Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 39

POLITICAL ECONOMICS

1. Tại sao Kinh tế chính trị Mác – Lênin phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa?
Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, Karl Marx bắt đầu từ phân tích sản
xuất hàng hóa? (PAGE 3)
2. Phân tích mối liên hệ giữa giá trị hàng hóa – giá trị trao đổi – giá cả - tiền tệ. (PAGE 3)
3. Phân tích mặt chất và mặt lượng giá trị hàng hóa. Tại sao giá trị hàng hóa là lao động xã
hội của người sản xuất hàng hóa mà không phải lao động tư nhân. (PAGE 4)
4. Mặt chất và lượng của hàng hóa có quan hệ gì đến hai thuộc tính của hàng hóa. Phân tích
mối quan hệ giữa tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa với hai thuộc tính của
hàng hóa. (PAGE 5)
5. Tại sao lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Phân
tích những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa. Để nâng cao sức cạnh tranh
hàng hóa trên thị trường, người sản xuất hàng hóa cần làm gì? (PAGE 7)
6. Kinh tế thị trường là gì? Kinh tế thị trường có từ bao giờ? Tại sao nói kinh tế thị trường là
sản phẩm của văn minh nhân loại. (PAGE 9)
7. Nguồn gốc, các hình thức biểu hiện và mục đích nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư của
Karl Marx. (PAGE 10)
8. Phân tích tư bản là gì và mâu thuẫn công thức chung của tư bản. Tại sao Marx nói: “Nếu
không mang hình thái hàng hóa, tiền không thể trở thành tư bản được” [Các Mác: Tư bản,
Tập thứ nhất, quyển 1, phần 1, NXB Tiến bộ Mát –xcơ-va, NXB Sự thật, Hà nội, 1984 –
trang 202] (PAGE 11)
9. Phân tích điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa. Tại sao hàng hóa sức lao động lại
đặc biệt? Tại sao nghiên cứu hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn
công thức chung của tư bản. (PAGE 13)
10. Giá trị thặng dư có phải là phát minh của CNTB không? Giá trị thặng dư TBCN là gì?
Phân tích tại sao nhà tư bản mua hàng hóa sức lao động đúng giá trị (nguyên tắc ngang
giá) mà vẫn được cho là bóc lột sức lao động làm thuê? (PAGE 16)
11. Thế nào là nhà tư bản. Có nên khuyến khích các nhà tư bản phát triển ở Việt Nam hiện
nay? (PAGE 17)
12. Tại sao nói tiền công bị nhầm tưởng là giá cả của lao động. Người lao động cần phải làm
gì để cải thiện tiền công? (PAGE 18)
13. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư. Tại sao giá trị thặng dư siêu ngạch là hình
thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Cho ví dụ về giá trị thặng dư siêu ngạch?
Ý nghĩa của việc nghiên cứu. (PAGE 19)
14. Tổ chức độc quyền là gì? Nguyên nhân hình thành tổ chức độc quyền? (PAGE 26)
15. Các hình thức tổ chức độc quyền? Tại sao Trust phát triển chủ yếu ở Mỹ và Cartel phát
triển chủ yếu ở Đức vào đầu thế kỷ XX. So sánh giữa Cartel và Trust. (PAGE 27)
16. Tư bản tài chính là gì? Mối quan hệ giữa chủ nghĩa đế quốc TBCN và chủ nghĩa tư bản
giai đoạn độc quyền thống trị. (PAGE 30)
17. Xuất khẩu tư bản là gì? Các hình thức xuất khẩu tư bản. Tại sao nói xuất khẩu tư bản gắn
với giai đoạn độc quyền TBCN? Biểu hiện xuất khẩu tư bản sau chiến tranh thế giới thứ
II. (PAGE 31)
18. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ra đời từ khi nào? Đặc trưng của kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? (PAGE 34)
19. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Tại sao phải hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. (PAGE 35)
20. Lợi ích kinh tế là gì? Biểu hiện của lợi ích kinh tế. Các quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản
trong nền kinh tế thị trường. (PAGE 36)
21. Cách mạng công nghiệp là gì? Đặc trưng của các cuộc cách mạng công nghiệp. (PAGE
39)
22. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì? Tại sao Việt Nam phải công nghiệp hóa, hiện đại
hóa? Tại sao CNH, HĐH ở Việt Nam phải thích ứng với cách mạng công nghiệp lần thứ
4. (PAGE 40)
23. Hội nhập kinh tế quốc tế là gì? Tại sao Việt Nam phải hội nhập kinh tế quốc tế? (PAGE
43)
24. Phân tích tác động tích cực và tiêu cực và phương hướng nâng cao hiệu quả hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam. (PAGE 44)

1. Tại sao Kinh tế chính trị Mác – Lênin phân tích phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa? Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, Karl Marx bắt đầu từ
phân tích sản xuất hàng hóa?
2. Phân tích mối liên hệ giữa giá trị hàng hóa – giá trị trao đổi – giá cả - tiền tệ.
Giá trị của hàng hoá là một thuộc tính của hàng hoá, đó chính là lao động hao phí
của người sản xuất để sản xuất ra nó đã được kết tinh vào trong hàng hoá.
Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỉ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại
hàng hoá này được trao đổi với một giá trị sử dụng khác, trên một cơ sở chung, cái
chung đó là lao động (thời gian lao động và công sức lao động) được chứa đựng
trong hàng hoá, đó chính là cơ sở giá trị của hàng hoá.
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị trao đổi của hàng hoá, Về nghĩa rộng đó là số
tiền phải trả cho một hàng hoá, một dịch vụ, hay một tài sản nào đó.
- Giá cả của một mặt hàng phụ thuộc vào:

● Giá trị của bản thân hàng hoá đó: tức là số thời gian và công sức lao động làm ra

nó.

● Giá trị của đồng tiền.

Tiền tệ là tiền khi chỉ xét tới chức năng là phương tiện thanh toán, là đồng tiền được
luật pháp quy định để phục vụ trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia hay nền
kinh tế.

- Mối quan hệ giữa giá trị của hàng hóa và giá trị trao đổi: Tuy hai hàng hóa
khác nhau,nhưng chúng lại có thể trao đổi đượ với nhau vì chúng đều có cơ sở
chung đó là sự hao phí lao động của con người, là giá trị hàng hóa. Song giá trị
hàng hóa chỉ biểu hiện thông qua trao đổi, do đó muốn hiểu được giá trị hàng hóa
ta phải đi từ giá trị trao đổi. Theo Mác viết:” Giá trị trao đổi biểu hiện là một quan
hệ về số lượng, là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi
với những giá trị sử dụng loại khác”. Quan hệ tỉ lệ ấy là do lượng giá trị hàng hóa
hay lượng lao động xã hội cần thiết đã hao phí để sản xuất ra các loại hàng hóa chi
phối, tức là do giá trị hàng hóa quyết định.
- Mối liên hệ giữa tiền tệ và giá cả: Trong phương trình trao đổi của Irving Fisher,
mối liên hệ giữa tiền tệ và giá cả được thể hiện bởi phương trình định lượng:
MV=P*Q
Trong đó: M là khối lượng tiền tệ giao dịch
V là tốc độ lưu thông tiền tệ
P là mức giá của rổ tiền tệ được chọn
Q là mức thu nhập thực tế.

Tiền tệ ảnh hưởng đến sự hình thành và vận động của giá cả.
- Mối liên hệ giữa giá trị hàng hóa và giá cả: Giá trị hàng hóa là yếu tốt quyết
định giá cả. Giá trị của hàng hóa tỷ lệ thuận với giá cả của hàng hóa.

