Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 99

CHUYÊN ĐỀ NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

A. Đối với loại đề về tư tưởng đạo lý


I. Đối tượng
Là những vấn đề thuộc phạm trù đạo đức, tư tưởng ,tình cảm…
II. Dạng đề
- Dạng 1 : Một tư tưởng , tình cảm, phẩm chất ..
- Dạng 2 : Một tư tưởng thể hiện qua câu chuyện, tục ngư , ca dao, thơ..
III . Dàn bài
A.Mở bài:
Giới thiệu vấn đề cần nghị luận, trích dẫn nguyên văn câu nói, câu danh ngôn…
B. Thân bài:
1. B1 : Giải thích
- Giải thích rõ nội dung tư tưởng, đạo lí (giải thích các từ ngữ, khái niệm).
- Giải thích ngữ liệu rút ra tư tưởng.
2. B2: Phân tích
* Nêu biểu hiện của vấn đề (dùng dẫn chứng trong lịch sử, văn học, cuộc sống để chứng
minh).
* Trả lời câu hỏi tại sao ( Vai trò của vấn đề với con người và xã hội )
3. Bác bỏ
- Chỉ ra mặt đối lập với vấn đề đang nghị luận
4. Đánh giá
- Đánh giá ý nghĩa tư tưởng đạo lí (ngợi ca, phê phán)
……. Từ khóa : GIẢI – PHÂN - BÁC - ĐÁNH
C. Kết bài:
- Khái quát lại vấn đề NL.
- Rút ra bài học nhận thức, hành động cho bản thân, cho mọi người

1
B . Đối với loại đề về một hiện tượng xã hội
I .Đối tượng
Là những hiện tượng đang diễn ra trong đời sống , đc xh quan tâm.
II. Dạng đề
Hiện tượng tích cực và tiêu cực.
III.Dàn bài
A. Mở bài:
Giới thiệu hiện tượng cần nghị luận.
B. Thân bài
1. Thực trạng
- Nêu rõ hiện tượng (giải thích khái niệm)
- Tình hình vấn đề đang diễn ra như thế nào ( dẫn chứng )
2. Nguyên nhân

2
- Chủ quan : Ý thức của con người
- Khách quan : Gia đình, xã hội , csvc…
3. Hậu quả
- Đối với con người và xã hội
4. Biện pháp
- Con người
- Xã hội.
……Từ khóa : THỰC - NGUYÊN - HẬU - BIỆN
C. Kết bài:
- Khái quát lại một lần nữa vấn đề vừa bàn luận.
- Bài học nhận thức và hành độngcho bản thân.
Dẫn chứng
- Trong bài văn nghị luận dẫn chứng rất quan trọng, dẫn chứng hay, xác đáng sẽ làm bài
viết có độ tin cậy , thuyết phục người đọc lớn.
- Dẫn chứng phải tiêu biểu, cụ thể, chính xác, toàn diện, vừa đủ. Trong bài văn nghị
luận xã hội nên hạn chế lấy dẫn chứng trong tác phẩm văn học.
- Dẫn chứng cần có độ khái quát chỉ chắt lọc những điều cơ bản nhất, tránh tình trạng sa
vào kể lại dẫn chứng.

C . Phương pháp học và làm bài văn nghị luận xã hội


- Trước hết hãy tạo cho mình thói quen phân tích vấn đề mỗi ngày. Trước bất kì sự
việc, hay một câu nói của ai đó hãy luôn cố gắng để phân tích ý nghĩa, hàm ý bằng khả
năng của bản thân bạn.
- Cập nhật thông tin một cách thường xuyên là không thể thiếu, hãy chú ý theo dõi
chương trình thời sự, đọc sách, báo, tìm hiểu thông tin về các nhân vật nổi bật, chuyên
mục kĩ năng sống mỗi ngày,.... hãy luôn để mọi thông tin trong tầm kiểm soát.
- Cố gắng nhớ và hiểu ý nghĩa của các câu nói, hay một châm ngôn sống nào đó. Đọc
sách tham khảo sẽ giúp khơi gợi những sáng tạo của bạn, đồng thời tích lũy được cách
hành văn và phương pháp làm bài.
- Học đi đôi với hành bạn nhé. Hãy tự mình đặt bút viết và phân tích, sau đó đọc lại và
đối chiếu với đáp án. Điều này sẽ giúp bạn nhớ rất lâu và hiểu sâu sắc vấn đề hơn.

3
Yên Thịnh ngày ……tháng ……..năm 2019
Giám hiệu kí duyệt

CHUYÊN ĐỀ TRUYỆN TRUNG ĐẠI


Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương
Đề : Về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, có ý kiến cho
rằng:Tác phẩm không chỉ phản ánh số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt
nam dưới chế độ phong kiến mà còn khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.
Theo em , ý kiến trên thể hiện như thế nào qua nhân vật Vũ Nương.
Hướng dẫn :
A. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ , tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương, và trích
nguyên văn nhận định.
B.Thân bài
I, Tổng
- Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI thời kì triều đình nhà Lê bắt đầu khủng, các tập đoàn
phong kiến Lê Mạc, Trịnh giành chính quyền, gây ra các cuộc nội chiến, đời sống nhân
vô cùng cực khổ…
- Tác phẩm chuyện…..là một trong 20 truyện của : “Truyền….Nhân vật chính thường là
những người phụ nữ đức hạnh, khao khát cuộc sống bình yên, hạnh phúc, nhưng các thế
lực tàn bạo cùng lễ giáo phong kiến khắc nghiệt lại xô đấy họ vào những cảnh ngộ éo le,
oan khuất và bất hạnh.
II. Phân tích
1. Luận điểm 1: Giải thích ý kiến
- Số phận oan nghiệt là số phận khổ đau, nhiều oan trái.
- Vẻ đẹp truyền thống: Là những nét đẹp đáng quý, đáng traantrongj của người phụ nữ
Việt Nam từ xưa đến nay như tấm lòng hiếu thảo, thuye chung, giàu lòng yêu thương..
 Ý kiến : Khẳng định giá trị nội dung sâu sắc của tác phẩm Chuyện người con
gái Nam Xương : Phản ánh số phận bi kịch của người phụ nữ Việt Nam dưới chế

