Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 15

MĐ: 704

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

BÀI TIỂU LUẬN


GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG

Họ và tên: Trần Thị Tươi


Ngày sinh: 12/10/1996
Nơi sinh: Thăng Bình, Quảng Nam
Đơn vị công tác: Giáo viên tự do tại Phú Quốc

Năm 2024
PHẦN NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................
........................................................................................................

ĐIỂM
Bằng số Bằng chữ

Hà Nội, ngày ……..tháng…….. năm 2024


Giảng viên

2
Mục lục
MĐ: 704.......................................................................................................................1
BÀI TIỂU LUẬN.......................................................................................................1
GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG..............................................................................1
Câu 1...........................................................................................................................4
Câu 2: Bản chất và đặc điểm của quá trình giáo dục. Nguyên tắc giáo dục cơ
bản và liên hệ thực tiễn giáo dục Việt Nam hiện nay.............................................5
1. Khái niệm......................................................................................................5
2. Bản chất của giáo dục..................................................................................6
3. Đặc điểm của quá trình giáo dục................................................................7
4. Hệ thống các nguyên tắc trong giáo dục....................................................9
5. Liên hệ thực tiễn giáo dục Việt Nam hiện nay.........................................13

3
CÂU HỎI
Câu 1: Hãy cho biết quan điểm của Anh / Chị về ý kiến sau: “Thông qua việc
tổ chức dạy học bộ môn của mình, người dạy với ý thức trách nhiệm và kỹ năng
nghề nghiệp của mình sẽ góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ giáo dục toàn
diện nhân cách cho người học”; phân tích và lấy ví dụ chứng minh quan điểm của
anh chị.

Câu 2: Anh/ Chị làm rõ bản chất và đặc điểm của quá trình giáo dục. Nêu các
nguyên tắc giáo dục cơ bản. Liên hệ thực tiễn giáo dục Việt Nam hiện nay?

BÀI LÀM

Câu 1
Quan điểm của tôi về tuyên bố này là hoàn toàn đồng ý. Tổ chức dạy học của
một giáo viên không chỉ đòi hỏi kiến thức chuyên môn sâu rộng mà còn yêu cầu ý
thức trách nhiệm và kỹ năng nghề nghiệp. Đây là yếu tố then chốt trong việc thực
hiện nhiệm vụ giáo dục toàn diện nhân cách. Tầm quan trọng của việc tổ chức dạy
học không chỉ dừng lại ở việc truyền đạt kiến thức mà còn nằm ở việc hình thành
nhân cách và giáo dục toàn diện cho học sinh. Ý thức trách nhiệm và kỹ năng nghề
nghiệp của giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ này một
cách hiệu quả.

Trước hết, ý thức trách nhiệm của giáo viên là hạt nhân của sự thành công
trong giáo dục. Họ phải nhận ra trách nhiệm của mình không chỉ là truyền đạt kiến
thức mà còn là tạo ra một môi trường học tập tích cực và ủng hộ cho sự phát triển
toàn diện của học sinh.

Thứ hai, kỹ năng nghề nghiệp là yếu tố quyết định việc giáo viên có thể thực
hiện nhiệm vụ giáo dục một cách hiệu quả hay không. Kỹ năng này bao gồm khả
năng lập kế hoạch giảng dạy, quản lý lớp học, tạo ra các hoạt động học tập phù hợp,
đánh giá và phản hồi hiệu quả. Bằng cách sử dụng những kỹ năng này, giáo viên có

4
thể tạo ra một môi trường học tập kích thích và đáp ứng nhu cầu học tập của từng
học sinh.

