bóng
không âm thanh không màu sắc không buồn vui
thế mà hắn suốt đời sát kề tôi
không xóa được tôi đành chào thua hắn
(Bóng)
Những con người vô vị và vô tích sự thời nào cũng có, hiện tại vẫn còn và
sau này vẫn còn. Đó là cuộc sống, là sự thật không thể nào phủ nhận được. Một thi
sĩ luôn khao khát sống mãnh liệt giữa cuộc đời như tính cách của Nguyễn Trọng
Tạo cũng là một người luôn khát khao đi tìm chiếc bóng của chính mình. Và may
mắn cho ông, cũng là hạnh phúc cho ông vì là một thi sĩ, cho nên dẫu ông không
tìm được chiếc bóng của mình giữa cuộc đời đầy nhiễu nhương này thì ông cũng đã
tìm được chiếc bóng của mình trong thơ bằng một tình yêu bất tử với thơ khi ông đã
thật sự đốn ngộ: “tôi đã chào thua khối người như chiếc bóng”. Cho nên xã hội
chừng nào còn tồn tại những nghịch lí chưa được xóa bỏ thì chừng ấy sẽ còn những
vần thơ thế sự của Nguyễn Trọng Tạo cũng như của bao thi nhân khác nữa. Trong
bài thơ Thế giới không còn trăng, ông viết:
Thế giới không còn trăng! Tin nghe rùng rợn quá

60
Chú cuội cây đa tan xác giữa thiên hà
Không còn Tết Trung thu, không còn đêm phá cỗ
Không còn ánh trăng ngà cho thi sĩ làm thơ…
(Thế giới không còn trăng)
Trong những câu thơ ta thấy có sự lo lắng, có cả tiếng cười và những giọt
nước mắt của thi nhân. Ông suy nghĩ miên man về những gì đã qua và cái gì sẽ tới,
tất cả cứ chen vào nhau có khi không mạch lạc gì cả nhưng lại phản ánh đúng
những rối rắm trong tâm tưởng của một nhà thơ. Sự nghiệp cầm bút của mình,
Nguyễn Trọng Tạo cứ nghĩ suy đến những chuyện “có vấn đề” của thời đại mà
những tưởng một mình ông không đủ sức để giải quyết rồi cuối cùng ông lại tự cho
mình là “thằng ngốc”, là một kẻ “nhà quê”.
Nhưng tôi người cầm bút than ôi
Không thể không tin gì mà viết
(Tin thì tin không tin thì thôi)
Không thể không tin. Vậy, tin ở điều gì, nhà thơ không nói ra, nhưng người
đọc có thể cảm nhận được qua các trang thơ của ông, qua những điều ông “rút
ruột” [16] mà nói ra bằng con chữ. Sống trong những nghịch lý ngoài đời và trong
tâm tình, thơ Nguyễn Trọng Tạo vẫn tràn đầy niềm tin và hi vọng, vẫn theo đúng
luật trời luật người có lương tâm, thơ ông vẫn là nơi mà người đọc tìm đến như đi
tìm một sự tin tưởng và bình yên cho tâm hồn. Bài thơ Tản mạn thời tôi sống của
tác giả đã phản ánh đúng niềm tin về quy luật phát triển và đổi mới của xã hội:
“Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa/ Như thời đã đi qua như thời rồi sẽ đến”.
Với bài thơ này, trong hành trình thơ của mình, Nguyễn Trọng Tạo như muốn tuyên
bố và khẳng định rằng: Từ đây, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã là một con người
khác, một công dân khác và một thi sĩ khác! Cái khác ấy hiện hình nhanh chóng và
thể hiện sự khẳng định mình một cách đầy tự tin và thuyết phục qua hai tập thơ
Đồng dao cho người lớn và Nương thân. Đó là sự hình thành của một tính cách đầy
ý thức và quyết liệt cho giọng điệu và phong cách thơ đa dạng. Với 56 bài thơ trong
tập Đồng dao cho người lớn, Nguyễn Trọng Tạo như muốn gửi đến người đọc

61
những bức tâm thư mà ông cảm nhận được từ cuộc sống chỉ với mong muốn cuộc
đời con người sẽ trở nên tươi đẹp hơn. Nghe ra thì thật hoang đường và vô lí nhưng
nó sẽ trở nên có lí và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc nếu tất cả mọi người chúng ta
ai cũng suy nghĩ được như nhà thơ. Bởi từ suy nghĩ sẽ dẫn đến hành động.
Nguyễn Trọng Tạo là sĩ quan quân đội, đi suốt cuộc chiến tranh chống Mĩ, từ
chiến tranh ông nhìn đến hòa bình mà thơ, văn, báo chí ông viết luôn luôn đau đáu,
trăn trở. Ông vẫn dũng cảm như một người lính, ông “không sợ nói ra những bí mật
của hồn mình”. Trên hành trình đi tìm chân lí từ những nghịch lí nhân sinh ở đời, đã
có lúc Nguyễn Trọng Tạo chạm phải những cái gọi là ngụy tín dầm dề khiến bản
thân nhà thơ phải lao đao và chịu không ít những thiệt thòi. Nhưng với tinh thần
dũng cảm và bản lĩnh của một người lính từng kinh qua khói lửa bom đạn, Nguyễn
Trọng Tạo vẫn kiên cường đấu tranh đến cùng bởi hơn ai hết nhà thơ hiểu và ý thức
rõ trách nhiệm của người cầm bút trước thời cuộc: “Tôi sống thời không thể đứng
quay lưng” (Tản mạn thời tôi sống). Trong cuộc sống hiện đại còn nhiều những xô
bồ, mưu toan chúng ta vẫn thấy nhà thơ luôn giữ vẻ ngoài ung dung của một ông
nhàn, thong thả đi dạo giữa đời để rồi “hằng đêm như con tằm rút ruột nhả ra dòng
tơ chữ trên những trang giấy trắng với những nghịch lý ở đời, mà bản thân ông cũng
là một nghịch lý không dễ lý giải” [16].
2.3.2. Thơ viết về tình bạn và sự tri âm
Trong cuộc đời, nhất là ở trong thơ, thật may mắn cho ai đó nếu tìm được
một tiếng nói tri âm, tức một người đọc lý tưởng có thể hiểu mình như chính mình
hiểu mình. Trong mối quan hệ đối thoại ấy, chúng ta trở thành chính mình, như cái
bản lai diện mục bề sâu bên trong. Chỉ với những người bạn tri âm, nhà thơ nói
riêng và mỗi cá nhân nói chung mới được nhìn nhận đúng với bản nguyên như họ
có. Triết gia Montaingne từng cho rằng chỉ thông qua mối quan hệ bằng hữu với
người bạn La Boétie thì ông mới được phép trở nên là chính mình, tức được bộc lộ
con người thực của ông ta. “Điều này cho thấy chúng ta chọn bạn bè không chỉ vì
họ tử tế và thú vị, mà có lẽ quan trọng hơn là vì họ hiểu chúng ta như cách mà
chúng ta nghĩ về bản thân mình” [2]. Có lẽ cũng chính vì lí do này, mà Nguyễn

62
Trọng Tạo đề tặng hay viết về rất nhiều bạn thơ đương thời của ông trong xuyên
suốt sự nghiệp thơ ca dài hơi và có nhiều thành tựu.
Một trong những hạnh phúc lớn của đời sống là tình bạn và một trong những
hạnh phúc lớn của tình bạn là có người để gửi gắm một bí mật, một tâm tư. Đó cũng
là điều nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo nói đến trong thơ mình.
Bạn bè ơi, nếu mà không các bạn
Những lúc lang thang ta về đâu
Không đời để Nhớ - nghèo biết mấy
Ta như sao lạc giữa ban ngày
(Cõi nhớ)
Những tưởng tác giả của Khúc hát sông quê chỉ viết những câu thơ mang đầy
tâm trạng, thật không ngờ ông lại có những đoạn thơ vừa lãng mạn vừa làm ấm lòng
người đọc đến vậy. Trong cuộc sống bề bộn những lo toan để tìm được người bạn
tri âm tri kỉ quả là không dễ chút nào. Cuộc đời thi sĩ của Nguyễn Trọng Tạo với
những chuyến xê dịch nay đây mai đó, thật may cho ông đó là những cơ hội tốt để
cho nhà thơ được gặp gỡ kết giao với bạn bè bằng tình cảm sâu sắc, ấm nồng. Được
đánh giá là người vui tính, thân thiện và dễ gần nên Nguyễn Trọng Tạo được rất
nhiều người quý mến. Bạn bè tâm giao của ông cũng đều là nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ
dường như ở lĩnh vực nào ông cũng để lại những tình cảm đẹp trong lòng bạn bè.
Điều đó đã phần nào nói lên phẩm chất và tính cách của một nhà thơ tài danh.
Rồi một khuya nào rượu ngà say
Bạn bè mỗi đứa mỗi ban ngày
Nhớ nhau cười nói vang đêm vắng
Trái đất như là giọt rượu bay…
(Đà Nẵng không đề)
Mỗi một con người trong phạm vi nào đó đều tối quan trọng. Mỗi một người
đều có một đóng góp độc đáo cho người khác, một sự đóng góp có thể là nền tảng
cho việc hình thành một con người toàn diện và thánh thiện. Tình bằng hữu là một
kinh nghiệm mang tính người nhất. Qua tình bạn, nhân loại chúng ta được trở nên

63
phong phú và làm cho đời sống người khác phong phú. Đâu đâu con người cũng
cần đến người khác, và cần được nâng đỡ bằng tình yêu thương của người khác. Và
không phải chỉ những ai ta thích, ta mới coi là bạn. Đã cùng chia sẻ cuộc sống với
nhau thì cần biết đón nhận nhau trong tình thân ái, tình bạn. Đó chính là một triết lí
nổi bật trong thơ Nguyễn Trọng Tạo.
Bạn của tôi ơi
Bạn hãy uống cạn đi chén rượu rót phần tôi
Rượu phần bạn, nơi này, tôi cạn chén
(Gửi Phan Lạc Hoa)
Thơ viết về tình bạn của Nguyễn Trọng Tạo không tô hồng, đánh bóng hay
đề cao mà chủ yếu nhà thơ chia sẻ về những tình bạn chân thành, giản dị nhưng đằm
thắm và sâu sắc của mình. Là một người sống trọng tình cảm và thích giao lưu, cởi
mở nên tình bạn là một lẽ sống không thể thiếu trong cuộc sống của nhà thơ. Trong
thơ ông, tình bạn luôn gắn liền với nỗi nhớ thương. Thời gian hay khoảng cách đều
không làm giảm được tình bạn.
Bạn đang sống thế nào khi thành phố vắng tôi
Khi đêm đêm tỉnh dậy giường tôi không người nằm
Khi thơ bạn viết xong
Không có tôi lắng nghe
(Gửi Nguyễn Hoa)
Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Chúng
ta sinh ra là để in dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim người khác. Và tình
bạn là quà tặng tuyệt vời mà cuộc sống ban cho mỗi người. Vì vậy chúng ta cần biết
giữ cho tình bạn luôn trong sáng, tốt đẹp và để lại cho nhau những kỉ niệm không
bao giờ phai mờ theo năm tháng. Với nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo những kỉ niệm đó
là sự tếu táo, nghịch ngợm bông đùa dễ thương
Đất trời lướt khướt dìu nhau bước
Đắc đạo rượu ngon đắc đạo tình
Bạn bè ở Huế thân nhau thiệt

64
Một đứa vợ la… chục đứa kinh
(Bạn bè ở Huế)
Có một điều đặc biệt trong tình bạn của nhà thơ đó là sự gặp nhau qua từng
ly rượu nồng. Có lẽ đây là ly rượu tương phùng minh chứng cho cái gọi là “hữu
duyên thiên lý năng tương ngộ” để rồi qua chữ say sẽ còn lại một chữ tình trong
lòng bè bạn. Đã là tình bạn tri âm thì luôn sẵn sàng chia sẻ cùng nhau những niềm
vui nỗi buồn. Và với nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, đó là khoảnh khắc xuất thần cho
một bài thơ hay, ông vội vàng đọc cho bạn bè nghe rồi cùng nhau ngâm nga, bình
luận…
Bạn bè ở Huế đông vui lắm
Túi đầy thơ tặng túi đầy trăng
(Bạn bè ở Huế)
Trong cuộc sống, có một tình bạn tri âm là điều đáng quý biết bao. Có những
tình bạn được hình thành qua thời gian, thử thách mà trở nên tri kỉ nhưng cũng có
tình bạn chỉ vô tình gặp nhau một lần trên đường đời rồi xa nhau mãi mà trở nên
khắc cốt ghi tâm. Đó không chỉ là tình bạn mà còn là tình đồng chí đồng đội giữa
những người lính cùng chung chí hướng và mục đích.
Súng trong tay cầm chắc
Khi băng qua cánh rừng
Lại nhớ bạn, nhớ sông
Nhớ bến tre, bãi gỗ,…
(Gửi bạn làm thợ rừng)
Tình đồng chí là mối tình sâu sắc và bền vững, rộng lớn, sắt son trong một tổ
chức cách mạng chân chính. Và đã là đồng chí thì phải có tình yêu thương, sống với
nhau sao cho có tình, có nghĩa. Khi ấy tình đồng chí hòa đồng với tình bạn, một tình
bạn cao cả chân thành, trong sáng cùng hướng tới một chân trời rộng mở, một tương
lai tốt đẹp không chỉ riêng cho hai người bạn mà cho cả tổ chức, cả cộng đồng, cả
đồng bào, quốc gia, dân tộc... từng là một người lính tham gia chiến trận trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ ác liệt của dân tộc nên Nguyễn Trọng Tạo thấu hiểu sâu sắc

65
điều đó. Mỗi kỉ niệm nho nhỏ gắn với cuộc đời người lính đều được ông trân trọng
và ghi nhớ.
Trong chiến tranh tôi có người đồng đội
Vượt đạn bom đi hái lá tàu bay
Máu anh thấm lá rau này
Tôi chan bát canh: gặp muối
(Những gì tôi có thật)
Những vần thơ viết về tình bạn và sự tri âm trong thơ Nguyễn Trọng Tạo
hôm qua, hôm nay và cho đến tận mai sau sẽ còn vang vọng mãi bởi thơ ông chứa
đựng trong đó cả một sự chân thành mà sâu lắng làm xúc động bao tâm hồn người
đọc.
Bạn bè ơi hãy thương nhiều thương mãi
Thương niềm vui thương niềm đau
Thêm lần nâng chén, nào các bạn
Mai rồi bạc tóc đi tìm nhau
(Cõi nhớ)
Hai chữ tình bạn, trong cuộc sống, nó không chỉ là mối quan hệ giữa những
người học chung một lớp, cùng lớn lên từ một thế hệ. Mà rộng hơn nữa nó còn là
tình đồng nghiệp, đồng chí, đôi khi còn là tình làng nghĩa xóm được khái quát trong
hai chữ tình bạn giữa những người cùng nhau chia sẻ những hương vị đặc biệt của
cuộc sống. Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo, người đọc càng thấm thía hơn ý nghĩa của
tình bạn và quan trọng hơn đó còn là thái độ sống và sự trân trọng giữa những con
người với nhau. Sẽ thật là buồn nếu như không có một tình bạn trong cuộc sống
“không đời để Nhớ - nghèo biết mấy”. Thơ thế sự Nguyễn Trọng Tạo luôn mang
đậm giá trị nhân văn sâu sắc là thế, ai chưa có tình bạn thì hãy cố gắng tìm cho
mình một tình bạn đẹp, nhưng để có được tình bạn đẹp trước hết ta hãy cho đi thật
nhiều, cho đi rồi sẽ được nhận lại đó giống như một triết lí sống: muốn có những
thứ chưa từng có thì phải làm những việc chưa từng làm. Và những ai đang có tình

66
bạn đẹp thì hãy cố gắng vun đắp và duy trì cho tình cảm ấy ngày càng thắm tươi,
bền chặt.
2.3.3. Triết lí về thời gian và phận người.
Thơ cũng như nhạc đều do cảm hứng của tâm sự trước sự vật, trời, đất mà
phát ra thành thanh, thành lời. Trong bài tựa "kinh thi" viết: "ở lòng thì gọi là chí,
nói ra thành lời thì gọi là thơ". Thời gian trong nghệ thuật là phạm trù của hình
thức nghệ thuật thể hiện sự tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Nếu như thế
giới thực tồn tại trong thời gian thực thì thế giới nghệ thuật cũng tồn tại trong thời
gian nghệ thuật. Theo từ điển thuật ngữ văn học thì thời gian nghệ thuật “là hình
thức nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó” [23]. Thời
gian trong thơ Nguyễn Trọng Tạo luôn có sự vận động và biến đổi không ngừng,
cùng với sự vận động của quy luật ấy là sự chiêm nghiệm và ý thức về bản thân của
chủ thể con người trước sự trôi chảy không ngừng của thời gian.
Có những con đường chưa từng in dấu
Người đi không thấu người khác lại đi
Đi hết dòng sông mênh mông biển sóng
Đi hết đời người đầy vơi khát vọng
(Dấu vết thời gian)
Thời gian gắn với hình ảnh con đường, dòng sông cụ thể nhưng lại là biểu
tượng của những đoạn đường đời mà con người đã trải qua với bao khát vọng, hoài
bão về những điều đã làm được và chưa làm được trong cuộc đời hay đó cũng chính
là những điều trăn trở trong tâm hồn nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo.
Nỗi nhớ thời gian là cảm xúc chủ đạo chi phối thơ Nguyễn Trọng Tạo. Đó là
“cõi nhớ của một kẻ nhà quê lưu lạc. Lưu lạc mà vẫn nhớ mình là nhà quê, là Đông
phương chính hiệu” [16]. Hai câu thơ đã gói gọn tâm tình của một con người sống
xa quê hương nhưng lúc nào cũng đau đáu một nỗi niềm “Găm vào ta nỗi xót xa tận
lòng” và rồi những lúc ấy nhà thơ không thể thoát ra khỏi những vướng bận đời
thường của mình được. Ấy là tấm chân dung chân thực của một phận người mang

