Bai 4

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 23

Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

BÀI IV: VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG QUAN HỆ VỚI


VĂN HÓA BÊN NGOÀI
Mục tiêu
Trong bài này Anh/Chị cần đạt được những mục tiêu sau:
1. Biết được quá trình, nội dung và kết quả đạt được qua quá trình giao lưu giữa văn hóa
Việt Nam với văn hóa Ấn Độ.
2. Biết được quá trình, nội dung và kết quả đạt được qua quá trình giao lưu giữa văn hóa
Việt Nam với văn hóa Trung Hoa.
3. Biết được quá trình, nội dung và kết quả đạt được qua quá trình giao lưu giữa văn hóa
Việt Nam với văn hóa phương Tây.
4. Biết được sự tác động của toàn cầu hóa đối với bản sắc văn hóa, từ đó biết được các biện
pháp nhằm giữ gìn và làm giàu bản sắc văn hóa Việt Nam trước bối cảnh toàn cầu hóa.

Nội dung
I. VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG GIAO LƯU VỚI VĂN HOÁ BÊN NGOÀI
1. Giao lưu với văn hoá Ấn Độ
a. Các giai đoạn trong quá trình giao lưu với văn hóa Ấn Độ
Dựa trên lý thuyết “Các trung tâm và sự lan tỏa văn hóa”, có thể xem ảnh hưởng
của Văn hóa Ấn Độ vào Việt Nam đã trải qua hai đợt lan tỏa: Tiên phát và thứ phát.
Lan tỏa tiên phát
Ngay từ đầu công nguyên. Ấn Độ đã có sự giao thương mạnh mẽ với Trung Đông
và vùng Địa Trung Hải. Để có nguồn cung cấp nguyên liệu, vật phẩm cho sự giao thương
này họ đã mở rộng con đường đi về hướng Đông rồi đến Giao Chỉ. Dấu vết của họ thấy
cả ở vùng Óc Eo (An Giang), ở ven biển miền Trung và cả ở Luy Lâu (Bắc Ninh). Họ
mang theo cả Bàlamôn giáo lẫn Phật giáo.1
Đến thế kỷ thứ II, khu vực phía bắc Việt Nam. Khâu-Đà-La (năm 168 -189) đã
đến Luy lâu truyền giáo. Thời kỳ này, sự thâm nhập của Phật giáo đã ở vào giai đoạn

1
Thời kỳ này Phật giáo vẫn còn mang sắc thái nguyên thủy – tức là theo Tiểu thừa.
Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 1
Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

mới, đã hình thành tăng đoàn, công việc hành đạo từ đó mà cũng đi vào tổ chức, các tăng
sĩ bắt đầu dịch Kinh, sáng tác, xây dựng chùa chiền… Luy Lâu đã tồn tại như một trung
tâm Phật giáo quan trọng và phồn thịnh.
Cũng trong giai đoạn này, vào năm 192, lợi dụng lúc nhà Hậu Hán suy yếu, một
viên chức quận Tượng Lâm (phía nam Thừa Thiên ngày nay) là Khu Liên đã lãnh đạo
người Chăm nổi lên khởi nghĩa thắng lợi, lập nên vương quốc Lâm Ấp. Sau khi lập quốc,
người Chăm thoát khỏi ách đô hộ của Trung Hoa, liên hệ với Trung Hoa cũng hầu như
không còn. Thay vào đó, người Ấn Độ đến ngày một nhiều hơn và, khác với Trung Hoa,
họ không mang theo chiến tranh, vì vậy, nền văn hóa Ấn Độ được người Chăm vui vẻ
tiếp nhận. Ảnh hưởng của Ấn Độ đối với văn hóa Chăm phát huy mạnh mẽ trong khoảng
từ thế kỷ thứ VII đến hết thế kỷ thứ XV, khi Chămpa chấm dứt sự tồn tại với tư cách
quốc gia dân tộc. Trong khoảng VIII thế kỷ, ảnh hưởng này lớn đến mức người ta chỉ
nhìn thấy những yếu tố Ấn Độ trong văn hóa Chăm. Do vậy, nói đến ảnh hưởng của Ấn
Độ ở Việt Nam thì trước hết phải nói đến văn hóa Chăm và khu vực phía Nam vì chỉ có ở
đây, ảnh hưởng đó mới bộc lộ mạnh mẽ và trực tiếp hơn cả.
Từ Ấn Độ, người Chăm đã tiếp thu nhiều tôn giáo: Phật giáo, Bàlamôn giáo và
Hồi giáo. Nhưng ở chính quốc từ thế kỉ thứ V, Phật giáo đã bị Bàlamôn giáo tấn công và
dần dần đi đến lụi tàn. Chính vì vậy, khi nói đến ảnh hưởng của Ấn Độ trong việc hình
thành văn hóa Chăm thì Bàlamôn giáo là yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất.
Lan tỏa thứ phát
Đó là sự gặp gỡ văn hóa Ấn Độ dòng Đại thừa (chủ yếu là Thiền tông và Tịnh độ
tông) có xuất phát điểm từ Trung Hoa thâm nhập một cách mạnh mẽ xuống phương Nam
(kể từ thế kỷ thứ III trở đi), chẳng mấy chốc nó đã lấn át dòng tiểu thừa có từ trước đó để
lại những dấu ấn phổ biến trong sinh hoạt Phật giáo cũng như trong tín ngưỡng dân gian.
Như vậy, khi nói về quá trình tương tác với văn hóa Ấn Độ, qua hai đợt lan tỏa, đã
để lại dấu ấn trong văn hóa Việt Nam, bao gồm: Phật giáo (đại thừa và tiểu thừa); văn
hóa Chăm (chủ yếu là Bà lamôn giáo) và văn hóa Óc eo.
b) Kết quả của sự giao lưu với văn hóa Ấn Độ
- Sự xuất hiện Phật giáo Việt Nam

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 2


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

Ngay trong giai đoạn đầu, khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam đã tạo nên sự hòa
hợp giữa tín ngưỡng bản địa sẵn có với giáo lý cơ bản của Phật giáo, hình thành nên một
loại tín ngưỡng Phật giáo bình dân trong thế kỷ đầu công nguyên.
Thời kỳ Bắc thuộc, Phật giáo Đại thừa vốn đã được thay đổi căn bản trong lòng nền
văn hóa Trung Hoa, trở nên gần gũi hơn với đời sống trần tục, khi truyền vào Việt Nam cùng
với sự cai trị của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Được nhân dân Việt Nam tiếp nhận
một cách tự nguyện, Phật giáo Việt Nam đã từng là cơ sở của khối đại đoàn kết dân tộc trong
cuộc đấu tranh dựng nước và giữa nước, bởi vậy thấm đượm chủ nghĩa yêu nước của người
Việt. Phật giáo đã trở thành một tôn giáo lớn làm đối trọng chống lại sự đồng hóa của Nho
giáo - nền văn hóa của kẻ xâm lược trong thời kỳ Bắc thuộc.
Nhà Lý ra đời đưa Phật giáo lên hàng quốc đạo, không chỉ góp phần phát triển việc tu
học mà còn qua đó phát triển một nền văn hóa riêng của Đại Việt khác biệt với Trung Hoa.
Một dấu ấn quan trọng thời này là việc khai sinh Thiền phái Thảo Đường. Tuy nhiên, vì
khuynh hướng thiên trí thức và văn chương, thiền phái Thảo Ðường không cắm rễ được
trong quần chúng mà chỉ ảnh hưởng đến một số trí thức có khuynh hướng văn học. Phật giáo
thời nhà Lý có nhiều ảnh hưởng không chỉ với dân thường mà cả vua quan.
Khi nhà Trần lên nắm quyền, tiếp tục kế thừa và phát triển thêm nền tảng xã hội đã
có từ thời Lý trong đó có Phật giáo. Nét nổi bật nhất của Phật giáo thời kì này so với
trước đó là sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, do người Việt Nam sáng lập mà
tổ sư chính là vị vua rời bỏ chính sự để xuất gia là Trần Nhân Tông. Số lượng chùa chiền
cũng như tăng sĩ tăng lên rất nhiều, các chùa cũng như tăng sĩ được nhiều ưu đãi lớn
không chỉ từ phía vua quan nhà Trần mà còn từ nhân dân.
Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến các mặt Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
trong thời kỳ tự chủ của dân tộc, sự phát triển của Phật giáo với tinh thần nhập thế không
hề đứng trên tư tưởng thống trị, quyền lực và quyền lợi. Phật giáo đã thực thi một tinh
thần khoan dung, độ lượng, hòa hợp đối với dân chúng, với kẻ thù, và cả đối với những
tư tưởng giáo lý khác. Điều này không những làm cho Phật giáo đứng ở trung tâm của