Giáo viên là những người có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ dạy học và
giáo dục; là người được xã hội trao cho nhiệm vụ chuẩn bị cho trẻ em bước vào cuộc
sống tương lai. Học sinh có nhiệm vụ học tập và rèn luyện để trở thành người có văn
hoá, tiếp thu khoa học - công nghệ hiện đại, hình thành được những kĩ năng, kĩ xảo
lao động trí óc và chân tay, sẵn sàng bước vào cuộc sống lao động và học tập suốt
đời. Mục đích giáo dục là hình thành và phát triển nhân cách tích cực, chủ động,
sáng tạo thì nội dung và phương pháp giáo dục phải phù hợp với nguyện vọng, ước
mơ của học sinh và những yêu cầu khách quan của cuộc sống tương lai, tạo điều
kiện cho học sinh tự giá, tự giáo dục.

Ví dụ cụ thể, hãy xem xét một giáo viên tiểu học tận tâm và có tinh thần trách
nhiệm cao. Cô ấy không chỉ dạy học thuật mà còn giúp các em học sinh phát triển
kỹ năng xã hội, tự tin và lòng tự trọng. Cô ấy sử dụng các phương pháp giảng dạy
linh hoạt và sáng tạo, kích thích sự tò mò và ham muốn học của học sinh. Kết quả là,
không chỉ các em học sinh đạt được thành tích học tập cao mà còn phát triển toàn
diện về mặt nhân cách và tư duy.

Tóm lại, thông qua việc tổ chức dạy học bộ môn của mình với ý thức trách
nhiệm và kỹ năng nghề nghiệp, giáo viên có thể đóng góp một cách hiệu quả vào
nhiệm vụ giáo dục toàn diện nhân cách cho học sinh. Điều này không chỉ tạo ra
những học sinh thành thạo về kiến thức mà còn phát triển những cá nhân có giá trị
trong xã hội.

Câu 2: Bản chất và đặc điểm của quá trình giáo dục. Nguyên tắc giáo dục cơ
bản và liên hệ thực tiễn giáo dục Việt Nam hiện nay
1. Khái niệm

Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, một quá trình, trong đó: Dưới tác
động có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp của người giáo viên, với tư cách là

5
nhà giáo dục, nhà sư phạm, sinh viên tự giác, tích cực tự giáo dục, tự tu dưỡng, rèn
luyện nhằm hình thành thế giới quan và những phẩm chất nhân cách tốt đẹp của
người công dân tương lai.

Như vậy, trong quá trình giáo dục, giáo viên giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ
chức, điều khiển hoạt động giáo dục đối với sinh viên. Vai trò chủ đạo của người
giáo viên thể hiện đậm nét trong việc cụ thể hóa, mục đích, mục tiêu giáo dục, xác
định nội dung cần phải giáo dục và giáo dục như thế nào, bằng những phương pháp,
phương tiện và những hình thức giáo dục nào cho phù hợp.

Điều đó cần được cụ thể hóa, chi tiết hóa trong chương trình, kế hoạch, trong
hoạt động tổ chức giáo dục học sinh. Quá trình giáo dục không phải chỉ có tác động
một chiều mà là tác động hai chiều, tác động song phương.

Người học sinh trong quá trình giáo dục không phải chỉ tiếp thu ảnh hưởng, tác
động từ phía giáo viên mà chính bản thân họ cũng thường xuyên tiến hành hoạt
động cá nhân, tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục để từng bước hoàn thiện phẩm
chất nhân cách của mình.

Do đó, trong quá trình giáo dục diễn ra sự tác động qua lại, thường xuyên, tích
cực giữa chủ thể – nhà giáo dục và đối tượng của quá trình giáo dục là sinh viên,
vừa là khách thể, vừa là chủ thể tự giáo dục. Đó là mối quan hệ tương tác giữa giáo
viên và sinh viên giữa chủ thể và khách thể, giữa nhà giáo dục và người được giáo
dục trong hoạt động giáo dục. Nếu không có sự tác động qua lại đó thì chính bản
thân quá trình giáo dục sẽ không tồn tại, không có quá trình giáo dục theo đúng
nghĩa của nó. Nói cách khác trong quá trình giáo dục luôn diễn ra sự tác động qua
lại tích cực và sự thống nhất biện chứng giữa hoạt động giáo dục và hoạt động tự
giáo dục.