3. Phân tích mặt chất và mặt lượng giá trị hàng hóa. Tại sao giá trị hàng hóa là lao
động xã hội của người sản xuất hàng hóa mà không phải lao động tư nhân.
- Mặt chất của giá trị hàng hóa:
- Khái niệm: Chất giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa.
- Ví dụ : (tụi bây chọn nghề khác nhe cho khỏi trùng: thợ mộc, thợ hồ, thợ sản xuất
xe, thợ đóng tàu,…) Người thợ đóng tàu và người thợ may , nếu xét về mặt lao động cụ
thể thì hoàn toàn khác nhau , nhưng nếu gạt bỏ những sự khác nhau ấy sang một bên thì
chúng chỉ còn có một cái chung là đều phải hao phí sức óc, sức bắp thịt và sức thần kinh
của con người.
- Mặt lượng của giá trị hàng hóa
- Khái niệm: Lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng
hóa đó quyết định. Thước đo lượng giá trị hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã
hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một
hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội , tức là với một trình độ kỹ thuật trung
bình , trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã
hội nhất định .
- Ví dụ: (tụi bây chọn nghề với giờ khác nhe cho khỏi trùng)
+ Các công ty may hiện nay thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất
ra một cái áo là 4 giờ.
+ Các công ty về giày da, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
một chiếc giày là 1 giờ.
Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa mà không phải lao
động tư nhân vì:

Giá trị của hàng hoá là một thuộc tính của hàng hoá, đó chính là lao động hao phí của
người sản xuất để sản xuất ra nó đã được kết tinh vào trong hàng hoá. ... Lao động sản
xuất hàng hóa có tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Chính tính hai
mặt đó phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của người sản xuất hàng hóa.
Lao động của mỗi người sản xuất hàng hóa, nếu xét về mặt hao phí sức lực nói chung,
tức lao động trừu tượng, thì nó luôn là một bộ phận của lao động xã hội thống nhất,
nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên lao động trừu tượng là biểu hiện
của lao động xã hội.

4. Mặt chất và lượng của hàng hóa có quan hệ gì đến hai thuộc tính của hàng hóa.
Phân tích mối quan hệ giữa tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa với
hai thuộc tính của hàng hóa.
a. Mặt chất và lượng của hàng hóa có quan hệ gì đến hai thuộc tính của hàng hóa:
- Hàng hóa: Là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi buôn bán.
- Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị (giá trị trao đổi).
+ Giá trị sử dụng: công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu của con
người.
+ Giá trị: là hao phí lao động của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa.
Giá trị của hàng hóa được xét về chất, nó được quyết định bởi lao động. Chất của giá
trị là lao động hao phí.
Lượng của giá trị là số lượng lao động hao phí được xác định bằng số lượng lao động
hao phí ở mức độ trung bình của xã hội.
b. Mối quan hệ giữa tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa với hai thuộc
tính của hàng hóa.

Hàng hóa có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị. Hai thuộc tính đó do tính chất hai mặt
của lao động sản xuất hàng hóa quyết định. Chính tính hai mặt của lao động sản xuất hàng
hoá quyết định tính hai mặt của bản thân hàng hoá.
- Lao động mang tính hai mặt: vừa là lao động cụ thể, vừa là lao động trừu tượng.

+ Lao động cụ thể

● Khái niệm: Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những

nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng
riêng, phương tiện riêng, phương pháp riêng, và kết quả riêng.

● Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa. Nếu phân công lao động xã hội

càng phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu xã hội.
+ Lao động trừu tượng

● Khái niệm: Lao động của người sản xuất hàng hoá, nếu coi đó là sự hao phí óc,

sức thần kinh của sức cơ bắp nói chung của con người, chứ không kể đến hình
thức cụ thể của nó như thế nào, thì gọi là lao động trừu tượng.

● Lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa tạo ra giá trị của hàng hóa là lao

động trừu tượng kết tinh trong hàng hóa.

5. Tại sao lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.
Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa. Để nâng cao
sức cạnh tranh hàng hóa trên thị trường, người sản xuất hàng hóa cần làm gì?
a. Lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết vì:

Khái niệm “thời gian lao động xã hội” dùng để bổ sung, giải thích cho khái niệm giá trị của
hàng hóa. Theo đó, giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội, lao động trừu tượng của người
sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Và lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng
lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó và lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng
thời gian lao động.

Như vậy, việc dùng đại lượng thời gian lao động để đo giá trị của sản phẩm, hàng hóa có thể
dẫn đến mâu thuẫn và gây ngộ nhận rằng người sản xuất ra hàng hóa hay người lao động
càng làm biếng hay càng vụng về bao nhiêu thì lượng giá trị hàng hóa của anh ta lại càng lớn
bấy nhiêu, vì anh ta càng phải dùng nhiều thời gian hơn để sản xuất ra hàng hóa đó. Như vậy
sẽ dẫn đến trường hợp một người làm việc chậm chạp, lê mề, làm việc mất thời gian thì hàng
hóa của anh ta tạo ra sẽ có giá trị lớn (vì giá trị là thời gian lao động hao phí, thời gian hao
phí càng nhiều thì giá trị càng lớn).

Chính vì vậy, khái niệm “Lao động xã hội cần thiết” được đưa ra để giải thích cụ thể, theo
đó lao động tạo thành thực thể của giá trị là thứ lao động giống nhau của con người và là
chi phí của cùng một sức lao động của con người cho nên nó có tính chất của một sức lao
động xã hội trung bình. Do đó, để sản xuất ra một hàng hóa nhất định, chỉ cần dùng một
thời gian lao động trung bình cần thiết hoặc "thời gian lao động xã hội cần thiết".
b. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa

Có 3 yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hoá là:

- Năng suất lao động


- Cường độ lao động
- Mức độ phức tạp của lao động

Cụ thể:

1. Năng suất lao động: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, được tính
bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đợn vị thời gian hoặc số lượng thời gian
cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.

Khi tất cả các yếu tố khác không đổi: Năng suất lao động xã hội tăng -> Số lượng hàng
hoá được sản xuất ra trong cùng 1 đơn vị thời gian tăng; nghĩa là thời gian lao động xã
hội cần thiết để sản xuất ra 1 đơn vị hàng hoá giảm -> lượng giá trị của một đơn vị hàng
hoá giảm.

→ Sự thay đổi của năng suất lao động tác động theo tỷ lệ nghịch đến lượng giá trị của
một đơn vị hàng hóa nhưng tác động đến tổng lượng giá trị của tổng số hàng hóa được
sản xuất ra trong cùng một đơn vị thời gian.

2. Cường độ lao động: Cường độ lao động là mức độ hao phí lao động của người lao
động trong một đơn vị thời gian, được tính bằng số calo hao phí trong 1 đơn vị thời
gian.

Khi tất cả các yếu tố khác không đổi: Cường độ lao động tăng -> mức độ hao phí lao
động tăng -> tổng số hàng hoá được sản xuất ra trong cùng 1 đơn vị thời gian tăng đồng
thời với sự tăng của tổng lượng hao phí -> nên lượng hao phí lao động để sản xuất ra 1
đơn vị hàng hoá không đổi -> lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá không đổi.

→ Như vậy, sự thay đổi của CĐLĐ không tác động đến lượng giá trị của một đơn vị
hàng hóa nhưng nó tác động theo tỷ lệ thuận đến tổng lượng giá trị của tổng số hàng hóa
được sản xuất ra trong cùng một đơn vị thời gian.
3. Mức độ phức tạp của lao động: Ảnh hưởng theo tỷ lệ THUẬN đến lượng giá trị của
một đơn vị hàng hóa bà TỔNG lượng giá trị của tổng số hàng hóa đưỡn sản xuất ra
trong cùng 1 đơn vị thời gian
c. Để nâng cao sức cạnh tranh hàng hóa trên thị trường, người sản xuất hàng hóa cần
làm gì?