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 3


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội trong giai đoạn thế kỷ X – XIV, thậm chí có những
lúc là quyết định đến vận mệnh quốc gia.1
- Góp phần hình thành nét độc đáo của nền văn hóa Chăm
Từ khi được thành lập (TK II) đến khi suy tàn (TK XVII), quốc gia Chămpa đã
chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa, nhưng dấu ấn của văn hóa Ấn Độ trong văn hóa
Chăm là sâu sắc nhất.
+ Về tôn giáo: Văn hoá Chăm chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo khác nhau từ Ấn
Độ (Bàlamôn giáo, Phật giáo, Hồi giáo), nhưng Bàlamôn giáo là yếu tố đóng vai trò
quan trọng nhất trong việc hình thành văn hoá Chăm. Bàlamôn giáo là tôn giáo được hình
thành trên cơ sở kinh Veda, thờ Brahma (thần sáng tạo), Visnu (thần bảo tồn) và Silva
(thần phá hủy).
Người Chăm tiếp nhận tư tưởng Bàlamôn giáo của Ấn Độ kết hợp với tín ngưỡng
bản địa làm cho sắc thái của tôn giáo có sự biến đổi rõ ràng. Vì vậy, trong bộ ba vị thần
người Chăm đặc biệt nhấn mạnh vai trò của thần Shiva, khiến cho việc thờ phụng thần
Shiva trở thành một nhánh tôn giáo phát triển khá độc lập (Shiva giáo). Shiva giáo và tín
ngưỡng phồn thực bản địa hòa trộn với nhau hình thành một thứ tôn giáo hỗn dung, theo
đó, Shiva được hóa thân thành Linga1 hay hiện diện đi kèm với Linga - với tư cách là đối
tượng thờ cúng của người Chăm.
Bên cạnh niềm tin vào các vị thần Ấn Độ, người Chăm còn thờ nhiều vị thần khác
có nguồn gốc siêu nhiên hay những công thần khai quốc. Ngoài ra, khi tiếp nhận
Bàlamôn giáo từ Ấn Độ, kết hợp với tín ngưỡng của cư dân bản địa (tín ngưỡng Phồn
thực, sùng bái các nữ thần…), người Chăm đã biến cải thành đạo Bà Chăm, được coi là
một tôn giáo mới, gần gũi với người Chăm hơn và được xem như một biến thể của
Bàlamôn. Cũng như vậy, khi tiếp thu Hồi giáo, một biến dạng của Hồi giáo với tên gọi
riêng của mình – Đạo Bà Ni, người Chăm đã sáng lập ra đạo Bà Ni trên cơ sở tín ngưỡng

1
Vua Lý Công Uẩn có lý lịch xuất thân từ nhà chùa. Các nhà sư là những người hậu thuẫn cho
sự lên ngôi của Hoàng đế Lý Công Uẩn và thuyết phục nhà Lý dời đô về Thăng Long để bảo vệ
nền độc lập lâu dài.
1
Sinh thực khí nam trong tín ngưỡng Phồn thực của văn hóa Chăm.

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 4


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

bản địa. Đạo Bà Ni tin vào thánh Allah nhưng họ vẫn thờ các vị thần truyền thống của
mình và khu vực như thần Mưa, thần Núi, thần Biển…
- Kiến trúc và điêu khắc
Trong suốt chiều dài lịch sử Chămpa, vương triều nào khi lên nắm quyền đều cho
xây dựng hoặc trùng tu công trình tôn giáo để chứng tỏ sự tồn tại của vương triều mình,
phô trương sức mạnh quốc gia, nhưng quan trọng hơn cả vẫn nhằm vào mục đích tạ ơn
thần linh qua việc dâng lễ vật cúng cho đền tháp vì đã phù trợ sức mạnh và chiến thắng
cho vương triều.
Như các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á cùng chịu ảnh hưởng văn minh Ấn
Độ, vật liệu cơ bản và chủ yếu để xây dựng đền tháp là gạch. Có thể nói, người Chăm là
bậc thầy về kĩ thuật chế tác gạch, trải qua bao thế kỉ, những tháp gạch Chăm vẫn còn tươi
rói, màu sắc ánh hồng, kết dính với nhau một cách kì lạ mà nhiều nhà khoa học còn chưa
thể giải mã hết. Trên tổng thể thân tháp bằng gạch, những thợ điêu khắc đã chạm trổ hoa
văn, những con vật thiêng liêng của Hindu giáo hay cảnh sinh hoạt trong cung đình, rất
sinh động và chân thật.
Tháp Chăm thường gồm 3 tầng, tầng trên cùng là đặt các vị thần quốc giáo, tầng
giữa thường diễn tả hoạt động sống của cung đình, tầng đế chỉ gia cố nền móng cho vững
chắc, không có trang trí. Phần lớn các tháp Chăm đều có hình chóp tượng trưng cho ngọn
núi Mêru trong thần thoại Ấn Độ, trên các tầng có thể có tháp con ở góc, ứng với các
ngọn núi nhỏ. Đối với người Chăm, đây còn là biểu tượng của thiên nhiên miền Trung,
thể hiện tính dương tính, phỏng hình sinh thực khí nam. Bên cạnh đó còn có những kiến
trúc phụ có mái cong hình thuyền, do ảnh hưởng của văn hoá khu vực. Chức năng của
tháp Chăm đều mang tính chất lăng mộ thờ vua , ngoài ra còn là đền thờ thần bảo trợ nhà
vua, nên nội thất rất chật.
- Dấu ấn của văn hóa Ấn Độ trong văn hoá Óc Eo
Đây là tên địa danh nơi lần đầu phát hiện ra di chỉ của nền văn hoá này, được
người Pháp khai quật vào năm 1944 (tỉnh An giang).
Cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến về chủ nhân của nền văn hoá này. Một số người
cho rằng, chủ nhân của nền văn hoá này là thuỷ tổ của người Khmer ngày nay; số khác