Vậy làm thế nào để nhận ra đâu là một quá trình giáo dục? Để trả lời câu hỏi này,
chúng ta cần phải đi tìm bản chất của giáo dục và đặc điểm của quá trình giáo dục

2. Bản chất của giáo dục

6
Quá trình giáo dục - một quá trình xã hội nhằm hình thành và phát triển cá nhân
trở thành những thành viên xã hội, những thành viên đó phải thoả mãn được hai mặt:
vừa phù hợp (thích ứng) với các yêu cầu của xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển, vừa
có khả năng tác động cải tạo, xây dựng xã hội, làm cho nó tồn tại và phát triển.
Những nét bản chất của cá nhân là do các mối quan hệ xã hội hợp thành. Quá trình
giáo dục là quá trình làm cho người được giáo dục (học sinh) ý thức được các quan
hệ xã hội và các giá trị của nó (các quan hệ chính trị - tư tưởng, kinh tế, pháp luật,
đạo đức) để rồi biết vận dụng vào các lĩnh vực: kinh tế, văn hoá - xã hội, đạo đức,
tôn giáo, pháp luật, gia đình...

Quá trình vận dụng, trải nghiệm các quan hệ xã hội đó sẽ giúp học sinh (người
được giáo dục) tích luỹ được kinh nghiệm xã hội (thực tiễn) tốt và có nhu cầu, hành
vi, thói quen, biết thể hiện đúng đắn các quan hệ xã hội.

Quá trình giáo dục là quá trình hình thành bản chất người - xã hội trong mỗi cá
nhân một cách có ý thức, là quá trình tổ chức để mỗi cá nhân chiếm lĩnh được các
lực lượng bản chất xã hội của con người, được biểu hiện ở toàn bộ các quan hệ xã
hội của họ.

Quá trình giáo dục không thể tồn tại nếu không có sự tham gia của chính sinh
viên vào quá trình đó. Vì thế, giáo dục phải phù hợp với thế giới trong của sinh viên
để hiểu nó và biến đổi nó. Với ý nghĩa đó, giáo dục là một quá trình tác động sư
phạm được tổ chức khoa học vào thế giới bên trong của sinh viên nhằm hình thành
và phát triển những phẩm chất cần thiết cho cá nhân và cho xã hội. Xét trên bình
diện tổng quát, giáo dục là quá trình điều khiển, điều chỉnh sự phát triển nhân cách
của sinh viên thông qua các hoạt động sống của chính người sinh viên đó.
Như vậy bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức các hoạt động và
giao lưu trong cuộc sống nhằm giúp cho người được giáo dục tự giác, tích cực, độc
lập chuyển hoá những yêu cầu và những chuẩn mực của xã hội thành hành vi và thói
quen tương ứng.
3. Đặc điểm của quá trình giáo dục

Quá trình giáo dục có 5 đặc điểm cơ bản như sau:


7
a) Giáo dục là một quá trình hoạt động có mục đích, có kế hoạch, có nội
dung, có phương pháp được diễn ra trong một thời gian dài

Đó là quá trình chuyển hóa những yêu cầu khách quan của xã hội thành nhu cầu
phát triển chủ quan của mỗi cả nhân, trong đó các phẩm chất, các nét tính cách, các
hành vi, thói quen về đạo đức, về nếp sống văn hóa, thẩm mỹ… của học sinh dần
dần hình thành, phát triển.
Quá trình đó không thể diễn ra trong chốc lát mà đòi hỏi phải có thời gian. Bởi lẽ
trong quá trình giáo dục, giáo viên không thể chỉ dừng lại ở chỗ làm cho học sinh
hiểu được những yêu cầu và chuẩn mực của xã hội đối với cá nhân mà quan trọng
hơn là phải hình thành những niềm tin, những xúc cảm tích cực đặc biệt là phải rèn
luyện những hành vi và thói quen tương ứng.
b) Quá trình giáo dục diễn ra với những tác động phức hợp