- Tăng năng suất lao động, tăng trình độ chuyên môn của người lao động
- Ứng dụng sự phát triển của khoa học – kỹ thuật, công nghệ
- Cải thiện trình độ tổ chức quản lý sản xuất, quy mô và hiệu suất tư liệu sản xuất.
- Nâng cao thể chất, tinh thần, tay nghề, ý thức của người lao động.

6. Kinh tế thị trường là gì? Kinh tế thị trường có từ bao giờ? Tại sao nói kinh tế thị
trường là sản phẩm của văn minh nhân loại.
- Kinh tế thị trường: là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động
với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá,
dịch vụ trên thị trường.
- Kinh tế thị trường có từ bao giờ: Xuyên suốt tiến trình lịch sử, mọi xã hội đều
phải đối mặt với một vấn đề kinh tế cơ bản là việc quyết định phải sản xuất cái gì
và cho ai trong một thế giới mà các nguồn tài nguyên bị hạn chế. Trong thế kỷ 20,
nhìn chung có hai cơ chế kinh tế đối chọi nhau đã mang những kết quả rất khác
nhau, đó là: nền kinh tế chỉ huy được định hướng từ chính phủ trung ương và nền
kinh tế thị trường được dựa trên doanh nghiệp tư nhân. Vào buổi bình minh của
thế kỷ 21, một điều rõ ràng đối với toàn thế giới là nền kinh tế chỉ huy, tập trung
đã thất bại trong việc duy trì tăng trưởng kinh tế, trong việc đạt được sự thịnh
vượng, hoặc thậm chí trong việc bảo đảm an ninh kinh tế cho các công dân của
mình.
- Tại sao nói kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại:
+ KTTT với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao là thành tựu phát triển chung
của nhân loại. KTTT đã có mầm mống từ trong xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội
phong kiến và phát triển cao trong CNTB. Hay nói một cách khác, KTTT có lịch sử
phát triển lâu dài.
7. Nguồn gốc, các hình thức biểu hiện và mục đích nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư
của Karl Marx.
- Nguồn gốc: trên cơ sở lý luận giá trị lao động , C.Mác chỉ ra nguồn gốc của giá trị
thặng dư , thông qua so sánh công thức lưu thông hàng hóa giản đơn và công thức
lưu thông tư bản ( công thức chung của tư bản ) .
- Các hình thức biểu hiện:
1. Lợi nhuận: phần tài sản mà nhà đầu tư nhận thêm nhờ đầu tư sau khi đã trừ đi các
chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao gồm cả chi phí cơ hội, là phần chênh lệch giữa
tổng doanh thu và tổng chi phí (kinh tế học); là phần chênh lệch giữa giá bán và chi
phí sản xuất (kế toán).
2. Lợi tức: là một khái niệm trong kinh tế học dùng để chỉ chung về những khoản lợi
nhuận (lãi, lời) thu được khi đầu tư, kinh doanh hay tiền lãi thu được do cho vay hoặc
gửi tiết kiệm tai ngân hàng.
3. Địa tô tư bản chủ nghĩa: Địa tô tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch
ngoài lợi nhuận bình quân của tư bản đầu tư trong nông nghiệp do công nhân nông
nghiệp tạo ra mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ với tư cách
là kẻ sở hữu ruộng đất.
- Mục đích nghiên cứu:
- Quá trình sản xuất giá trị thặng dư được diễn ra trong suốt mối quan hệ giữa người
mua và người bán hàng hóa sức lao động
- Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, giá trị tháng dư mang bản chất kinh tế
- xã hội là quan hệ giai cấp, trong đó giai cấp các nhà tư bản làm giàu dựa trên cơ sở
thuê mướn lao động của giai cấp công nhân.
- Về mặt kinh tế, nhà tư bản không vi phạm quy luật kinh tế về trao đổi ngang giá.
Tuy nhiên trong trao đối ngang giá đó, giá trị thặng dư vẫn được tạo ra cho nhà tư bản
bằng lao động sống chứ không phải do máy móc sinh ra.

8. Phân tích tư bản là gì và mâu thuẫn công thức chung của tư bản. Tại sao Marx nói:
“Nếu không mang hình thái hàng hóa, tiền không thể trở thành tư bản được” [Các
Mác: Tư bản, Tập thứ nhất, quyển 1, phần 1, NXB Tiến bộ Mát –xcơ-va, NXB Sự
thật, Hà nội, 1984 – trang 202]
a. Tư bản hay vốn trong kinh tế học là khái niệm để chỉ những vật thể có giá trị, có khả
năng đo lường được sự giàu có của người sở hữu chúng. Tư bản là sở hữu về vật chất
thuộc về cá nhân hay tạo ra bởi xã hội. Theo Các Mác thì tư bản không phải là tiền,
không phải là máy móc, công cụ, nguyên liệu, hàng hóa, mà là quan hệ sản xuất của xã
hội hay một giá trị để tạo ra giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm thuê. Những
máy móc công cụ, nguyên liệu, hàng hóa, khi là tư liệu bóc lột mới là tư bản vì lúc đó
những thứ nói trên mới tạo ra giá trị thặng dư.
b. Mâu thuẫn công thức chung của tư bản: Trong công thức T - H – T’, trong đó T’ = T +
T. Vậy, giá trị thặng dư (T) do đâu mà có?
Lý luận giá trị khẳng định giá trị hàng hoá là lao động xã hội kết tinh trong hàng hoá, nghĩa là
nó chỉ được tạo ra trong sản xuất. Nhưng mới thoạt nhìn vào công thức ta đã có cảm giác giá
trị thặng dư được tạo ra trong lưu thông. Có phải lưu thông tạo ra giá trị thặng dư không?
Xét các trường hợp sau:
+ Trường hợp trao đổi ngang giá: chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị, từ tiền thành hàng
và từ hàng thành tiền, tổng giá trị trong tay mỗi người tham gia trao đổi trước sau vẫn không
thay đổi. Tuy nhiên, về mặt giá trị sử dụng, thì cả 2 bên trao đổi đều có lợi.
+ Trường hợp trao đổi không ngang giá: hàng hoá có thể bán cao hơn hoặc thấp hơn giá trị.
Nhưng, trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất đều vừa là người bán, vừa là người
mua. Cái lợi mà họ thu được khi bán sẽ bù cho cái thiệt khi mua và ngược lại. Cho dù có
người chuyên mua rẻ, bán đắt thì tổng giá trị toàn xã hội cũng không hề tăng lên, bởi vì số giá
trị mà người này thu được chẳng qua cũng chỉ là sự ăn chặn số giá trị của người khác mà thôi.
Như vậy, lưu thông và bản thân tiền tệ trong lưu thông không hề tạo ra giá trị mới.Nhưng nếu
người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông, tức là đứng ngoài lưu thông, thì cũng không
thể làm cho số tiền của mình lớn lên được.
Nhưng nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu thông, tức là đứng ngoài lưu thông, thì
cũng không thể làm cho số tiền của mình lớn lên được.Như vậy, mâu thuẫn của công thức
chung của tư bản biểu hiện ở chỗ: giá trị thặng dư vừa không được tạo ra trong lưu thông vừa
được tạo ra trong lưu thông để giải quyết mâu thuẫn này phải tìm trên thị trường một hàng
hóa có khả năng tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó, đó là hàng hoá sức lao động.
c. “Nếu không mang hình thái hàng hóa, tiền không thể trở thành tư bản được”
( Bỏ nha, hong biết làm mấy má ơi =))))))))

9. Phân tích điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa. Tại sao hàng hóa sức lao
động lại đặc biệt? Tại sao nghiên cứu hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải
quyết mâu thuẫn công thức chung của tư bản.