67
ký ức tình yêu với chốn làng quê như định mệnh và như một thực tại sống vậy, một
hồn thơ hồn hậu với chất quê mặn mà sâu lắng.
Chiến tranh xóa đi nhiều lắm
Những miền phẳng lặng trong ta
Tôi đi trên đường kháng chiến
Con đò neo khúc dân ca
(Người chèo dò thời chiến)
Thời gian trôi đi, cuộc chiến tranh nào rồi cũng phải đến ngày kết thúc nhưng
cái mà nó để lại trong tâm hồn con người thời chiến đó là sự qua đi của tuổi trẻ với
bao khát vọng và hoài bão lớn lao. Thân phận con người cũng vì thế mà phải chấp
nhận với số phận của mình. Tâm sự của người lính trở về từ trong chiến tranh đã
được Nguyễn Trọng Tạo tái hiện một cách cụ thể.
Bây giờ cao bổng vòm mây
Dòng sông trôi đã vơi đầy tháng năm
Áo tôi đạn xé bao lần
Tóc người hao mấy mùa xuân đợi chờ
(Thơ tình người đứng tuổi)
Sau chiến tranh con người phải đối diện với cuộc sống muôn vàn những khó
khăn, sự thay đổi của khung giá trị xã hội, sự mất mát về tinh thần và vật chất trong
đó sự mất mát trong tình yêu là điều đáng tiếc nhất bởi tình yêu chỉ có ý nghĩa khi
con người đang ở tuổi son trẻ. Thời gian dù có khả năng chữa lành vết thương thì
cũng không thể nào một sớm một chiều mà có thể làm thay đổi được số phận của
con người. Đó là những vấn đề thời sự mà nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo muốn nói
đến cùng với sự trôi chảy không ngừng nghỉ của thời gian.
Mùa hạ trôi qua tơi bời phượng đỏ
Mùa thu trôi qua cúc tàn ngõ nhỏ
(Tìm hoa)
Trong cái nhìn của thi nhân, sự trôi đi của thời gian dù là ở mùa nào trong
năm cũng để lại những chua xót ngậm ngùi đối với cuộc đời. Thời gian của nghệ

68
thuật trong thơ Nguyễn Trọng Tạo không chỉ là là thời gian trần thế với những buồn
vui chân thực của con người.
Đóa cúc vàng mùa thu em cho ta đã chết
Thời gian bay từng cánh mỏng vàng rơi
Đã bảy tám năm nay ta gom nhặt nắng trời
Mong góp nắng thành hoa mà dã tràng se cát
(Biến khúc giao thừa)
Đứng trước quy luật vận động của thời gian con người như trở nên nhỏ bé vô
hạn. “Thời gian bay” là cách diễn đạt miêu tả sự trôi chảy không ngừng của tạo
hóa. Nhà thơ như cảm nhận thấy từng bước đi của thời gian và phảng phất một nỗi
buồn, sự nuối tiếc thời gian đã mất. Dưới lăng kính chủ quan của thi nhân, thời gian
nghệ thuật còn có thể là thời gian vĩnh hằng biến đổi mọi thứ trong cuộc sống
nhưng phần lớn lại nói về nỗi cô đơn trong sâu thẳm tâm hồn con người. Trái tim
nhà thơ luôn thổn thức, lo lắng không yên, mong muốn hiến dâng với những khát
vọng lớn mà cuộc sống đời thường lại hạn hữu, con người không thể chống lại quy
luật bất biến của tạo hóa.
Nay còn trẻ trung mai đà tóc bạc
Từng giọt thời gian ứa tràn khóe mắt
(Thời gian 2)
Trước đây, Xuân Diệu cũng từng bộc bạch quan niệm của mình về thời gian
bằng một cảm xúc sôi nổi cuồng nhiệt, nghĩa là một dạng ý thức triết học đã thấm
nhuần cảm xúc: “Còn đất trời nhưng chẳng còn tôi mãi”. Phải chăng, ở đây như có
sự đồng cảm giữa các thi nhân trước quy luật vận động của thời gian và sự trớ trêu
của phận người.
Bán buồn mua vui họp chợ đời người
Thời gian thắm lại một mùa hoa tươi
(Dấu vết thời gian)
Những neo đậu tạm bợ trong hành trình trôi dạt của Nguyễn Trọng Tạo càng
khiến nỗi cô đơn trong thơ ông trở nên đậm đặc, sống động và mê đắm. Ở đó, nhà

69
thơ trải dài trong những trôi dạt của bản thân và những va chạm thực tế khiến ông
có cái nhìn về mối quan hệ giữa người với người trở nên bớt hoang vắng hơn.
Nếu như thời gian trần thế trong thơ Nguyễn Trọng Tạo luôn vận động liên
hồi, phức tạp diễn giải những mối quan hệ qua lại giữa con người với con người,
giữa con người với cuộc sống chung quanh. Thì thời gian vĩnh hằng lại là thời gian
có thể vận hành đảo ngược mọi thừ từ hiện tại đến tương lai và ngược lại.
Tháng năm là tháng năm nào
Thời gian vai áo phai màu bâng khuâng
(Trở về)
Có lẽ tuổi trẻ là tài sản duy nhất của những kẻ trôi dạt, những kẻ không biết
mình sẽ lưu lại nơi này bao lâu. Phải là người yêu đời, yêu cuộc sống và quý trọng
thời gian thì Nguyễn Trọng Tạo mới có những câu thơ bày tỏ sự tiếc nuối của mình
như vậy.
Ta làm khách trọ thời gian
Con đường hè phố quán hàng bóng cây
(Không đề cho Đỗ Toàn)
Căn phòng thời gian làm chỗ cho khách dừng chân, vô hình mà lại gợi lên
một nỗi buồn cô lẻ, man mác ngậm ngùi. Thi sĩ thấy mình như chới với không còn
điểm tựa nữa. Mang trong mình nỗi cô đơn hoài niệm, Nguyễn Trọng Tạo tìm đến
thời gian vĩnh hằng như một sự giải thoát cho bản thân, nó giúp ông có thể đi lại
giữa quá khứ - hiện tại - tương lại để tìm một chút hi vọng, ấm áp của cuộc sống.
Rồi thời gian qua đi rồi tuổi trẻ qua đi
Ai sau tôi ở vào thời sắp đến
Thời không còn khổ đau thời không còn nghèo túng
Đọc thơ tôi xin bạn chớ chau mày
(Tản mạn thời tôi sống)
Có một điều đặc biệt trong thơ Nguyễn Trọng Tạo viết về thời gian chúng ta
bắt gặp đó là sự tinh tế, sắc sảo khi ông sử dụng những từ ngữ chỉ tín hiệu của thời
gian theo nhiều cách như giọt thời gian, hạt thời gian, có khi là mái thời gian. Đó là

70
những khám phá nghệ thuật độc đáo của nhà thơ với thời gian nghệ thuật trong thơ
ông. Có lẽ thời gian vĩnh hằng chính là sự hoài niệm về một thời đã xa, bốn mùa
xuân, hạ, thu, đông cứ nối tiếp nhau vô tình đi qua để lại trong kí ức con người sự
tiếc nuối, mất mát, sự vơi cạn của cuộc đời mà không có cách nào dừng lại được.
Cho nên Nguyễn Trọng Tạo tìm đến thời gian vĩnh hằng như là cách tìm về với
những kỉ niệm bởi chỉ có những gì thuộc về tâm tưởng con người là còn lại mãi mãi
mà thôi: Nhìn mặt trời trưa chợt nhớ: tuổi ba mươi / Bóng đổ xuống chân mình –
cái bóng thời tuổi trẻ (Tuổi ba mươi).
Vốn là một thi sĩ luôn nhạy cảm với đời nên Nguyễn Trọng Tạo không thoát
nổi sự bao bọc vô tình của bức mành thời gian. Giờ đây, có lẽ đã đi được chặng
đường hai phần ba cuộc đời mình, nhà thơ ngẫm ra được nhiều điều trong cuộc sống
không phải bất cứ thứ gì ta muốn là đều có được. Thời gian và phận người là hai
phạm trù luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Qua thời gian mà có thể khái quát lên được
thân phận của con người. Con người sống ở trên đời không thể tránh khỏi quy luật
vận động của thời gian. Trong hành trình thơ mình Nguyễn Trọng Tạo luôn day dứt
trăn trở với những điều đã qua, những điều đang tới và sắp tới. Thời gian vĩnh hằng
trong thơ ông vì thế mà như đi mãi về cõi mênh mông sâu thẳm…
Thời gian tiếng nhạc không lời
Đầu năm là sóng cuối đời là mưa
(Không đề năm mới)
Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo, Hoàng Cầm đã cho rằng: “những cảm xúc tinh
vi tế nhị đến thế chỉ những thi sĩ biết nắm giữ được từng phút giây sâu thẳm nhất
trong tâm tư mới diễn tả được trọn vẹn những điều mong manh khó biểu hiện nhất”
[6]. Nguyễn Trọng Tạo là một trong số ít các thi sĩ làm được điều đó, ông đã nắm
giữ được những phút giây thăng hoa tinh vi nhất của cảm xúc để đưa vào trong thơ
ca. Thời gian vẫn sẽ trôi chảy không ngừng, cái cũ sẽ được thay bằng cái mới, như
“Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa” (Đồng dao cho người lớn). Đó như là một
triết lý sống trước thời gian mà từ hơn ba mươi năm trước, Nguyễn Trọng Tạo đã
đúc kết được.

71
Tiểu kết chương hai
Đứng giữa sự đa dạng muôn màu của cuộc sống Nguyễn Trọng Tạo đã tinh tế
lựa chọn và phản ánh những mảnh ghép hiện thực từ mọi góc nhìn làm cho nội
dung phản ánh trong thơ trở nên phong phú và rộng mở, đón chờ người đọc tìm hiểu
và khai thác. Với một khối lượng lớn các tác phẩm thơ và trường ca của Nguyễn
Trọng Tạo cùng dung lượng phản ánh đa chiều thì chỉ một luận văn nghiên cứu
chưa thể làm sáng tỏ hết những điều mà tác giả muốn nói trong thơ. Vì thế ở
chương hai của luận văn chúng tôi đã chọn lọc và đưa ra những cảm hứng chủ đạo
đại diện cho tư tưởng của nhà thơ và giá trị văn chương của các tác phẩm. Từ hình
tượng, chân dung con người Việt Nam đến tình yêu, tình bạn, sự tri âm và những
nghịch lý nhân sinh đang hằng ngày hàng giờ tồn tại ngoài đời đã được Nguyễn
Trọng Tạo khéo léo đưa vào trong thơ, phản ánh một cách toàn diện và sâu sắc.
Ở chương này, chúng tôi tập trung làm nổi bật những cảm hứng lớn trong
sáng tác của Nguyễn Trọng Tạo. Hành trình sáng tạo nghệ thuật thơ của ông là cuộc
hành trình của những trang thơ song hành cùng thời đại. Những đề tài, cảm hứng
ông phản ánh trong thơ mình đều được thể hiện hết sức đặc sắc dưới ngòi bút điêu
luyện của nhà thơ – người lính tài hoa đã từng kinh qua nơi đạn bom ác liệt. Ở
Nguyễn Trọng Tạo có sự kết hợp hài hòa giữa thơ ca và cuộc sống. Hơn hai mươi
năm gần đây ông đã bền bỉ gieo mầm hàng ngày và cho ra đời những tác phẩm nghệ
thuật mang ý nghĩa lớn lao. Ở mỗi đề tài tác giả đều khai thác một cách nghiêm túc
nhằm truyền cảm hứng mạnh mẽ đến người đọc bằng giọng thơ mang đậm chất
nhạc tính đồng thời thể hiện một bút lực dồi dào khẳng định sự trưởng thành ngày
càng vững vàng của người nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn Trọng Tạo. Mỗi chủ đề ông lựa
chọn vào trong thơ mình đều là những vấn đề mang tính chất bức thiết của thời đại
thể hiện tầm nhìn và khả năng đón đợi của một hồn thơ vốn mắc nhiều ưu tư với
cuộc sống.

72
CHƯƠNG 3: NHỮNG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT TRONG THƠ VÀ
TRƯỜNG CA NGUYỄN TRỌNG TẠO
3.1. Đổi mới hình thức biểu hiện
Nguyễn Trọng Tạo đã dũng cảm làm mới mình không chỉ trong cách cảm
nhận, cắt nghĩa về hiện thực đời sống thời bấy giờ mà còn đặt ra vấn đề phải đổi
mới thơ ca để có thể theo kịp thời đại. Nói như Lưu Trọng Lư: “Hình thức thơ phải
mới, mới luôn, cho phù hợp với tâm hồn của ta, tâm hồn phiền phức của ta trong
khi tiếp xúc với hoàn cảnh mới, lại càng thêm phiền phức”.
3.1.1. Sự kết hợp hai yếu tố trữ tình và tự sự
Trong nghệ thuật, tự sự là phương thức tái hiện đời sống, nó gắn liền với các
yếu tố quan trọng là tính khách quan, cốt truyện, nhân vật, người kể chuyện…Còn
trữ tình lại là phương thức chiếm lĩnh hiện thực trong đó nguyên tắc chủ quan là yếu
tố cơ bản, là nhân tố quan trọng quy định những đặc điểm của tác phẩm. Do vậy,
việc kết hợp giữa hai yếu tố tự sự và trữ tình trong sáng tác thơ và trường ca của
Nguyễn Trọng Tạo là một việc làm thể hiện sự sáng tạo độc đáo, mới mẻ và một sự
vững vàng từng trải của nhà thơ.
Thơ ông xuất phát từ mạch nguồn trong trẻo của thơ ca dân gian, từ những
truyền thống đẹp của thơ cách mạng đã vươn thẳng vào hiện đại, tìm ra một lối đi
riêng sau rất nhiều tự vấn và trăn trở, sau rất nhiều khúc quanh của định mệnh. Việc
sử dụng hình thức đồng dao vào việc làm thơ chính là mượn hình thức hát vui trong
trò chơi con trẻ để diễn tả những suy nghĩ, hành động của người lớn. “Không ồn ào,
không giận dữ, anh lặng lẽ tìm về phía tình yêu, nhân ái nhất của tình đời tình người
mà phát hiện, giao cảm” [9]
Có nhớ có thương có khóc có cười
Có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi
(Đồng dao cho người lớn)
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp nhận xét đây là “những câu thơ đẫm
niềm riêng nhưng cũng là những trải nghiệm khóc cười nhân thế. Nó như bật ra từ
tuệ nhãn, vừa mới mẻ vừa mang theo cái uyên súc Đường thi” [16].

73
Thể hiện sâu đậm nhất sự kết hợp hai yếu tố tự sự và trữ tình trong thơ
Nguyễn Trọng Tạo chính là việc sử dụng hình thức trường ca để diễn tả những câu
chuyện mà nhà thơ cảm nhận được từ cuộc sống ngay bên cạnh mình. Trong sự
nghiệp cầm bút của bản thân, cho đến thời điểm này Nguyễn Trọng Tạo đã đóng
góp cho nền văn chương Việt Nam đương đại ba trường ca lớn là Tình ca người
lính, Con đường của những vì sao và Biển mặn khẳng định tài năng và tâm huyết
của ông. Đặc biệt, trong trường ca Con đường của những vì sao, Nguyễn Trọng Tạo
đã miệt mài, tỉ mỉ công phu dàn dựng lên những câu chuyện cảm động đan xen tự
sự và trữ tình với những cô gái trong trường ca này là thanh niên xung phong tham
gia chiến đấu ngay dưới mưa bom bão đạn quân thù, và chàng trai là người lính lái
xe chở đạn vào chiến trường. Qua hai nhân vật này tác giả muốn làm hiện lên thân
phận và tâm trạng của người công dân trong cuộc chiến tranh vệ quốc.
Cái thời tuổi trẻ đạn bom
Ta đi cứu nước
Sống xứng đáng với người sau, người trước
Câu hát chẳng ngượng ngùng, câu hát chẳng vu vơ
(Con đường của những vì sao)
Trường ca hiện đại Việt Nam đã đi từ cấu trúc tự sự đến trữ tình, diễn biến
thể loại khá phức tạp, cũng như trường ca một số nước khác (như Nga, Pháp,
Chile...) khởi đầu thường là tự sự nhưng khi đạt đến độ chín muồi hoàn chỉnh nó lại
mang dáng dấp trữ tình. Vấn đề là nó vẫn giữ được cái cốt lõi nhất, có lẽ đó là
những chiêm nghiệm gắn với các sự kiện thuộc về cái chung, của quê hương, đất
nước, dân tộc. Và trong trường ca của mình, Nguyễn Trọng Tạo đã làm được điều
ấy. Mở đầu trường ca Biển mặn, tác giả viết:
Nhặt lên hạt muối, thưa rằng:
Một phần biển mặn. Mấy phần máu xương…
(Biển mặn)
Hai câu thơ đã gợi cho người đọc cảm nhận được cái mặn mòi của biển và
cái đắng chát của những hy sinh gian khổ mà cha ông ta đã phải trải qua để giữ

74
biển, giữ lấy cái không gian sinh tồn của nước Việt. Biển mặn là trường ca thứ ba,
sau "Con đường của những vì sao" viết về 10 cô gái thanh niên xung phong ở ngã
ba Đồng Lộc trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ và "Tình ca người lính" viết về
thời kỳ chiến tranh biên giới phía Bắc. Tác phẩm gồm 6 chương, hơn 1000 câu thơ
với khoảng 5500 chữ. Với mạch cảm xúc tự sự đan xen trữ tình, Biển mặn dẫn dắt
người đọc đi sâu vào lòng biển cả, với những câu chuyện của tiền nhân đã đặt mốc
chủ quyền, những mưu sinh nhọc nhằn của ngư dân nơi đầu sóng ngọn gió, cuộc hải
chiến chống lại lũ giặc xâm lăng. Để rồi khúc Vĩ thanh của tác phẩm là những hình
ảnh thanh bình nơi đảo xa, là tiếng đồng dao của bầy trẻ đến trường:
Và em biết biển nơi này mặn lắm
Những cuộc đời máu thắm nở thành hoa
(Biển mặn)
Có thể nói kết cấu đa chiều kích được thể hiện trên mọi phương diện của
trường ca trữ tình. Nó thể hiện đậm đặc trong sự đan xen giữa trữ tình và tự sự, chủ
quan và khách quan, sự kiện và cảm xúc, hệ thống và ngẫu hứng, trần thuật và
chiêm nghiệm. Trường ca "Con đường của những vì sao" của Nguyễn Trọng Tạo
tồn tại song song hai loại nhân vật: trữ tình và trần thuật, gần như độc lập. Nhân vật
trần thuật ngôi thứ ba dấu mặt xuất hiện để kể lại mối tình của hai nhân vật Mùa và
La, còn nhân vật trữ tình thường xuất hiện ở dạng nhập vai vào Nắng, Gió, Máu, và
Cây ... để ca ngợi tình yêu và sự hi sinh bất khuất của họ.
Em về Đồng Lộc cùng ai
Vẫn con đường ấy chưa phai máu này
Là em, em của anh đây
Em yêu: người biết quý ngày máu rơi
Em yêu: người biết yêu người
Biết yêu anh, hiến cho đời và em
(Con đường của những vì sao)
Có lẽ ở trường ca này tác giả muốn bày tỏ tình cảm một cách khách quan,
hướng đến tinh thần chung mà không muốn bày tỏ cái Tôi của mình. Mặt khác, đây