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 5


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

lại cho rằng đây là nền văn hoá thuộc chủng Indonesien, sử dụng tiếng Nam Đảo là chủ
yếu. Chỉ có một điểm thống nhất là nền văn hoá rực rỡ này đã tàn lụi vào khoảng thế kỷ
thứ VIII.
Các di chỉ khảo cổ cho thấy, địa bàn cư trú của người Óc eo trải rộng khắp các tỉnh
Nam bộ gồm: tiểu vùng tứ giác Long Xuyên, tiểu vùng Đồng Tháp Mười, vùng U Minh,
Năm Căn, Đồng Nai, Đông Nam bộ, ven biển Đông.
Người Óc Eo bị ảnh hưởng bởi văn hoá Ấn độ. Họ theo Brahmanism, Phật giáo,
thờ cúng Linga. Nghệ thuật đồ gốm, thiếc, điêu khắc đã phát triển cao, hệ thống đền đài,
lăng tẩm khá qui mô và hầu như đều mang hơi hướng văn hoá Ấn độ.
2. Giao lưu với văn hoá Trung Hoa
Văn hóa Việt Nam giao lưu với văn hóa Trung Hoa diễn ra trong thời gian rất dài,
thông qua nhiều con đường khác nhau. Trong quá trình tiếp thu, dân tộc Việt Nam đã cải
biến cho phù hợp với hoàn cảnh và truyền thống của mình, rồi cấu trúc lại một cách tài
tình làm cho văn hóa Việt Nam trở nên phong phú và sinh động.
a. Các giai đoạn trong quá trình giao lưu với văn hóa Trung Hoa
- Giai đoạn Bắc thuộc
Văn hóa Trung Hoa được du nhập vào Việt Nam từ cuối đời Tây Hán và đầu đời
Đông Hán, cùng với chính sách cai trị và “Hán hóa” vùng đất của người Việt cổ. Là một
thành phần của văn hóa Hán, Nho giáo có mặt rất sớm tại Việt Nam. Nhưng, có lẽ sự
hiện diện tương đối rõ nét của Nho giáo chỉ thực sự bắt đầu vào cuối đời Đông Hán với
vai trò tích cực của Sĩ Nhiếp (187 - 226).
Cũng trong thời kỳ này, Đạo gia và Đạo giáo ở phương Bắc theo chân nhà Hán vào
Việt Nam. Trong khi Nho giáo chưa tìm được chỗ đứng ở Việt Nam, thì Đạo giáo đã tìm
thấy ngay tính tương đồng trong tín ngưỡng bản địa đã có sẵn từ lâu, nên Đạo giáo dễ dàng
thâm nhập vào đời sống cư dân bản địa. Chính vì thâm nhập theo con đường đó, nên Đạo
gia với tư cách là “một triết lý sống” ít được người dân Việt Nam biết đến, mà chủ yếu
người Việt Nam chỉ biết về các phương thuật với các bùa chú, phù phép…của Đạo giáo.
Tuy nhiên, trong hàng ngàn năm bị lệ thuộc phong kiến phương Bắc, Nho giáo
được đưa vào Việt Nam chủ yếu với tư cách là công cụ phục vụ cho chính sách cai trị và

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 6


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

đồng hóa Việt Nam về văn hóa, người Việt Nam tiếp nhận Nho giáo vẫn với thái độ thụ
động, cho nên suốt cả giai đoạn chống Bắc thuộc Nho giáo chưa có chỗ đứng trong xã hội
Việt Nam.
- Giai đoạn tự chủ (từ năm 938 đến nay)
Sau khi giành độc lập (938), nhà nước phong kiến Việt Nam được hình thành, chính
lúc này vai trò của Nho giáo trong việc tổ chức, quản lý đất nước được phát huy. Nho giáo
được người Việt Nam chủ động thừa nhận như là một yếu tố văn hóa của người Việt Nam,
và xác lập địa vị của nó khi nền độc lập dân tộc hoàn toàn ổn định vững chắc và đi vào
phục hưng ở triều Lý (năm 1010), với sự kiện Lý Thánh Tông cho lập văn Miếu thờ Chu
Công và Khổng Tử, Nho giáo mới được coi là tiếp nhận chính thức. Chính vì vậy mà Nho
giáo ở Việt Nam chủ yếu là Tống nho chứ không phải Hán Nho. Cùng với Nho giáo, Đạo
gia trong thời kỳ này cũng được đưa vào học hành thi cử, thể hiện, trong các kỳ thi ở thời
kỳ này đều có nội dung của cả Nho, Phật và Đạo (gọi là Minh kinh bác học).
Việc Nho giáo chính thức được tiếp nhận tại Việt Nam đã mang theo những triết
lý cơ bản trong ngũ Kinh và tứ Thư (bộ kinh điển của Nho giáo). Người Việt Nam vốn có
lối tư duy “lưỡng phân lưỡng hợp” – sản phẩm của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước,
đã dễ dàng với việc tiếp thu triết lý Âm dương, từ tạo tạo nên cơ sở cho nhận thức và hoạt
động thực tiễn của người Việt Nam.
Năm 1406, đế quốc Minh đem quân xâm lược Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến
10 năm chống quân Minh (1418 - 1428) vương triều Lê chính thức được kiến lập và bắt
đầu công việc xây dựng, phát triển nền văn hóa độc lập dân tộc. Sự lớn mạnh của Nho
giáo Việt Nam (điều kiện chủ quan) cùng với nhu cầu cải cách quản lý đất nước (yêu cầu
khách quan) đã dẫn đến triều đại Lê đưa Nho giáo thành quốc giáo, sự phát triển của Nho
giáo thời kỳ này đã chuyển sang một giai đoạn mới - giai đoạn Nho giáo độc tôn.
b. Kết quả chủ yếu của giao lưu giữa văn hóa Việt Nam với văn hoá Trung Hoa
- Về tôn giáo và đời sống tâm linh
Phật giáo Đại thừa vào Việt Nam theo con đường xâm lược của nhà Hán. Trong
lòng nền văn hóa Trung Hoa, Phật giáo đã bị thay đổi một cách căn bản, gần gũi và rộng

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 7


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

mở hơn với đời sống trần tục, cùng với Đạo giáo kết hợp với văn hóa bản địa tạo nên tính
tổng hợp và xu hướng nhập thế của tôn giáo Việt Nam.
Đạo Hòa Hảo, hay còn gọi là Phật giáo Hòa Hảo, là một tông phái Phật giáo Việt
Nam do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm 1939, lấy pháp môn Tịnh Độ tông (Phật giáo Đại
thừa) làm căn bản và chủ trương tu hành tại gia.
Đạo Cao Đài cũng là một tôn giáo được thành lập ở Việt Nam vào đầu thế kỷ XX,
Một số nhân vật Phật giáo cũng được tôn thờ trong đạo Cao Đài như Nhiên Đăng Cổ
Phật, Thích Ca Mâu Ni, Quan Âm Bồ Tát, và được xem như những vị tôn trưởng vô hình
trấn giữ nền đạo. Pháp môn Tuyển độ của Cao Đài chịu ảnh hưởng rất lớn từ pháp môn
Thiền của Phật giáo Thiền tông.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng được coi là có nguồn gốc từ Trung Quốc du
nhập vào Việt Nam, đã trở thành tín ngưỡng cơ bản của người Việt Nam bởi tính phổ
biến của nó trong đời sống người Việt Nam.
- Về triết lý
Triết lý Âm dương, thuyết Ngũ hành, lịch Âm dương và Hệ Can chi đã ảnh hưởng
đến mọi mặt của đời sống cư dân nông nghiệp Việt Nam, hình thành nên triết lý sống
bình quân, khả năng thích nghi cao với mọi hoàn cảnh...thói quen tính toán thời gian cho
phù hợp với thời vụ trong canh tác nông nghiệp.
- Về chính trị và cách tổ chức bộ máy
Nhà nước Phong kiến Việt Nam chủ động tiếp nhận Nho giáo chính là để khai thác
những yếu tố là thế mạnh của Nho giáo trong việc tổ chức và quản lý đất nước. Qua lăng
kính của người Việt, Nho giáo bị "khúc xạ" và mang những nội hàm mới.
Nhà nước quân chủ Việt Nam, đặc biệt là triều đại nhà Lê, kể từ vua Lê Thái Tổ
(1428-1433) sau khi lên ngôi đã học tập rất nhiều ở cách tổ chức triều đình và hệ thống
pháp luật của người Trung Hoa. Các bộ kinh điển và sách vở liên quan tới Nho giáo đều
được du nhập từ Trung Hoa và được phổ biến rộng rãi, vì vậy Nho giáo có điều kiện để
trở thành cơ sở lý luận cho các nhà soạn thảo luật pháp thời Lê. Quốc Triều Hình Luật
thời Lê (hay còn được gọi là Bộ Luật Hồng Đức) là bộ luật chịu ảnh hưởng sâu sắc của
Nho giáo, Bộ luật ra đời trong thời điểm Nho giáo có mức độ, điều kiện và phạm vi ảnh