Giáo dục là một quá trình tổ chức các loại hình hoạt động phong phú, phức tạp
nhằm hình thành phẩm chất, những nét tính cách ổn định và bền vững ở người được
giáo dục. Đó là cả một quá trình phát triển và giải quyết hàng loạt các mâu thuẫn
đan xen nhau trong đời sống nội tâm của đối tượng giáo dục.
Dễ hình thành một nét tính cách, một hành vi, một thói quen phù hợp với chuẩn
mực của xã hội cần có sự tác động phối hợp từ nhiều lực lượng giáo dục như nhà
trường, gia đình và các tổ chức xã hội.
Đây là một đặc điểm rất quan trọng trong các đặc điểm của quá trình giáo dục.
c) Quá trình giáo dục là quá trình phát triển biện chứng

Giáo dục là một hiện tượng xã hội và đồng thời là một quá trình nên nó không
ngừng vận động và phát triển theo quy luật phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong
thế giới khách quan. Thực chất của hoạt động giáo dục là quá trình liên tục phát hiện
và giải quyết những tình huống sư phạm nảy sinh trong các lĩnh vực giáo dục đạo
đức, giáo dục lối sống văn hóa thẩm mĩ của hoc sinh trong môi trường sư phạm của
nhà trường, gia đình và xã hội.
d) Quá trình giáo dục có tính cá biệt

8
Trong thực tiễn cuộc sống muôn hình muôn vẻ quanh ta cũng như trong môi
trường giáo dục, mỗi con người, mỗi học sinh là một thế giới riêng với những đặc
điểm riêng về tâm – sinh lí, về nhận thức, tình cảm,… môi con người đều có cuộc
sống và thế giới nội tâm riêng.
Vì vậy, trong quá trình giáo dục, với những tác động sư phạm như nhau, mỗi cá
nhân có thể lĩnh hội theo cách riêng của mình với những mức độ khác nhau.
e) Quá trình giáo dục gắn liền và thống nhất với quá trình dạy học

Trong các loại hình trường, hoạt động giáo dục (theo nghĩa hẹp) và hoạt động
dạy học là hai hoạt động được tiến hành song song với các chức năng, đặc trưng
riêng của mình.
Hoạt động dạy học nhằm tổ chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh có chất
lượng, có hiệu quả nội dung học vấn; hoạt động giáo dục nhằm hình thành những
phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen, lối sống, hành vi văn minh,… Hai hoạt động
đó không thể tách biệt mà thống nhất, bổ sung, bổ trợ, hỗ trợ cho nhau, góp phần
hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách cho thế hệ trẻ.
Cả 5 đặc điểm của quá trình giáo dục trên đều vô cùng quan trọng, nếu thiếu 1
trong 5 đặc điểm trên thì 1 hoạt động sẽ không thể trở thành quá trình giáo dục.
4. Hệ thống các nguyên tắc trong giáo dục
a) Đảm bảo tính mục đích trong mọi hoạt động giáo dục - dạy học

Giáo dục (gồm cả quá trình dạy học trong đó) là một hoạt động xã hội có ý thức,
vì vậy mọi nội dung, hình thức tổ chức quá trình giáo dục - dạy học đều phải được
định hướng nhằm đạt tới những mục đích cụ thể. Giáo dục về thực chất là tổ chức
cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho con người, đây là hệ thống các hoạt động
phong phú, đa dạng có chứa những yếu tố chủ quan và khách quan. Bản chất của
giáo dục là định hướng cho sự phát triển cá nhân. Ưu thế, và sức mạnh của giáo dục
chính là tính hướng đích, vì vậy, quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục con người
đều phải xác định rõ mục tiêu cụ thể, để định hướng và phải cố gắng đạt được mục
tiêu ấy.
b) Thống nhất giữa giáo dục ý thức, thái độ và giáo dục hành vi