75
là trường ca viết chủ yếu để ca ngợi các cô gái ngã ba Đồng Lộc là đối tượng cụ thể
vì thế tác giả là người đứng ngoài, không tham gia vào các sự kiện.
Một trong những yếu tố tự sự luôn hiện diện trong trường ca trữ tình đó là
kết cấu theo kiểu chương đoạn. Kết cấu chương đoạn một phần tạo ra tính hệ thống,
đảm bảo được mối liên hệ chặt chẽ về mặt hình thức cho cấu trúc, một mặt tạo ra
được sự linh động cho tác phẩm trong việc tổ chức hình thức thể thơ cho từng
chương đoạn. Thể thơ của trường ca là tự do nhưng có những chương đoạn tác giả
viết theo thể lục bát hoặc thể thơ văn xuôi, thơ 7 chữ…
Một ngày bom đạn ê chề
Vắng mười cô gái không về cùng tôi
Bạch đàn cháy rụi lưng đồi
Tình cờ, mười chị em tôi vẫn còn?
(Con đường của những vì sao)
Trường ca Con đường của những vì sao có tất cả 10 chương. Trong các
chương khúc rất nhiều mảng tự sự diễn tả bối cảnh cách mạng và chiến đấu của
cuộc kháng chiến chống Mĩ làm nền cho hành trạng các nhân vật, đan xen bên cạnh
những suy cảm trữ tình của tác giả.
Biển mặn mồ hôi
Đất trộn máu người
Ôi Tổ quốc! Ta muốn cười muốn khóc
Sau cơn bão chiến tranh hủy diệt
Tóc biển xanh ôm vai đất mỡ màu…
(Con đường của những vì sao)
Sự gia tăng chất trữ tình đã làm tăng thêm chất suy tưởng, đồng thời phá vỡ
cấu trúc tự sự vốn có của tác phẩm. Do đó, bàn về sự kết hợp giữa hai yếu tố tự sự
và trữ tình trong thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo còn có nhiều khía cạnh như
nhân vật, giọng điệu, cú pháp, thời gian nghệ thuật... trong đó cấu trúc mới lạ về
giọng điệu, nhịp điệu cũng là một nội dung quan trọng cần được bàn tới nhiều hơn
nữa và sẽ được chúng tôi đề cập đến ở phần sau.

76
Nét đặc sắc trong việc kết hợp hai yếu tố tự sự và trữ tình trong thơ và trường
ca Nguyễn Trọng Tạo đã để lại những ấn tượng cảm xúc sâu sắc trong tâm hồn
người đọc. Sáng tạo nghệ thuật với ông là niềm say mê cháy bỏng, nhà thơ luôn có
những tìm tòi, phát hiện trong cách tân nghệ thuật chọn lọc được những phương
thức biểu hiện thích hợp và có sự vận dụng thích hợp giữa nội dung và hình thức
biểu hiện. Hòa vào dòng chảy của thơ ca đương đại Việt Nam, Nguyễn Trọng Tạo
đã đem đến cho chúng ta một hồn thơ mang phong cách riêng. Từ những ngày đầu
mới chập chững bước chân vào nghiệp văn chương cho đến hôm nay ông vẫn luôn
tỏa sáng trên con đường lao động nghệ thuật, khẳng định một giọng thơ mang tính
nhân văn và triết lí sâu sắc.
3.1.2. Sự kết hợp giữa hình thức cổ điển với nội dung đương đại.
Nguyễn Trọng Tạo là một nhà thơ hiện đại trong truyền thống, ông luôn
quan niệm cần phải đổi mới thi ca nhưng đổi mới mà vẫn giữ được nét truyền thống
mới là thậm khó. Sự nghiệp cầm bút của mình ông đã để lại một số lượng lớn tác
phẩm có giá trị.
“Đồng dao cho người lớn” là tập thơ có những biến đổi rõ rệt từ giọng điệu
đến hình thức thể hiện. Cái chất ca dao, lục bát từ tiền nhân đã được Nguyễn Trọng
Tạo nhân lên, và làm mới đi rất nhiều, nhưng sự mượt mà, gần gũi của trời đất, con
người, đồng quê vẫn còn đó.
Mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ
Mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió
Có thương có nhớ có khóc có cười
Có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi
(Đồng dao cho người lớn)
Nguyễn Trọng tạo đã chọn lối đồng dao và hiện đại hóa nó tạo ra những bài
thơ mới trên nền tảng truyền thống của đồng dao, lục bát – thơ nhịp chẵn. Ở đó nhà
thơ kế thừa cách sử dụng nhịp chẵn, ý thơ và nhạc thơ linh hoạt. Đồng dao là những
bài hát của con trẻ. Bản thân nó có tính nhạc rất mạnh, dễ đi vào lòng người và nội
dung đồng dao cũng rất phong phú với những trường liên tưởng liên tục được mở

77
rộng. Trên cái nền đó là nội dung cấu trúc mới giàu tính suy tưởng và ấn tượng, đổi
mới cách sử dụng từ ngữ, tạo ra độ nhòe mờ của ngôn ngữ thơ hiện đại – thứ ngôn
ngữ giàu ẩn dụ và cảm giác.
Người về Hà Tĩnh xa Vinh
Nửa thân ngoài nớ nửa mình trong ni
Cầm lòng sao cứ vân vi
Mây thì nặng trĩu núi thì nhẹ tênh…
(Cầm lòng)
Phối hợp giữa nhịp đồng dao và chất suy tư, câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo
được cất lên như chứa đầy tâm trạng của con người trong cuộc sống hiện đại hối hả,
tất bật. Đến với hiện đại từ truyền thống Nguyễn Trọng Tạo không quên làm mới
thơ bằng tư duy phương Đông và ngôn ngữ của chính dân tộc mình để làm nên sự
kết hợp giữa hình thức cổ điển với nội dung đương đại trong thơ. Theo đó, các bài
thơ theo nhịp đồng dao trong thơ Nguyễn Trọng Tạo không còn là sáng tác dân gian
dành cho con trẻ mà trở thành khoảnh khắc đốn ngộ của con người đã kinh qua
thăng trầm của cuộc sống.
Nói đến hình thức cổ điển trong thơ hiện đại, trước hết hình thức được sử
dụng có thể là sự vận dụng một thể thơ, đề tài, nghệ thuật hoặc hình ảnh thơ cổ
điển. Ở bài thơ Thiên Thần, thoáng đọc lên ta thấy rất vô lý, nhưng cái vẻ đẹp thiên
thần của em đã hút hồn người thi sĩ được toát ra từ nghìn năm trước và đến nghìn
năm sau ấy, đã thấy cả bài thơ đều những điều có thể.
Em mười chín tuổi, nghìn năm trước
Sao đến bây giờ mới hai mươi
Môi mềm ngực nõn vòng tay xiết
Anh là tượng đá cũng tan thôi.
(Thiên thần)
Từ ngữ mộc mạc, nhưng rất mới trong lối miêu tả ẩn dụ, Nguyễn Trọng Tạo
lấy thời gian để miêu tả vẻ đẹp vĩnh cửu của người con gái "Nghìn năm gặp lại…

78
Em hăm mốt / Môi ngực vòng tay vẫn thiên thần". Đọc xong, ta thấy thoang thoảng
hương của những bài vịnh, hay trào phúng trong thơ xưa trở về:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
(Bánh trôi nước - Hồ Xuân Hương)
Trên nền cổ điển, Nguyễn Trọng Tạo lại đem vào thơ nét riêng của giai điệu
ví dặm và “cái chất nhà quê” thực thà, chân tình, ấm áp.
Cơm vừng, thưa chị thưa anh
Bữa cơm công chức ăn nhanh vỉa hè
Người thành phố, kẻ nhà quê
Mời nhau cơm nắm thơm về xa xưa
(Món quê)
Những điệu ví, câu hò, lời ru chân quê như dòng sữa mẹ, đã nuôi lớn tâm
hồn thi ca tác giả. Nếu như Nguyễn Trọng Tạo không được sinh ra và lớn lên trên
mảnh đất miền Trung sắt se đầy nắng gió có những lời ru câu hát làm mát rượi trưa
hè, thì có lẽ tài năng của nhà thơ sẽ đi theo con đường khác. Thơ Nguyễn Trọng Tạo
vì thế mà luôn mang một dáng dấp quen thuộc của quê hương. Do vậy, sau tài năng
của nhà thơ hương đồng gió nội Nguyễn Bính, người mà chúng ta liên tưởng đến có
lẽ không ai khác là Nguyễn Trọng Tạo.
Ở thể đồng dao, Nguyễn Trọng Tạo đã biến đồng dao bốn chữ, nhịp hai
thành tám chữ nhịp hai:
Từng giọt / thời gian / ngưng thành / mai vàng
Tích tắc / nhịp tim / sao ta / bàng hoàng
Ôi xuân / đã sang / mà người / chẳng tới
Từng hạt / thời gian / gieo vàng / mong đợi
(Thời gian 2)

79
Sự biến đổi đó làm nhạc điệu thơ biết biến hoá. Từ đây, ông được người đọc
biết đến bởi cái “nhịp chẵn trì trục” [16] chảy ra từ nét sâu bền của truyền thống thơ
ca dân tộc đúng như Nguyễn Đăng Điệp nhận định “Anh đã đi những bước chân
vững chắc và đĩnh đạc của số mệnh lúc chậm lúc nhanh, lúc nhẹ nhàng, lúc nặng
trĩu lướt trên số phận cuộc sống mỗi con người, tựu trung là những bước đi định sẵn
rất ráo riết và quyết liệt” [16].
cỏ may// không hẹn// mà xanh
tim ta// khâu vá// cho lành nhớ thương
ngang trời// hoa cỏ// đẫm sương
loanh quanh sân thượng// mà thương cánh đồng
(Cỏ may trên sân thượng )
Nguyễn Trọng Tạo đã đến với thơ đương đại bằng những thể thơ lục bát
truyền thống mang hơi thở của đương đại, nội dung của đương đại. Những nhịp
chẵn, nhịp lẻ thổn thức trong thơ ông như chính trái tim ông vậy: trăn trở và suy
nghĩ về cuộc đời. Và nhà thơ đem cái trăn trở ấy gieo vào lòng người đọc, lúc nhẹ
nhàng an nhiên, lúc lại trúc trắc gập ghềnh, khiến độc giả không khỏi cuốn theo
những suy nghĩ của nhà thơ.
Hình thức cổ điển trong thơ hiện đại còn là tính tượng trưng siêu thực, là một
trào lưu để lại những ảnh hưởng sâu sắc và quan trọng bậc nhất đối với thi ca hiện
đại. Nguyễn Trọng Tạo đã đi sâu vào những vùng mờ tâm linh để khơi sâu và mở
rộng cõi thơ của mình.
Con sông đám cưới Huyền Trân
Bỏ quên giải lụa phù vân trên nguồn
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
(Huyền thoại sông)
Bài thơ Con sông huyền thoại của Nguyễn Trọng Tạo là một "siêu văn bản"
của tư duy huyền thoại - hiện đại. Tác giả đã tích hợp các hình ảnh, động thái liên
tưởng theo kiểu đồng nhất hoá thần thoại tạo thành hình tượng thơ mới lạ ngỡ như

80
siêu thực nhưng lại tiềm ẩn những giá trị thẩm mỹ hiện thực, nghĩa là người đọc có
thể hình dung về một con sông có thật nào đó, và cũng có thể nó chỉ là một con
sông mơ hồ tuyệt đẹp như cổ tích trong tâm tưởng của riêng mình.
So với thơ Đường luật của Trung Quốc và thơ xon-nê ở châu Âu, Nguyễn
Trọng Tạo khẳng định: “Thơ lục bát Việt Nam chính là một hình thức đặc sắc độc
đáo, không thua kém bất cứ một hình thức thơ đặc sắc nào của các dân tộc khác trên
thế giới”. Lựa chọn sự trở về với “ngôn ngữ thơ ca nhịp chẵn của dân tộc” [59],
Nguyễn Trọng Tạo đã đến với thể lục bát bằng tinh thần tích cực hết sức tiến bộ .
Đã từng có nhiều cách làm mới thể thơ này nhưng không phải nhà thơ nào cũng
thành công như Nguyễn Trọng Tạo. Ông không chỉ làm lạ hoá khuôn hình sáu tám
bằng hình thức xuống thang, chấm câu giữa dòng, mà quan trọng hơn, theo ông
“việc làm mới lục bát bằng nội dung mới là điều quan trọng”. Và quả thực, Nguyễn
Trọng Tạo đã thổi một luồng gió mới cho thơ lục bát Việt Nam.
Chia cho em một đời say
Một cây si
với
một cây bồ đề
Tôi còn đâu nữa đam mê
Trời chang chang nắng tôi về héo khô
(Chia)
Bài thơ Chia nằm ở cuối tập Đồng dao cho người lớn của nhà thơ Nguyễn
Trọng Tạo đã khép lại những âm hưởng đồng dao, đồng vọng làm cho người đọc
không khỏi bất ngờ về cách kết thúc với thể lục bát truyền thống đầy sáng tạo của
tác giả. Cách sắp đặt ngôn từ trong câu không coi trọng những quy định ngữ pháp
mà theo nhịp tư duy và ngôn ngữ thơ, cách ngắt nhịp tách dòng tạo nên nhịp điệu
của lối thơ hiện đại tuôn chảy theo mạch cảm xúc tư duy của nhà thơ mà vẫn trọn
vẹn chất lục bát. Nhìn vào câu thơ với tên hai loài cây mà tác giả đưa ra ta nhận
thấy đó là một sự chơi chữ đầy tinh tế. Cây si hay là tình si. Cây Bồ Đề hay chính là

81
tâm Phật. Si mê và tu hành đã tạo nên hai về đối thật hoàn chỉnh. Và anh đã trao cho
em cả niềm si mê lẫn tâm Phật từ bi.
Với lối tư duy thơ hiện đại kết hợp cùng những hình thức biểu hiện mang
tính chất truyền thống lời thơ Nguyễn Trọng Tạo như gõ vào kí ức và tâm hồn, lột
tả những gì đang diễn ra trong cuộc sống thường nhật của con người hiện đại. Ông
là một trong số rất ít các nhà thơ đã làm được điều này. Vì thế, Nguyễn Trọng Tạo
được ví von như hình ảnh của “con chim vừa bay vừa hát, hát cả quan họ đò đưa
pôp rock bằng cái giọng ngũ âm của xứ Nghệ quê nhà” [6]. Nhận định đó một phần
nói lên được sự tích hợp giữa yếu tố truyền thống và hiện đại trong những nỗ lực
đổi mới thi ca. Nhà thơ đã tìm cho mình một hướng sáng tạo mới để làm phong phú,
đa dạng hơn thơ ca truyền thống.
3.1.3. Sự vận dụng hình thức vắt dòng.
Khi nói đến hình thức biểu hiện trong thơ Nguyễn Trọng Tạo, một trong
những sáng tạo độc đáo, mới mẻ góp phần quan trọng trong việc định hình phong
cách nhà thơ chính là sự vận dụng hình thức nghệ thuật vắt dòng, tác giả đã biến đổi
cấu trúc dòng thơ, xây dựng những hình thức nhịp điệu mới. Bài thơ Thư gửi người
không quen, tác giả viết:
Như là // tôi đã một lần
nói yêu em
dọc mùa xuân
hai người
(Thư tình gửi người không quen )
Hình thức xuống thang của câu tám chữ không chỉ là cách làm lạ hóa mang
tính hình thức mà là hình thức mang tính nội dung, tạo nên hiệu ứng từ cách ngắt
nhịp đến sự thay đổi giọng đọc. Từ chỗ câu chữ tác động đến giọng điệu, giọng điệu
lại khơi bật những cung đường cảm xúc. Do đó, cảm xúc được truyền trực tiếp từ ý
thơ đến người đọc. Người đọc không chỉ cảm nhận được tình yêu có chút dè dặt
nhưng sâu lắng của nhân vật trữ tình qua ý nghĩa của ngôn từ mà còn qua ấn tượng

82
thị giác. Đây chính là một cách làm độc đáo và sáng tạo trong sáng tác thơ của
Nguyễn Trọng Tạo.
Trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, đã có không ít nhà thơ sử dụng hình
thức điệp cú pháp và vắt dòng khi sáng tác nhằm làm lạ hóa sự biểu hiện của hình
thức biểu đạt trong thơ nhưng không phải tác giả nào cũng đạt đến sự thành công.
Nguyễn Trọng Tạo là một trong số ít người làm được điều đó. Khi dùng cách vắt
dòng, nhà thơ phá đi cách đọc dừng lại ở cuối dòng, người đọc bị thúc đẩy đi tìm lại
phần đã mất của câu thơ với tốc độ đọc nhanh hơn, và phải đọc bằng mắt. Khoảng
trống được tạo ra bởi hai thành phần cấu trúc gắn liền nhau của dòng thơ. Thế
nhưng khoảng trống trong thơ lại không hề trống không vì những chuyển động
không ngừng của cái biết và chưa biết, đè lấp lên nhau. Lối viết vắt dòng vì thế tạo
nên sự đột biến trong cảm xúc thơ. Các khoảng lặng gây sự chú ý được kéo dài ra.
Những bông tường vi //nở lẫn cùng hoa giấy
những con đường
đi
không dấu chân
viên sỏi nhỏ //trong gót giày //đêm đêm
sẫm nâu// và mòn trơn.
(Thành phố không người quen )
Nguyễn Trọng tạo đã rất tài tình khi vắt dòng để tạo nhịp thơ cho câu:
"Những con đường / đi / không dấu chân". Nếu để chúng nằm trong một dòng thơ,
người đọc thường sẽ ngắt nhịp 4/3: “Những con đường đi// không dấu chân”. Như
vậy, câu thơ sẽ không diễn đạt được ý mà nhà thơ hướng đến: ở con đường nơi
thành phố không người quen ấy, người khách lữ hành đang độc bước, và dù anh có
đi qua, con đường ấy vẫn không dấu chân anh, bởi nó quá xa lạ, có đi qua thì cũng
như là người mới tới. Nhịp thơ gắn liền với ngữ nghĩa, mỗi cách ngắt nhịp lại cho ta
một cách cảm thơ khác nhau.
Em hãy khâu // áo lá // một vùng đồi
ta là gió