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 8


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

hưởng rộng rãi, sâu sắc nhất. Quốc Triều Hình Luật là công cụ quan trọng để xây dựng và
củng cố nhà nước quân chủ trung ương tập quyền.
Ngoài ra, việc tuyển chọn nhân tài bổ dụng vào bộ máy cai trị đã được các triều
đại phong kiến Việt Nam áp dụng thông qua con đường học hành và thi cử của Nho giáo.
Từ kỳ thi đầu tiên (năm 1075) được nhà Lý khởi xướng đến kỳ thi cuối cùng của lịch sử
khoa cử phong kiến (năm 1919), nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức 185 kỳ thi,
tuyển chọn được 2.875 người đỗ đạt để tuyển chọn vào bộ máy cai trị của nhà nước
phong kiến trong 844 năm áp dụng phương thức này.
- Về chuẩn mực đạo đức xã hội, chịu ảnh hưởng của Nho giáo với những chuẩn
mực đạo đức:
“Tam cương”, ba trật tự của xã hội phong kiến: Vua – tôi (tôi phải trung với vua);
cha – con (cha nhân từ, con hiếu thuận); chồng – vợ (vợ phải theo chồng).
“Ngũ thường” là năm đức tính của con người: Nhân; Nghĩa; Lễ; Trí; Tín.
“Tam tòng”: Tại gia tòng phụ (người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha); Xuất
giá tòng phu (lúc lấy chồng phải theo chồng); Phu tử tòng tử (nếu chồng qua đời phải
theo con trai).
“Tứ Đức”: Công là Nữ công gia chánh (may vá thêu thùa, nấu nướng cơm nước).
Dung là cung cách đi đứng phải nhẹ nhàng, ăn mặc kín đáo... Ngôn là lời ăn tiếng nói
phải đúng mực, nhỏ nhẹ, lễ phép với người trên, ôn tồn với người dưới. Hạnh là đức
hạnh, là lòng sắt son chung thủy với chồng, hiếu với cha mẹ, thảo với anh em.
- Về chủng tộc
Ngay từ những năm đầu tiên khi nhà Hán thôn tính Nam Việt, nhà Hán đã bắt đầu
tiến hành chính sách đồng hóa người Việt Nam và văn hóa Việt Nam. Dân tộc Việt Nam đã
hình thành trên cơ sở có sự hoà huyết với chủng tộc Hán và các chủng tộc phương Bắc khác.
- Về ngôn ngữ
Tiếng Việt là ngôn ngữ dùng trong sinh hoạt giao tiếp của dân thường từ khi lập
quốc. Bắt đầu từ khi Trung Quốc có ảnh hưởng tới Việt Nam, tiếng Việt đã du nhập thêm
những từ ngữ Hán cổ, từ đó hình thành nên hệ thống Hán-Việt. Kể từ đầu thế kỷ thứ XI,
Nho học phát triển, việc học văn tự chữ Nho (Hán) được đẩy mạnh, tầng lớp trí thức

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 9


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

được mở rộng tạo tiền đề cho một nền văn chương của người Việt Nam bằng chữ Nho
cực kỳ phát triển. Cùng thời gian này, một hệ thống chữ viết được xây dựng riêng cho
người Việt Nam, đó chính là chữ Nôm. Chữ Nôm được chính thức dùng trong hành chính
khi vua Quang Trung lên ngôi vào năm 1789.
- Về tri thức khoa học
Thời kỳ nước ta thuộc nhà Hán (Đông Hán), khi Nhâm Diên làm Thái thú quận
Cửu Chân, dân ta đã học được một số kỹ năng canh tác nông nghiệp như rèn đúc đồ sắt
để làm điền khí, dùng trâu bò cày bừa ruộng đất…
3. Giao lưu với văn hoá phương Tây
a. Các giai đoạn trong quá trình giao lưu với với văn hoá Phương Tây
- Giai đoạn từ đầu thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX
Những người phương Tây đã biết đến Đông Nam Á và Việt Nam từ những năm
đầu công nguyên, nhưng phải đến thế kỷ XVI, các giáo sĩ Phương Tây mới biết đến Việt
Nam. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, sự xâm nhập của văn hoá Phương Tây mới chỉ ảnh
hưởng một cách gián tiếp đến chính sách của nhà nước phong kiến Việt Nam.
Bước chuyển biến và ảnh hưởng quan trọng đến văn hoá Việt Nam là sự xuất hiện
của Thiên chúa giáo. Năm 1553, (năm Nguyên Hoà thứ 1 đời Lê Trang Tông), Ignatio
(Inêkhu) theo đường biển lẻn vào giảng đạo Giatô (Công giáo) ở các làng Ninh Cường,
Quần Anh, Trà lũ (Thuộc tỉnh Nam Định). Sau đó là các giáo sĩ Bồ Đào Nha, Tây Ban
Nha tìm đến truyền đạo ngày càng đông.
Cuối năm 1624, giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rrodes (1591 - 1660) thuộc giáo
hội Bồ Đào Nha sau mấy năm truyền giáo đã về Roma vận động giao cho Pháp toàn
quyền truyền giáo ở Viễn Đông. Năm 1658, Giáo hoàng đã phong cho hai giáo sĩ người
Pháp (là Francois Pallu và Lambert de la Motte) làm giám mục cai quản hai địa phận
Đàng Trong và Đàng Ngoài. Năm 1664, Hội thừa sai Paris được thành lập.1
Cuối thế kỷ XVIII, cuộc nội chiến Nguyễn Ánh - Tây Sơn là cơ hội cho Hội
truyền giáo nước ngoài bành trướng thế lực tại Việt nam. Giám mục Pierre Pigneaux de
Bðhaine (Bá đa lộc - còn gọi là Cha Cả) đại diện toà thánh Đàng Trong đã trở thành

1
Hội truyền giáo nước ngoài của Pháp.
Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 10
Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

người đỡ đầu cho Nguyễn Ánh. Bá đa lộc đã mộ quân, mua sắm vũ khí giúp Nguyễn Ánh
chống quân Tây Sơn. Hoạt động này đã giúp Pháp có vị trí vững chắc về tôn giáo và
chính trị tại Việt Nam.
- Giai đoạn giữa cuối thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX (1954)
Năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ tấn công vào cảng Đà Nẵng và sau đó tiến vào
xâm chiếm Sài Gòn, đánh dấu giai đoạn thực dân Pháp cai trị Việt Nam và đi liền với nó
là sự xâm nhập của văn hoá phương Tây vào Việt Nam.
- Giai đoạn từ năm 1954 đến nay
Sau trận chiến Điện Biên Phủ, các bên tham chiến đã họp tại Genève năm 1954 để
tìm kiếm phương cách giải quyết chiến tranh. Kết quả, Hiệp định Genève được ký kết với
nội dung là một cuộc đình chiến và tạm phân đôi Việt Nam thành hai miền tại vĩ tuyến 17.
Miền Nam bị đã bị đặt dưới sự cai trị của Mỹ, trở thành quốc gia phụ thuộc hoàn
toàn về kinh tế và chính trị vào Mỹ.
Miền Bắc dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh, đã thành lập chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, một mặt bắt tay vào việc tổ chức đất nước theo mô hình xã hội
chủ nghĩa như ở các nước Liên Xô, Trung Quốc
Đây là giai đoạn đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Năm 1975, nước Việt Nam thống nhất đã tồn tại trên thế giới như một quốc
gia có chủ quyền, có vị thế bình đẳng với các nước trên thế giới. Giai đoạn này được
đánh dấu bằng sự tiếp xúc với văn hoá Xô Viết, Văn hóa Mỹ và văn hóa toàn cầu.
b. Kết quả của sự giao lưu giữa văn hóa Việt Nam với văn hoá phương Tây
- Giai đoạn từ thế kỷ 16 đến năm 1954
+ Về tôn giáo: Kitô giáo là một bộ phận quan trọng của văn hóa Phương Tây khi
được du nhập vào Việt Nam đã tạo nên “tính linh hoạt” trong văn hoá của người Việt Nam.
Tính linh hoạt đó được biểu hiện qua kiến trúc, nếu kiến trúc nhà thờ Thiên Chúa giáo nổi
tiếng về sự rập khuôn cứng nhắc theo lối kiến trúc cao với đỉnh tháp nhọn hoắt (Gôtich), thì
ở Việt Nam, nhà thờ Thiên chúa giáo lại dưới dạng kiến trúc thấp, trải rộng có mái cong
(Nhà thờ Phát Diệm), hoặc do truyền thống tôn trọng phụ nữ, người Việt Nam thường đưa
Đức mẹ Maria lên vị trí sùng kính đặc biệt mà ở phương Tây không gặp.