● Phân tích điều kiện để sức lao động thành hàng hóa:
Thứ nhất , người lao động phải được tự do về thân thể, sức lao động chỉ xuất hiện trên thị
trường với tư cách là hàng hoá, nếu nó do bản thân người có sức lao động đưa ra bán.
Vậy người lao động phải được tự do về thân thể , có quyền sở hữu sức lao động của mình,
thì mới đem bán sức lao động được. Trong các xã hội nô lệ và phong kiến , người nô lệ và
nông nô không thể bán sức lao động được , vì bản thân họ thuộc sở hữu của chủ nô hay
chúa phong kiến. Do đó việc biến sức lao động thành hàng hoá đòi hỏi phải thủ tiêu chế
độ nô lệ và nông nô.

Thứ hai, người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất. Nếu chỉ có điều kiện người lao
động được tự do về thân thể thì chưa đủ điều kiện để biến sức lao động thành hàng hoá, vì
nếu người lao động được tự do về thân thể mà lại có tư liệu sản xuất thì họ sẽ sản xuất ra
hàng hoá và bán hàng hoá do mình sản xuất ra chứ không bán sức lao động. Vì vậy, muốn
biến sức lao động thành hàng hoá, người lao động phải là người không có tư liệu sản xuất.
Chỉ trong điều kiện ấy người lao động mới bán sức lao động của mình, vì họ không còn
cách nào khác để sinh sống. Nếu người ko đc tự do về mặt pháp lí, tức là bị hạn chế 1 số
quyền nhất định thì cũng ko thể tự do thân thân thể hoàn toàn mà bán sức lao động (đi
làm thuê), hoặc chỉ có thể bán sức lao động ở 1 mức độ nhất định, ko phạm và các khả
năng bị hạn chế.

VD :

- Người hacker bị thực hiện các hành vi hack phần mềm và bị phạt tiền, bản án là 1
năm không được sử dụng máy vi tính. Như vậy người này vẫn có thể làm thuê ở công
việc bán hàng ăn hoặc lái xe hoặc các công việc không liên quan tới máy tính.

- Hiện nay 1 người nắm giữ tư liệu sản xuất ví dụ như nương rẫy , ruộng vườn... nhưng
vẫn đi làm công nhân cho 1 công ty tư nhân... như vậy người này vẫn gọi là bán sức lao
động vì họ làm việc và tạo thặng dư cho người khác, và sức lao động này vẫn là hàng hoá.
Đây là trường hợp bán sức lao động tự nguyện, tình trạng này hiện nay rất phổ biến.
XHCN thì việc bán sức lao động là công bằng, tức là trả lương theo đúng công sức... còn
ở TBCN thì chỉ trích 1 phần thắng dư trả cho người bán sức lao động.

● Hàng hóa sức lao động đặc biệt:


Không giống với những loại hàng hoá thông thường, hàng hoá sức lao động là loại hàng
hoá đặc biệt. Vì nó được hình thành bởi con người với những nhu cầu phức tạp và đa
dạng, về cả vật chất lẫn tinh thần theo quá trình phát triển của xã hội.

Theo đó, công nhân không chỉ có nhu cầu đáp ứng về vật chất mà còn cần đáp ứng những
nhu cầu về tinh thần như: giải trí, được khuyến khích, được tôn trọng,… Và như một lẽ dĩ
nhiên, những nhu cầu này luôn thay đổi và phát triển theo thời gian và sự phát triển của
xã hội.

Trong thuộc tính “giá trị”, hàng hoá sức lao động là hàng hóa đặc biệt, giá trị hàng hóa
sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó còn bao gồm cả yếu tố tinh thần
và lịch sử. Điều đó có nghĩa là, do con người là chủ thể của sức lao động, nên việc cung
cấp hàng hoá đặc biệt này sẽ phụ thuộc vào nhu cầu thực tế của cá nhân với những đặc
điểm riêng biệt về: tâm lý, nhận thức, văn hoá, khu vực địa lý, môi trường sinh hoạt,…

Bên cạnh đó, trong thuộc tính “ giá trị sử dụng”, quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng
hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ: hàng hóa thông thường sau quá
trình tiên dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo
thời gian. Trái lại, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động, đó lại là quá trình sản xuất
ra một loạt hàng hóa nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị
của bản thân hàng hóa sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư
bản đã chiếm đoạt. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc
biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của
bản thân nó. Nói cách khác, hàng hóa sức lao động tạo ra giá trị thặng dư khi được đem
vào sử dụng và chỉ có hàng hóa sức lao động mới có thể tạo ra giá trị thặng dư.

Tóm lại, hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt khi tồn tại đủ hai điều kiện về sự tự
do và nhu cầu bán sức lao động. Để duy trì điều kiện cho hàng hoá sức lao động tạo ra
những giá trị thặng dư, người sử dụng lao động phải đáp ứng những nhu cầu đặc biệt về
tâm lý, văn hoá và khu vực địa lý.

● Nghiên cứu hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn công

thức chung của tư bản


T - H - T’ với T’ = T + AT. Điều đặt ra là giá trị thặng dư (AT) do đâu mà có? Trong lưu
thông, dù người ta trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra giá trị
mới, do đó cũng không tạo ra giá trị thặng dư. Trao đổi ngang giá thì chỉ có sự thay đổi
hình thái của giá trị, từ tiền thành hàng và từ hàng thành tiền, còn tổng giá trị của hàng
hóa trong xã hội cũng không tăng lên. Ngoài lưu thông cũng không tạo ra giá trị thặng dư.
Nếu người trao đổi vẫn đứng một mình với hàng hóa của anh ta, thì giá trị của những
hàng hóa ấy không hề tăng lên một chút nào. Ở ngoài lưu thông, nếu người sản xuất muốn
sáng tạo thêm giá trị mới cho hàng hóa thì phải bằng lao động của mình. Vậy giá trị thặng
dư không xuất hiện từ lưu thông cũng không xuất hiện ngoài lưu thông, vậy giá trị thặng
dư tạo ra từ đâu? Đó chính là từ hàng hóa sức lao động. Bởi vì quá trình tiêu dùng hàng
hóa sức lao động lại là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hóa nào đó, đồng thời là quá
trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hóa sức lao động. Phần lớn
hơn đó chính là giá trị thặng dư. Từ đó cho thấy hàng hóa sức lao động là chìa khóa để
giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản.Chính hàng hóa sức lao động
trong quá trình được sử dụng đã tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản và việc nghiên cứu
hàng hóa sức lao động đã chỉ rõ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.

10. Giá trị thặng dư có phải là phát minh của CNTB không? Giá trị thặng dư
TBCN là gì? Phân tích tại sao nhà tư bản mua hàng hóa sức lao động đúng giá
trị (nguyên tắc ngang giá) mà vẫn được cho là bóc lột sức lao động làm thuê?

Giá trị thặng dư có phải là phát minh của CNTB không?

Phải. Công thức vận động, đầy đủ của tư bản là: T-H-T’, trong đó T’= T + ∆T. ∆T là số
tiền vượt trội hơn so với số tiền ứng ra, C.Mác gọi là giá trị thặng dư. Vậy, tư bản là giá
trị mang lại giá trị thặng dư.

Giá trị thặng dư CNTB được tạo ra từ sản xuất. Giá trị thặng dư chính là phần chênh
lệch giữa giá trị hàng hóa và số tiền nhà tư bản bỏ ra.