83
thổi đến ngày kiệt sức
tự trời cao tan vào giọt mưa. Rơi…
(Thiên an)
Trong trường hợp này nếu không vắt dòng, câu thơ sẽ trở thành: Ta là gió
thổi // đến ngày kiệt sức hoàn toàn khác với ý mà nhà thơ muốn gửi gắm Ta là gió//
thổi đến ngày kiệt sức: khi đã yêu một người thì yêu đến tan chảy cả con tim, đến
khi kiệt sức vẫn còn khát khao yêu đến cháy bỏng, câu thơ diễn tả một tình yêu thật
mãnh liệt và sâu đậm. Việc sử dụng câu thơ vắt dòng không chỉ giúp tác giả thể
hiện hết những cung bậc cảm xúc của mình mà ở đây, như một yếu tố của nghệ
thuật sắp đặt, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo nói riêng và các tác giả thơ đương đại nói
chung còn muốn trình bày với người đọc (người xem) một trò chơi câu chữ. Những
dòng thơ dài ngắn khác nhau với những câu thơ được tách ra thành nhiều dòng biến
người đọc trở thành khán giả trước sân khấu. Cho nên, nhiều tác phẩm thơ đương
đại không chỉ để ngâm, để nghe mà còn để đọc, để ngắm, để thấm thía từng câu chữ
và để tâm hồn mình lặng vào những cảm xúc của nhà thơ.
Yêu thơ, đọc thơ không phải chỉ ở nội dung, ý nghĩa mà còn đi sâu vào thế
giới nghệ thuật biểu hiện. Một bài thơ hay sẽ có sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố
cả nội dung và hình thức. Tìm hiểu thơ thực chất là chỉ ra tiếng lòng sâu thẳm của
chính nhà thơ. Dù là sử dụng bất cứ thủ pháp nghệ thuật nào trong việc biểu hiện ý
thơ thì thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng đều mang đến cho người đọc ấn tượng sâu sắc
nhất về một hồn thơ đa cảm.
3.2. Ngôn ngữ
Các Mác từng nói "Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng". Không có
ngôn ngữ, con người không thể tư duy. Nói một cách khác, mọi hoạt động tư duy
của con người đều thực hiện trên chất liệu của ngôn ngữ. Lênin ngoài việc đánh giá
"Ngôn ngữ là công cụ giao tế quan trọng nhất của con người" còn nhấn mạnh đến
chức năng quan trọng khác của ngôn ngữ là chức năng tư duy. Người nói: "không
có tư tưởng nào lại trống rỗng cả". Vấn đề ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Trọng Tạo
cũng là một vấn đề quan trọng cần được quan tâm và nghiên cứu.

84
3.2.1. Ngôn ngữ hàm súc
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, là một hệ thống tín hiệu tinh vi
và phức tạp, gắn chặt với tư duy. “bằng ngôn ngữ (… ), nhà văn có thể tác động trực
tiếp đến tri giác, thính giác, xúc giác của người đọc, làm cho họ cảm giác được nhân
vật một cách vật chất”– (Gorki), và “bằng ngôn ngữ, nhà văn với tác phẩm của
mình có thể làm cho con người thay đổi thế giới” [69]. Sự vận động, phát triển và
sáng tạo về mặt ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng nằm trong sự vận động
chung của ngôn ngữ thơ hiện đại sau năm 1975. Là một nhà thơ với nhiều suy tư
trăn trở về đổi mới thi ca, Nguyễn Trọng Tạo không ngừng làm mới thơ mình bằng
những tư duy cách tân cả về hình thức lẫn nội dung. Trong đó hình thức thể hiện
luôn được nhà thơ chú trọng chau chuốt một cách tỉ mỉ, toàn diện. Đề cập đến sức
mạnh, vẻ đẹp và tính hiện đại của ngôn ngữ Nguyễn Trọng Tạo đã viết:
Rồi bạn sẽ quen dần
Với thứ ánh sáng u huyền
Đang hắt lên từ vết nứt
Của bức tường ngôn ngữ
Nói đến tính hàm súc trong ngôn ngữ thơ Nguyễn Trọng Tạo là nói đến vẻ
đẹp trong sáng. Đây vốn là vẻ đẹp của ngôn ngữ ca dao, dân ca và thơ cổ điển
nhưng Nguyễn Trọng Tạo đã sáng tạo và vận dụng thành công vào trong thơ mình.
Con sông mình hạc xương mai
Vàng son in bóng đền đài hoa khôi
Đến đây tôi gửi bóng tôi
Vớt lên thì vỡ, tan rồi lại nguyên
(Con sông huyền thoại)
Bài thơ Con sông huyền thoại của Nguyễn Trọng Tạo là một "siêu văn bản"
của tư duy huyền thoại - hiện đại. Vẻ đẹp trong sáng, giản dị của ngôn ngữ thơ là
kết quả của lao động sáng tạo đầy nỗ lực của một tài năng thi ca. Nó đề cao tính
sáng tạo nhưng không sa vào hiểm quái, cầu kỳ, lạ lẫm mà mang vẻ đẹp trau chuốt,
dễ tiếp nhận tạo nên tính hàm súc cho câu thơ, bài thơ.

85
Để mang lại vẻ đẹp trong sáng cho ngôn ngữ thơ không phải là một việc dễ
dàng mà nó đòi hỏi ở người sáng tác một sự táo bạo và dám dấn thân bởi đây là một
việc làm mới cái cũ. Do đó thể hiện trình độ và năng lực của người viết, Nguyễn
Trọng Tạo đã thành công khi vừa vận dụng thể đồng dao vào việc làm thơ, vừa sử
dụng nhịp chẵn truyền thống trong ca dao, dân ca để làm mới thơ mình, tô đậm vẻ
đẹp trong sáng của ngôn ngữ thơ. Ông lúc nào cũng như “nâng trên tay những âm
thanh nhịp điệu kết thành những con chữ luôn luôn ngọ nguậy, chấp chới vỗ cánh
chỉ định bay lên, mà bay xa, khoan thai chững chạc, như chẳng có gì vội vã” [6].
Một điểm đặc biệt trong ngôn ngữ thơ Nguyễn Trọng Tạo là mang tính chất
kể hay chính là tính tự sự. Bản thân loại ngôn ngữ kể không mang chất thơ. Nhà thơ
không mấy quan tâm tới vẻ đẹp ngôn từ, không để lộ cảm xúc, thái độ chủ quan mà
thường ẩn mình đi. Chất thơ ở đây chính là trạng huống đời sống mà ngôn ngữ thơ
này đã dựng lên. Đó là khi Nguyễn Trọng Tạo viết hai bản trường ca Tình ca người
lính và Con đường của những vì sao.
Lại một vầng trăng đến
Vầng trăng hỏa tuyến
Gần, trên mũi súng, cuốc xẻng, gương mặt bạn bè
Xa, trên lá ngụy trang phủ bạt những đoàn xe
Gần, trong tiếng cười đùa chào hỏi
Xa, trong nỗi nhớ người yêu, mong đợi
(TC - Con đường của những vì sao)
Với đặc trưng của thể loại trường ca, đây chính là cách giúp nhà thơ có thể
truyền tải được những nội dung truyện và ý nghĩa nhân văn sâu sắc cho tác phẩm
khiến người đọc như sống lại thời chiến tranh mỗi khi đọc thơ ông. Việc đan xen
hai yếu tố tự sự và trữ tình trong trường ca của Nguyễn Trọng Tạo đã làm cho câu
chuyện ông kể thêm phần hấp dẫn và lôi cuốn vào cuộc sống và tình yêu của những
con người trẻ tuổi nhưng dũng cảm và giàu lòng yêu nước. Vì nền độc lập của dân
tộc, họ sẵn sàng hi sinh hạnh phúc cá nhân, đánh cược bằng cả mạng sống của
mình. Đó là tinh thần của tuổi trẻ Việt Nam xứng đáng được đề cao, trân trọng và tự

86
hào. Họ là những anh lính lái xe băng băng trên tuyến đường Trường Sơn, họ là
những cô gái thanh niên xung phong đi mở đường ra tiền tuyến.
Trên thảm cỏ xanh trăng trải lụa vàng
Họ ngồi xuống như không về nhà nữa
Họ ngồi xuống như quên sương gió
- ngày mai
Ngày mai mỗi người mỗi ngả
Đi vào cuộc chiến tranh
(TC - Con đường của những vì sao)
Với kết cấu câu chuyện cảm động và mang tính chất lịch sử như vậy Nguyễn
Trọng Tạo đã vận dụng linh hoạt và khéo léo ngôn ngữ kể chuyện vào trong thơ
mình làm cho người đọc hiểu rõ nhưng vẫn không làm mờ đi chất thơ của tác phẩm.
Tính hàm ngôn và giàu sức gợi là một nét nổi bật trong ngôn ngữ thơ
Nguyễn Trọng Tạo xuất phát từ cảm quan có tính chất phức hợp của nhà thơ hiện
đại đối với cuộc sống, là sự tương hợp giữa các giác quan và rộng ra là sự thống
nhất biện chứng của sự sống, của thế giới. Ở tính chất này của ngôn ngữ thơ, nhà
thơ đã kết hợp một cách sáng tạo các từ ở những trường ngữ nghĩa khác nhau làm
nên vẻ đẹp mới lạ bởi ngôn ngữ thơ là thứ ngôn ngữ biểu hiện tập trung nhất tính
hàm súc phong phú của ngôn ngữ, vừa giàu hình ảnh, sắc màu vừa giàu nhạc điệu.
Các đặc điểm trên hòa quyện với nhau trong thơ Nguyễn Trọng Tạo, tạo nên hình
tượng thơ lung linh, đa nghĩa. Ngôn ngữ thơ giàu tính nhạc. Nhạc tính trong thơ
được tạo nên từ nhiều yếu tố như nhịp điệu, cách gieo vần, phối thanh.
Cỏ may không hẹn mà xanh
Tìm ta khâu vá cho lành nhớ thương
Ngang trời hoa cỏ đẫm sương
Loanh quanh sân thượng mà thương cánh đồng
(Cỏ may trên sân thượng)
Điều quan trọng nhất đó là "nhạc thơ phải diễn tả được nhạc lòng" [16] thì
tính nhạc trong thơ mới thực sự thành công. "Âm nhạc chính là một thủ pháp khiến

87
người đọc dễ say với cái say thi sĩ vốn là một phần bản thể Nguyễn Trọng Tạo"
[16]. Cho nên, Cỏ may trên sân thượng tình buồn mà cảnh đẹp. Ý tứ thật nhẹ nhàng,
câu chữ cũng thật giản dị bài thơ đã dựng nên một cõi nhớ riêng không chỉ trong
lòng thi nhân mà ngay cả trong tâm thức mỗi người đọc đó là cõi quê nhà. “Nhạc
điệu trong thơ chính là cái ta thường gọi là hồn thơ, không có nó, bài thơ chỉ còn là
một đống xác chữ” [6]. Nguyễn Trọng Tạo là nhà thơ biết phát huy tình cảm, khả
năng bén nhạy và vốn hiểu biết vào trong thơ một cách toàn diện, sâu sắc làm cho
thơ ông luôn là tiếng nói ca ngợi và chứa đựng tình cảm lớn lao giữa người với
người. Điều này được Nguyễn Trọng Tạo đúc kết trong bài thơ Người phiên dịch
chính mình của ông.
Một khối đá câm
Tạc thành ngôn ngữ
Một đối thoại câm
Thốt ra con chữ
(Người phiên dịch chính mình)
Cách nói của Nguyễn Trọng Tạo bình thường giản dị như chính con người
của ông. Có lẽ, với nhà thơ, ngôn ngữ thơ hiện đại và hàm xúc phải là thứ ngôn ngữ
lời ít mà ý nhiều, có thể diễn tả được tiếng lòng của con người trong những hoàn
cảnh đặc biệt. Nguyễn Trọng Tạo đã biết khai thác và phát huy tiềm năng của ngôn
ngữ ở phương diện ngữ nghĩa và từ vựng tạo ra bước đột phá mới về cách sử dụng
ngôn ngữ trong thơ. Chính bởi thế nên nói đến ngôn ngữ của văn chương Nguyễn
Trọng Tạo rút ra một chân lí: sẽ không bao giờ trở thành một nhà văn chứ chưa nói
đến thành nhà văn lớn khi anh không chú ý đến ngôn ngữ. Nhưng sự chú ý đến
ngôn ngữ mà để người đọc luôn nhận ra sự “chú ý” ấy, thì đấy mới chỉ là một nhà
văn xoàng. Theo nhà thơ, việc sử dụng ngôn ngữ luôn đòi hỏi ở người cầm bút một
sự tinh tế và sáng tạo. “Tư cách nhà thơ chỉ có thể được đo ướm bằng sự tỏa sáng
của chữ nghĩa” [16].
Tính hàm súc trong ngôn ngữ thơ Nguyễn Trọng Tạo còn thể hiện ở việc phá
vỡ quy tắc thông thường trong giới hạn của tư duy và chiều sâu ngôn ngữ . Đó là

88
việc tác giả tạo ra cách đảo trật tự từ trong cấu trúc thông thường bởi ngôn ngữ nghệ
thuật có cấu trúc khác với ngôn ngữ thông thường. Đôi khi đảo trật tự kết hợp thì
thành thơ mà để nguyên thì chỉ là lời nói thường
rồi cũng khóc như em khóc cho điều đã mất
trâm Cỏ Thi. Ừ nhỉ, cỏ thôi mà
nhưng nước mắt… cũng như em, tôi đã
thêm một lần tái diễn trước cỏ hoa…
(Tái diễn)
Nguyễn Trọng Tạo đã tỏ ra mạnh dạn trong việc sử dụng ngôn ngữ. Trong
các câu thơ của mình, ông không viết hoa đầu dòng mà khăng khăng đặt dấu chấm
giữa câu thơ nhằm tạo ra sự bất ngờ về hình thức đồng thời nhấn mạnh nội dung ý
nghĩa tư tưởng trong từng câu từng chữ.
đồi núi. Thông xanh. Villa. Biệt thự
áo ấm. Dù hoa. Má đỏ. Tóc mềm
những con đường. Những con đường. Cao. Thấp
ngày bốn mùa. Đà Lạt. Chập chùng. Em
(Mùa thu áo ấm)
Những địa điểm, nơi chốn, vẻ đẹp, sự kiều diễm đều gắn liền với Em, người
trong mộng của anh. Nhưng dường như tất cả đều đã xa lắc và chìm sâu vào trong
cõi bùng binh sương mờ của Đà Lạt mộng mơ. Thơ Nguyễn Trọng Tạo chính là sự
giao hòa giữa hai yếu tố trữ tình và lãng mạn. Chất nhạc trong thơ ông cũng từ đó
mà ra. Là một nhà thơ và cũng là một nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo luôn cố gắng phát
huy những yếu tố đó trong thơ tạo nên hiệu quả nghệ thuật vi diệu.
Sự dấn thân trong hành trình thơ đã mang đến cho ông sự kính trọng của độc
giả và nhiều đồng nghiệp. Bằng tài năng và trách nhiệm của người cầm bút, Nguyễn
Trọng Tạo đã xây dựng thành công bức tường ngôn ngữ bằng thơ mà chứa đựng
trong đó là cả một thế giới nghệ thuật tinh xảo. Sự chau chuốt, tỉ mỉ của ông trong
từng câu chữ đã mang thơ ca đến gần với đời sống hơn. Ông đã nhìn cuộc sống
bằng cả trái tim nhân hậu để lắng nghe tiếng lòng của tất cả mọi người. Trong một

89
chừng mực nhất định, Nguyễn Trọng Tạo đã góp phần to lớn của mình trong việc
hoàn thiện ngôn ngữ văn chương của dân tộc. Thơ ông sẽ mãi là nơi để người đọc
tìm đến như đi tìm một sự bình yên, lắng đọng cho tâm hồn.
3.2.2. Ngôn ngữ giản dị đời thường
Trải qua bao biến thiên của lịch sử, ngôn ngữ cũng có những biến đổi và phát
triển. Thời đại nào thì ngôn ngữ ấy. So với các loại hình nghệ thuật khác, thơ nhạy
cảm với ngôn ngữ hơn cả. Thơ mới phải tạo ra ngôn ngữ mới để chuyên chở cảm
xúc mới. Mỗi nhà thơ phải có ngôn ngữ của riêng mình, ngôn ngữ như một dấu hiệu
để nhận biết chủ thể hành ngôn. Không nằm ngoài quy luật vận động và phát triển
ấy, ngôn ngữ thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng từng bước hội nhập trên văn đàn mang
một sắc thái và giọng điệu riêng của cá tính sáng tạo. Cho nên, thơ Nguyễn Trọng
Tạo được đánh giá là “thơ tài hoa”. “Thơ tài hoa là thứ thơ khiến người ta có cảm
tưởng như đó không phải là kết quả của logic của tư duy mà là sự thăng hoa của
ngôn từ” [42].
Trước hết ngôn ngữ thơ Nguyễn Trọng Tạo là ngôn ngữ của đời sống, ngôn
ngữ của tiếng nói chân thực hằng ngày. Trong hành trình nghệ thuật của mình, nhà
thơ luôn tự nhủ “Tôi luôn cố gắng tìm một con đường để cho thơ của tôi gần gũi
hơn với cuộc đời, với bạn đọc. Tôi không đi theo con đường cách tân mang hơi
hướng thơ phương Tây mà nhiều bạn thơ của tôi đã làm. Tôi muốn thơ mình vừa
hiện đại nhưng vẫn phảng phất hương vị truyền thống của phương Đông. Tạo ra
được một giọng điệu riêng trên nền những cái đã quen thuộc thực sự là một điều rất
khó” [59]. Nhưng bằng tài năng và bản lĩnh của một người lính từng kinh qua đạn
lửa nơi chiến trường ác liệt, Nguyễn Trọng Tạo đã khẳng định được vị thế và chỗ
đứng của mình trong lòng bạn đọc yêu thơ.
Bạn hãy quên đi vất vả những hàng ngày
Bao lo lắng đời thường từng làm tuổi xanh ta bạc tóc
Chỉ Hi vọng và Niềm tin giúp ta thêm sức lực
Câu thơ này xin bạn nhớ giùm cho:
Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa!...