4
độ phong kiến, đồng thời khẳngđịnh vẻ đẹp truyền thống của họ . Chính điều này
đã tạo nên sức sống muôn đời cho tác phẩm.
2. Luận điểm 2: Phân tích nhân vật Vũ Nương để làm sáng tỏ ý kiến
a, Qua nhân vật Vũ Nương tác phẩm phản ánh số phận oan nghiệt của người phụ
nữ VN dưới chế độ phong kiến
* Tình duyên ngang trái:
- Mở đầu tác phẩm Nguyễn Dữ đã giới thiệu Vũ Nương người con gái nhan sắc và đức
hạnh lấy phải Tsinh một kẻ vô học, hồ đồ vũ phu. Tsinh mến vì dung hạnh
đã…….Thương tâm thay người chồng còn “ có tính đa nghi” nên với vợ đã “ phòng
ngừa quá mức. Bi kich của Vũ Nương như đã được hé mở ngay từ đầu tác phẩm.
* Là nạn nhân của chiến tranh phong kiến :
- Mòn mỏi đợi chờ , vất vả gian lao :Nguyễn Dữ xót xa cho hoàn cảnh éo le của người
phụ nữ : lấy chồng chưa được bao lâu, chưa thỏe tình chăn gối thì đã chia phôi vì việc
lửa binh …
- Nàng đã phải tiễn chồng lên đường đi đánh giặc Chiêm. Cảnh tiễn chồng của Vũ
Nương mới ái ngại xiết bao .Nàng ró chén rượu đầy ứa hai hàng lệ : “ Chàng đi chuyến
này….Nàng đã sống trong những ngày vò võ một mình ngóng trông tin chồng với bao
nhớ thương vời vợi : “ Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn….Đó là tâm trạng chung của
những người chinh phụ trong xã hội phong kiến loạn lạc ( Liên hệ Chinh phụ ngâm
khúc : Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời- Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu –
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong….)
- T Sinh đi để lại gánh nặng gia đình, gánh nặng cho người vợ trẻ. Vũ Nương thay
chồng vất vả Chăm sóc mẹ già , nuôi con. Sau khi mẹ chồng mất, chỉ còn hai mẹ con
trong căn nhà trống vắng.
- Sự xa cách vì chiến tranh đã tạo cơ hội cho tính đa nghi , cả ghen của Tsinh trỗi dậy.
Chiến tranh gây chia lìa xa cách, chiến tranh là nguyên nhân gián tiếp gây ra bi kịch cho
cuộc đời Vũ Nương.
* Là nạn nhân của chế độ phong kiến nam quyền, của thói đa nghi, hồ đồ , vũ phu
của người đàn ông trong xhpk.
- Trong xhpk trọng nam khinh nữ, người đàn ông có quyền lực tối cao trong gia đình.
Vậy nên Tsinh với bản tính đa nghi, lại là người thất học, chuyên quyền , vũ phu cùng
với sự dung túng của chế độ phong kiến đã tạo thế cho Tsinh ức hiếp vợ - nguyên nhân
quan trọng quyết định gây ra cái chết của Vũ Nương .
- Qua năm sau việc quân kết thúc, Tsinh từ miền xa trở về , nhưng Vũ Nương không
được hưởng hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum họp. Chỉ vì chuyện cái bóng qua
miệng đứa con thơ tập nói mà Tsinh lại đinh ninh rằng vợ hư . ( Tóm tắt chi tiết Tsinh
bế con ra thăm mộ mẹ ….)

5
- TSinh đã bỏ ngoài tai mọi lời bày tỏ van xin xin đến rớm máu của vợ “ Thiếp vốn con
nhà kẻ khó ,…..bỏ qua mọi sự biện bạch của họ hàng , làng xóm. Vũ Nương bị chồng
đẩy vào bi kịch , bị vu oan là thất tiết “ nay đã bình rơi trâm gãy…Vọng Phu kia nữa”
- Cái chết của Vũ Nương thực sự là một sự bức tử, người bức tử chính là Tsinh – hiện
thân của chế độ phong kiến với tư tưởng nam quyền độc đoán . Cái chết của nàng là lời
tố các thói ghen tuông mù quáng, hồ đồ, vũ phu của người đàn ông, tố các nhứng luạt lệ
hà khắc của XHPK đã trói buộc người phụ nữ và dung túng cho người đàn ông.
* Nỗi oan của sự cách trở:
- Hình ảnh Vũ Nương cuối truyện ngồi kiệu goa, phía sau có năm mươi chiếc xe cờ tán
võng lọng , rực rỡ …là chi tiết hoang đường, giải oan cho Vũ Nương , nhưng lại tô đậm
nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh , duyên phận hẩm hiu, có giá trị tố cáo lễ giáo
phong kiến vô nhân đạo .Nỗi oan tình của Vũ Nương được minh oan , giải tỏa nhưng
âm dương đã đôi đường cách trở, nàng chẳng thể trở về nhân gian và cũng không bao
giờ còn được làm vợ, làm mẹ .
- Số phận của Vũ Nương cũng như số phận của những người phụ nữ trong xã
hội phong kiến xưa luôn bị chà đạp, vùi dập. Trong xã hội bất công với tư tưởng
định kiến hẹp hòi , người phụ nữ không thể đứng ra bảo vệ cho giá trị nhân phẩm
của mình, họ chỉ biết tìm đến cái chết . Đây chính là bi kịch, là số phận oan nghiệt
của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.
b, Qua nhân vật Vũ Nương tác phẩm còn khẳng định vẻ đẹp phẩm chất truyền
thống đáng quý của họ.
*Hình ảnh Vũ Nương ở đầu truyện qua cách giới thiệu của tác giả
- Tác giả đã giới thiệu về Vũ Nương với một chi tiết thật ngắn gọn, khái quát : “ Tính đã
thùy…..Nàng là một cô gái danh giá nên Trương Sinh con nhà hào phú : “ mến vì dung
hạnh” đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về.
* Vũ Nương là người vợ hiền thục, đảm đang, hết lòng yêu thương, chung thủy
- Trong đạo vợ chồng , Vũ Nương là người phụ nữ khéo léo,đôn hậu, biết chồng có tính
đa nghi nàng đã “giữ gìn khuôn phép” không để xảy ra cảnh vợ chồng phải “ thất hòa”.
- Khi chồng đi lính, nàng bày tỏ sự lo lắng, cảm thông với những gian nan, nguy hiểm
mà chồng phải chịu. Nàng rót chén rượu …ước mong của nàng thật giản dị vì nàng coi
trọng hạnh phúc gia đình hơn công danh phù phiếm.
- Khi xa chồng, nàng sống trong sự cô đơn, nhớ mong mòn mỏi, thủy chung, nàng hết
sức giữ gìn tiết hạnh : “ cách biệt ba năm giữ …Nàng một lòng một dạ chung thủy , sắt
son chờ chồng.
- Khi bị chồng nghi oan, nàng đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng còn
nói đến thân phận mình và nghĩa vợ chồng để khẳng định tấm lòng thủy chung trong
trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan , nghĩa là đã hết lòng tìm cách hàn gắn hạnh phúc
gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. “ Thiếp vốn con kẻ khó….
- Nàng tìm đến cái chết để chứng minh tấm lòng trinh bạch “ vào nước xin làm …