Phân tích tại sao nhà tư bản mua hàng hóa sức lao động đúng giá trị (nguyên tắc
ngang giá) mà vẫn được cho là bóc lột sức lao động làm thuê
Quan hệ mua bán giữa công nhân và tư bản không phải là mua bán hàng hóa lao động mà
là mua bán một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động. Hàng hóa này có giá trị
và giá trị sử dụng khác với các hàng hóa thông thường. Giá trị của hàng hóa sức lao động
là giá trị những tư liệu sinh hoạt tối thiểu cần thiết để tái sản xuất sức lao động của công
nhân và bao hàm những yếu tố tinh thần, lịch sử và dân tộc… – Giá trị sử dụng của hàng
hóa này (tức là tiêu dùng nó trong quá trình sản xuất) có khả năng tạo ra một lượng giá trị
lớn hơn giá trị của chính nó là sức lao động. Do đó dù nhà tư bản trả đủ giá trị sức lao
động cho công nhân trên cơ sở trao đổi ngang giá thì vẫn thu được phần giá trị dôi ra,
biến thành lợi nhuận.

Trao đổi giữa tư bản và công nhân tuân theo quy luật ngang giá (quy luật giá trị sức lao
động) nhưng nhà tư bản vẫn thu được phần dôi ra ngoài giá trị sức lao động; phần dôi ra
đó được K. Marx gọi là giá trị thặng dư. Như vậy, bóc lột lao động thặng dư biểu hiện
thành bóc lột giá trị thặng dư là quy luật bóc lột đặc thù của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa và là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất đó.

11. Thế nào là nhà tư bản. Có nên khuyến khích các nhà tư bản phát triển ở Việt
Nam hiện nay?

Nhà tư bản là người chủ tiền kinh doanh nhằm bóc lột giá trị thặng dư của công nhân.

Nên khuyến khích các nhà tư bản phát triển ở Việt Nam hiện nay?

Để Việt Nam có thể trở thành một nền kinh tế cởi mở và có khả năng cạnh tranh cao
trong thị trường thế giới, chúng ta nên khuyến khích và tạo điều kiện để xây dựng một thế
hệ các nhà tư bản mới. Điều này là tất yếu và không có gì đáng ngạc nhiên cho một nền
kinh tế vẫn đang chuyển biến và trong quá trình định hình.

Những nhà tư bản này tạo ra các định chế kinh tế, các công ty và tập đoàn để vận dụng
những nguồn nhân lực và tài nguyên của xã hội để đầu tư kinh doanh. Nhờ vận dụng
nguồn nhân lực, nhà tư bản góp phần giải quyết vấn đề việc làm cho số lượng lớn công
nhân. Đồng thời, việc đầu tư của nhà tư bản sẽ tạo ra của cải vật chất, gây dựng cơ nghiệp
cho chính bản thân họ và góp phần làm giàu cho quốc gia, phát triển kinh tế đất nước.
12. Tại sao nói tiền công bị nhầm tưởng là giá cả của lao động. Người lao động cần
phải làm gì để cải thiện tiền công?

Tiền công lao động hay tiền công là khái niệm của kinh tế chính trị Marx-Lenin, biểu hiện
bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động và là giá cả của hàng hóa sức lao động. Tuy
nhiên đôi khi có thể dễ có sự lầm tưởng, trong xã hội tư bản, tiền công là giá cả của lao
động vì nhà tư bản trả tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã lao động để sản xuất
ra hàng hóa và tiền công được trả theo thời gian lao động (giờ, ngày, tuần, tháng...), hoặc
theo số lượng hàng hóa đã sản xuất được. Tuy nhiên, cái mà nhà tư bản mua của công
nhân không phải là lao động, mà là sức lao động. Tiền công không phải là giá trị hay giá
cả của lao động, mà chỉ là giá trị hay giá cả của hàng hóa sức lao động.

Người lao động cần làm để cải thiện tiền công:

- Tăng trình độ chuyên môn của người lao động.

o Việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ đối với người lao động rất cần thiết và quan
trọng. Do vậy cần phải có những phương pháp cơ bản để nâng cao năng lực chuyên môn:

● Tham gia các lớp đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận, trình độ

nghiệp vụ và trình độ chuyên môn để làm tốt nghiệp vụ.

● Chủ động trao với đồng nghiệp đặc biệt là những người có kinh nghiệm lâu năm

trong công tác để tiếp cận thực tiễn, bổ sung kinh nghiệm trong xử lý công việc và
phát huy khả năng bản thân.

● Luôn có sự phối hợp chặt chẽ với đồng nghiệp, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất để

vừa nâng cao hiệu quả công tác của bản thân, vừa phục vụ tích cực cho hoạt động,
mục tiêu chung của chủ lao động.

● Tham gia nghiên cứu khoa học để có trình độ chuyên sâu về các lĩnh vực phục vụ

công tác. Tăng cường học thêm tin học, ngoại ngữ để ứng dụng thành thạo vi tính
phục vụ tốt quá trình làm việc.
Để làm tốt vai trò, trách nhiệm trong công việc, cũng như cải thiện tiền công, người lao
động phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn bằng cách học tập, tu dưỡng, giữ
gìn phẩm chất, rèn luyện kỹ năng công tác, vừa nghiên cứu tài liệu vừa phải học hỏi kinh
nghiệm của đồng nghiệp và nhất là phải tự rút ra cho mình những bài học, kinh nghiệm
qua thực tiễn để có thể ứng dụng tri thức của mình để ngày càng tốt hơn.

13. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư. Tại sao giá trị thặng dư siêu ngạch
là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Cho ví dụ về giá trị thặng
dư siêu ngạch? Ý nghĩa của việc nghiên cứu.

Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.

Hiện có 2 phương pháp chủ yếu để thu được giá trị thặng dư:

● Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.

● Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.

1. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:

Khái niệm: là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao
động vượt quá thời gian lao động cần thiết, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao
động và thời gian lao động cần thiết không thay đổi. => Ngày lao động kéo dài còn thời
gian lao động cần thiết không đổi dẫn đến thời gian lao động thặng dư tăng lên.

VD: Ngày lao động là 8h, thời gian lao động tất yếu là 4h, thời gian lao động thặng dư là
4h. Điều đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau đây:
Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:

Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu không thay
đổi, vẫn là 4 gịờ. Khi đó ngày lao động được chia như sau:

Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:

Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu
không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên.
Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ là 150%. Các nhà tư bản đã tìm mọi
cách kéo dài ngày lao động nhằm mục đích sản xuất ra ở mức độ tối đa nhất.

=> Kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay
đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Phương pháp
nâng cao trình độ bóc lột bằng cách kéo dài toàn bộ ngày lao động một cách tuyệt đối gọi
là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Tuy nhiên, bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối gặp phải giới hạn về thể chất và tinh thần. Vì
công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài
ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Điều này cũng chính
là hạn chế của việc kéo dài ngày lao động của các nhà tư bản.

Khi độ dài ngày lao động không thay đổi, nhà tư bản sẽ nâng cao trình độ bóc lột bằng
việc tăng cường độ lao động. Thực chất, tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài
ngày lao động. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động, tăng cường độ lao động là để sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối.

2. Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối:

Khái niệm: là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trong điều
kiện độ dài của ngày lao động không đổi nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư. Khi
sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến
bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang
phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, tức là bóc lột giá trị
thặng dư tương đối.

VD: ngày lao động là 8h và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4
giờ là thời gian lao động thặng dư.

Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:

Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3 giờ lao động
đã tạo ra được một lựơng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ
phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian
lao động thặng dư. Điều đó được biểu diễn như sau:

Do đó, bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:

Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%.

Phương pháp sản xuất giá trị tương đối là phương pháp nâng cao trình độ bóc lột, bằng
cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để kéo dài thời gian lao động thặng dư trong
điều kiện độ dài của ngày lao động vẫn như cũ gọi là phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư tương đối.