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 11


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

+ Chữ quốc ngữ: Khi truyền giáo cho người Việt Nam, khó khăn đầu tiên mà các
giáo sĩ vấp phải là sự khác biệt về ngôn ngữ và văn tự, bởi vậy họ đã dùng bộ chữ Latinh
thêm dấu phụ để phiên âm tiếng Việt tạo nên chữ Quốc ngữ. Đây là kết quả của tập thể các
giáo sĩ Bồ Đào Nha, Ý, Pháp... nhưng công lao lớn nhất thuộc về Alexandre de Rhoder.
Chữ quốc ngữ hình thành xuất phát từ nhu cầu truyền đạo, nó có ưu điểm là dễ học nên đã
được các nhà Nho tiến bộ tích cực truyền bá để phổ cập giáo dục, nâng cao dân trí (Hội
truyền bá chữ quốc ngữ). Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ đánh dấu bước khởi đầu của công
cuộc hội nhập cảu văn hóa Việt Nam vào nền văn minh chung của nhân loại.
+ Hệ thống giao thông: Để phục vụ cho việc khai thác thuộc địa, Pháp đã cho xây
dựng hệ thống giao thông, đường bộ được mở mang đến các đồn điền, hầm mỏ… Đường
sắt với những đường hầm xuyên núi, các cầu lớn qua sông đã được xây dựng, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc thông thương giữa các vùng, miền trong toàn quốc.
+ Đô thị: Việt Nam từ mô hình cổ truyền với chức năng trung tâm chính trị đã
chuyển sang phát triển theo mô hình đô thị công – thương nghiệp, chú trọng chức năng
kinh tế, nhiều ngành công nghiệp mới ra đời. Ở các đô thị lớn dần hình thành tầng lớp Tư
sản dân tộc làm thay đổi kết cấu giai cấp của xã hội Việt Nam. Những sự thay đổi đó làm
cho đô thị cũng ngày càng trở thành trung tâm chi phối khu vực nông thôn.
+ Tri thức: Khoa học, kỹ thuật trở thành những tri thức chiếm ưu thế so với các
luận thuyết đạo đức, chính trị, xã hội của nền văn hoá bản địa. Đây là tiền đề tạo lập nên
nền khoa học hiện đại ở Việt Nam, thể hiện ở sự biến mất của chế độ khoa cử, thay vào
đó là các trường quốc học, các viện nghiên cứu như trường Quốc học Huế, Viện Viễn
Đông Bác cổ…. (Đây là cơ sở để người Việt Nam tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản và tư
tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin sau này).
+ Văn học và nghệ thuật: có bước chuyển biến mạnh mẽ, biểu hiện ở việc xuất
hiện tiểu thuyết hiện đại vốn là cái mà truyền thống Việt Nam không có. Khởi đầu là tiểu
thuyết của Nguyễn Trọng Quản viết bằng chữ quốc ngữ in ở Sài Gòn năm 1887 với nhan
đề “Truyện thầy Lazaro Phiền”. Chất văn xuôi, tính cách cá nhân phương Tây còn ảnh
hưởng vào cả một lĩnh vực có truyền thống lâu đời ở Việt Nam như thơ, dẫn đến sự bùng
nổ dòng thơ mới của Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu...

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 12


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

Nghệ thuật hội họa xuất hiện tranh sơn dầu, tranh bột màu với bút pháp tả thực;
Sân khấu xuất hiện kịch nói, cải lương; Nghệ thuật thanh sắc tổng hợp cổ truyền bắt đầu
phân hóa thành hàng loạt các bộ môn như Ca, Múa, Nhạc, Kịch...
- Giai đoạn từ năm 1954 đến nay
+ Ở Miền Nam: Chủ nghĩa thực dụng được xem là triết học của người Mỹ, là niềm
tự hào của nước Mỹ. Nhưng khi du nhập vào miền Nam Việt Nam cùng chủ nghĩa thực
dân kiểu mới và sự hà khắc của chính quyền tay sai, trào lưu tư tưởng này đã bị biến thể
thành thứ thực dụng tầm thường.
Chủ nghĩa thực dụng đã trở thành một trong những trào lưu tư tưởng mới và được
đón nhận như là một lý tưởng sống của một bộ phận không nhỏ dân cư, đặc biệt là thanh
niên thời bấy giờ.
Nhưng cũng không thể phủ nhận được những thành tựu khoa học kỹ thuật cùng
với tiềm lực tài chính mà Mỹ đã đưa vào Việt Nam làm biến đổi xã hội Việt Nam truyền
thống, tạo ra các gía trị trong các lĩnh vực: giao thông, xây dựng, quản lý tài chính, lối
sống văn minh công nghiệp…
+ Ở Miền Bắc: chịu ảnh hưởng nhiều bởi nền văn hóa Xã hội chủ nghĩa thông qua
văn hoá Xô viết, nền văn hóa được xây dựng trên nền tảng Kinh tế - Chính trị của Chủ
nghĩa xã hội, đặc biệt trên cơ sở hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Chủ nghĩa Mác
Lênin đã được coi là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động. Xã hội miền
Bắc đã tiếp thu những tri thức khoa học thông qua việc cử cán bộ sang Liên Xô đào tạo,
các công trình kiến trúc hiện đại được chuyên gia Liên Xô giúp đỡ. Nền văn học nghệ
thuật tiên tiến của Liên Xô đã du nhập vào Việt Nam, lối sống Xã hội chủ nghĩa được
hình thành trên đất nước Liên xô được coi là mục tiêu phấn đấu của nhân dân miền Bắc.
- Nước Việt Nam thống nhất
Toàn cầu hóa là xu hướng tất yếu trong những thập niên cuối của thế kỷ XX. Dưới
tác động của toàn cầu hóa, các dân tộc, các quốc gia phải xích lại gần nhau, liên kết với
nhau trong sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau để cùng tồn tại và phát triển. Văn hóa
cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Văn hóa Việt Nam trong tương tác với văn hoá khu
vực và văn hoá toàn cầu đang đặt ra những cơ hội và thách thức. Vì vậy, Đảng ta khẳng

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 13


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

định: Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu
nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu
vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và
cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra
trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển,
phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên Chủ nghĩa xã hội1.
II. VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA
1. Tác động của toàn cầu hóa đối với bản sắc văn hóa
a. Khái niệm Toàn cầu hóa
Toàn cầu hoá gắn liền với những thành tựu về mặt kinh tế, khoa học và công nghệ
như: thông tin cáp, kinh tế số, Internet... Toàn cầu hoá tạo ra các luồng hàng hoá, tư bản
xuyên quốc gia và làm cho không gian của các nền kinh tế, văn hoá đan lồng vào nhau.
Dưới tác động của toàn cầu hoá, các dân tộc và các cá nhân buộc phải xích lại gần nhau,
liên kết với nhau trong sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Những lợi ích của toàn cầu hoá là không thể phủ nhận, nhưng nó cũng đem lại
không ít thách thức và tiêu cực như: sự đảo lộn cấu trúc nhân lực trong xã hội công dân,
sự phân hoá giàu nghèo... Đặc biệt là toàn cầu hoá đang đặt ra những thách thức về mặt
văn hoá mà hầu như nước nào cũng phải đối mặt; đó là: phải giải quyết như thế nào mối
quan hệ giữa tính dân tộc với tính quốc tế, giữa truyền thống với hiện đại, giữa mở cửa
hội nhập với thế giới mà vẫn duy trì được bản sắc dân tộc?...
Sở dĩ những vấn đề văn hoá như vậy xuất hiện là vì toàn cầu hoá đang mở ra một phổ
giao lưu và tương tác rộng lớn, với cường độ và tần suất mà lịch sử trước đó chưa từng biết
đến. Mặc dù giao lưu và tương tác văn hoá vốn không phải là điều xa lạ đối với các nền văn