6
- Vẻ đẹp của Vũ Nương còn tiếp tục tỏa rạng ngay khi nàng ở một thế giới khác: Vẫn
thương nhớ chồng con, lo lắng cho phần mộ tổ tiên, khi Tsinh lập đàn giải oan, nàng đã
hiện về nói lời đa tạ . Tuy chỉ là chi tiết hoang đường nhưng nhờ đó mà tác giả đã tạo
nên một kết thúc phần nào có hậu để ca ngợi Vũ nương – người phụ nữ đức hạnh nhân
từ, người vợ có tấm lòng chung tình tận nghĩa với chồng.
* Vũ Nương còn là một người mẹ hết lòng yêu thương con ;
- Dỗ dành , an ủi , trò chuyện cùng con để nuôi dưỡng tình cảm phụ tử trong lòng con,
muốn khắc ghi vào lòng con hình bóng của người cha thân yêu.
* Nàng còn là một người con dâu hiếu thảo:
- Mẹ chồng già yếu , ốm đau , nàng “ hết sức thuốc thang” “ ngọt ngào khôn khéo
khuyên lơn”. Lúc mẹ chồng qua đời , nàng đã “ hết lời thương xót”, việc ma chay tế
lễ…
- Lời của mẹ chồng trước lúc chết chính là lời ghi nhận công ơn của nàng với gia đình
nhà chồng “ sau này trời xét lòng lành…Đó là cách nhận xét thật xác đángvà khách
quan .Xưa nay cũng hiếm có lời xác nhận tốt đẹp của mẹ chồng đối với nàng dâu.
- Vũ Nương là hình ảnh tiêu biểu , hiện thân của vẻ đẹp chuẩn mực của một phụ
nữ phong kiến. Nàng là người phụ nữ của gia đình. Lần đầu tiên trong văn học viết
phong kiến Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ bình dân bước vào tác phẩm đẹp đẽ,
đáng quý , đáng yêu như thế.Đây chính là tấm lòng ghi nhận, trân trọng, ngợi ca
của Nguyễn Dữ dành cho người phụ nữ.
III. Hợp
1. Nghệ thuật
- Nhân vật Vũ nương được khắc họa qua nhiều phương diện : vẻ đẹp ngoại hình, phẩm
chất, hành động, đời sống nội tâm, đặc biệt là lời nói. Trong suốt câu chuyện, diễn biến
tâm lí nhân vật được tác giả miêu tả phù hợp với tính cách thùy mị, nết na được giới
thiệu ở đầu tác phẩm.
2. Nội dung
- Giá trị tác phẩm :
+ Bi kịch của Vũ Nương là lời tố tố cáo xã hội phong kiến trọng quyền uy , tính đa
nghi, gia trưởng, vũ phu của người đàn ông đã làm mất đi quyền sống, quyền hạnh phúc
của người phụ nữ
+ Tác giả viết về Vũ Nương bằng cả tấm lòng và trái tim thương xót, bênh vực và
khẳng định vẻ đẹp truyền thống của nàng.
- Liên hệ so sánh với những tác phẩm viết về bất hạnh của người phụ nữ và ca ngợi vẻ
đẹp của họ : Văn học dân gian; Truyện Kiều ; thơ Hồ Xuân Hương; Chinh phụ ngâm
khúc; Cung oán ngâm khúc…
3. Liên hệ

7
- Hình ảnh người phụ nữ trong ca dao, Truyện Kiều..
4. Bình luận
- Người phụ nữ trong cuộc sống hiện đại
C, Kết bài
- Đánh giá chung về truyện : vai trò tác phẩm làm nên tên tuổi tác giả, vai trò tác phẩm
trong nền văn học, sức sống..
- Bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc bản thân về nhân vật Vũ Nương.

TÁC PHẨM TRUYỆN KIỀU


A. Tác giả - tác phẩm
I. Tác giả
II. Tác phẩm
1. Tóm tắt tác phẩm
2. Giá trị
B . Ôn tập các đoạn trích
Chị em Thúy Kiều
A. Mở bài
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Cho đến nay,
“Truyện Kiều” của ông vẫn được coi là tác phẩm thơ Nôm kiệt xuất của nền văn
học dân tộc. Trong đó, Nguyễn Du thể hiện tài năng bậc thầy ở nhiều phương diện,
đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Hầu hết các chân dung đều được miêu tả
sinh động, có sức sống. Có thể thấy rõ điều này chỉ qua đoạn trích “ Chị em Thúy
Kiều”.
B. Thân bài

8
I. Tổng
- Vị trí
- Nd : Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Đoạn
trường tân thanh tức Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những vần
thơ tuyệt bút. Với ngòi bút tài hoa, vận dụng khéo léo ngôn ngữ dân tộc , kết hợp với
nghệ thuật ước lệ, …tác giả đã vẽ nên sắc, tài, đức hạnh của hai chị em Thuý Kiều,
Thuý Vân.
II. Phân tích
Với ngòi bút của một kì tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai
nàng giai nhân tuyệt thế:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
- Vân là em, Kiều là chị. Hai chị em Vân và Kiều đều là những ả tố nga - những người
con gái đẹp. Vẻ đẹp của hai nàng là vẻ đẹp thanh tao của mai, là sự trắng trong, tinh
sạch của tuyết:
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
- Bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên vẻ đẹp hài hoà, hoàn hảo cả về hình thức
lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mĩ mười phân vẹn mười nhưng
mỗi người lại mang một vẻ riêng.
Sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng
cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân:
Vân xem trang trọng khác vời,
- Hai chữ “trang trọng” trong câu thơ đã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân. Vẻ
đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời:
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
- Bằng những từ ngữ thuần Việt giàu ý nghĩa, kết hợp với ngững hình ảnh ước lệ tượng
trưng, nghệ thuật ẩn dụ , nhân hóa ……...chân dung của Vân được miêu tả một cách
khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói.
- Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét như con
ngài, có miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà
ngọc và mái tóc của nàng bồng bềnh hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp
của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất
trời. Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu: mây