Vậy làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao động
tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải
giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư
liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được
bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt
thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân và tăng năng suất lao động trong các ngành sản
xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là tăng năng suất lao
động xã hội.

Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là
phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị
thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và
của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản
đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình
độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp
với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của
chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm
nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao
động. Ngày nay, việc tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng
dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.

Tại sao giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư
tương đối. Cho ví dụ về giá trị thặng dư siêu ngạch?

Khái niệm: Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng
suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của
nó.

(Dễ hình dung thì giá trị thặng dư là surplus value còn giá trị thặng dư siêu ngạch là extra
surplus value)

Xét từng trường hợp, thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nhanh chóng
xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thân giá trị
thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu
ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải
tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Tăng năng suất lao dộng, làm cho năng suất lao động
xã hội tăng lên nhanh chóng.

C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương
đối vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối cùng có một cơ sở chung
đó là dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động để rút ngắn thời gian lao động cần thiết.

Điểm khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối là: Giá trị
thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt, còn giá trị thặng dư
tương đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội. Giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ
được thay thế bằng giá trị thặng dư tương đối khi trình độ kỹ thuật mới được áp dụng ở
các tư bản cá biệt trở thành phổ biến trong xã hội. Vì thế, C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu
ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.

Hơn nữa, giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu dược. Nó biểu
hiện sự tiến bộ kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản được áp dụng rộng rãi. Xét về mặt đó thì nó
thể hiện quan hệ giữa giai cấp công nhân và toàn bộ giai cấp các nhà tư bản. Giá trị thặng
dư siêu ngạch là mục đích trực tiếp mà mỗi nhà tư bản cố gắng đạt tới trong cuộc cạnh
tranh với các nhà tư bản khác. Xét về mặt này, giá trị thặng dư siêu ngạch không chỉ biểu
hiện mối quan hệ giữa công nhân làm thuê và nhà tư bản, mà còn biểu hiện mối quan hệ
giữa các nhà tư bản với nhau.

Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu

Qúa trình nghiên cứu 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư cho thấy khi gạt bỏ mục
đích và tính chất bó lột của chủ nghĩa tư bản thì sản xuất giá trị thặng dư chính là khoa
học sử dụng lao động có hiệu quả nhất mà bất kỳ xã hội nào cũng cần phải quan tâm. Bởi
vậy, các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư có thể vận dụng trong các doanh nghiệp ở
nước ta nhằm kích thích sản xuất tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng kĩ thuật mới,
cải tiến tổ chức quản lí, tiết kiệm chi phí sản xuất.

Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân của nước ta, việc nghiên cứu sản xuất
giá trị thặng dư gợi ra cho nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải thúc
đẩy phát triển kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp,để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế cần tận dụng triệt để các nguồn lực nhất là lao động và sản xuất kinh
doanh. Về cơ bản lâu dài cần phải coi trọng việc tăng năng suất lao động xã hội, đẩy
manh công nghiệp hoa hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân là giải pháp cơ bản để tăng năng
suất lao động xã hội.

Quy luật giá trị thặng dư đã phát huy vai trò to lớn của nó đem lại những tiến bộ vượt bậc
và thành tựu kinh tế cho CNTB. Nước ta nói riêng và các nước XHCN nói chung cần nỗ
lực không ngừng trên con đường của mình để xây dựng XHCN trên thế giới. Riêng nước
ta, đang trong giai đoạn độ lên CNXH từ chế độ PK bỏ qua giai đoạn TBCN với xuất phát
điểm là một nền kinh tế lạc hậu chủ yếu là dựa vào nông nghiệp. Yêu cầu đặt ra là phải
từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Vì vậy, chúng ta phải học tập những
thành tựu mà CNTB đã đạt được trong đó quan tâm đặc biệt đến quy luật kinh tế cơ bản
của nó là giá trị thặng dư, sửa chữa quan niệm sai lầm trước kia trong xây dựng kinh tế.

Ví dụ của giá trị thặng dư siêu ngạch:

Một chiếc xe hơi được sản xuất tại nước ngoài chỉ có giá 10.000 USD, nhưng khi nhập
vào một nước khác sẽ bị đánh thuế lên đến 100% thì giá bán của nó tại thị trường đó ít
nhất là 20.000 USD. Vì vậy nếu một người kinh doanh sử dụng các biện pháp để trốn
thuế mà vẫn bán với giá hiện hành trên thị trường thì họ đã đạt được siêu lợi nhuận hay
còn gọi là giá trị thặng dư siêu ngạch.

14. Tổ chức độc quyền là gì? Nguyên nhân hình thành tổ chức độc quyền?

Tổ chức độc quyền là gì?

Tổ chức độc quyền (Monopoly organization) là liên minh giữa những nhà tư bản lớn để tập
trung vào trong tay một phần lớn (thậm chí toàn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép liên
minh này phát huy ảnh hưởng quyết định đến quá trình sản xuất và lưu thông của ngành đó.
Đặc điểm của thị trường độc quyền chính là chỉ có một nhà cung cấp, không có sản phẩm
thay thế và có giá độc quyền.

Nguyên nhân hình thành tổ chức độc quyền?

- Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác dụng của tiến bộ khoa học - kỹ thuật,
làm xuất hiện những ngành sản xuất mới mà ngay từ đầu đã là những ngành có trình độ tích
tụ cao. Đó là những xí nghiệp lớn, đòi hỏi những hình thức kinh tế tổ chức mới.

- Hai là, cạnh tranh tự do, một mặt, buộc các nhà tư bản phải cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô
tích luỹ; mặt khác, dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật kém hoặc bị các đối
thủ mạnh hơn thôn tính, hoặc phải liên kết với nhau để đứng vững trong cạnh tranh.

Vì vậy, xuất hiện một số xí nghiệp tư bản lớn nắm địa vị thống trị một ngành hay trong một
số ngành công nghiệp.

- Ba là, khủng hoảng kinh tế làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản; một số sống sót
phải đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi khủng hoảng, do đó thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất.
Tín dụng tư bản chủ nghĩa mở rộng, trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất.
- Bốn là, những xí nghiệp và công ty lớn có tiềm lực kinh tế mạnh tiếp tục cạnh tranh với
nhau ngày càng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì thế nảy sinh xu hướng thỏa hiệp, từ đó hình
thành các tổ chức độc quyền.

15. Các hình thức tổ chức độc quyền? Tại sao Trust phát triển chủ yếu ở Mỹ và
Cartel phát triển chủ yếu ở Đức vào đầu thế kỷ XX. So sánh giữa Cartel và
Trust.

Các hình thức tổ chức độc quyền?

+ Cartel là hình thức tổ chức độc quyền dựa trên sự kí kết hiệp định giữa các xí nghiệp thành
viên để thoả thuận với nhau về giá cả, qui mô sản lượng, thị trường tiêu thụ, kì hạn thanh
toán... còn việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm vẫn do bản thân mỗi thành viên thực hiện. Các
nhà tư bản tham gia cartel vẫn độc lập về sản xuẩt và thương nghiệp. Họ chỉ cam kết làm
đúng hiệp nghị, nếu làm sai sẽ bị phạt tiền theo quy định của hiệp nghị. Vì vậy, cartel là liên
minh độc quyền không vững chắc. Trong nhiều trường hợp, những thành viên thấy ở vào vị
trí bất lợi đã rút ra khỏi cartel, làm cho cartel thường tan vỡ trước kỳ hạn.