90
(Tản mạn thời tôi sống)
Những nghĩ suy tản mạn của Nguyễn Trọng Tạo trong thời kì đất nước bước
vào công cuộc đổi mới đầy cam go, quyết liệt đã mở đầu cho dòng cảm xúc “trái
mùa” của ông. Bài thơ đã khái quát được tâm thế của cả một thời đại thế nhưng
trong suốt một thời gian dài không ai dám nói ra những điều không hề dễ nói ấy.
Nguyễn Trọng Tạo đã nhìn thẳng vào sự thật, dũng cảm đối mặt và nói thẳng vấn đề
thể hiện sự khát khao thay đổi thời cuộc, khát khao đổi mới không ngừng cho dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Và sự dấn thân ấy đã mang lại cho
bản thân ông không ít những hệ lụy và thiệt thòi. Tuy nhiên, đó lại là điều kiện tốt
để ông khẳng định mình, đồng thời qua đó người đọc có cơ hội ít nhất là một lần
được cảm nhận cái bản chất mộc mạc, chân thật của ngôn ngữ thơ mình. Thơ
Nguyễn Trọng Tạo luôn duy trì vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc, đây là một điều khó
trong sáng tác thơ vừa đảm bảo tính hiện đại mà vẫn không mất đi nét truyền thống.
Huế đẹp đã đành xa xôi lắm
Bỗng gặp mai vàng nở choàng vai
Có ông sư trẻ chừng muốn bán
Hoa tết vườn chùa một cành mai…
(Huế 2)
Thơ Nguyễn Trọng Tạo đa dạng với hệ thống từ ngữ mộc mạc dung dị, nhiều
khi không theo một trình tự nhất định, nên hay tạo ra được những hiệu quả làm bất
ngờ cho người đọc. Với bài thơ Ngày không em, có lẽ nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo
đã đi vào lịch sử thơ văn Việt Nam khi ông mạnh dạn gửi gắm tâm sự, ví tình yêu
của mình với những chồn cáo, nồi niêu, xoong chảo… rồi đưa thẳng nó đến với thi
ca. Những câu đời thường, cửa miệng ấy trong thơ ông, đọc lên ta thấy là lạ.
Ngày không em
Anh cây chổi tựa mòn góc bếp
Anh cái chảo mốc meo
Anh con mèo đói kêu khan
Anh con chồn hoang ngủ vùi trong hốc tối

91
(Ngày không em)
Với nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo “Ngôn ngữ thơ ca bao giờ cũng hay nhất
trong sự giản dị của nó. Sự giản dị làm cho ngôn ngữ luôn trở nên hiện đại nhất”
[59]. Là một nhà thơ đi đầu trong phong trào đổi mới thi ca, Nguyễn Trọng Tạo
không ngừng có những tìm tòi, phát hiện mới lạ về mặt ngôn ngữ. Bởi muốn đổi
mới thơ ca trước hết cần đổi mới về mặt ngôn từ, nhà thơ luôn có ý thức xây dựng
một cách đúng đắn mối quan hệ giữa thơ với hiện thực đời sống để thơ luôn là thế
giới tinh thần mới mẻ của con người. Macxim Gorki từng khẳng định: “Hãy chú ý
đến ngôn ngữ, hãy giành giật lấy từ nó sự chính xác, điều này sẽ đem lại cho nó sức
mạnh và vẻ đẹp”. Công cụ của nhà thơ không còn gì khác ngoài ngôn ngữ mà họ
dùng đến, sự chính xác của ngôn ngữ văn học luôn đòi hỏi chức năng biểu cảm
thẩm mĩ cao. Trong sáng tác thơ, Nguyễn Trọng Tạo đã sử dụng ngôn ngữ như một
công cụ hữu ích để truyền tải những suy nghĩ, những trải nghiệm mà ông cảm nhận
được như một thông điệp từ cuộc sống. Ngôn ngữ trong thơ ông không có sự gọt
giũa cầu kì nhưng lại mang vẻ đẹp về mặt nội dung và tính thẩm mĩ cao. Thơ ông là
sự phối hợp uyển chuyển giữa tâm tư, tình cảm, ngôn ngữ và đời sống.
Hoa đào vương kiếp đào hoa
Thắm tươi một thuở phôi pha một ngày
Tôi nhìn từng cánh đào bay
Thời gian lõa thể rụng đầy chiêm bao
(Đào phai)
Câu thơ diễn tả sự trôi chảy không ngừng của thời gian nhưng cùng với nó là
sự phôi pha của một kiếp người trải qua bao sóng gió thăng trầm trong cuộc sống
nhưng vẫn không tránh khỏi quy luật nghiệt ngã của tạo hóa. Thơ Nguyễn Trọng
Tạo bật ra từ hiện thực đời sống nên trong cách sử dụng ngôn ngữ ông luôn chứng
tỏ ngôn ngữ thơ mình là một phần của đời sống mang vẻ đẹp dung dị mà sâu sắc.
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, là một hệ thống tín hiệu tinh vi
và phức tạp, gắn chặt với tư duy. Cách sử dụng từ láy trong thơ cũng là cách

92
Nguyễn Trọng Tạo nhấn mạnh ngữ điệu riêng cho thơ ông. Các từ láy trong thơ
Nguyễn Trọng Tạo có tác dụng lớn trong việc tạo âm, tạo nên tính nhạc cho lời thơ.
Bóc đi làn sương mỏng
Núi khỏa thân mơ màng
Bóc đi ngày tháng cũ
Thấy mùa về hân hoan
(Bóc đi nỗi nhớ mùa)
Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo, người đọc còn bị bất ngờ bởi cách ông sử dụng
nghệ thuật trùng điệp. Nghệ thuật này vừa có tác dụng nhấn mạnh vừa tạo ra những
điệp khúc ngân vang cho bài thơ
Tìm hoa tôi tìm ngón thơm xòe nắng
Em vẫy gọi tôi mùa tình trong trắng
Tìm hoa tôi tìm cánh môi thiên thần
Em truyền sang tôi nóng bỏng lửa thiêng
(Tìm hoa)
Nghệ thuật trùng điệp tạo được âm vang mạnh mẽ, thể hiện nét riêng trong
nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ thơ.
Thơm về đồng đất phù sa
Thơm về đồi núi thơm qua luống cày
Thơm về mùa trĩu bông cây
Thơm vê tiên tổ tháng ngày nắng mưa
(Món quê)
Nghệ thuật trùng điệp ở các cấp độ điệp từ, điệp câu trong thơ Nguyễn Trọng
Tạo không đơn thuần chỉ là sự lặp lại một cấu trúc ngữ pháp, lặp lại một từ, một
ngữ để nhấn mạnh ý, mà hơn tất cả đó là những nốt trầm bổng xao xuyến có khi là
nỗi ám ảnh của cuộc đời cứ điệp đi điệp lại trong cả hành trình thơ của tác giả.
Trong bốn câu thơ trên là nỗi nhớ da diết về hương vị đặc biệt của món ăn quê nhà
gắn liền với tuổi thơ của Nguyễn Trọng Tạo. Nhà thơ Mĩ Mary Croy đã nhận xét
rằng: “Thơ của Nguyễn Trọng Tạo nói về sự trải nghiệm hiện đại một cách thấu

93
đáo, đồng thời tỏ lòng tôn kính về truyền thống lâu đời của văn học Việt Nam đã đi
trước ông. Thơ của Nguyễn Trọng Tạo là sự giới thiệu tuyệt vời về những truyền
thống trữ tình của Việt Nam, giúp người đọc phương Tây nhìn Việt Nam trong ngữ
cảnh rộng hơn” [10].
Một vấn đề nổi bật trong ngôn ngữ thơ Nguyễn Trọng Tạo đó là cách sử
dụng nghệ thuật điệp từ, điệp câu. Vận dụng nghệ thuật điệp vào trong sáng tác văn
chương là dụng ý riêng của mỗi tác giả nhằm nhấn mạnh hoặc truyền tải đến người
đọc một thông điệp nhất định. Song để sử dụng một cách hiệu quả thì không phải
tác giả nào cũng làm được.
Ngày dài đợi tháng đợi năm
Bông hoa đợi quả, mảnh trăng đợi tròn
Đất cày thì đợi xanh non
Rét đang đợi ấm, nắng còn đợi mưa
(Đợi)
Điệp từ đợi được lặp đi lặp lại trong cả bốn câu thơ đã gợi lên một cảm nhận
về sự chờ đợi thủy chung mãi mãi không dời trong diễn biến tuần hoàn của tạo hóa
hay cũng chính là tấm lòng chung thủy, sắt son của lòng người khó quên. Cách nói
triết lý sâu sắc cùng sự vận dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống của
Nguyễn Trọng Tạo đã mang lại cho bài thơ một hiệu quả bất ngờ.
Cầm lòng thôi khỏi khóc cười
Có người nuôi nhớ bởi người nuôi quên
Cầm lòng rời bến thuyền ơi
Thuyền xa bến hẹn sông hiền sóng ngoan
(Cầm lòng)
Chỉ trong bốn câu thơ mà tác giả đã sử dụng một loạt các điệp từ “cầm
lòng”, “nuôi”, “người”, “thuyền”, “bến” làm cho câu thơ trở nên mềm mại, uốn
lượn sóng sánh. Sử dụng hình thức điệp cú pháp dường như là thế mạnh của
Nguyễn Trọng Tạo, trong rất nhiều tác phẩm của ông, nghệ thuật điệp được phát

94
huy đến mức tối đa hiệu quả của nó. Và đây là những câu thơ phủ định mang nghĩa
hoàn toàn là khẳng định khi nhà thơ dí dỏm viết về chiếc bóng của mình.
Không xuân không hạ không thu
Không nóng lạnh hắn cũng không âm ấm
Hắn là hắn hắn chính là chiếc bóng
Không âm thanh không màu sắc không buồn vui
(Bóng)
Đặc biệt hơn nữa là tần suất sử dụng thủ pháp điệp của Nguyễn Trọng Tạo
còn xuất hiện rất đậm đặc trong hai trường ca nổi tiếng của ông.
Xe Mùa đã đuổi theo dấu chân chiến dịch
Gặp bao nhiêu hậu cứ bỏ không
Gặp bao nhiêu hố củ ấu củ mài
Gặp bao nhiêu vùng rau rừng vừa hái
(TC Con đường của những vì sao)
Cụm từ “Gặp bao nhiêu” đã nhấn mạnh cảm giác ấn tượng của người chiến
sĩ đang trên đường lái xe ra mặt trận cùng bao chiến sĩ đồng đội khác nữa. Hành
trang các anh mang theo chỉ là nỗi nhớ quê nhà, nhớ người yêu gắn liền với những
kỉ niệm sâu sắc mà vầng trăng chính là hiện hữu minh chứng cho tâm tình của
người lính
Như đêm nay giữa Đồng Lộc trụi trơ
Vẫn vầng trăng không hề lỗi hẹn
Vầng trăng là nhân chứng
Vầng trăng là mầm sống
Vầng trăng là lòng ta gửi gắm
Vượt lên nghìn cái chết tỏa sáng trong...
(TC Con đường của những vì sao)
Thủ pháp thường gặp nhất trong thơ Nguyễn Trọng Tạo là cách tổ chức điệp
khúc:
Ai qua Đồng Lộc mờ sương

95
Ai qua Đồng Lộc chiều hôm một mình
Ai qua Đồng Lộc tự tình
Ai qua Đồng Lộc có mình có ta
(TC Con đường của những vì sao)
Điệp bằng lối hai câu song song, nương tựa nhau:
Người ước mình trẻ lại người ước mình già đi
Người ước mình vĩ đại người ước mình li ti
(Tội đồ của thời gian)
Ta ngỡ uống cạn suối nguồn mây trắng
Ta ngỡ uống cạn suối nguồn xanh thắm
(Thiên an)
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp đã phát hiện ra: “Những thủ pháp ấy bắt
nguồn từ niềm đam mê nhịp chẵn theo quan niệm của Nguyễn Trọng Tạo... nhằm
tạo nên nỗi chơi vơi trong tình điệu thẩm mĩ của anh” [16]. Và với tài năng điêu
luyện trong việc sử dụng hình thức điệp cú và điệp cấu trúc của mình, Nguyễn
Trọng Tạo đã mang lại cho thơ ông hiệu quả nghệ thuật đảm bảo “sự chặt chẽ trong
cấu tứ và sự trùng phức về giai điệu, sự nhòe mờ của các vân chữ trên cơ sở đó tạo
nên những bất ngờ và bung phá” [15]. Trong rất nhiều các bài thơ khác của Nguyễn
Trọng Tạo, hình thức điệp được sử dụng thường xuyên như một dấu ấn riêng đậm
nét của tác giả. Bài thơ Ngại xuân, các câu thơ đều bắt đầu bằng điệp từ ngại nằm ở
13/16 câu của tác phẩm. Còn trong bài Không dưng, nhà thơ viết:
Không dưng em khóc dưới cội me
Không dưng tôi dừng lại lắng nghe
Không dưng tiếng vạc kêu thảm thiết
Không dưng đang vui, buồn biệt ly
(Không dưng)
Đây chính là cơ sở khẳng định thêm sự vững vàng của ngòi bút Nguyễn
Trọng Tạo trong việc sáng tạo ra các hình thức biểu hiện độc đáo cho thơ ông đúng

96
như Leonov từng nói "lao động nghệ thuật phải là một phát hiện về nội dung và là
một phát minh về hình thức”.
Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Nguyễn Trọng Tạo dù sử dụng chất liệu nào
của ngôn từ, nghệ thuật cao siêu hay giao tiếp thường nhật, nhưng bằng tâm hồn dễ
rung động, giàu cảm xúc và năng lực cảm thụ cùng tài năng sáng tạo, ông đã làm
mới phương thức sử dụng ngôn từ trong thơ mình. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Trọng
Tạo không chải chuốt, bóng bẩy, ngược lại rất đỗi bình dị, gần gũi. Một ngôn ngữ
đậm chất thơ vừa thể hiện chút mượt mà, tâm tình của thơ ca truyền thống, vừa thể
hiện những góc cạnh của thơ đương đại, đã tạo nên sức lôi cuốn, hấp dẫn người đọc.
3.3. Giọng điệu
Trong nghệ thuật, khái niệm giọng điệu được các tác giả Từ điển các thuật
ngữ văn học định nghĩa là: “Thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng, đạo đức của
nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng
hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, kính hay
suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [23, tr.134]. Theo tinh thần định nghĩa này, giọng
điệu thuộc về chủ thể sáng tạo thẩm mỹ. Với loại hình trữ tình là thơ thì đó là giọng
của nhà thơ, của chủ thể trữ tình, bộc lộ trong thế giới nghệ thuật. Giọng điệu thể
hiện thái độ, tình cảm, tư tưởng, lập trường... của chủ thể và bao giờ cũng gắn với
cảm hứng và kiểu sáng tác.
Là một biểu hiện trong nghệ thuật văn chương thuộc hiện tượng xã hội -
thẩm mỹ, sự hình thành giọng điệu của tác giả tất phải chịu sự tác động, chi phối
của không gian văn hóa như là gia đình, quê hương, nhà trường, tập quán vùng
miền... đặc điểm này được thể hiện đậm nét trong thơ Nguyễn Trọng Tạo. Giọng
điệu tâm sự giãi bày, triết lý sâu lắng và ngợi ca trầm hùng là những giọng điệu đặc
sắc và nổi bật nhất trong thơ ông. Nghiên cứu thơ nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Đăng
Điệp cho rằng, “Nguyễn Trọng Tạo là người có giọng điệu riêng.(...) Những câu thơ
của anh mang chất giọng tưng tửng, ngu ngơ ngỡ như chơi vơi nhưng kì thực chứa
rất nhiều ngẫm ngợi. Một chất giọng mà khi đọc kĩ ta mới thấy hết cái da diết bên
trong. Học lấy cái mờ nhòe trong thi pháp phương Đông , Nguyễn Trọng Tạo đã

97
biết tựa vào âm nhạc để trình bày các ý tưởng của mình. Đây chính là yếu tố tạo nên
chất phiêu lãng trong giọng điệu thơ anh” [16].
3.3.1. Giọng điệu tâm sự giãi bày
Theo Từ điển văn học, giọng điệu được hiểu là: “Phản ánh lập trường xã hội,
thái độ, tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo
nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc” [7, tr.134]. Giọng
điệu là một phương diện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật và được xem là một
phạm trù thẩm mĩ. Theo GS. Hà Minh Đức, giọng điệu là thước đo không thể thiếu
để xác định tài năng và phong cách độc đáo của người nghệ sĩ. Thông qua giọng
điệu, ta có thể nhận ra được phong cách của nhà văn hoặc nhà thơ ấy.
Mỗi nhà thơ có phong cách đều mang cho mình một giọng điệu riêng, độc
đáo. Là một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Trọng Tạo
đã thật sự cuốn hút độc giả ở giọng thơ mới mẻ, sung sức. Bên cạnh chất giọng trẻ
trung là giọng ưu tư, hoài niệm khắc khoải và tâm tình, sâu lắng. Khó có thể lý giải
từng chữ khi câu thơ ông vui đấy lại buồn đấy:
có anh hề đã nói với tôi
- đời thằng hề buồn lắm anh ơi
và tôi đã khóc
(Tin thì tin không tin thì thôi)
Có lẽ “Nguyễn Trọng Tạo lúc nào cũng như muốn đi đến đáy của nhiều tâm
trạng và suy tư thời đại” [6] nên hành trình thơ ông qua bao nhiêu năm vẫn là tiếng
thăm thẳm của hồn người trong cõi mênh mông của cuộc đời.
Ngày vung vãi đức tin
Đêm thấy mình cô độc
Ranh khôn giữa muôn nghìn
Trở về thành thằng ngốc
(Tự vấn)
Đứng giữa bạt ngàn của rừng thơ Việt Nam đương đại, đặc biệt là nền thơ ca
cách mạng trong thời kì kháng chiến chống Mĩ với những gương mặt các nhà thơ