9
thua, tuyết nhường. Với vẻ đẹp như thế, Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng. Qua bức
chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời chính bởi
vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận.
- Tả Vân trước , Kiều sau cũng là một dụng ý nghệ thuật , “ tá khách hình chủ”. Tả Vân
thật kĩ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác hoạ bởi ông
không muốn là người thợ vẽ vụng về:
Kiều càng sác sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
- Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của Vân
để thấy được sự hơn hẳn của Kiều về vẻ sắc sảo của tài năng trí tuệ, bởi cái mặn mà của
nhan sắc. Nguyễn Du đã thật tài tình khi chọn đôi mắt Kiều để đặc tả bởi đôi mắt là cửa
sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Câu thơ tả đôi mắt mà gợi lên bức tranh sơn thuỷ, diễm lệ. Bức tranh ấy có làn thu thủy
- làn nước mùa thu, có nét xuân sơn - dáng núi mùa xuân. Cũng như khuôn mặt Kiều có
đôi mắt trong sáng, long lanh, có đôi lông mày thanh tú mà khiến:
Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh.
Vẻ đẹp của Kiều không chỉ như thiên nhiên mà còn vượt trội hơn cả thiên nhiên khiến
hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Thiên nhiên không còn thua, nhường mà cau
mày, bặm môi tức giận, mà đố kị hờn ghen.. Cái đẹp ấy làm cho nghiêng nước, đổ
thành:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Nguyễn Du đã sử dụng những điển tích để cực tả Kiều với vẻ đẹp của trang giai nhân
tuyệt thế. Và cũng chính vẻ đẹp không ai sánh bằng ấy như tiềm ẩn những phẩm chất
bên trong cao quí là tài và tình rất đặc biệt:
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Kiều có cả tài cầm - kì - thi - hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào cũng đến
mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng chơi là cây hồ
cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề riêng. Không
những giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là
một thiên Bạc mệnh. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm.
Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng.
. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc - tài - tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng
. Chính bởi Kiều quá toàn mĩ, hoàn thiện nên trong xã hội phong kiến kia khó có một
chỗ đứng cho nàng. Và cung đàn Bạc mệnh nàng tự sáng tác như dự báo một cuộc đời

10
hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi sẽ sóng gió, nổi chìm,
truân chuyên. Cũng giống như bức chân dung Thúy Vân, bức chân dung Kiều là bức
chân dung mang tính cách số phận.
Kết thúc đoạn thợ là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống phong lưu khuôn phép, mẫu
mực của hai chị em Kiều:
Phong lưu rất mực hồng quần…kê
Hai người con gái họ Vương không chỉ có sắc - tài - tình mà còn có đức hạnh. Sống
phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập kê - tới tuổi búi tóc, cài trâm
nhưng vẫn sống trong cảnh:
Êm đềm trướng rủ màn che……ai
Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong nhụy
trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả vì ai. Nguyễn Du đã buông mành, gạt tất cả
mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị em để đề cao hơn đức
hạnh của hai nàng.
III. Hợp
-NT : Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp
đẽ, mĩ lệ nhất. Hai bức tranh mĩ nhân bằng thơ đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng
và các biện pháp tu từ trong ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
- ND :………….Cảm hứng nhân văn …
III. KB

Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.


A Mở bài : Nguyễn Du đại thi hào dân tộc , danh nhân văn hóa thế
giới…
B Thân bài

11
I, Tổng
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh
và tâm cảnh. Khắc hoạ nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng
gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong mười lăm năm lưu lạc thanh lâu hai
lượt, thanh y hai lần.
Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che, Kiều đã trở thành
món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ đây nàng đang sống trong cô
đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích….Hai mươi hai câu thơ trong
đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thế hiện rõ bức tranh tâm cảnh của Kiều.
II, Phân
Sống nơi lầu Ngưng Bích là Kiều sống trong sự cô đơn tuyệt đối:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
………..
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ “khoá xuân” đã nói lên điều đó. Khoá
xuân ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót
cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang
vắng, rợn ngợp trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, tương lai mờ mịt. Trong khi những
dư vị đau khổ vừa trải qua vẫn đang tấy đỏ, giờ Kiều lại bị đẩy vào chốn lầu xanh ô
nhục. Trong cảnh ngộ như thế, Kiều chỉ còn biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lòng
mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi,
nhìn xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô lượn sóng, bên là bụi hồng cuốn xa hàng
vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang
trời nước. Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thân phận trơ trọi. Không
một bóng người, không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn. Kiều
chỉ có một mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái không gian rợn ngợp
và thời gian dài dặc, quẩn quanh mây sớm đèn khuya gợi vòng tuần hoàn khép kín của
thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến Kiều
càng thấy bẽ bàng chán ngán, buồn tủi. Sớm và khuya, ngày và đêm Kiều thui thủi một
mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đèn. Trong nỗi cô
đơn tuyệt đôi ấy, lòng Kiều dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót. Buồn vì cảnh
hoang vu, rợn ngợp và buồn vì cái tình riêng khiến lòng nàng như bị chia xé:
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lòng của Thuý Kiều.
Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian
khổ đang sưng tấy.
Tạm quên đi những chia xé trong lòng, Kiều nhớ về những người thân:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

12
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Trái với những quy định phong kiến, Kiều nhớ về người yêu rồi mới nhớ cha mẹ. Trong
lúc này, nỗi đau dứt tình người yêu như còn rớm máu, kỉ niệm như còn mới đây thôi.
Hơn thế nữa Kiều lại bị Mã Giám Sinh làm nhục, sau đó bị đưa vào chốn lầu xanh nên
nỗi đau lớn nhất của nàng lúc này là:
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Chính bởi thế mà người đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Với cha mẹ, nàng đã hi
sinh bán mình nên phần nào đã đáp đền được ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, nàng
là kẻ phụ tình, lỗi hẹn. Trong tâm cảnh như thế, để Kiều nhớ chàng Kim trước là sự tinh
tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ tới người yêu là nhớ tới đêm trăng thề nguyền. Vừa
mới hôm nào, nàng cùng chàng uống chén rượu thề nguyền son sắc, một lòng cùng nhau
một đời mà nay mối tình duyên đã chia lìa đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của
trái tim rỉ máu. Kiều đau đớn hình dung Kim Trọng vẫn ngày ngày hướng về nàng để
chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng Kim bao nhiêu thì Kiều lại thương cho
thân mình bấy nhiêu. Thương mình bơ vơ bên trời góc bể, càng nuối tiếc mối tình đầu,
nàng hiểu rằng tấm son mà nàng dành cho chàng Kim chẳng bao giờ nguôi ngoai.
Không chỉ vậy mà tấm son đã bị hoen ố của nàng đến khi nào mới rửa cho được. Trong
nỗi nhớ còn có cả nỗi xót xa, ân hận. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn, Kiều đã tạm để nỗi
lòng mình lắng xuống và nhớ tới Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thuỷ
của một con người.
Nếu khi nhớ tới Kim Trọng, Kiều tưởng thì khi nghĩ tới cha mẹ Kiều xót:
Xót người tựa cửa hôm mai,
………
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Nàng thương cha mẹ từ bấy đến nay vẫn sớm chiều tựa cửa ngóng chờ tin của đứa con
lưu lạc. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể quạt nồng ấp lạnh,
phụng dưỡng song thân khi già yếu. Thành ngữ quạt nồng ấp lạnh, điển cố Sân Lai, gốc
tử đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng
nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Cha mẹ thì mỗi người thêm một già yếu mà nàng thì
chẳng thể ở bên chăm sóc. Giờ đây khoảng cách không gian giữa nàng và cha mẹ là
cách mấy nắng mưa. Thiên nhiên không chỉ tàn phá cảnh vật mà còn tàn phá cả con
người. Lần nào khi nhớ tới cha mẹ, Kiều cũng nhớ ơn chín chữ cao sâu và luôn ân hận
mình đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi vào
chiều dài thời gian, vào chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm da diết, sâu xa. Dù
đau buồn bất hạnh nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha. Nàng là người
tình chung thuỷ, là người con rất mực hiếu thảo, là người có tấm lòng vị tha đáng trọng.
Hai nỗi nhớ được biểu hiện khác nhau đó cùng là sự cảm thông lạ lùng của nhà thơ, tấm
lòng nhân đạo của Nguyễn Du đối với con người.
Vẫn việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, những nỗi buồn khác nhau với
những lí do buồn khác nhau, trong lòng Kiều đã tình buồn tác động lại khiến cảnh buồn
hơn và nỗi buồn ngày một ghê gớm, mãnh liệt hơn:

13
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
…………..
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Tám câu thơ vừa là bức tranh tâm cảnh mà cũng là thực cảnh. Cảnh được miêu tả theo
kiểu tứ bình trong con mắt trông bốn bề và từ xa tới gần. Cảnh đầu tiên mà Kiều trông
là cảnh cửa bể lúc chiều hôm:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Không gian mênh mông và thời gian khi chiều tà muôn thuở luôn gợi buồn. Giữa khung
cảnh ấy chỉ có một con thuyền vô định và hiện hữu với cánh buồm thấp thoáng xa xa
như một ảo ảnh. Cảnh đã gợi trong lòng người tha hương nỗi buồn nhớ về cha mẹ, quê
nhà cách xa, nỗi cô đơn và khát khao sum họp. Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước
mới sa gợi trong lòng Kiều nỗi buồn về thân phận trôi nổi, không biết rồi sẽ bị trôi dạt,
bị vùi dập ra sao:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Cảnh làm Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Sau một cửa biển một cánh
hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội cỏ:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày Thanh minh. Đó là cỏ
non xanh rợn chân trời, còn cỏ ở đây rầu rầu. Một màu vàng úa gợi tới sự héo tàn, buồn
bã. Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân mây không phải là màu xanh của sự
sống, của hi vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vô vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô
quạnh này không biết bao giờ mới kết thúc. Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mờ
mịt, thân phận nội cỏ hoa hèn của Thuý Kiều. Và cuối cùng là cảnh con sóng nổi lên ầm
ầm sau cơn gió:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ấm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Tiếng sóng kêu như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng là tiếng kêu đau
đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi
như đang đứng trước sóng gió, bão táp của cuộc đời sắp đổ xuống đầu nàng. Cảnh được
miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Cảnh ngày
một rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ man mác mông lung đến âu lo kinh sợ dồn đến bão
táp nội tâm. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng mờ ảo bởi nó được nhìn theo quy
luật Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Và đó cũng là
hiện thân, là tang vật của quá khứ khổ đau, hiện tại lẻ loi bất hạnh và báo hiệu một
tương lai khủng khiếp. Tất cả đều là hình ảnh về sự vô định, mong manh, vô vọng, sự

14
trôi dạt, bế tắc. Đoạn thơ gồm bốn cặp câu lục bát cũng là bốn cảnh và các cặp câu được
liên kết nhờ điệp ngữ buồn trông:
Buồn trông cửa biển chiều hôm,
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Buồn trông là nhìn xa mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại
nhưng trông mà vô vọng. Buồn trông có cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm
nhìn, có cả sự dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu lạc bước giữa cuộc đời ngang
ngửa. Điệp ngữ kết hợp với những hình ảnh đứng sau cùng các từ láy đã diễn tả nỗi
buồn với nhiều sắc độ khác nhau, trào dâng lớp lớp như những con sóng lòng. Điệp ngữ
tạo nên những vần bằng, gợi âm hưởng trầm buồn man mác, diễn tả nỗi buồn mênh
mang sâu lắng, vô vọng đến vô tận. Buồn trông trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng
như điệp khúc của tâm trạng. Bằng một gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ lên
một bộ tứ bình tâm trạng hết sức độc đáo và xúc động. Khúc ca khép lại đầy dư âm với
hoà tấu phức điệu của sóng biển, sóng lòng, sóng đời đang vang lên những tiếng gầm
gào của hiểm hoạ như muốn hất tung, nhấn chìm người con gái cô đơn, tội nghiệp trên
điểm tựa chiếc ghế đời mỏng manh. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất để
rồi sự bị lừa gạt và dấn thân vào cuộc đời thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần. Để thể hiện
tâm trạng phức tạp mỗi nỗi buồn ôm trọn ba nỗi buồn: buồn-nhớ người yêu, buồn nhớ
cha mẹ và buồn cho chính mình, Nguyễn Du đã chọn cách thể hiện tình trong cảnh ấy,
cảnh trong tình này thật độc đáo tạo nên đoạn thơ tuyệt bút với bút pháp tả cảnh ngụ
tình.
III,Hợp
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc , hệ thống các từ láy đa nghĩa, các hình ảnh
mang tính ước lệ tượng trưng, điệp ngữ “buồn trông” được sử dụng tài hoa, đoạn trích
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm
cảnh. Nguyễn Du đã khắc hoạ nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng
gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong mười lăm năm lưu lạc thanh lâu hai lượt,
thanh y hai lần. Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc đồng thời thể hiện tấm lòng nhân
hậu, cảm thương chia sẻ của Nguyễn Du với nỗi đau của Thúy Kiều.
C, Kết bài.

15
CHUYÊN ĐỀ TRUYỆN HIỆN ĐẠI

Làng ( Kim Lân )

Đề bài: Suy nghĩ của em về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim
Lân ( truyện ngắn ” Làng” của Kim Lân thể hiện những chuyển biến mới trong
tình cảm của người dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Hãy
phân tích nhân vật ông Hai để làm sáng tỏ nhận định trên.

Bài làm.

A .Mở bài

Kim Lân là cây bút chuyên văn về truyện ngắn, vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc
cuộc sống của nông thôn nên hầu như các tác phẩm của ông chủ yếu viết về cảnh sinh
hoạt của làng quê Việt Nam và cảnh ngộ của người nông dân. “Làng” là một truyện
ngắn đặc sắc nhất của nhà văn được viết vào thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp, truyện thể hiện một cách chân thực, cảm động và sâu sắc tình yêu làng thống nhất
với tình yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân qua hình tượng nhân vật
ông Hai – nhân vật chính.