1
Nghị quyết hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII) về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
2
Đinh Gia Khánh, Mười thế kỷ của tiến trình văn hóa Việt Nam. Nxb Giáo Dục, tr. 12

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 14


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

hoá trong lịch sử. Kể từ khi lịch sử loài người xuất hiện cho đến nay, quá trình trao đổi và
giao lưu lẫn nhau giữa các nền văn hoá khác nhau luôn luôn diễn ra. “Sự trao đổi và giao lưu
văn hoá đó khiến mỗi nền văn hoá khác nhau, trong quá trình va chạm với nhau, trên cơ sở
gìn giữ bản sắc của nền văn hoá của mình, đã đồng thời hấp thu và tham khảo các nền văn
hoá khác, thậm chí còn hình thành sự hoà đồng giữa các nền văn hoá khác nhau về chất”1.
Nhưng dưới tác động của toàn cầu hoá, cùng với những thay đổi mang tính cách
mạng trong khoa học công nghệ, thì sự giao lưu, mức độ tác động qua lại giữa các nền
văn hoá đã thay đổi về chất, đến độ, không ít học giả coi sự tương tác và giao lưu văn hoá
trong thời đại ngày nay là toàn cầu hoá văn hoá.
b. Toàn cầu hoá văn hoá và tác động của nó đối với bản sắc văn hóa dân tộc
Toàn cầu hóa văn hóa vẫn còn là một vấn đề đang gây nhiều tranh luận trong giới
nghiên cứu. Bởi lẽ, có không ít người cho rằng: xu hướng của mọi quá trình toàn cầu hoá
là đi đến nhất thể hoá. Nói cách khác, chỉ những quá trình nào dẫn đến sự kiến tạo nên
các hệ chuẩn mực chung cho toàn nhân loại thì mới được gọi là toàn cầu hoá. Và một khi
toàn cầu hoá được hiểu như vậy thì sẽ không thể có toàn cầu hoá văn hoá. Vì rằng, thế
giới trong đó chúng ta đang sống là một di sản văn hoá đặc biệt, ràng buộc chúng ta với
tổ tiên và con cháu chúng ta, và phân biệt chúng ta với các thành viên của các nền văn
hóa khác. Mỗi dân tộc trên hành tinh này đều để lại những dấu ấn văn hóa độc đáo,
không lặp lại của mình.
Nhưng nhiều học giả lại có quan niệm khác về toàn cầu hoá. Theo đó, toàn cầu
hoá chỉ đơn giản là quá trình mở rộng phạm vi giao tiếp và trao đổi giữa người với người
đạt đến cấp độ toàn thế giới. Với quan niệm này thì toàn cầu hoá văn hoá là khái niệm
hoàn toàn có thể chấp nhận được. Nó phản ánh không chỉ xu hướng nhất thể hoá các
chuẩn giá trị mà còn bao hàm tất cả những hậu quả khả dĩ do giao lưu và tương tác văn
hoá đem lại; cụ thể như: sự dung nạp lẫn nhau giữa các yếu tố của các nền văn hoá khác
nhau để hình thành nên hệ giá trị chuẩn chung cho toàn nhân loại; sự va chạm và đụng độ

1
Liu Zhongmin. VÒ mèi quan hÖ gi÷a v¨n ho¸ vµ chÝnh trÞ quèc tÕ. Tµi liÖu phôc vô nghiªn cøu,
ViÖn Th«ng tin KHXH, 1999, sè 47, tr. 5.
Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 15
Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

giữa các nền văn hoá ở cấp độ toàn cầu; xu hướng bài ngoại, chủ nghĩa biệt lập văn
hoá...vv.
Với quan niệm đó thì, toàn cầu hoá văn hoá hiện nay đang hàm chứa trong bản
thân hai khuynh hướng chủ đạo, song trái ngược với nhau:
Thứ nhất, Toàn cầu hoá văn hoá đang đặt nền móng cho một hiện thực văn hoá
theo nghĩa rộng - văn hoá của toàn nhân loại. Nói cách khác, toàn cầu hoá đang xác lập
nên hệ giá trị chung đại diện cho con người - nhân loại, xét trong quan hệ với giới tự
nhiên, và trong quan hệ ứng xử giữa các dân tộc trên thế giới.
Thứ hai, Toàn cầu hoá đang đánh thức sự phản tư văn hoá ở tất cả các dân tộc trên
thế giới. Nó kích thích nhu cầu khẳng định bản sắc trước nguy cơ bị hoà tan vào môi
trường văn hoá bên ngoài. Bởi lẽ mỗi dân tộc, để tồn tại được đến ngày nay, đã phải đấu
tranh không ngừng để bảo tồn “cái tôi” độc đáo của mình. Và tính độc đáo ấy chính là
bản sắc của mỗi dân tộc - cái cơ sở văn hoá dùng để khu biệt cộng đồng dân tộc này với
các cộng đồng dân tộc khác trong lịch sử.
Một mặt, văn hoá thẩm thấu vào tầng tâm thức sâu xa của con người, bởi vậy, nó
không dễ gì bị vứt bỏ hay có thể cải tạo bất cứ lúc nào. Mặt khác, văn hoá có rất nhiều bình
diện mà không thể tiến hành phân chia một cách đơn giản bằng sự so sánh hơn kém. Một
số phong tục tập quán, quan niệm giá trị, có thể bị dân tộc khác coi là lạc hậu, không hoàn
thiện, nhưng do thích hợp với lối sống của dân tộc đó, cũng sẽ vẫn tiếp tục được bảo lưu.
Đây là những lý do để nhiều nhà văn hoá học hiện nay đi tới kết luận rằng: toàn
cầu hoá văn hoá sẽ không đẻ ra một thứ văn hoá duy nhất và độc tôn cho toàn thế giới; và
cũng không hề làm tiêu biến các nền văn hoá dân tộc khác, mà trái lại, nó lấy tính đa
dạng của các nền văn hoá dân tộc làm cơ sở phát triển.
Mặc dù vậy, cũng không thể phủ nhận một sự thật là: toàn cầu hoá hiện đang làm
suy yếu lực hướng tâm văn hoá của các nhà nước dân tộc, ngay cả các cường quốc kinh
tế cũng không thể tránh khỏi. Sở dĩ như vậy là do toàn cầu hoá làm thay đổi kết cấu của
không gian quan hệ giữa người với người ở cấp độ toàn cầu. Hệ quả là nó làm cho các xã
hội và các nền văn hoá nằm trong vòng tay nhà nước dân tộc bị biến dạng. Đã có không ít
nhà nghiên cứu cho rằng, quá trình toàn cầu hoá đang tạo ra sự thay đổi, thậm chí phá

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 16


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

hoại bản sắc văn hoá dân tộc trong lòng một quốc gia. Xu hướng này buộc các nhà nước
dân tộc phải có những sách lược phát triển văn hoá cho nhằm ứng phó với những biến đổi
như vậy. Để thực hiện nhiệm vụ này, các nhà nước dân tộc hiện đại đang triển khai ba
phương án hành động cơ bản:
Phương án thứ nhất, cấu trúc lại xã hội, và do đó, không thể không làm thay đổi
kết cấu văn hoá.
Phương án thứ hai, viện đến bản sắc văn hoá dân tộc, đến các ý thức hệ truyền
thống và cả tôn giáo nữa nhằm chống lại sự áp đặt từ phía những nước lớn, khi những
nước lớn này nhân danh các giá trị và chuẩn mực văn hoá toàn cầu mà đề ra những quyết
định bất lợi cho các nước nhỏ. “Ý thức tìm về cội nguồn” là một cách thức nhằm khẳng
định lại vị thế của dân tộc của các nước nhỏ, và cũng là phản ứng chống lại xu hướng
đồng nhất hoá văn hoá một cách có dụng ý của các cường quốc.
Trào lưu phục hưng các yếu tố văn hoá trong quá khứ, nhìn từ mặt tích cực - đang
tạo nên tính đa dạng về văn hoá. Nhưng nhìn từ mặt tiêu cực, thì chính việc hồi sinh này,
ở mức độ nào đó, đã cung cấp cơ hội tốt cho một số yếu tố tiêu cực, lạc hậu vốn ngủ yên
trong quá khứ và trong truyền thống - trỗi dậy.
Phương án thứ ba, vừa bảo vệ và phát huy những nhân tố tích cực trong văn hoá
dân tộc và vừa tiến hành loại bỏ những nhân tố tiêu cực, lạc hậu kìm hãm phát triển và
hội nhập quốc tế.
Giải pháp nhằm thực hiện thành công phương án nói trên là các nền văn hoá phải
có thái độ đối thoại và tôn trọng lẫn nhau, tức là phải tự đào luyện cho mình tính dung
chấp văn hoá. “Đối thoại giữa các nền văn hoá, các nền văn minh là hòn đá tảng của lời
giải toàn cầu cho mọi cuộc xung đột và bạo lực, đặc biệt là cho những gì dựa trên chủ
nghĩa cuồng tín và tính cố chấp”2.
Điều này càng tỏ ra chính xác trong một thế giới đang bị toàn cầu hoá và phụ
thuộc lẫn nhau như hiện nay. Hiện không có nền văn hoá hay văn minh nào lại có thể lấy
tính biệt lập làm cơ sở để tồn tại.