9
Giáo dục – dạy học chỉ đạt tới hiệu quả thực chất, khi tác động sao cho mỗi cá
nhân vừa có được nhận thức, thái độ đúng, lại vừa có hành vi đúng trong mọi tình
huống của cuộc sống. Bởi sự thống nhất giữa nhận thức - tình cảm - hành động, hay
nói cách khác, sự thống nhất giữa ý thức, thái độ và hành vi trong mỗi phẩm chất
giáo dục và cả quá trình phát triển nhân cách / quá trình dạy học là yêu cầu tất yếu,
và là yêu cầu cao nhất để đảm bảo nhân cách người học có sự phát triển hoàn chỉnh
và bền vững.
Trong thực tế giáo dục- dạy học, tổ chức tốt các hoạt động thực hành, thí nghiệm
trong học tập, các hoạt động văn - thể trong nhà trường, các loại hình lao động hợp lí
và các hoạt động xã hội không chỉ là điều kiện gắn tri thức lý thuyết với thực hành,
gắn lý luận với thực tiễn, mà còn là môi trường thử thách, rèn luyện thái độ, ý chí và
hành vi của con người.
Sự thống nhất giữa ý thức, thái độ và hành vi phải là mục đích và cũng là nguyên
tắc chỉ đạo để tiến hành các hoạt động giáo dục-dạy học.
c) Tôn trọng nhân cách kết hợp với yêu cầu cao

Để giáo dục con người, trước hết nhà giáo dục phải biết tôn trọng và có niềm tin
đối với con người, biết trân trọng và đề cao phẩm giá con người. Là nhà giáo cần
biết nhìn nhận đúng những ưu điểm, những cố gắng của học sinh, biết đánh giá đúng
những tiến bộ, dù là thành công nhỏ nhất của các em, và nên coi đấy là những đóng
góp có ích cho tập thể và cho xã hội. Tôn trọng, động viên người học vươn lên chính
là biện pháp phát huy ưu điểm, là cơ sở để tạo cho họ những thành công mới, tốt
hơn.
Để giáo dục con người, nhà giáo dục còn phải luôn biết đưa ra các yêu cầu hợp
lý đối với người học. Yêu cầu hợp lý có nghĩa là đòi hỏi một sự nỗ lực cao của chủ
thể nhằm hoàn thiện trong nhận thức và hành vi, cố gắng để có một chất lượng tốt
hơn nữa nếu có thể được trong việc học tập và rèn luyện bản thân.
Tin tưởng giao việc và động viên người học tìm kiếm mỗi thành công, trên cơ sở
tạo điều kiện cho họ hoàn thành những nhiệm vụ được giao, đó cũng là tính nhân
văn của quá trình giáo dục và của người làm giáo dục. Cần nhớ rằng: Yêu cầu cao
luôn phải đi đôi với tôn trọng nhân cách người học.
d) Giáo dục trong lao động và bằng lao động
10
Một trong những nguyên tắc quan trọng đã được lịch sử giáo dục đặt ra từ rất
sớm và kiên trì, đó là: giáo dục con người phải được thực hiện chính trong lao động
và bằng lao động.
Trong nhà trường cần tổ chức cho học sinh tham gia hợp lý các loại hình lao
động kỹ thuật, lao động công ích và cao hơn nữa, với điều kiện thuận lợi, có thể
tham gia lao động sản xuất tạo của cải vật chất cho xã hội.
Lao động học tập là hoạt động chủ đạo, là loại hình lao động đặc thù của cuộc
sống học đường và của lứa tuổi học trò. Tổ chức tốt các hoạt động học tập tự giác,
học tập có phương pháp học tập hiệu quả, với thành tích tốt đẹp, không chỉ giúp
thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục trí tuệ (dạy học) mà còn là phương tiện hữu hiệu
giúp cho người học nhận ra những giá trị chân chính của lao động, hình thành nên ở
người học những phẩm chất, năng lực cần thiết của con người lao động trong cuộc
sống xã hội hiện đại.
e) Giáo dục trong tập thể và bằng tập thể