B. Thân bài

I. Tổng

- Đề tài viết về người nông dân trong văn học VN đặc biệt là văn học trước cách
mạng.

………………

16
- HCST : Tác phẩm được viết năm 1948 giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống
Pháp……

II Phân tích

1. Cuộc sống của ông Hai ở nơi tản cư.

Tình yêu làng yêu nước là một bản chất có tính truyền thống của nhân vật ông
Hai. Đây là tình cảm nổi bật xuyên suốt toàn truyện. Làng của ông Hai là làng chợ Dầu,
vì kháng chiến ông cùng gia đình dời làng di tản cư .

- Ở nơi đây ông khoe về làng ” Làng toàn lát đá xanh, chòi phát thanh cao quả ngọn tre,
nhà ngói mọc san sát…. có nghĩa ông tự hào làng ông giàu có về vật chất,

. Nhưng sau cách mạng, đi theo kháng chiến ông Hai đã có những chuyển biến mới về
tình cảm, được cách mạng giải phóng nên ông tự hào về phong trào cách mạng quê
hương, về việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải xa làng ông nhớ quá cái
không khí: ” đào đường, đắp ụ, xẻ hào khuân đá, rồi ông lo ” cái chòi gác ở đầu làng đã
dựng xong chưa, những đường hầm bí mật đã xong chưa?…, những lúc như này ông đã
không kìm nổi cảm xúc nhớ làng: “Chao ôi! ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá”, đó là
tình yêu làng quê tự nhiên hồn hậu mà tha thiết của ông Hai,

- không chỉ vậy ông dồn hết tình yêu làng, kháng chiến vào việc theo dõi tin tức, khi
nghe được những tin như: ” Một em nhỏ bơi ra hồ Hoàn Kiếm cắm lá quốc kỳ,…..: ” cứ
chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tý, . Nghe những tin như vậy ông vui vô cùng, vui
sướng ông như đang được trực tiếp tham gia kháng chiến” ruột gan ông lão cứ múa cả
lên vui quá“, đó là tình yêu nước sâu sắc ở nhân vật ông Hai, một con người đã gắn
bó tình cảm của mình với vận mệnh của toàn dân tộc.

2. Ông Hai nghe tin làng theo giặc

Điều đáng quý hơn đó là tình yêu làng gắn bó tha thiết với tình yêu nước của
ông Hai được bộc lộ sâu sắc hơn, khi nhà văn đã đặt nhân vật trong tình huống
đầy thử thách và khó khăn – khi ông Hai nghe tin làng chợ Dầu của mình theo giặc,
tin ông nghe từ những người đàn bà tản cư dưới xuôi mới lên, cái tin dữ ấy đã làm nảy
sinh ở nhân vật ông Hai, một diễn biến tâm lý vô cùng phức tạp.

- Khi mới nghe tin ông Hai bàng hoàng sửng sốt ” cổ nghẹn ắng, da mặt tê dân dân.
Ông lão lặng người đi tưởng đến không thở được” vì quá bất ngờ nên ông chưa tin bằng
câu hỏi lại kỹ càng ” liệu có thật không hả bác? hay chỉ lại là…” .Những lời kể quá rạnh
rọt của những người phụ nữ kia: ” Việt gian từ thằng chủ tịch mà đi cơ ông ạ” khiến ông
không thể không tin, ông xấu hổ lảng chuyện ra về: ” Hà nắng gớm về nào”, đau đớn
ông cúi gầm mặt xuống mà đi.

17
-Về đến nhà tâm trí ông Hai luôn bị các tin dữ xâm chiến, nó trở thành lỗi ám ảnh
day dứt trong lòng ông, ông luôn mặc cảm mình là kẻ phản bội. Chán nản ông nằm vật
ra giường nhìn các con, tủi thân nước mắt ông cứ dàn ra: ” Chúng nó cũng là trẻ con của
làng việt gian đấy ư? chúng nó cũng bị người ta dẻ dúng hắt hủi đấy ư? khốn nạn, bằng
ấy tuổi đầu?”. Càng đau đớn dằn vặt và thương con bấy nhiêu ông càng căm giận những
người làng chợ Dầu phản bội bấy nhiêu, ông lão nắm chặt hai bàn tay rồi rít lên ” chúng
bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để
nhục nhã thế này? suốt mấy ngày sau đó – ba bốn ngày ông không dám ra khỏi nhà vì đi
đâu cũng sợ người ta nhắc đến ” cái chuyện ấy”, ông nghe ngóng binh tình bên ngoài ”
Một đám đông túm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ”.
Ông như người có tật giật mình, không khí lặng lề bao trùm cả nhà, trẻ con không đứa
nào dám đòi quà, khi vợ ông Hai vừa cất giọng ” này thầy nó ạ! tôi thấy người ta
đồn…” đã bị ông cắt ngang bằng giọng gắt lên ” biết rồi”. Đây là tâm lý giận cá chém
thớt.

- Đặc biệt tình yêu nước và yêu làng của ông Hai lại tiếp tục đặt vào tình huống căng
thẳng thử thách hơn khi nghe mụ chủ nhà bảo là có tin đuổi những người làng chợ Dầu
ra khỏi nơi tản cư, lúc đó ông rơi vào tâm trạng bế tắc tuyệt vọng và lo lắng cho tương
lai ” biết đem nhau đi đâu bây giờ”, biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ?
thật là tuyệt đường sinh sống”. Trong lúc bế tắc tuyệt vọng ấy, ở ông Hai đã diễn ra một
cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt, ông chớm nghĩ ” hay là quay về làng”, nhưng lập tức
ông lão phản đối ngay:” Về làm gì cái làng ấy nữa, chúng nó theo Tây hết cả rồi, về
làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ” nếu như trước đây tình yêu làng hòa quyện thống
nhất với nhau thì bây giờ ông Hai buộc phải lựa chọn yêu làng hay yêu nước. Đây là
điều không hề đơn giản, bởi với ông làng chợ Dầu đã trở thành một phần máu thịt
không dễ gì từ bỏ cách mạng lại là cứu cánh giúp gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ,
qua những ngày đấu tranh tư tưởng dằn vặt đau đớn cuối cùng ông Hai quyết định ”
Làng thì yêu thật nhưng làng theo tây mất rồi thì phải thù” nói cứng như vậy nhưng
trong lòng ông đau như cắt.