98
trẻ đầy tài năng và phong cách như Phạm Tiến Duật thông minh - tinh nghịch,
Thanh Thảo tài hoa - suy tư, Hữu Thỉnh tinh tế - tài hoa nhưng giàu suy ngẫm,
Nguyễn Duy dân dã - đằm thắm, Nguyễn Khoa Điềm suy tư - giàu cảm xúc,…giữa
những gương mặt ấy, Nguyễn Trọng Tạo nổi lên bởi chất giọng hoài niệm khắc
khoải, đầy suy tư ngẫm ngợi mang tâm sự giãi bày. Giọng thơ của ông có lúc da
diết, nhẹ nhàng, khi trầm tư sâu lắng mang nặng nỗi ưu tư
Con sáo sang sông mùa thu tuổi tác
Con người bội bạc cười vui chợt buồn
(Chợt)
Nỗi cô đơn gắn với nỗi buồn, “cái trùm lên, nhuần thấm mọi trang thơ
Nguyễn Trọng Tạo lại vẫn là nỗi buồn... Nguyễn Trọng Tạo buồn, một nỗi buồn âu
yếm. Có thể gọi Nguyễn Trọng Tạo là nhà thơ của nỗi buồn ấu yếm” [61]. Sau
chiến tranh, cuộc sống trở lại bình thường với những lo toan mưu sinh. Nhiều quan
hệ xã hội trở nên đảo lộn, trần tục hơn. Trên nền cảm xúc ấy, Nguyễn Trọng Tạo
trải hồn mình với những xúc cảm chân thành, thể hiện một thế giới nội tâm phong
phú, phức tạp trong tác giả. Nếu trong thơ viết về cuộc chiến, phần lớn ta gặp giọng
thơ ngợi ca, tự hào hòa lẫn đau thương thì nay, được thay vào đó là giọng giãi bày,
tâm tình.
Niềm vui rồi dễ phai nhanh
Cuộc đời lắng lại long lanh nỗi buồn
(Ngôi sao buồn)
Có những lúc tâm thế nhà thơ như rơi vào tuyệt vọng, ông buông câu thơ mà
người đọc cảm được tâm sự trong lòng ông nặng và muốn giãi bày biết chừng nào.
Buồn đốt hết ngày
Đêm dày tàn tro
Buồn đốt bài thơ
Bài thơ thành khói nào ngờ… khói cay
(Khói cay)

99
Con người sống trong cuộc đời vốn có rất nhiều những nhu cầu khác nhau
cho cuộc sống nhưng có lẽ nhu cầu tinh thần luôn được quan tâm nhất, khi vui
chúng ta muốn chia sẻ, khi buồn lại muồn tâm sự giãi bày. Có rất nhiều lí do làm
cho ta buồn, khi niềm tin, ước muốn, hi vọng, niềm mong mỏi không như mong
muốn đã đặt ra là khi con người chúng ta dễ rơi vào trạng thái buồn và mong được
tâm sự, giãi bày, khát khao chia sẻ để giải tỏa nỗi niềm trong tâm khảm mình. Nhà
thơ Nguyễn Trọng Tạo có lẽ có rất nhiều tâm sự, ông buồn vì tình yêu không trọn
vẹn. Cho nên Buồn là em, là người đẹp, là một nửa của tâm hồn nhà thơ.
Buồn ơi Buồn có thương tôi
Đừng làm tôi phải mồ côi nỗi buồn
(Sonnê buồn)
Để rồi cho đến cuối cùng thì giọng điệu tâm sự sâu kín tự trong đáy lòng mà
nhà thơ muốn giãi bày chỉ đơn giản là:
Sao cứ ước một người yêu ở đó
Để suốt đời quê ngoại cũng quê hương…?
(Ấn tượng Huế)
Đơn giản vậy thôi nhưng trong cuộc sống không phải bất cứ ước muốn gì
của con người cũng trở thành hiện thực, lúc đó sẽ không còn những vần thơ tâm sự,
giãi bày nữa. Trải qua những biến cố thăng trầm trong cuộc đời cũng như nhiều lĩnh
vực có ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của bản thân, Nguyễn Trọng Tạo
chiêm nghiệm ra được nhiều điều và ông mong muốn được trải lòng mình với người
đọc yêu thơ để tác giả và người đọc trở nên gần gũi, thấu hiểu và đồng cảm cùng
nhau, có khi người đọc còn có thể tìm thầy một phần của mình trong thơ ông. Vì
thế, Nguyễn Trọng Tạo còn hay trải lòng mình với những dòng thơ về làng quê, về
mẹ, về anh, về vợ, con…về bạn bè, đồng nghiệp. Đó là những dòng thơ tâm sự đời
tư, là những suy ngẫm về cuộc đời, niềm vui, nỗi buồn và nhiều quan niệm nhân thế
khác. Tất cả lắng sâu trong một chất giọng nặng trĩu ưu tư, da diết, sâu lắng đến lay
động con tim người đọc.
Cỏ may không hẹn mà xanh

100
Tìm ta khâu vá cho lành vết thương
Ngang trời hoa cỏ đẫm sương
Loanh quanh sân thượng mà thương cánh đồng
(Cỏ may trên sân thượng)
“Cỏ may trên sân thượng” là lời tâm sự mộc mạc hết sức chân thành xuất
phát từ tấm lòng, tư cách và phẩm hạnh của người con xa quê, lang bạt kì hồ, những
tưởng đã bị gió bụi, đời sống thị thành cuốn theo đi những gì chân thật, tốt đẹp nhất
vốn là hành trang mang theo từ quê kiểng nhưng mãi còn lấp lánh trong hành động
“Loanh quanh sân thượng mà thương cánh đồng”. Với Nguyễn Trọng Trọng Tạo,
mặc dù không được sinh ra và lớn lên ở Huế nhưng đất và người nơi đây chẳng
khác nào quê hương thứ hai của anh bởi “nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?”
(Nguyễn Đình Thi)
Trong thơ Nguyễn Trọng Tạo, quê hương xứ Huế hiện lên sinh động, cụ thể
từ con người đến cảnh vật, từ những vẻ đẹp truyền thống ăn sâu trong tâm hồn
người con đất Huế đến vẻ đẹp hiện đại.
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương
(Vọng Huế)
Viết về Huế, giọng điệu thơ Nguyễn Trọng Tạo vừa chân thành, tha thiết vừa
mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Hình ảnh Huế được nhà thơ dệt nên bằng những
vần thơ giàu nét đẹp truyền thống. Nhà thơ mang theo những tình cảm sâu lắng của
mình trên suốt hành trình thơ.
Trở lại Huế mưa vẫn mưa như cũ
Màu trời buồn như thuở ra đi
… Trở lại Huế bước chân sầu vạn cổ
(Trở lại Huế)
Có lẽ, phải yêu Huế nhiều lắm nhà thơ mới có thể viết nên những vần thơ dịu
nhẹ mà xoáy sâu vào lòng người đến vậy. Là một người lính từng kinh qua gian khổ
nơi chiến trường ác liệt, nay trở lại cuộc sống đời thường với rất nhiều những giá trị

101
bị đảo lộn chắc hẳn nhà thơ còn có nhiều hơn nữa những điều muốn được chia sẻ,
giãi bày. Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo người đọc luôn nhận thấy thấm đẫm trong
những trang thơ của ông là những dòng tâm sự được rút ra từ tận sâu thẳm trong
đáy lòng. Nguyễn Trọng Tạo từng chia sẻ: "Tôi không sợ phải công khai những bí
mật của hồn mình”. Khi nhà thơ viết “có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi/ có con
người sống mà như qua đời” cũng là những lúc ông tự vấn lại quá khứ với những
nỗi buồn thời đại. Dù đất nước có những đổi thay mới mẻ nhưng khi tìm về với thơ
Nguyễn Trọng Tạo ta vẫn tìm thấy ở đó chất trữ tình lắng đọng và sự tinh tế trong
tâm hồn, giọng điệu nhất quán trong thơ ông là giọng trữ tình đời tư công dân.
Những phẩm chất tình cảm trong tâm hồn Nguyễn Trọng Tạo đã tạo nên cho
thơ ông một giọng điệu vừa nhất quán vừa đa sắc: giọng điệu ấy có khi trẻ trung,
đằm thắm, có khi nặng trĩu ưu tư, khắc khoải, sâu lắng. Đó là một tiếng thơ riêng
biệt, không lẫn với bất kỳ ai khác, tạo được sự rung động thẳm sâu trong lòng người
yêu thơ.
3.3.2. Giọng điệu triết lí sâu lắng
Trong lời tựa tập thơ Nương thân, Nguyễn Trọng Tạo viết: "Tôi thấy mình
chỉ là kẻ Nương Thân. Trong vũ trụ vô biên vô tận này, đời người chớp mắt. Ta là
ai, ta nào kịp trả lời. Tôi nương thân tôi vào chính thơ tôi. Thơ lại nương náu trong
từng con chữ và điệu nhạc vang lên từ cõi tâm linh nào xa thẳm" [60]. Chỉ mấy câu
văn tự bạch ngắn gọn vậy thôi cũng đủ cho người đọc thấy được những suy nghĩ
mang tính triết lí sâu lắng trong tâm hồn nhà thơ.
Thơ Nguyễn Trọng Tạo là sự ám ảnh không nguôi về thời gian, thời gian
luôn vận động không ngừng như một quy luật tất yếu của tự nhiên. Quy luật ấy
cũng mang theo tâm trạng của con người với bao buồn vui về cuộc đời. Tâm hồn
nhạy cảm của thi nhân khi đứng trước sự trôi chảy của thời gian được cảm nhận
bằng cảm giác cô đơn, tiếc nuối.
Ôi sự sống nơi đỉnh trời chân cỏ
Thoáng heo may. Nghe mình chợt sang chiều
(Mùa thu áo ấm)

102
Lối triết lý thật giản dị trong thơ Nguyễn Trọng Tạo luôn mang tính nhân
văn sâu sắc, bởi đó là những chiêm nghiệm cuộc đời, những cảm xúc lạ của một
tâm hồn thi sĩ đa đoan.
Cầm lòng một mái thời gian
Một đèn lẻ bóng một trang động tình
(Cầm lòng)
Trong nghệ thuật, điều làm nên giá trị và sức sống của một thi phẩm đó
chính là sự hài hoà thẩm mỹ giữa trí tuệ và cảm xúc. Trong đó chất triết lý là một
phương diện cần có để làm giàu nhận thức, liên tưởng và suy nghĩ của con người.
Với Nguyễn Trọng Tạo, sau một hành trình thơ đầy sự thăng hoa của ý tưởng và trí
tuệ, ông đã đi bên cạnh cuộc đời với niềm vui chấp nhận sự đơn độc. Nhà thơ trăn
trở và không ngừng khám phá, thăm dò hiện thực để yêu thương và gửi gắm vào
những gì tốt đẹp cho con người và chính mình bằng tác phẩm. Ông luôn muốn nhìn
lại những gì đã qua để điều chỉnh, hoàn thiện. Đó là lí do vì sao thơ ông lại mang
một giọng điệu trữ tình sâu lắng, khả năng tiên cảm chính xác và đầy chất triết lí về
thời gian, phận người, cuộc đời…
Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa
Như thời đã đi qua, như thời rồi sẽ đến
(Tản mạn thời tôi sống)
Tính triết lý ở đây được thăng hoa từ cảm xúc và suy nghĩ trên cái nền hiện
thực cụ thể mà nhà thơ đang sống đồng thời như một niềm tin không thể lay chuyển
mà tác giả gửi gắm cho đời như một thông điệp về phía tương lai. Trong bài viết
của mình nhà thơ đã có lần chia sẻ: "Thơ là sự đối diện với sự thật được chưng cất.
Nhà thơ không chỉ là công dân của một quốc gia mà phải là công dân thời đại. Làm
thơ là hoá giải thời đại vào ngôn từ. Nhà thơ phải biết biến hiện tại, tương lai thành
quá khứ để tạo ra kinh nghiệm sống và xúc cảm sống mới. Thơ tôi không bao giờ
thoát khỏi những xung động thời đại, dù đó là những bài thơ tưởng như riêng tư
nhất" [59]. Những vấn đề về thời đại: “thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ Câu trả
lời thật không dễ dàng chi” luôn là những nội dung triết lí sâu lắng và trăn trở nhất

103
trong thơ Nguyễn Trọng Tạo. Ông là người đi nhiều, viết nhiều và cũng nghĩ ngợi
rất nhiều, những trải nghiệm sóng gió trong cuộc sống đã mang lại cho nhà thơ
không ít những bài học quý báu để rồi ông lại gửi gắm vào trong tác phẩm của mình
như một lời đúc kết chân thực nhất. Nói như nhà văn Brazin - Paulo Coelho "Văn
chương là những hạt muối giữ cho cuộc đời này khỏi những ươn thiu".
Mang đậm chất giọng triết lí sâu lắng, thơ Nguyễn Trọng Tạo còn đi sâu
phản ánh về phận người trong cuộc sống còn bộn bề những lo toan với sinh tồn. Là
một người lính trở về từ trong chiến tranh, tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ không
khỏi ngỡ ngàng trước những sự đảo lộn giá trị của đời sống, những nỗi đau mà con
người phải gánh chịu do chiến tranh gây nên. Đứng trước thực tại chua xót ấy nhà
thơ nghĩ đến phận người, kiếp người trong cuộc sống thật mong manh ngắn ngủi
biểu hiện qua bước trở mình của thời gian
Dưới chân vẫn dép trên đầu trời thanh
Đời lên chót đỉnh chợt mình mong manh
(Chợt)
Nguồn gốc sâu xa của những triết lí sâu lắng trong thơ chính là sự chạnh
lòng, sự tự ý thức về giá trị bản thân của con người trước thực tại cuộc sống.
Hoa đào vương kiếp đào hoa
Thắm tươi một thuở phôi pha một ngày
(Đào phai)
Cuối cùng nó dẫn đến sự trải nghiệm triết lí về cái tôi bản thể
Vẽ tôi mực rượu giấy trời
Nửa say nửa tỉnh nửa cười nửa đau
…Vẽ tôi lặng nhớ mưa xa
Tiếu lâm đời thực khóc òa chiêm bao
(Tự họa)
Đọc những câu thơ như vậy người đọc mới cảm nhận hết sự mâu thuẫn day
dứt khôn nguôi trong tâm hồn nhà thơ. Như người ta thường nói, tâm hồn con người
ta toát ra từ tiếng cười, có tiếng cười kín đáo, cười ra nước mắt. Nào ai có thể ngờ

104
được Nguyễn Trọng Tạo cười đấy mà kì thực là lại như đang khóc ở trong lòng.
Cười cợt, vui vẻ giữa đám đông, bạn bè. Nhưng khi chỉ còn lại mình với mình trong
giấc chiêm bao, nhà thơ lại đau đớn vì những trớ trêu, trái ngang của đời. Thêm một
lần nữa, nhà thơ khẳng định cho nét khái quát chung nhất về mình - "Nửa say nửa
tỉnh, nửa cười nửa đau" mà nói như Nguyễn Du thì đó là: "Bên ngoài cười nụ bên
trong khóc thầm".
Nhà thơ Bằng Việt nói: “Nếu thơ có trần, thì anh Nguyễn Trọng Tạo là nhà
thơ hiếm hoi đã chạm trần”. Bởi ông là nhà thơ luôn muốn đi đến đáy của nhiều
suy tư thời đại nên giọng điệu triết lí sâu lắng trong thơ ông luôn da diết và khơi dậy
trong lòng người đọc một sự đồng cảm và ngưỡng vọng tuyệt đối. Vì thơ Nguyễn
Trọng Tạo không phải “không phục vụ một nhiệm vụ, một trào lưu gì” [5], mà cao
hơn, phục vụ nhiệm vụ của mọi nhiệm vụ, mọi trào lưu cần phục vụ - đó là gây lòng
tin yêu Con Người, bật đèn xanh đèn đỏ giúp họ sống bằng tâm hồn, bằng ngôn ngữ
mơ hồ, tỉnh táo của Thơ. Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo, người đọc như nhìn thấy rõ
cái uyển chuyển màu nhiệm trong tâm tư và trong thơ ông.
Tung tăng thanh xuân trôi ngược chiều.
Phút chốc mộng du lên phiêu diêu
(Sonnê không định trước)
Tìm về quá khứ để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một thời son trẻ, đó cũng là
ước muốn níu giữ thời gian đang trôi chảy không ngừng, muốn sống lại cái thời tươi
đẹp của ngày xưa. Với Nguyễn Trọng Tạo dù tuổi trẻ phải sống trong những ngày
tháng chiến tranh đầy gian khó nhưng vẫn chất chứa tình yêu đời, yêu cuộc sống.
Giọng thơ trữ tình sâu lắng mang đậm tính triết lí về sự lưu luyến của tâm hồn con
người trước quy luật bất biến của tạo hóa.
Mượn đôi mắt long lanh
Nhìn thời gian trẻ mãi
Mượn tiếng cười tuổi xanh
Cười quên đi từng trải
(Một mình nghe nhạc Trịnh)

105
Thấm thía sự trôi chảy không ngừng, sự mong manh, thoáng chốc vụt qua
của thời gian, ý thức được sự hữu hạn của đời người, Nguyễn Trọng Tạo ngẫm suy
về cuộc đời của bản thân cũng như phận người trong thế gian này. Giọng điệu câu
thơ ông như chùng xuống theo tâm trạng thổn thức và chiêm nghiệm suy tư.
Còn chi bóc nữa
Hãy bóc hòn tôi
Tôi thành tờ lịch
Bóc sang Luân hồi…
(Thời gian 1)
Nhưng điều quan trọng hơn hết chính nhờ ý thức được sự hữu hạn của thời
gian và những bất trắc của cuộc đời. Nguyễn Trọng Tạo muốn sống và cống hiến
hết mình cho cuộc đời, ông yêu hết mình, lao động miệt mài, hăng say để không bao
giờ nuối tiếc vì sự ra đi không thể nào lấy lại được của thời gian. Những bài học mà
ông đúc kết từ những trang thơ thật đáng quý, từ lúc nào đã trở thành hành trang
không thể thiếu trong đời sống tinh thần của mỗi người đọc yêu quý thơ ông. Tất cả
những thành công có được ở Nguyễn Trọng Tạo không chỉ nhờ vào sự tài năng
cùng những trải nghiệm bản thân mà ở ông còn là một con người có tấm lòng đôn
hậu, trước sau luôn suy nghĩ thấu đáo sâu sắc mọi vấn đề. Đây chính là yếu tố cơ
bản tạo nên giọng điệu triết lí sâu lắng trong thơ ông.
3.3.3. Giọng điệu ngợi ca trầm hùng
Sự chi phối của thời đại trong thơ có âm hưởng thời đại, có sắc điệu, dấu ấn
một thời kì lịch sử: “Mỗi thời đại nhìn chung có một giọng điệu riêng, thể hiện cách
thức chiếm lĩnh hiện thực và lí giải hiện thực riêng. Gắn với điều này là quan niệm
nghệ thuật của thời ấy” [39, tr.11]. Nguyễn Trọng Tạo là một nhà thơ đồng thời ông
cũng từng là một người lính vào sinh ra tử trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt
của dân tộc ta, trở lại với duyên nghiệp sáng tác nằm trong đội hình thế hệ các nhà
thơ trẻ thời kì chống Mỹ, giọng điệu thơ Nguyễn Trọng Tạo chắc chắn không nằm
ngoài giọng điệu chung thời đại, đó là chất giọng của những người lính trẻ trung,
sôi nổi với tinh thần chiến đấu can trường, dũng cảm. Cho nên ở những sáng tác