+ Syndicate) là hình thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cácten. Các xí nghiệp tham
gia xanhđica vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ mất độc lập về lưu thông: mọi việc mua - bán
do một ban quản trị chung của xanhđica đảm nhận. Mục đích của xanhđica là thống nhất đầu
mối mua và bán đề mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hóa với giá đắt nhằm thu lợi nhuận
độc quyền cao.

Cartel và Syndicate dễ bị phá vỡ khi tương quan lực lượng thay đổi. Vì vậy, một hình thức
độc quyền mới ra đời là Trust.

+ Trust thống nhất cả việc sản xuất và tiêu thụ vào tay một ban quản trị chung, các nhà tư bản
tham gia Trust trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.

Tiếp đó, xuất hiện sự liên kết dọc, nghĩa là sự liên kết không chỉ những xí nghiệp lớn mà cả
những Syndicate, Trust... thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên quan với nhau về kinh tế
và kĩ thuật, hình thành các Consortium.

+ Consortium là một hình thức độc quyền có trình độ và quy mô lớn hơn các hình thức độc
quyền trên. Tham gia Consortium không chỉ có các nhà tư bản lớn mà còn cả các Syndicate,
Trust, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu
liên kết dọc như vậy, một Consortium có thể có hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn
toàn phụ thuộc về tài hình vào một nhóm tư bản kếch sù.

- Từ giữa thế kỉ XX phát triển một kiểu liên kết mới - liên kết đa ngành - hình thành những
conglomerat hay concern khổng lồ thâu tóm nhiều công ty, xí nghiệp thuộc những ngành
công nghiệp rất khác nhau, đồng thời bao gồm cả vận tải, thương mại, ngân hàng và các dịch
vụ khác, v.v. Trong đó conglomerat là tập đoàn kinh doanh đa ngành, các công ty thành viên
có ít mối quan hệ hoặc không có mối quan hệ về công nghệ nhưng có quan hệ chặt chẽ về tài
chính. Concern là dạng tập đoàn kinh tế được áp dụng phổ biến ở nhiều nước hiện nay dưới
hình thứ công ty meh đầu tư vào các công ty khách thành công ty con, công ty mẹ điều hành
hoạt động của các Concern.

Tại sao Trust phát triển chủ yếu ở Mỹ và Cartel phát triển chủ yếu ở Đức vào đầu thế
kỷ XX?

So sánh Trust và Cartel (tự làm nên k chắc chắn về nội dung vì search k ra)

CARTEL TRUST
Được thành lập dễ dàng Việc hình thành từ tín nhiệm (Trust) là một
vấn đề phức tạp
Liên kết theo chiều ngang Liên kết theo chiều dọc
Các nhà tư bản tham gia cartel độc lập về sản Việc sản xuất và tiêu thụ vào tay một ban
xuất và thương nghiệp. quản trị chung, các nhà tư bản tham gia trở
thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số
lượng cổ phần.
Cartel dễ bị phá vỡ tương quan vì thế các nhà Trust là hình thức độc quyền có liên kết chặt
tư bản tham gia có thể rời đi bất kì lúc nào chẽ vì thế các nhà tư bản tham gia không dễ
dàng rời đi.
Khi các hoạt động phân phối được tập thể Khi các công ty thành viên được vận hành
thực hiện bởi các thành viên, cartel có thể dưới 1 sự quản lý chung, tổ chức có thể
nắm giữ kinh tế phân phối hưởng kinh tế quản trị, kinh tế sản xuất và
phân phối
Tổ chức không thể điều chỉnh nguồn cung kịp Cơ quan trung tâm điều hành việc sản xuất
với sự biến đổi của nhu cầu bởi vì sự thiếu của các công ty thành viên. Cho nên có thể
kiểm soát đối với việc sản xuất thuận tiện điều chỉnh nguồn cung theo nhu
cầu
Có một sự giới hạn giá trị vốn do không thể Giá trị vốn có thể tăng đối với việc điều hành
chuyển vốn giữa các thành viên kinh doanh bằng cách chuyển vốn giữa các
thành viên
Carel phát triển nhất ở Đức Mỹ là quê hương của Trust
Tổ chức không có khả năng tồn tại vĩnh viễn. Tổ chức suy xét chống lại lợi ích công chúng
Tổ chức triệt tiêu đối thủ cạnh tranh nhưng đó và từ góc độ kinh tế, điều này là một lợi thế.
là sự kết hợp không kinh tế Tổ chức hái được lợi nhuận cao.
Việc điều hành bị phân tán Việc điều hành tập trung được thực hiện bởi
Ủy ban Tín nhiệm
Chứng chỉ không được cấp cho các thành Ủy ban Tín nhiệm cung cấp chứng chỉ cho
viên cartel các công ty thành viên để đổi lấy 1 phần cổ
phiếu

● Liên kết theo chiều dọc là mối liên kết trong đó có một thành viên nắm giữ vai trò

lãnh đạo và điều khiển các hoạt động của các thành viên trong kênh phân phối.

● Liên kết theo chiều ngang là chuỗi cung ứng liên kết theo chiều ngang là mô hình

kinh doanh; theo đó các công ty mua lại hoặc sáp nhập với các đối thủ trong ngành để
đạt được lợi thế cạnh tranh thông qua các nền kinh tế có quy mô và phạm vi.

16. Tư bản tài chính là gì? Mối quan hệ giữa chủ nghĩa đế quốc TBCN và chủ nghĩa
tư bản giai đoạn độc quyền thống trị.

Tư bản tài chính là gì?

Tư bản tài chính là một loạI tư bản được hình thành trên cơ sở sự xâm nhập lẫn nhau giữa tư
bản công nghiệp và tư bản ngân hàng. Tư bản ngân hàng vớI vai trò và địa vị mớI của mình,
đã cử ngườI tham gia vào các tổ chức độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng vốn
vay. Để hạn chế sự chi phối của ngân hàng, các nhà tư bản công nghiệp cũng can thiệp vào
họat động của tư bản ngân hàng bằng cách mua cổ phiếu hoặc thành lập ngân hàng cho riêng
mình. 2 quá trình thâm nhập ấy gắn kết vớI nhau, làm cho tư bản công nghiệp và tư bản ngân
hàng dần trở nên đồng nhất vớI nhau, hình thành nên tư bản tài chính. Các nhóm tư bản tài
chính có tiềm lực đủ mạnh trở thành các đầu sỏ tài chính (hay còn gọi là tài phiệt ), thực hiện
thao túng đờI sống kinh tê- chính trị ở các nước tư bản.
Mối quan hệ giữa chủ nghĩa đế quốc TBCN (tư bản chủ nghĩa) và chủ nghĩa tư bản giai
đoạn độc quyền thống trị.

+ Chủ nghĩa đế quốc (Imperialism): là chính sách mà qua đó các quốc gia hay các dân tộc
hùng mạnh tìm cách mở rộng và duy trì quyền kiểm soát hoặc ảnh hưởng đối với các quốc
gia hay dân tộc yếu hơn.

+ Chủ nghĩa tư bản đọc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực
của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quền và chúng chi phối sự phát triển của toàn
bộ nền kinh tế.

17. Xuất khẩu tư bản là gì? Các hình thức xuất khẩu tư bản. Tại sao nói xuất khẩu
tư bản gắn với giai đoạn độc quyền TBCN?. Biểu hiện xuất khẩu tư bản sau
chiến tranh thế giới thứ II.

Xuất khẩu tư bản là gì? Các hình thức xuất khẩu tư bản.

- Xuât khẩu tư bản (XKTB) là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước
ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở các nước nhập khẩu tư bản đó. (vd:
công ty cử người sang nước ngoài xây dựng công ty con để làm ăn và thu về lợi nhuận
cho công ty trong nước)

- XKTB xét về hình thức đầu tư có thể chia làm hai loại:

+ XKTB hoạt động ( đầu tư trực tiếp): là đưa tư bản ra nước ngoài để trực tiếp kinh
doanh thu lợi nhuận cao.