- Tình cảm với kháng chiến với cụ Hồ được bộc lộ cảm động nhất khhi ông Hai trút
lỗi lòng tâm sự với đứa con út ngây thơ, thực chất như một lời thanh minh với cụ Hồ,
với anh em đồng chí và tự như mình vào những lúc khó khăn như thế này. Qua những
câu hỏi của bố đứa con ông ông bí tí mà đã biết giơ tay thề: ” Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh
muôn năm” nữa là ông bố của nó. Lúc này ông mong: “Anh em đồng chí biết cho bố
con ông, cụ Hồ trên cổ xét soi cho bố con ông” Đến đây ta thấy được tình yêu nước sâu
lặng đối với làng chợ Dầu mang tính truyền thống chứ không phải là làng theo giặc,.
Bằng tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, với cụ Hồ đã được ông Hai bộc lộ
rất mộc mạc chân thành, tình cảm đó gần gữi sâu nặng vô cùng thiêng liêng: ” có bao
giờ giám đơn sai, chết thì chết, có bao giờ giám đơn sai, đặt tình yêu nước yêu kháng
chiến lên trên tình yêu làng ở nhân vật ông Hai là tác giả Kim Lân đã thể hiện được nét
chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp.

18
3. Tin làng cải chính

- Với tấm lòng, tình cảm cao đẹp ấy, ông Hai đã được đền bù xứng đáng khi cái tin
đồn kia được cải chính, gáng nặng tâm lý được trút bỏ. Lúc này ông sống trong tột
cùng vui sướng, ông như nắng hạn gặp mưa, ông tiếp tục tự hào về làng Dầu: ” ông sắn
quần lên bẹn, múa tay lên mà khoe” đặc biệt cái cách ông khoe ” Tây nó đốt nhà tôi rồi”
là biểu hiện cụ thể của ý chí: thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước không chịu làm
nô lệ” của một người nông dân lao động bình thường, thật đáng khâm phục biết bao.

III. Hợp

-NT : Nhân vật ông hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả
tâm lý tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông dân dưới ngòi bút chân thực
sinh động của Kim Lân, ông đã đặt nhân vật ông Hai vào tình huống thử thách bên
trong( nghe tin xấu về làng) để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng của mình, đặc biệt
nghệ thuật miêu tả rất cụ thể gợi cảm qua các diễn biến nội tâm bằng ngôn ngữ đối
thoại, độc thoại, và độc thoại nội tâm, ngôn ngữ của ông Hai vừa có nét chung của
người nông dân ” dặm khẩu”. ” bỏ mẹ”, ” cơ chừng” ” giữ chịt nấy” lại mang đậm tính
cách nhân vật đây chính là thành công của Kim Lân.

- ND : Như vậy với tình huống truyện đơn giản tự nhiên mà hợp lý, xây dựng nhân
vật qua ngôn ngữ cử chỉ, hành động để thể hiện nội tâm, nhân vật ông Hai trong truyện
ngắn” làng” của Kim Lân đã làm cho người đọc thấm thía về tình yêu làng yêu nước
mộc mạc chân thành mà vô cùng sâu nặng cao quý, trong những người nông dân bình
thường, sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước là nét
mới của nhận thức, tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kỳ kháng
chiến chống Pháp chú trọng và làm nổi bật. Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một
trong những thành công đáng quý này, và qua truyện ngắn người đọc chúng ta được
củng cố thêm tình yêu quê hương đất nước.

- Liên hệ văn học ( Nếu chưa liên hệ ở phần Tổng ) : Số phận bất hạnh cùng đường
của người nông dân trước cách mạng tháng Tám : Chị Dậu trong Tắt đèn, Lão
Hạc, Chí Phèo…

- Bình luận

C. Kết bài :

LÀNG
Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Vốn am hiểu và gắn bó sâu sắc cuộc
sống nông thôn, Kim Lân hầu như chỉ viết về đề tài sinh hoạt ở làng quê và cảnh ngộ
của người nông dân Việt Nam. “Làng” là một truyện ngắn đặc sắc nhất của nhà, truyện
thể hiện một cách chân thực, cảm động và sâu sắc tình yêu làng thống nhất với tình yêu

19
nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân qua hình tượng nhân vật ông Hai-nhân
vật chính……..

Truyện ngắn “Làng” được viết và đăng báo trên tạp chí Văn nghệ năm 1948 – giai
đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông Hai là một lão nông chất phác, hiền
lành. Ông rất yêu làng Chợ Dầu và luôn khoe với mọi người về ngôi làng vừa to vừa
đẹp lại có tinh thần kháng chiến thật đáng tự hào của mình. Thực hiện lời kêu gọi của
Ủy ban kháng chiến, ông buộc phải cùng gia đình tản cư. Khi xa quê, ông Hai nhớ da
diết về cái làng của mình. Hằng ngày, ông vẫn thường kể cho mọi người nghe về làng
Chợ Dầu.Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây làm Việt gian, ông bàng hoàng, sững sờ,
vô cùng đau khổ và tủi nhục… Suốt ngày, ông chỉ quanh quẩn trong nhà không dám đi
đâu. Ông tâm sự với đứa con để vơi nhẹ nỗi lòng. Khi được tin cái chính, ông Hai vui
sướng và đi khoe với mọi người về cái tin chính đó một cách hồ hởi, phấn khởi.

Trước hết, nổi bật ở ông Hai là tình cảm yêu làng nồng nàn tha thiết, gắn
bó máu thịt với mảnh đất mình đã sinh ra và lớn lên. Ông luôn tự hào về làng quê
của mình. Đi đâu, gặp ai ông cũng khoe về làng của ông mà không biết chán, biết mệt.
Những gì ông Hai tự hào về làng quê của mình đối với người khác có thể họ sẽ thấy tầm
thường vụn văt, không có gì đáng để tự hào nhưng đối với ông Hai, ông lại tự hào về tất
cả những thứ đó bởi ông mang trong mình một tình yêu làng nồng nàn tha thiết. Đối với
ông cái gì của làng cũng đẹp, cũng hay, cũng đáng để tự hào, ca ngợi. Nhưng sau cách
mạng, đi theo kháng chiến, ông Hai đã có những chuyển biến mới về tình cảm, được
cách mạng giải phóng nên ông tự hào về phong trào cách mạng quê hương, về việc xây
dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải xa làng, ông vẫn còn nhớ như in ở làng ông
trong những ngày kháng chiến không khi rất sôi nổi tươi vui, nào “đào đường, đắp ụ, xẻ
hào, khuân đá Chao ôi, độ ấy sao mà vui thế, ông thấy mình dường như trẻ lại. Tình yêu
nước, yêu kháng chiến, yêu cách mạng thể hiện ngay trong đời sống sinh hoạt hằng
ngày. Ở nơi tản cư, xa làng, xa anh em đồng chí, ông Hai lo lắng cho tình hình cách
mạng. Ngày ngày ra phòng thông tin nghe ngóng tin tức. Từ tin tức nghe được, tinh thần
kháng chiến của nhân dân bồi dưỡng thêm tình yêu làng, yêu nước ở ông hai. Ông khâm
phục những hành động vô cùng dũng cảm của những con người sẵn sàng hi sinh bản
thân mình vì nhân dân, đất nước. Ông hả hê trước những thất bại của kẻ thù. Cứ mỗi lần
nghe thấy ở đâu quân ta thắng lớn, giặc thua to thì “ruột gan ông cứ múa cả lên.”