2
Kofi Annan. §èi tho¹i - chèng xung ®ét vµ b¹o lùc. Tµi liÖu phôc vô nghiªn cøu (§èi tho¹i gi÷a
c¸c nÒn v¨n minh), ViÖn Th«ng tin KHXH, 2002, sè 60, tr. 2.
Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 17
Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

Dung chấp và đối thoại văn hoá đang là những đòi hỏi hàng đầu đối với mọi nền
văn hoá trong một thế giới đang bị toàn cầu hoá.
2. Giữ gìn và làm giàu bản sắc văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
a. Khái niệm Bản sắc văn hóa
Bản sắc là những yếu tố văn hoá đặc trưng cho từng cấp độ chủ thể văn hoá được
xét đến. Bản sắc giúp khu biệt cộng đồng văn hoá này với cộng đồng văn hoá khác.
Trong hoạt động kinh tế, con người không chỉ dựa trên các chuẩn mực pháp lý, tri
thức, sự hiểu biết của họ về lĩnh vực họ đang làm, mà còn bị dẫn dắt và chi phối bởi các
giá trị văn hoá như: đạo đức, thẩm mỹ, truyền thống, triết lý mà họ được thừa hưởng từ
giáo dục và từ môi trường sống, tóm lại là - từ bản sắc văn hoá. Chính vì vậy, bản sắc văn
hoá là cốt lõi của triết lý phát triển ở mỗi dân tộc.
Nhận thức được tầm quan trọng của bản sắc văn hoá và nghiên cứu cách thức phát
huy nó cho sự phát triển của đất nước, của địa phương mình, hiện đang là vấn đề thời sự,
thu hút sự quan tâm hàng đầu của tất cả các nước trong thời đại toàn cầu hoá.
Để thực hiện thành công mục tiêu đó, trước hết các dân tộc cần xác định cho được
đâu là bản sắc văn hoá truyền thống của mình. Thứ nữa, cũng cần lưu ý rằng: cho dù bản
sắc văn hoá truyền thống có mạnh đến đâu đi chăng nữa thì nó cũng không phải là cái
“nhất thành bất biến”. Điều này đang trở nên đặc biệt đúng trong điều kiện toàn cầu hoá
như hiện nay.
Đứng trước những đòi hỏi như vậy, có thể nhận thấy rằng, văn hoá Việt Nam đang
ở vào vị thế thuận lợi hơn so với nhiều nền văn hoá khác, bởi tính dung chấp và tính tổng
hợp vốn là bản sắc văn hoá cố hữu của nó.
Một đặc tính nổi trội trong văn hoá Việt Nam là tính dung chấp rất cao. Đã có
nhiều nhà nghiên cứu văn hoá nhìn nhận tính dung chấp ấy như một thứ chủ nghĩa thực
dụng của người Việt: sẵn sàng tiếp thu các yếu tố văn hoá ngoại sinh, miễn là có lợi. Với
cái nhìn đó, văn hóa Việt Nam dễ bị hình dung như một tổng cơ học của những “mảnh
vụn văn hoá” được đặt cạnh nhau.
Thật ra, tính dung chấp văn hoá không đồng nghĩa với tính hỗn tạp và lai căng văn
hoá. Trái lại, nó có tác dụng điều tiết quá trình lựa chọn và kết hợp một cách sáng tạo

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 18


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

giữa các yếu tố văn hoá ngoại sinh với văn hoá bản địa, sao cho bản sắc văn hoá dân tộc
vẫn được bảo tồn và duy trì.
Nhờ tính dung chấp mà quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hoá không những không
làm tổn hại đến nền văn hoá bản địa, mà trái lại còn làm cho nền văn hoá ấy càng trở nên
giàu có và phong phú hơn.
Biết cách loại bỏ những yếu tố văn hoá lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của dân tộc,
và biết chấp nhận những giá trị tiến bộ bên ngoài để đưa dân tộc tiến lên - là một phẩm
hạnh mà không phải nền văn hoá nào cũng có được. Bởi lẽ, phẩm hạnh này chỉ xuất hiện
ở những dân tộc giàu lòng vị tha và dung chấp. Lịch sử đã minh chứng rằng, đã có nhiều
nền văn hoá tự khép kín bản thân để rồi dẫn đến diệt vong do không kịp thích nghi với
những biến động trong đời sống nhân loại; hoặc đi đến những phản ứng bài ngoại hết sức
cực đoan và thiếu nhân tính, gây ra nhiều thảm hoạ nhân đạo.
Một mặt, tính dung chấp văn hoá của người Việt Nam bắt nguồn từ quá trình hình
thành dân tộc Việt: Đây là dân tộc được hình thành từ sự hoà huyết về chủng, từ sự tổng
hợp về mặt ngôn ngữ và từ sự giao thoa của nhiều nền văn hoá trong khu vực. Chính quá
trình hình thành như vậy đã quy định rằng: nền văn hoá của người Việt phải là một hệ
thống tổng hợp và phải là một hệ thống mở, và do đó - phải có tính dung chấp.
Mặt khác, kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã góp phần
định hình tính dung chấp văn hoá của dân tộc này: đứng trước một cường quốc hùng
mạnh tại khu vực lại luôn có dã tâm xâm chiếm và đồng hoá, việc phải mở cửa nền văn
hoá và chấp nhận những giá trị văn hoá bên ngoài tràn vào - là một tất yếu. Bởi vậy, dân
tộc Việt Nam không đứng trước những vấn đề mà nhiều dân tộc khác gặp phải là sự lựa
chọn giữa “đóng” hay “mở cửa” nền văn hoá dân tộc. Vấn đề đặt ra đối với người Việt
luôn là: nên hấp thụ những yếu tố văn hoá nào, và cải biến chúng ra sao cho phù hợp với
nhu cầu phát triển của dân tộc.
Nếu biết vận dụng tính dung chấp văn hoá, thì đó sẽ là một lợi thế lớn của dân tộc
trong công cuộc hội nhập vào đời sống quốc tế hiện nay.
Những phẩm hạnh này, cho phép Việt Nam xây dựng chiến lược và sách lược
nhằm định hình một bản sắc văn hoá mới, phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước,