106
viết về người lính, về nhân dân, tổ quốc giọng điệu thơ Nguyễn Trọng Tạo mang
âm hưởng ngợi ca trầm hùng thể hiện lòng tự hào, hãnh diện của một con dân được
sinh ra trong một dân tộc có truyền thống yêu nước bất khuất, kiên trung.
Không đùa đâu thơ tôi nói thật lòng
Trước niềm đau, trước niềm vui có lẽ nào dối trá
(Con đường của những vì sao)
Trong mạch nguồn yêu nước, thơ Nguyễn Trọng Tạo còn thể hiện niềm tự
hào về vẻ đẹp thể chất và tinh thần của tuổi trẻ những người lính như ông.
Tuổi trẻ của tôi
Mười tám, hai mươi
Trong và tinh khiết như nước suối đá
Khỏe và mơn mởn như mầm lá
Rộng và dài như mơ ước, yêu thương
Vươn lên và bền vững như con đường
Gắn vào đất, tạc vào mặt đất
(Con đường của những vì sao)
Giọng điệu ngợi ca, trầm hùng trong thơ Nguyễn Trọng Tạo còn được biểu
hiện sâu đậm ở lòng tự hào về vẻ đẹp hùng vĩ của đất nước.
Nhặt lên viên sỏi tuổi thơ
Ném ra biển cả nào ngờ sóng dâng
Mọc lên lớp lớp tầng tầng
Đảo chìm đảo nổi đá ngầm san hô
Những vùng biển đẹp như mơ
Trường Sa cát trắng Hoàng Sa cát vàng…
(Trường ca Biển mặn)
Trong hoàn cảnh đất nước còn bộn bề những khó khăn trở ngại thì rất cần
lắm những giọng thơ sang sảng, lạc quan như thế: "như đất nước vẫn tin ngày toàn
thắng". Không còn mang chất giọng sử thi, sự kết hợp giữa giọng điệu trữ tình và tự

107
sự trong sáng tác trường ca đã khiến nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo thích tìm đến
những biểu tượng gợi cảm giác về sự kỳ vĩ, bi hùng, tự hào trong khúc tráng ca.
Máu chan hòa trên mặt đất quê hương
Máu chan hòa trên thảm cỏ xanh non
Tốt tươi đất đai, tốt tươi Tổ quốc
Sống hết lòng mình, chết đời cao đẹp
Những con người như thế mãi gần nhau
(Con đường của những vì sao)
Hào hùng, sảng khoái, lạc quan là âm hưởng chủ đạo của nền thơ ca cách
mạng chống Mỹ. Có thể nói, ở mức độ này hay mức độ khác, phần lớn các sáng tác
của Nguyễn Trọng Tạo đều là những khúc ca về sức sống bền bỉ dẻo dai của thế hệ
tuổi trẻ Việt Nam. Giọng điệu này đã chi phối nhà thơ trong việc xây dựng nhân vật
trữ tình. Ở trường ca Con đường của những vì sao, Nguyễn Trọng Tạo đã khắc họa
thành công hình tượng những người lính trẻ với nhiệt huyết sống và lòng quyết tâm
chiến đấu vì độc lập của Tổ quốc. Họ là những người lính lái xe, những cô thanh
niên xung phong đi mở đường.
Đi đánh giặc bài ca thành vũ khí
Xin đến hát trên môi tuổi trẻ
Lời hát tình yêu
Xin đến hát cùng hai mươi cô gái trên đồi
(Con đường của những vì sao)
Sự áp đảo của giọng điệu ngợi ca trầm hùng trong thơ Nguyễn Trọng Tạo đã
khiến những gian nan, vất vả của người lính thanh niên xung phong trở thành "tiếng
hát át tiếng bom"
Bài ca mở tuyến thông đường
Át tiếng gầm bom đạn
Yêu Tổ quốc bài ca trong sáng
Bài ca cùng số phận những đời người
(Con đường của những vì sao)

108
Và cũng bằng giọng điệu ngợi ca ấy đã khiến những tiếng nói đau thương
chuyển sang sắc màu tin tưởng, tự hào.
Cho thơ được viết vần lục bát
Trước nỗi đau cô gái trẻ mở đường
Thơ tôi đặng ngợi ca và an ủi
Xin đến cùng chia sẻ nỗi đau thương
(Con đường của những vì sao)
Những vần thơ của Nguyễn Trọng Tạo trở thành những tiếng hát bay cao và
bay xa đi khắp mọi miền của Tổ quốc rồi đọng lại nơi sâu thẳm nhất trong trái tim
người đọc.
Nắng ngàn sao trong mẻ lưới tung lên
Nắng lấp lóa oằn mình con cá quẫy
Nắng từ cát hắt vàng hươm chân đảo
Nắng từ lòng người cất tiếng hát bay cao
(Trường ca Biển mặn)
Lời thơ mộc mạc, chân chất, giọng điệu bộc trực đầy hào khí, Nguyễn Trọng
Tạo ngợi ca, trân trọng ý chí quyết tâm ra đi nuôi chí lớn bảo vệ sự bình yên cho Tổ
quốc của thế hệ trẻ Việt Nam.
Anh đi đi chim bằng thương yêu
Cánh bay sải đất trời Tổ quốc
Cánh đất Bắc, cánh trời Nam
Trái tim em giữa ngã ba Đồng Lộc
Máu đỏ xin dồn về đôi cánh tình yêu
(Con đường của những vì sao)
Tâm thế của nhà thơ như tâm thế của người ca sĩ cất lên những giai điệu hào
hùng, hướng về quê hương xứ sở, về sự vĩ đại của dân tộc.
Cứ thế dân tộc tôi không bao giờ mất đi sau mỗi cuộc chiến tranh
Dọc Trường Sơn lại trồng màu gieo lúa
Như trồng cỏ trên con đê vừa đắp cao dày thêm nữa

109
Và màu xanh như vậy, từ xưa
(Con đê trên bán đảo)
Chất giọng ngợi ca trầm hùng nhiều khi được đẩy đến mức thống thiết khi
nhà thơ nói về những nỗi đau, sự hi sinh cho tự do của dân tộc.
Máu anh đổ xuống bây giờ
Ngày bom rơi chẳng bất ngờ đâu em
(Con đường của những vì sao)
Một dân tộc phải trải qua nhiều gian khổ bởi những cuộc chiến tranh xâm
lược phi nghĩa mới thấy được lòng quả cảm của con người. Khi giặc Mỹ điên cuồng
leo thang chiến tranh thì giọng thơ lại càng hào sảng, lạc quan.
Máu ta không chịu đeo xiềng
Máu ta không chịu chia niềm đau thương
Máu đi về phía chiến trường
Chặn nòng súng giặc mở đường tiến công
(Con đường của những vì sao)
Đề cao tinh thần chiến đấu quả cảm, ngoan cường của người lính trong chiến
tranh, khẳng định lòng yêu nước sâu sắc trong tâm hồn con người cũng được nhà
thơ Nguyễn Trọng Tạo thể hiện bằng một chất giọng thật mạnh mẽ và hào hùng.
Bóng hình người nữ anh hùng tên La và đồng đội đã được tác giả khắc tạc vào bức
tượng đài bằng thơ.
La cắn môi dứng dậy giữa đau thương
Dáng đứng tạc vào trời bom đạn
Đồi Đồng Lộc như bất ngờ vụt lớn
Trái tim yêu nước dựng đỉnh cao
(Con đường của những vì sao)
Giọng điệu trong thơ là một yếu tố vô cùng quan trọng góp phần làm nên sự
thành công cho tác phẩm trong việc truyền tải những thông điệp mang ý nghĩa lớn
lao của tác giả. Giọng điệu ngợi ca trầm hùng trong thơ và trường ca của Nguyễn
Trọng Tạo xuất phát từ xu thế chung của lịch sử thời đại thể hiện tinh thần lạc quan

110
của dân tộc, kết hợp thể hiện những cảm xúc trữ tình cá nhân, cái tôi nội cảm của
nhà thơ thông qua lăng kính khách quan về cuộc sống. Bằng những sáng tạo và cách
tân độc đáo Nguyễn Trọng Tạo đã mang đến cho thơ một giọng điệu mới.
Người lính đi, kiên nhẫn tự bao giờ
Qua trận thắng lại đến cùng trận đánh
Qua cái chết lại đến cùng bom đạn
Bao lá cờ cắm mốc dọc đường qua
(Những người lính đi qua hành phố)
Hiểu rõ bản chất và đặc trưng của sáng tạo nghệ thuật Nguyễn Trọng Tạo đã
"lạ hóa" giọng điệu trường ca truyền thống bằng bản lĩnh sáng tạo táo bạo và cảm
quan hiện thực độc đáo của mình tạo ra những hiệu quả đột phá. Giọng điệu khẳng
định, ngợi ca trong Tình ca người lính, Con đường của những vì sao và mới đây
nhất ông vừa cho ra đời trường ca Biển mặn, tất cả được thống nhất trong cảm hứng
chủ đạo. Đó là là khúc ca về những con người không chịu lùi bước và khuất phục
trước cuộc đời, số phận, không ngừng khao khát, đốt sống và hồi sinh niềm tin về
cuộc sống tựa như sức sống vĩnh hằng và bất diệt.
Mái tóc bay trong đất - tóc hai mươi
Tóc trong đất, gió thời gian thổi mãi
(Con đường của những vì sao)
Cảm hứng ngợi ca trầm hùng chi phối và làm nên sự thống nhất giọng điệu
trong toàn bộ cấu trúc theo chiều dọc "cột sống" của các tập trường ca . Nét riêng
trong giọng điệu ngợi ca của ngòi bút Nguyễn Trọng Tạo thể hiện rõ nhất ở sự bứt
phá, đổi mới trong tư duy nghệ thuật. “Trường Sơn biển” là sáng tạo bất ngờ, độc
quyền của Nguyễn Trọng Tạo. Trước ông, chưa một ai nghĩ ra: Cha đã lính, bây giờ
con lại lính/ Những thế hệ nối theo nhau đi giữ nước non nhà/ Xưa cha Trường Sơn
rừng/ Nay con Trường Sơn biển/ Những hòn đảo dựng vòng cung phòng tuyến/
Dựng tin yêu từ phía mặt trời lên… (TC Biển mặn). Cuộc chiến tranh chống Mỹ
của dân tộc đã đưa dải Trường Sơn hùng vĩ thành biểu tượng rất đỗi tự hào, dải đất
hình chữ S đã có “Trường Sơn rừng” nay lại có thêm “Trường Sơn biển” đứng

111
trước nhiều bão tố phong ba. “Trường Sơn biển”, trước hết là biểu tượng thiêng
liêng của tình yêu Tổ quốc, là dự báo đầy trách nhiệm của nhà thơ trước vận mệnh
dân tộc, là lời tuyên thệ của những người con Việt nguyện đem máu xương mình
bảo vệ chủ quyền đất nước… Bằng sự kết hợp tài tình trong cảm hứng trữ tình và tự
sự nhà thơ đã nêu bật lên được sức mạnh, ước mơ, khát vọng và số phận của cả một
thế hệ người Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước đang có chiến tranh.
Đồng đội tựa vào nhau dáng một tượng đài
Ôi, dáng đứng của những người bám trụ
Những cặp mắt tuổi hai mươi không ngủ
Những khoảng trời khói đạn chẳng thể che
(Con đường của những vì sao)
Giọng điệu ngợi ca trong thơ và trường ca của Nguyễn Trọng Tạo nằm sâu
trong mạch ngầm của tổ chức kết cấu hình tượng. Từ việc ca ngợi những người con
dũng cảm, can trường sẵn sàng hi sinh tuổi trẻ để bảo vệ sự bình yên cho Tổ quốc:
Tôi ca tụng những anh hùng
Những cuộc đời trọn hiếu trung với đời
Những cái chết hóa tuyệt vời
Những im lặng hóa muôn lời dạy khuyên
(Con đường của những vì sao)
đến việc ngợi ca và thể hiện lòng tự hào về đất nước đang dâng trào trong tâm hồn
nhà thơ đã cho thấy đây là sự gắn kết sâu sắc và thống nhất chặt chẽ trong hệ thống
hình tượng tạo nên sự cộng hưởng và bứt phá hoàn toàn mới trong ngòi bút Nguyễn
Trọng Tạo: Nước non từ thuở bình minh/ Mặt trời - mặt trống tượng hình, âm vang/
Ở hạt đâu hạt máu lang thang/ Ở đâu hạt máu huy hoàng muôn năm (Con đường
của những vì sao). Thể hiện cảm hứng tìm về nguồn cội để khẳng định vẻ đẹp của
Tổ quốc "trong đau khổ Người đẹp hơn nhiều" là những cảm xúc mãnh liệt khôn
nguôi trong tâm hồn tác giả.
Tổ quốc tôi! Tổ quốc tôi ơi
Ở biên giới Người giàu có nhất

112
Ở biên giới Người gần gũi nhất
Ở biên giới Người sâu lắng nhất
(Tổ quốc ở biên giới)
Với cảm hứng trữ tình lịch sử kết hợp giọng điệu ngợi ca trầm hùng cuồn
cuộn những cảm xúc trào dâng, hào sảng những câu thơ được viết bằng những trải
nghiệm cá nhân trong thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo đã khẳng định sự vĩ đại
của dân tộc qua những thăng trầm lịch sử đau thương, sức sống mãnh liệt và nghị
lực phi thường của con người luôn mang theo niềm tin bất diệt về cuộc sống.

113
Tiểu kết chương ba
Chương ba của luận văn trình bày một số vấn đề về nghệ thuật trong thơ và
trường ca Nguyễn Trọng Tạo. Đó là hình thức biểu hiện, ngôn ngữ và giọng điệu.
Trong đó nội dung lớn nhất của chương được trình bày trong phần Đổi mới hình
thức biểu hiện gồm các phần nhỏ như vấn đề kết hợp hai yếu tố tự sự và trữ tình, kết
hợp giữa hình thức cổ điển với nội dung đương đại, vận dụng hình thức vắt dòng
được nhìn từ góc độ tổ chức tác phẩm. Kết cấu tác phẩm nghệ thuật đã cho chúng
tôi chìa khóa để mở được cánh cửa thơ Nguyễn Trọng Tạo một cách dễ dàng. Hiểu
được thơ Nguyễn Trọng Tạo là sự kết hợp chặt chẽ giữa tự sự và trữ tình, giữa
truyền thống và hiện đại, chúng tôi đã trình bày dưới nhiều góc nhìn để thấy được
tính đa chiều kích và những đặc điểm riêng biệt của nghệ thuật thơ Nguyễn Trọng
Tạo. Cho đến tận bây giờ, ở cái tuổi xưa nay hiếm, với gần nửa thế kỷ dan díu cùng
nghiệp thơ, nhà thơ vẫn không ngừng sáng tạo, say mê miệt mài với nghề quên cả
sức khỏe tuổi tác của bản thân. Mỗi thi phẩm Nguyễn Trọng Tạo viết ra là tiếng
lòng ông với những tình cảm, nỗi lòng, là tình yêu, tình bạn, là những vấn đề triết lý
nhân sinh sâu sắc mà ông chắt lọc từ tình yêu và sự sống trải thi ca và kinh nghiệm
vui buồn, ân nghĩa với chung quanh của chính người thơ.
Hơn 40 năm gắn bó cùng thơ, yêu thơ và trải lòng với thơ, Nguyễn Trọng Tạo
đã tạo dựng được cho mình một chỗ đứng vững chắc trong lòng độc giả cũng như
trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam. Giọng điệu thơ ông vẫn triết lý sâu lắng, vẫn
khỏe khoắn thậm chí còn hào hứng hơn xưa khi ông viết về Tổ quốc thân yêu. Dành
cả đời để sống với đam mê thi ca, Nguyễn Trọng Tạo đã đi tìm những mảnh ghép
của cuộc sống hiện đại nhưng vẫn không mất đi nét truyền thống để ghép nối lại
thành thơ – một thứ thơ mặn mà, tình tứ mang đậm phong cách Nguyễn Trọng Tạo.
Nhìn chung mọi vấn đề luôn được chúng tôi xem xét trong sự vận động và có
thể khẳng định trên phương diện nghệ thuật, thơ Nguyễn Trọng Tạo đã có những
cách tân táo bạo, nội dung phản ánh đa chiều. Điều đó hứa hẹn một mảnh đất để
người nghiên cứu đi sâu tìm hiểu khám phá những giá trị mới.