Giáo dục bằng tập thể là xem tập thể như một lực lượng, một phương tiện giáo
dục có tác dụng hình thành, phát triển nhân cách học sinh. Các yêu cầu giáo dục của
nhà trường, của giáo viên thông qua tập thể tác động đến các thành viên trong tập
thể, các thành viên lại tác động giáo dục lẫn nhau (tác động giáo dục liên nhân
cách). Các hoạt động chung của tập thể có tính chất tự quản là điều kiện cho các
thành viên trong tập thể tự rèn luyện, tự giáo dục, tự điều chỉnh hành vi thói quen
cho phù hợp với yêu cầu giáo dục xã hội. Nó còn đánh giá và buộc cá nhân phải biết
tự đánh giá kết quả tự giáo dục, rèn luyện của mình so với các quy định, quy chế của
tập thể.
Biện pháp giáo dục rất hiệu quả trong tập thể là tác động giáo dục song song.
Theo
đó, một mặt nhà giáo dục tác động đến tập thể, đến các quan hệ trong tập thể nhằm
nâng cao trình độ nhận thức chung, tạo dư luận tập thể và phong cách tập thể, để
mặt khác, thông qua các thiết chế (các liên hệ chức năng, các quy định, quy ước) của
tập thể tác động trực tiếp đến từng cá nhân, các tác động song song đó tạo thành sức
mạnh tổng hợp đem lại hiệu quả giáo dục sâu sắc đến nhận thức, thái độ, hành vi của
người học.

11
Trong dạy học, nội dung nguyên tắc này thể hiện rõ ở yêu cầu kết hợp học cá
nhân với học theo nhóm (phương pháp nhóm nhỏ, phương pháp thảo luận...), sự
phối hợp kiểu êkip trong học tập. Quan điểm lí thuyết dạy học tương tác còn xem
xét các quan hệ tương tác dạy, học và môi trường trong lớp học như là một tiếp cận
khoa học hiện đại đối với quá trình dạy học.
f) Phát huy ưu điểm và nhược điểm của người học

Đến với học sinh của mình bằng một sự tin tưởng, lấy ưu điểm để khắc phục
nhược điểm, biết lắng nghe, động viên và chia sẻ... chính là phương cách tốt nhất để
người học tạo lập niềm tin vào bản thân, vào cuộc sống và khuyến khích phát triển
thái độ, hành vi tích cực.
Nói một cách khác, nguyên tắc này là lấy xây để chống, giúp học sinh tự tin và
tin tưởng ở nhà trường, bạn bè và cuộc sống.
Trong quá trình dạy học nói riêng, không nên quá chú trọng nhồi nhét kiến thức
mà quên tạo cho học sinh hứng thú, niềm vui học tập và sự động viên, khích lệ cũng
như tạo được không khí (môi trường) học tập phấn khởi, cởi mở. Với mỗi học sinh,
nhất là các học sinh không thuộc nhóm xuất sắc, giáo viên cần biết trân trọng sự cố
gắng và mỗi thành công của các em, dù là một thành công nhỏ nhất...vì sự tiến bộ
của người học.
g) Bảo đảm tính hệ thống, kế thừa và liên tục

Nguyên tắc này yêu cầu phải tiến hành một cách lâu dài, có hệ thống các tác
động giáo dục nhằm hình thành dần dần, từng bước các phẩm chất nhân cách. Quá
trình giáo dục bao gồm hệ thống các nhiệm vụ, nội dung, phương pháp và các hình
thức tổ chức giáo dục. Giáo viên phải xem xét các tác động và hiệu quả giáo dục
trong toàn bộ hệ thống đó. Tính hệ thống và kế tiếp có liên quan tới nhau. Hệ thống
kế tiếp từ thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp dần lên, từ dễ đến khó... trong việc
hình thành các tri thức chuẩn mực, hành vi thói quen cho học sinh. Những phẩm
chất mới phải được hình thành dựa trên cơ sở trình độ đã được giáo dục trước đó.
Trong quá trình dạy học nói riêng, nguyên tắc này càng thể hiện rõ ràng ở công
tác biên soạn chương trình, sách giáo khoa cũng như khi tiến hành hệ thống bài học