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 19


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

đáp ứng được các đòi hỏi của thời đại, mà với nó, dân tộc vẫn không đánh mất đi diện
mạo độc đáo của mình.
b. Các biện pháp nhằm giữ gìn và làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc trong bối
cảnh toàn cầu hóa
Từ việc khảo sát những hiệu ứng của toàn cầu hoá đối với bản sắc văn hoá của
nhiều quốc gia trên thế giới, có thể rút ra một số nhận thức hữu ích cho quá trình phát
triển nền văn hoá dân tộc Việt Nam trong điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế như hiện
nay; đó là:
- Sự giao lưu và trao đổi văn hoá giữa các quốc gia, các dân tộc đang diễn ra ngày
càng mạnh mẽ, khiến cho không một nền văn hoá dân tộc nào có thể phát triển trong sự tách
biệt, cô lập, cách ly với thế giới bên ngoài; do đó, bản sắc văn hoá là một khái niệm mở.
- Đất nước đang đứng trước những cơ hội và cả thách thức phải vượt qua. Một
trong những thách thức là nguy cơ “bị xâm lăng bằng văn hoá thông tin”. Do vậy, việc
giữ vững và phát huy những giá trị truyền thống tích cực đồng nghĩa với việc tăng sức đề
kháng cho đất nước, chống lại các nguy cơ lai căng hoá và những thủ đoạn “diễn biến hoà
bình” của các thế lực thù địch.
- Càng mở rộng giao lưu văn hoá, đất nước càng có nhiều cơ hội tiếp thu một cách
có chọn lọc những tinh hoa của nền văn hoá, văn minh nhân loại để làm giàu kho tàng
văn hoá dân tộc. Bằng cách đó, những yếu tố văn hoá tiến bộ được dung nạp và những
yếu tố văn hoá lạc hậu, lỗi thời đang kìm hãm sự phát triển bị loại bỏ – trong khi diện
mạo văn hoá riêng có của Việt Nam vẫn được khẳng định.
- Cần phải đánh giá thoả đáng vai trò của văn hoá đối với sự phát triển của dân tộc
trong thời đại ngày nay. Bởi lẽ văn hoá giờ đây không chỉ là diện mạo của một dân tộc,
mà còn là một trong những động lực quan trọng dẫn dắt sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân.
- Đây cũng là cơ sở để chúng ta tăng cường đầu tư nhiều hơn nữa vào giáo dục,
vào đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, củng cố ý thức cộng đồng, đẩy mạnh dân chủ
và đa dạng hoá văn hoá, để chuẩn bị chuyển sang một nền kinh tế mới – nền kinh tế dựa
vào tri thức.

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 20


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

PHẦN KẾT
Qua nghiên cứu học tập bài này, Anh/Chị cần nắm được những nội dung cơ bản và
cốt lõi sau đây: Văn hóa Việt Nam được tạo bởi hai lớp văn hóa: Văn hóa bản địa và văn
hóa do giao lưu – tiếp biến.
Trong lịch sử Việt Nam, do vị trí địa lý và lịch sử qui định nên văn hóa bản địa
của Việt Nam đã giao lưu với rất nhiều nền văn hóa lớn trên thế giới, đó là Ấn Độ, Trung
Hoa và Phương Tây. Kết quả của quá trình giao lưu đó để lại rất nhiều dấu ấn trong văn
hóa Việt Nam và được cải biến tạo thành những yếu tố của bản sắc văn hóa Việt Nam, đó
là Phật giáo Tiểu thừa, Bàlamôn giáo và Hồi giáo của Ấn Độ tạo nên những nét đặc sắc
trong đời sống văn hóa của cư dân vùng đồng bằng Bắc bộ, là cơ sở để tạo nên văn hóa
Chăm, văn hóa Óc eo.
Sự du nhập của triết lý Âm dương, Thuyết Ngũ hành, Lịch Âm dương và Hệ can
chi cùng với Nho giáo, Phật giáo đại thừa, Đạo giáo của Trung Hoa đã ảnh hưởng đến
phương pháp tư duy, cách thức tổ chức hoạt động chính trị và sinh hoạt tôn giáo và các
mặt khác trong cuộc sống của người Việt Nam.
Sự du nhập của Thiên Chúa giáo cùng với những thành tựu khoa học kỹ thuật của
Phương Tây đã tạo điều kiện cho Việt Nam bắt đầu tiếp thu được những tri thức của nhân
loại, bước đầu gia nhập vào nền văn hóa toàn cầu.
Quá trình giao lưu với các nền văn hóa lớn trên thế giới đã tạo nên đặc điểm nổi
trội của Bản sắc văn hóa Việt Nam, đó là tính dung chấp với những ưu điểm trong quá
trình toàn cầu hóa hiện nay.
Đứng trước xu hướng toàn cầu hóa, các cấp độ chủ thể tạo thành bản sắc văn hóa
dân tộc có sự thay đổi về cả nội dung và hình thức. Điều đó đặt cá nhân cũng như các tổ
chức của Việt Nam phải có những biện pháp để tiếp thu được giá trị tiên tiến của văn hóa
nhân loại nhưng vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa của dân tộc.

Chúc các Anh/Chị học tập tốt!

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 21


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Irma Adelman. Năm mươi năm phát triển kinh tế chúng ta học được những gì?; Tư
duy mới về phát triển cho thế kỷ XXI. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
2. Arnold Toybee. Nghiên cứu về lịch sử – một cách thức diễn giải. Nxb Thế giới, Hà Nội
2002.
3. Nguyễn Từ Chi. Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người. Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội, 1996.
4. W. Durant. Lịch sử văn minh Trung Quốc. Trung tâm thông tin Đại học Sư phạm
Thành phố HCM, 1990.
5. Vũ Minh Giang. Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay. Hà Nội,
1996.
6. Hoàng Xuân Hãn. Lịch và Lịch Việt Nam. Tập san Khoa học xã hội (Paris) số 2, 1982.
7. Cao Xuân Huy. Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu. Nxb Văn
học, Hà Nội, 1995.
8. Đỗ Quang Hưng. Một số vấn đề lịch sử Thiên Chúa giáo ở Việt Nam. Nxb Đại học
Tổng hợp Hà Nội, 1991.
9. Nguyễn Văn Huyên. Văn minh Việt Nam. 1944, tuyển tập góp phần nghiên cứu văn
hoá Việt Nam, NXB khoa học xã hội, 1996.
10. Nguyễn Văn Huyên. Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam tập I, II. Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1995.
11. Phạm Khiêm Ích (chủ biên). Văn hoá học và văn hoá thế kỷ XX, tập I. Viện Thông tin
khoa học xã hội, Hà Nội 2001.
12. Nguyễn Hiến Lê. Kinh Dịch – đạo của người quân tử. Nxb Văn học, Hà Nội, 1992.
13. Thu Linh, Đặng Văn Lung. Lễ Hội – truyền thống và hiện đại. Nxb Văn hóa, Hà Nội,
1994.
14. Đặng Văn Lung. Tam tòa Thánh Mẫu. Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1991
15. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (chủ biên). Các giá trị truyền thống và con người Việt
Nam hiện nay, Tập II đề tài KX07.02, Hà Nội, 1996.

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 22


Trung tâm Đào tạo E-learning Cơ hội học tập cho mọi người

16. Jonh Naisbitt. Nghịch lý toàn cầu. Bộ Tài chính, Viện nghiên cứu Tài chính, Hà Nội,
1997.
17. Phan Ngọc. Bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002.
18. Zhangzhigang. Tôn giáo và đời sống hiện đại, T1. Trung tâm KHXH&NV QG, Viện
TTKHXH, Hà Nội, 1997.
19. Trần Ngọc Thêm. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh, 2004.
20. Ngô Tất Tố. Lão Tử. Nxb Tổng hợp Thành phố HCM, 1992.
21. Hoàng Tuấn. Nguyên lý chọn ngày theo Lịch can chi. Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
Nội, 2000.
22. Trường Đại Luật Hà Nội. Lịch sử triết học. Trần Thị Hồng Thúy (Chủ biên). Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 1999.
23. V.M Rôđin. Văn hoá học. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
24. Phạm Thái Việt (chủ biên). Đại cương về văn hóa Việt Nam. Nxb văn hóa – Thông
tin, Hà Nội, 2004.
25. Phạm Thái Việt. Một số nét mới của tôn giáo và nghiên cứu tôn giáo hiện nay. Sách
“Tôn giáo và đời sống hiện tại”, tập IV. Viện Thông tin khoa học xã hội, Hà Nội, 2002.
26. Uỷ ban Quốc gia về thập kỷ quốc tế phát triển văn hoá. Thập kỷ thế giới phát triển
văn hoá. Bộ Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1992.

Đại cương văn hóa Việt Nam - Bài 4 Trang 23

You might also like