+ XKTB cho vay (đầu tư gián tiếp): là cho vay để thu lợi tức.

Trong XKTN cho vay gồm XKTB nhà nước và XKTB tư nhân

Xuất khẩu từ các nc phát triển => các nc kém phát triển
Tại sao nói xuất khẩu tư bản gắn với giai đoạn độc quyền TBCN?

Xuất khẩu ra nước ngoài

Vì nó giúp mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ
chủ yếu để bành trướng sự thống trị của tư bản tài chính ra toàn thế giới.
⇨ Lenin chỉ ra rằng XKTB là đặc điểm của CNTB độc quyền

Biểu hiện xuất khẩu tư bản sau chiến tranh thế giới thứ II.
18. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ra đời từ khi nào? Đặc trưng
của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa?
Các đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thể
hiện ở những điểm sau:

● Là nền kinh tế hỗn hợp, vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của
nhà nước.
● Là nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu và đa dạng các thành phần kinh tế, trong
đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
● Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng
thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ
thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
● Là nền kinh tế thị trường do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
● Là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.

19. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Tại sao phải hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

20. Lợi ích kinh tế là gì? Biểu hiện của lợi ích kinh tế. Các quan hệ lợi ích kinh tế cơ
bản trong nền kinh tế thị trường.

Lợi ích kinh tế là gì?


Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách quan của
các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống quan hệ
sản xuất quyết định

Mỗi một con người hay xã hội muốn tồn tại và phát triển thì nhu cầu của họ phải được
đáp ứng. Lợi ích và nhu cầu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Lợi ích bắt nguồn từ
nhu cầu và là cái để đáp ứng nhu cầu, nhu cầu làm nảy sinh lợi ích.

Biểu hiện của lợi ích kinh tế

Trong thực tế, lợi ích kinh tế thường được biểu hiện ở các hình thức thu nhập như: tiền
lương, tiền công, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, thuế, phí, lệ phí...

Tuỳ góc độ xem xét mà ta có thể phân chia thành các nhóm, các loại lợi ích kinh tế khác
nhau sau đây:

- Dưới góc độ khái quát nhất có thể phân chia hệ thống lợi ích kinh tế thành: Lợi ích kinh
tế cá nhân, lợi ích kinh tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội.

- Dưới góc độ các thành phần kinh tế, có lợi ích kinh tế tương ứng với các thành phần
kinh tế đó.

- Dưới góc độ các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, có lợi ích kinh tế của người sản
xuất, người phân phối, người trao đổi, người tiêu dùng.
Các quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản trong nền kinh tế thị trường.

Dù cách phân chia có thể khác nhau nhưng các lợi ích kinh tế bao giờ cũng có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau: vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau.

- Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: chúng cùng đồng thời tồn tại trong một hệ thống, trong
đó lợi ích kinh tế này là cơ sở, là tiền đề cho lợi ích kinh tế khác.

Chẳng hạn, có lợi ích kinh tế của người sản xuất, thì mới có lợi ích kinh tế của người trao
đổi, người tiêu dùng và ngược lại.

- Mặt mâu thuẫn biểu hiện ở sự tách biệt nhất định giữa các lợi ích đó dẫn đến xu hướng
lấn át của lợi ích kinh tế này đối với lợi ích kinh tế khác.

Do đó, nó có thể gây nên những xung đột nhất định, ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt
động kinh tế - xã hội.

Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, thì các lợi ích kinh tế cũng mang tính đối kháng,
do đó, nó dẫn đến những cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa các giai cấp.
21. Cách mạng công nghiệp là gì? Đặc trưng của các cuộc cách mạng công nghiệp.
a. Cách mạng công nghiệp là gì?

CMCN là những bước phát triển nhảy vọt về chất trình độ của tư liệu lao động trên cơ sở
những phát minh đột phá về kỹ thuật và công nghệ trong quá trình phát triển của nhân
loại kéo theo sự thay đổi căn bản về phân công lao động xã hội cũng như tạo bước phát
triển NSLĐ cao hơn hẳn nhờ áp dụng một cách phổ biến những tính năng mới trong kỹ
thuật – công nghệ đó vào đời sống xã hội.

b. Đặc trưng của các cuộc cách mạng công nghiệp.

- CMCN lần 1: Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra từ thế kỷ XVIII đến XIX ở
châu Âu và Mỹ. Đó là thời kỳ mà hầu hết nông nghiệp, xã hội nông thôn đã trở thành
công nghiệp và đô thị. Ngành công nghiệp sắt và dệt, cùng với sự phát triển của động cơ
hơi nước, đóng vai trò trung tâm trong Cách mạng Công nghiệp.

- CMCN lần 2: Cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra từ năm 1870 đến năm 1914,
ngay trước Thế chiến I. Đó là giai đoạn tăng trưởng của các ngành công nghiệp đã có từ
trước và mở rộng các ngành mới, như thép, dầu, điện, và sử dụng điện để sản xuất hàng
loạt. Các tiến bộ kỹ thuật chủ yếu trong giai đoạn này bao gồm điện thoại, bóng đèn, đĩa
hát và động cơ đốt trong,...

- CMCN lần 3: Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba, tạm được xem là cuộc cách
mạng kỹ thuật số, đề cập đến sự tiến bộ của công nghệ từ các thiết bị cơ điện tử tương tự
sang công nghệ số ngày nay. Kỷ nguyên bắt đầu vào những năm 1980 và vẫn đang diễn
ra. Những tiến bộ trong Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba bao gồm máy tính cá
nhân, internet và công nghệ thông tin và truyền thông (ICT).Tiến bộ trong Cách mạng
Công nghiệp lần thứ ba bao gồm các máy tính cá nhân, internet, công nghệ thông tin và
mạng xã hội.

- CMCN lần 4: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được xây dựng dựa trên những Kỹ
thuật số, cuộc cách Mạng, đại diện cho những cách mới công nghệ trở nên nhúng trong xã
hội và ngay cả cơ thể con người. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được đánh dấu bởi
công nghệ mới đột phá trong một số trường, bao gồm cả robotics, trí thông minh nhân
tạo, công nghệ nano, công nghệ sinh học, Internet Vặn Vật, in 3D và xe tự lái.
22. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì? Tại sao Việt Nam phải công nghiệp hóa,
hiện đại hóa? Tại sao CNH, HĐH ở Việt Nam phải thích ứng với cách mạng công
nghiệp lần thứ 4.

a. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì?

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
kinh tế và quản lý kinh tế- xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang nền sản xuất
xã hội chủ yếu sử dụng sức lao động cùng với công nghệ, máy móc tiên tiến nhằm tạo ra
năng suất lao động xã hội cao. Theo nghĩa chung, đây là quá trình biến một nước có nền
kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp.

b. Tại sao Việt Nam phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa?
n
ước ta.

c. Tại sao CNH, HĐH ở Việt Nam phải thích ứng với cách mạng công nghiệp lần
thứ 4.

23. Hội nhập


kinh tế quốc
tế là gì? Tại
sao Việt Nam
phải hội nhập
kinh tế quốc
tế?\

a. Hội nhập kinh tế quốc tế là gì?


Hội nhập KTQT của một quốc gia là quá trình quốc gia đó thực hiện gắn kết nền kinh tế
của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên sự chia sẻ lợi ích đồng thời tuân thủ các chuẩn
mực quốc tế chung

b. Tại sao Việt Nam phải hội nhập kinh tế quốc tế?

24. Phân tích tác động tích cực và tiêu cực và phương hướng nâng cao hiệu quả hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.

You might also like