114
Kết luận
1. Hành trình sáng tạo thơ của Nguyễn Trọng Tạo là hành trình tự đổi mới tư
duy sáng tạo. Ông đến với nghệ thuật bằng niềm đam mê cháy bỏng từ nhỏ và một
tinh thần lao động hăng say, miệt mài, nghiêm túc. Trải qua nhiều gian khổ, khó
khăn để rèn luyện, Nguyễn Trọng Tạo đã khẳng định được vị trí của mình trong nền
văn học nước nhà, mang lại những đóng góp lớn lao cho nền thơ hiện đại Việt Nam.
Nhà nghệ sĩ không những sáng tạo một cách nhiệt thành, mà càng về sau ông càng
cho ra đời những tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao. Trường ca Biển mặn của nhà
thơ ra đời chính là một minh chứng tiêu biểu cho sự sáng tạo không ngừng nghỉ ấy.
Giờ đây, đã ở vào cái tuổi xưa nay hiếm, Nguyễn Trọng Tạo vẫn chưa cho phép bản
thân nghỉ ngơi. Đối với ông, nhà thơ có tâm huyết thì mới mong tạo được thơ hay.
Ông vẫn đều đặn sáng tác, vẽ nên cái đẹp, truyền gửi cảm xúc chân thành của mình
vào thơ.
2. Là nhà thơ có vị trí trong văn chương đương đại, sự nghiệp cầm bút và
sáng tác của Nguyễn Trọng Tạo đã đóng góp một khối lượng lớn các tác phẩm ở
nhiều thể loại như thơ, truyện ngắn, tiểu luận phê bình trong đó thành tựu về thơ là
nổi bật nhất. Thơ Nguyễn Trọng Tạo bộc lộ bản lĩnh và phong cách lớn ảnh hưởng
sâu rộng đến tiến trình đổi mới văn chương đương đại của nước nhà. Chất trí tuệ nổi
bật, yếu tố trữ tình phong phú, sắc sảo đã tạo nên một tiếng thơ không lẫn được với
ai. Thơ Nguyễn Trọng Tạo gợi lên cho người đọc tư tưởng đạo đức sâu sắc ẩn giấu
đằng sau các biểu tượng thơ. Càng đọc kĩ, chúng ta càng thấu hiểu thơ Nguyễn
Trọng Tạo là thứ thơ khao khát kiếm tìm, khám phá những giá trị tư tưởng triết lí
sâu sắc thể hiện lòng yêu người, yêu đời và yêu cuộc sống một cách nhiệt thành của
tác giả.
3. Sự ra đời của Tuyển tập Thơ và trường ca Nguyễn Trọng Tạo có ý nghĩa
đặc biệt trên hành trình sáng tạo nghệ thuật thơ Nguyễn Trọng Tạo nói riêng và của
tiến trình đổi mới thơ sau 1986 nói chung. Với những trang thơ và trường ca, người
đọc có cái nhìn đầy đủ hơn về một gương mặt tiêu biểu của nền thơ Việt Nam hiện
đại. Nhà thơ đã có nhiều cách tân mới mẻ trong quan niệm nghệ thuật về thi ca và

115
thi nhân. Sau những năm tháng đầy biến động của kháng chiến, rồi hậu chiến,
chuyển sang thời kì đổi mới đất nước, Nguyễn Trọng Tạo đã chiêm nghiệm và trình
bày cảm hứng phản ánh hiện thực của mình nhằm góp phần tạo ra một xã hội lành
mạnh. Những nguồn cảm hứng lớn được thể hiện trong thơ ông là những vấn đề
tinh túy nhất đã được chọn lọc qua lăng kính nghệ thuật và tâm hồn thơ dạt dào cảm
xúc. Viết về con người, về tình yêu hay những buồn vui thế sự, thơ ông luôn hướng
đến tinh thần xây dựng xuất phát từ tình cảm đằm thắm chân thành của cái tôi thi sĩ
với mong muốn tạo dựng nên một xã hội tươi đẹp hơn, lành mạnh hơn - một xã hội
mà ở đó con người sống với nhau chỉ có tình người, không có bon chen dục vọng,
chỉ có tình yêu và tiếng hát không có sự chia ly và những giọt nước mắt.
4. Sự kết hợp đan xen hình thức trữ tình và tự sự, Nguyễn Trọng Tạo vẫn
hướng ngòi bút của mình vào các vấn đề nhạy cảm của thời cuộc, nhưng nếu trong
thời kì tham gia quân ngũ Nguyễn Trọng Tạo khai thác nhiều về đề tài chiến tranh
và người lính, thì sau đổi mới Nguyễn Trọng Tạo lại hướng về cảm hứng thế sự.
Triết lý trong thơ ông sau này vẫn tiếp nối những nghĩ suy về con người, dân tộc,
tình yêu, sự sống và cái chết, về thi ca và …vv… Giọng điệu là yếu tố quan trọng
tạo nên phong cách nghệ thuật của nhà thơ và có vai trò đặc biệt quan trọng trong
nghệ thuật ngôn từ. Có thể khẳng định Nguyễn Trọng Tạo là nhà thơ có phong cách
đa giọng điệu. Trong trường ca và thơ viết về chiến tranh, thơ ông mang giọng ca
hào sảng, trầm hùng để cổ vũ cho cuộc chiến của chúng ta. Viết về cảm hứng thế
sự, thơ ông lại mang giọng triết lý sâu lắng nhằm trình bày những nghĩ suy về cuộc
đời. Viết về tình yêu, thơ Nguyễn Trọng Tạo thể hiện một giọng tâm sự giãi bày.
Cho nên, thơ Nguyễn Trọng Tạo có chất giọng gần gũi với cuộc sống hàng ngày và
mang đậm cá tính sáng tạo.
5. Ngôn ngữ thơ Nguyễn Trọng Tạo đặc sắc và được chọn lọc sử dụng một
cách đầy sáng tạo. Nhà thơ chọn cho mình cách dùng ngôn ngữ mộc mạc, bình dị,
gần gũi với lời nói thường ngày để giãi bày, tâm sự,… Một ngôn ngữ đậm chất thơ
vừa thể hiện chút mượt mà, tâm tình của thơ ca truyền thống, vừa thể hiện những
“góc cạnh” của thơ đương đại, đã tạo nên sức lôi cuốn, hấp dẫn với người đọc. Vận

116
dụng lối nói đồng dao của con trẻ vào việc làm thơ cho người lớn là một sự sáng tạo
tinh tế của nhà thơ. Chính cuộc sống muôn màu là động lực thúc đẩy sự thay đổi
tích cực. Bằng nỗ lực nghệ thuật không mệt mỏi, Nguyễn Trọng Tạo luôn muốn
khẳng định cái tôi cá nhân và thật lòng muốn làm một cuộc thay đổi trong cách
nhìn, cách nghĩ và cả trong hành động. Những vần thơ của ông càng về sau càng thể
hiện rõ tâm thế của một nghệ sĩ làm chủ nghệ thuật.

Tiếp cận thơ Nguyễn Trọng Tạo qua đặc điểm thơ và trường ca, chúng ta
nhận ra dường như lúc nào nhà thơ cũng muốn đi đến đáy của những suy tư thời
đại. Cho nên thơ ông luôn thể hiện những khát vọng cách tân thi ca, say đắm nồng
nhiệt với tình yêu, nhạy cảm với những khát vọng hướng tới một xã hội tốt đẹp. Để
tổ chức lên một thế giới thơ sinh động lôi cuốn và hấp dẫn ấy, Nguyễn Trọng Tạo
đã sử dụng một cách linh hoạt, hiệu quả nhiều phương thức thể hiện. Nhà thơ đã
vận dụng nhuần nhuyễn hơn cả ở ba thể thơ, đó là lục bát, thơ năm chữ và thơ tự do.
Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào trong sáng của câu thơ lục bát phù hợp với tâm hồn
nhạy cảm, nhân hậu của tác giả … sự phong phú của ngôn ngữ thơ mang tính biểu
tượng, giàu nhạc điệu và nhịp điệu góp phần tạo nên tính nhạc trong thơ. Bên cạnh
đó là sự thể hiện tình cảm ngợi ca, tự hào của nhà thơ đối với quê hương đất nước,
về những con người dũng cảm hi sinh máu xương trong những ngày tháng khốc liệt
đau thương của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Là người con sinh ra và lớn
lên trong khói lửa chiến tranh, Nguyễn Trọng Tạo ý thức sâu sắc về trách nhiệm của
một công dân. Vì thế, cái tôi trữ tình trong thơ ông luôn hướng về những giá trị
truyền thống của cha ông, hướng về nguồn cội, quê hương và người thân với một
tấm lòng trân trọng, biết ơn sâu sắc.
Để khám phá cuộc sống một cách đầy đủ, Nguyễn Trọng Tạo đã trải lòng
mình với nhân sinh. Nhà thơ mong muốn được chia sẻ, cảm thông, thấu hiểu hơn
với tình đời, tình người. Đó cũng là nỗi trăn trở, suy tư của nhà thơ về nhân thế để
rồi rút ra những triết lý sâu sắc về cuộc đời. Cái tôi triết lý đã được đúc kết từ sự trải
nghiệm của bản thân, từ những chiêm nghiệm, nghĩ suy, do đó rất mực chân thành
và cảm hóa tâm hồn bao người. Qua tìm hiểu đặc điểm thơ và trường ca Nguyễn

117
Trọng Tạo người nghiên cứu được khám phá một cách đầy đủ, toàn diện hơn về thơ
ông. Từ đây chúng ta hiểu và yêu hơn những vần thơ cũng như chính con người nhà
thơ. Tuy nhiên, do dung lượng của luận văn có hạn nên người viết chỉ khảo sát
những vấn đề cơ bản và nổi bật nhất với những tác phẩm tiêu biểu của tác giả. Còn
nhiều điều để ngỏ, đó cũng là hướng để những ai quan tâm và yêu mến thơ Nguyễn
Trọng Tạo tiếp tục khai thác và nghiên cứu một cách đầy đủ hơn.

118
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1981), “Bàn góp thêm về trường ca”, Tạp chí văn nghệ
Quân đội (số 1), tr.121-123
2. Alain de Botton (2015), Sự an ủi của triết học, Nxb Thế giới, Hà Nội
3. Phạm Quốc Ca (2003), Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975 – 2000, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội
4. Nguyễn Phan Cảnh (2000), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn học, Hà Nội
5. Vũ Cao (1996), “Nguyễn Trọng Tạo – một người thơ lẻ loi”,
http://hoiluan.vanhocvietnam.org
6. Hoàng Cầm (2000), “Đọc lại Đồng dao cho người lớn”, nguyentrongtao.info
7. Nguyễn Huệ Chi, Trần Hữu Tá (2005 – đồng chủ biên), Từ điển văn học,
Nxb Thế giới
8. Nguyễn Việt Chiến (2007), Thơ Việt Nam tìm tòi và cách tân (1975 – 2000),
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
9. Nguyễn Hữu Công (2012), Tư duy nghệ thuật thơ Nguyễn Trọng Tạo, Tóm
tắt luận văn Thạc sĩ ngữ văn, http://nguyentrongtao.vnwedblogs.com
10. Mary E. Croy (2009), “Thơ Nguyễn Trọng Tạo một tầm nhìn tươi mới về
văn hóa Việt Nam”, Nguyễn Phan Quế Mai dịch,
http://wwwnguyentrongtao.info
11. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
12. Trịnh Quốc Dũng (2010), “Thử đọc vị Nguyễn Trọng Tạo”,
vanhoanghean.com.vn
13. Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
14. Hà Minh Đức (1987), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại (tái
bản lần thứ nhất), Nxb Giáo dục, Hà Nội
15. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà
Nội.

119
16. Nguyễn Đăng Điệp (2011), “Nguyễn Trọng Tạo chớp mắt với ngàn năm”,
Lời giới thiệu Trường ca Nguyễn Trọng Tạo, Nxb Hội nhà văn
17. Trần Thanh Đạm (1989), Bàn thêm về vấn đề con người trong văn học, Văn
nghệ 35/1989, tr2-3
18. Hữu Đạt (1987), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội
19. Nhiều tác giả (1999), 50 năm văn học Việt Nam sau CMT8, Nxb ĐHQG, Hà
Nội.
20. Nguyễn Văn Hạnh, (1979), Suy nghĩ về văn học, Nxb Văn học, Hà Nội
21. Nguyễn Văn Hạnh (1998), Suy nghĩ về thơ Việt Nam sau 1975, Tạp chí văn
học, số 9
22. Trần Thị Hồng Hải (2006), Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Trọng Tạo,
Khóa luận tốt nghiệp, http://doc.edu.vn
23. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 1997), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
24. Bùi Công Hùng (2001), Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại, Nxb Văn
hóa thông tin
25. Hoàng Ngọc Hiến (1984), Về đặc trưng của trường ca, Tạp chí văn học (số
3)
26. Hoàng Ngọc Hiến (2006), Những ngả đường vào văn học, Nxb Giáo dục
27. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
28. Nguyễn Thái Hòa (1999), Tiếng Việt và thể thơ lục bát, Tạp chí văn học, số
2
29. Nguyễn Trọng Hoàn (2002), Tiếp cận tác phẩm văn học, Nxb Khoa học xã
hội
30. Nguyễn Văn Hùng (2011), Ngôn ngữ thơ Nguyễn Trọng Tạo, Luận văn
Thạc sĩ ngữ văn, Đại học Vinh, Nghệ An
31. Vũ Thị Thùy Hương (2010), “Thơ Nguyễn Trọng Tạo - sự đổi mới trên nền
truyền thống”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (số 6).

120
32. Mai Hương (2000), “Thơ Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh cách mạng”,
Tạp chí văn học (số 6).
33. Nguyễn Thụy Kha (2011), “Nguyễn Trọng Tạo – Người tận lực cho thơ”,
NXB Hội nhà văn.
34. Nguyễn Thụy Kha (1998), “Viết lại chiến tranh trong thời bình”, Tạp chí
văn nghệ Quảng Ngãi (số 4 – 5).
35. Đỗ Trọng Khơi (2001), “Đọc thơ Nguyễn Trọng Tạo”, Báo văn nghệ - Hội
nhà văn Việt Nam
36. Thụy Khuê (Paris – 1993), Đồng dao cho người lớn, Nhà xuất bản Văn học,
Hà Nội 1994, tái bản 1999.
37. Hoàng Thị Lan (2011), Ngôn ngữ thơ Nguyễn Trọng Tạo trong Đồng dao
cho người lớn, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh, Nghệ An,
38. Già Làng (2011), “Thơ Nguyễn Trọng Tạo và những nét cách tân”,
http://yumi.vn
39. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội
40. Nguyễn Văn Long, Lê Mai, Phạm Khánh Cao (1983), Tư liệu thơ hiện
đại Việt Nam (sách ĐHSP), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
41. Nguyễn Thế Lượng (2003), “Hình tượng người chiến sĩ trong trường ca
Nguyễn Trọng Tạo”, http://www.baomoi.com.
42. Lê Huy Mậu (2007), “Nguyễn Trọng Tạo người tự sắm vai mình”,
http://www.thivien.net.
43. Nguyễn Thị Mừng (2013), Thơ Nguyễn Trọng Tạo từ góc nhìn tư duy nghệ
thuật, Luận văn Thạc sĩ ngữ văn, trường ĐHKHXH &NV Hà Nội
44. Nga Linh Nga (2004), “Khúc đồng dao của những khát vọng”,
http://nguyentrongtao.vnwedblogs.com
45. Triều Nguyên (2008), “Sự vận dụng đồng dao vào việc làm thơ”, Tạp chí
Sông Hương (số 232) tr.2

121
46. Nguyễn Xuân Nam (1984), Nhà thơ Việt Nam hiên đại, Ủy ban khoa học xã
hội Việt Nam, Viện văn học
47. Cao Xuân Phát (2011), “Nguyễn Trọng Tạo người chọn thơ làm nghiệp”,
tapchinhavan.vn
48. G.N. Pospeslov (chủ biên), (1985), (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Nguyễn
Nghĩa Trọng dịch), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 1, Nxb Giáo dục.
49. Nguyễn Ngọc Phú (2013), “Về bài thơ Mẹ tôi của Nguyễn Trọng Tạo”,
nguyentrongtao.vnweblogs.com
50. Chu Văn Sơn (2009), “Thanh Thảo với trường ca”,
nguồn http://phongdiep.net
51. Trịnh Thanh Sơn (2007), “Thế giới không còn trăng, sự giễu nhại và nỗi
buồn đau sâu thẳm” http://wwwthivien.net
52. Trịnh Thanh Sơn (2004), “Thơ trữ tình Nguyễn Trọng Tạo”
http://nguyentrongtao.vnwedblogs.com
53. Thiên Sơn (2011), “Nguyễn Trọng Tạo kẻ vớt trăng bao lầm trăng vỡ nát”,
Vanhoc’s Blogs, http://vanhoc.vn
54. Đặng Thị Mai Sương (2014), Tính chính luận và tính thế sự trong thơ
Nguyễn Trọng Tạo, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh, nghệ An
55. Nguyễn Trọng Tạo (1980), “Trường ca – bản lĩnh- sức vóc của người viết”,
Tạp chí văn nghệ Quân đội (số 11), tr.19-23
56. Nguyễn Trọng Tạo (1980), Gương mặt tôi yêu, Nxb Quân đội nhân dân
57. Nguyễn Trọng Tạo (1981), “Chất trẻ thơ chống Mỹ”,
https://nhathonguyentrongtao.wordpress.com
58. Nguyễn Trọng Tạo (1999), Đồng dao cho người lớn, Nxb Văn học, Hà Nội
59. Nguyễn Trọng Tạo (1998), Văn chương cảm và luận, Nxb Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
60. Nguyễn Trọng Tạo (1999), Nương thân, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
61. Nguyễn Trọng Tạo (2006), Thế giới không còn trăng, Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội

122
62. Nguyễn Trọng Tạo 2008, Em đàn bà, Nxb Lao động, Hà Nội.
63. Nguyễn Trọng Tạo (2011), Thơ và trường ca, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
64. Nguyễn Trọng Tạo (2011), “Những vần thơ trên con đường chạy thẳng vào
tim”, http//.www.cand.com.vn
65. Nguyễn Trọng Tạo (2012), “Thơ bây giờ không phải ở trên cao”,
baomoi.com.vn
66. Thanh Thảo (2009), “Có thể nào Thơ bật gốc giữa hồn anh?”
http://nttnew.vnweblogs.com
67. Vân Thanh, “Nguyễn Trọng Tạo và một thế giới không còn trăng”,
http//evan.com
68. Nguyễn Bá Thành (2012), Tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Đại học quốc
gia, Hà Nội.
69. Nguyễn Đình Thi (2003), “Mấy ý nghĩ về thơ”, Phụ san thơ - Văn nghệ
(quý 2).
70. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb KHXH, Hà Nội.
71. Nguyễn Thanh Tú (2014), “Tượng đài người lính trong trường ca đương
đại”, www.quandoinhandan.vn
72. Hoàng Trung Thông (chủ biên) (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ
cứu nước, Nxb Khoa học Xã hội
73. Đỗ Trường (2012), “Nguyễn Trọng Tạo - người bước ra từ ca dao, lục bát”,
danlambaovn.blogspot.com/
74. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1994), “Lời tựa Đồng dao cho người lớn”, Nxb
Hội nhà văn
75. Chế Lan Viên (2002), Ánh sáng và phù sa, Nxb Văn học, Hà Nội.
76. Kiến Văn (2011), “Nguyễn Trọng Tạo và những cái mới không hề gây sốc”,
http://thethaovanhoa.vn
77. Trần Đăng Xuyền (2002), nhà văn – nhận thức đời sống và cá tính sáng tạo,
Nxb Văn học, Hà Nội.

123

You might also like