12
trên lớp và trong khi thực hiện các bước lên lớp (kiểm tra bài cũ, huy động kiến thức
công cụ, hay khi củng cố, ôn tập... )
h) Chú ý đến đặc điểm lứa tuổi, giới tính và các đặc điểm cá biệt của người
học (nguyên tắc phân hoá, cá biệt hoá / nguyên tắc sát với đối tượng)

Giáo dục – dạy học chỉ hiệu quả khi có những tác động phù hợp với những đặc
điểm tâm lí, sinh lí (hứng thú, tình cảm...) của từng độ tuổi, giới tính, dân tộc... và
những đặc điểm cá biệt (những nét riêng tư trong tính cách, khí chất, vốn hiểu biết
và vốn kinh nghiệm sống...) của từng cá nhân người học. Mặt khác, giáo dục cũng
cần phải nắm vững và dựa vào kiến thức, kinh nghiệm cá nhân, dựa vào đặc điểm
tâm lí của từng người, trên cơ sở đó mới phát triển hết tiềm năng, tố chất, năng lực
của từng người học.
Chính vì vậy, công tác nghiên cứu, tìm hiểu và nắm vững tình hình, đặc điểm đối
tượng giáo dục, bao giờ cũng là một nhiệm vụ quan trọng đặc biệt, trước tiên và
thường xuyên của mỗi nhà giáo dục. Mặt khác, phân hoá, cá biệt hoá trong công tác
giáo dục - dạy học là một trong những tiêu chí quan trọng nhất của yêu cầu đổi mới
nội dung, đổi mới phương pháp giáo dục và phương pháp dạy học hiện nay.
i) Phối hợp các lực lượng giáo dục và thống nhất yêu cầu giáo dục

Để tiến hành giáo dục, các lực lượng giáo dục cần phải kết hợp và thống nhất các
yêu cầu chung về quan điểm, về nội dung và phương pháp giáo dục.Chính sự thống
nhất tác động, trong đó lấy giáo dục nhà trường làm trục chính, mới đem lại sức
mạnh giáo dục và mới có kết quả giáo dục tốt đẹp.
Nhà trường, với chức năng đặc biệt của mình, phải chịu trách nhiệm chủ động
phối hợptất cả các lực lượng giáo dục. Mối liên hệ giữa nhà trường với gia đình và
với địa phương,với các tổ chức xã hội và các cơ quan kinh tế văn hóa đóng trên địa
bàn phải là việc làm thường xuyên, trực tiếp hàng ngày. Xử lí tốt các mối quan hệ
giữa các lực lượng giáo dụcchính là vận dụng đúng đắn nguyên lí giáo dục “Học đi
đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã
hội” để đem lại thành công và hiệu quả cao cho công tác giáo dục – dạy học.
5. Liên hệ thực tiễn giáo dục Việt Nam hiện nay

13
Giáo dục là trụ cột quan trọng nhất của một quốc gia, định hình tương lai và phát
triển của xã hội. Trong thời đại hiện nay, giáo dục ở Việt Nam đang trải qua nhiều
thay đổi và cơ hội mới, nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức.
Thứ nhất, chất lượng giáo dục, đào tạo được nâng lên và có bước phát triển mới.
Một trong những minh chứng cho điều này là việc ghi dấu ấn của học sinh Việt Nam
trên sân chơi trí tuệ thế giới như các kỳ thi Olympic các môn ở khu vực và quốc tế,
Chương trình Đánh giá Sinh viên Quốc tế (PISA)…
Thứ hai, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học được chú trọng
Thứ ba, nhiều chính sách công bằng trong tiếp cận giáo dục, đặc biệt đối với
trẻ dân tộc thiểu số, trẻ ở vùng khó khăn được thực hiện. Trước hết là ưu tiên đầu tư
cho các địa bàn có nhiều khó khăn, phát hành công trái giáo dục để hỗ trợ cho các
tỉnh miền núi, vùng khó khăn xây dựng trường học kiên cố, đạt chuẩn chất lượng và
thực hiện xóa đói giảm nghèo, thông qua đó tạo nhiều cơ hội cho trẻ tiếp cận nhiều
hơn với dịch vụ giáo dục. Đồng thời, có những thay đổi trong chính sách đãi ngộ đối
với giáo viên giúp tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của bậc phổ thông.
Thứ tư, cơ sở hạ tầng cho giáo dục được đầu tư thích đáng. Các trường lớp
của Việt Nam đã và đang phấn đấu đạt chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn về hạ tầng cơ sở
đảm bảo cho việc dạy và học có chất lượng tương đương với các nước khác trong
khu vực.
Thứ năm, công tác xây dựng xã hội học tập đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Mạng lưới cơ sở giáo dục thường xuyên tiếp tục được củng cố, phát triển. Các
nghiên cứu quốc tế cũng đánh giá cao thành tựu của giáo dục Việt Nam,
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập và thách thức đối với giáo dục Việt Nam.
Một là, công tác quy hoạch, sắp xếp mạng lưới trường, lớp học ở một số địa
phương còn chưa phù hợp, chưa quan tâm đến yếu tố đảm bảo chất lượng khi dồn
dịch các trường
Hai là, tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết triệt
để. Năng lực nghề nghiệp của một bộ phận giáo viên còn yếu, phương pháp giảng
dạy chậm đổi mới; năng lực quản trị của một bộ phận cán bộ quản lý trường học còn
yếu, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới.

14
Ba là, cơ sở vật chất, trường lớp học, trang thiết bị dạy học nhiều nơi còn
thiếu hoặc bị xuống cấp; công tác xã hội hóa giáo dục chưa thực sự hiệu quả. Nguồn
kinh phí đầu tư cho cơ sở vật chất còn hạn hẹp; công tác xã hội hóa giáo dục chưa
thực sự hiệu quả.
Bốn là, trách nhiệm giải trình còn thấp. Việc thực hiện tự chủ đại học chưa
gắn liền với đổi mới quản trị nhà trường, số lượng cơ sở đào tạo được tự chủ toàn
diện chưa cao; tình trạng sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa tìm được việc làm còn
nhiều.
Năm là, sự lựa chọn về các trường học khá hạn chế.Việc tiếp cận công nghệ,
mô hình giáo dục nước ngoài, các chương trình học bổng nói chung ở các địa
phương vùng sâu, vùng xa còn rất ít. Các điều kiện đảm bảo chất lượng chưa đáp
ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Sáu là, thiết kế, cấu trúc của chương trình giảng dạy, cách đánh giá cũng như
phương pháp dạy và học cần phải đổi mới nhằm đảm bảo chất lượng của sinh viên
khi ra trường. Cấu trúc và nội dung, thời lượng các môn học cần phải điều chỉnh cho
hợp lý, cân đối và hấp dẫn.
Bảy là, công tác phát hiện và xử lý vi phạm còn chậm và chưa nghiêm. Việc
ban hành văn bản còn chậm, chưa đồng bộ; công tác xử lý vi phạm sau thanh tra ở
một số địa phương chưa nghiêm. Công tác truyền thông chưa thực sự chủ động, việc
xử lý thông tin có lúc chưa kịp thời.
Tóm lại, giáo dục ở Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn chuyển đổi và
phát triển, với nhiều cơ hội và thách thức. Quan trọng nhất là phải tiếp tục nỗ lực và
hợp tác để xây dựng một hệ thống giáo dục chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của
thời đại và đem lại lợi ích cho toàn bộ xã hội.

15

You might also like