Yêu nước ông tin tưởng vào tương lai tiền đồ của đất nước, tin tưởng vào lãnh tụ. Ông
tin rằng chẳng mấy chốc thằng Tây sẽ cút khỏi đất nước của mình, người dân lại được
sống lại những tháng ngày hoà bình êm ấm. Điều đáng quý hơn đó là tình yêu làng gắn
bó tha thiết với tình yêu nước của ông Hai được bộc lộ đặc sắc hơn khi nhà văn đã đặt
nhân vật trong tình huống đầy thử thách và khó khăn- khi ông Hai nghe tin làng chợ
Dầu của mình theo giặc, tin ông nghe từ những người đàn bà tản cư dưới xuôi mới lên,
cái tin dữ ấy đã làm nảy sinh ở nhân vật ông Hai, một diễn biến tâm lý vô cùng phức
tạp.

20
Ông hai như chết lặng khi nghe cái tin dữ ấy. Bao nhiêu nỗi vui mừng hân hoan phần
khởi ban nãy dường như tan biến mà thay vào đó là tâm trạng buồn bã, đau đớn, nhục
nhã. Cái tin làng chợ Dầu theo giặc đến một cách bất ngờ đột ngột quá khiến ông không
khỏi bàng hoàng, sửng sốt, không nói được một lời nào, có cái gì đó đau đớn, tức tưởi,
nhục nhã, xấu hổ. Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi,
tưởng như đến không thở được. Đến khi bình tĩnh trở lại, không tin điều đó là sự thật
ông hỏi đi hỏi lại người đàn bà kia nhưng bà ta cứ đinh ninh khẳng định mình “vừa ở
dưới ấy lên” thì làm sao mà lầm được. Với lại bà ta kể lại rành rọt quá nào là Tây vào
làng, chúng nó bảo nhau vác cờ thần ra hoan hô, nào là thằng chánh Bệu,..toàn những
người làng cả làm sao mà không tin cho được. Ông xấu hổ lảng chuyện ra về: “Hà nắng
gớm về nào”, đau đớn ông cúi gằm mặt xuống mà đi.

Lúc về đến nhà ông “nằm vật ra giường”, “nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ
giàn ra”. Ông xót xa khi nghĩ đến một ngày con mình sẽ bị người ta coi thường, rẻ rúng,
hắt hủi vì là trẻ con làng Việt gian bán nước. Xấu hổ nhục nhã biết chừng nào. Nó chỉ
mới có mấy tuổi đầu nào có tội tình gì! Càng thương con ông càng căm ghét những kẻ
Việt gian bán nước trong làng, ông lão nắm chặt hai bàn tay rồi rít lên “chúng bay ăn
miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục
nhã thế này.” Ông lo lắng không biết cuộc sống của cả gia đình mình rồi đây sẽ ra sao.
Những suy nghĩ cứ luẩn quẩn trong đầu óc: “Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán
mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt
gian bán nước”. Đau đớn, buồn bã, đêm đến ông cứ thao thức trằn trọc không ngủ được.
Hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài ngao ngán. Rồi suốt mấy ngày sau đó,
ông cứ quanh quẩn ru rú trong nhà chẳng dám nhìn mặt ai.Thấy một đám đông túm lại
ông cũng để ý, chột dạ vì nghĩ rằng người ta đang bàn tán đến chuyện ấy. Lúc nào ông
cũng nơm nớp lo sợ. Rõ khổ, nếu ông không yêu cái làng của mình một cách nông nàn
chân thành tha thiết thì có lẽ ông đã không phải khổ sở đến thế. Khi vợ ông Hai vừa cất
giọng “Này thầy nó ạ! Tôi thấy người ta đồn…” đã bị ông cắt ngang bằng giọng gắt lên
“biết rồi”. Đây là tâm lý giận cá chém thớt.

Đặc biệt tình yêu nước và yêu làng của ông Hai lại tiếp tục đặt vào tình huống căng
thẳng thử thách hơn khi mụ chủ nhà nghe phong phanh làng chợ Dầu theo giặc và có ý
không muốn cho vợ chồng ông ở lại nhà mình nữa, ông cũng không phiền hà trách giận
bởi ông biết: không chỉ riêng ở cái đất Thắng này mà ở đâu có người chợ Dầu, người ta
cũng sẽ đuổi như đuổi hủi. Ông rơi vào tâm trạng bế tắc tuyệt vọng và lo lắng cho tương
lai “biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa bố con ông mà đi bây giờ?”
Bị đẩy đến bước đường cùng, không còn cách nào khác ông đã từng nghĩ đến việc trở
về làng. Nhưng khi ý nghĩ đó vừa loé lên thì ông lão đã vội gạt đi: “Về làm gì cái làng
ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến bỏ cụ Hồ”. Thì ra cái
lý do khiến ông lão băn khoăn lưỡng lự không muốn trở về làng chính là chỗ ấy “về
làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”, là quay lưng lại với đồng bào, đồng chí nhân
dân, cam tâm làm tay sai cho kẻ thù, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Nếu như
trước đây tình yêu làng hòa quyện thống nhất với nhau thì bây giờ ông Hai buộc phải
lựa chọn yêu làng hay yêu nước. Đây là điều không hề đơn giản, bởi với ông làng chợ
Dầu đã trở thành một phần máu thịt không dễ gì từ bỏ còn cách mạng lại là cứu cánh

21
giúp gia đình ông thoát khỏi cuộc đời nô lệ, qua những ngày đấu tranh tư tưởng dằn vặt
đâu đướn cuối cùng ông Hai quyết định “Không làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây
mất rồi thì phải thù” Ở nhân vật ông Hai, tình yêu làng thống nhất, hòa quyện trong tình
yêu nước. Từ tình yêu làng thiết tha, chuyển biến lên thành tình yêu nước sâu đậm. Tình
yêu nước được đặt cao hơn tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời
đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống
Pháp.

Tình cảm với kháng chiến với cụ Hồ được bộc lộ cảm động nhất khi ông Hai trút
nỗi lòng tâm sự với đứa con út ngây thơ, thực chất như một lời thanh với với cụ Hồ,
với anh em đồng chí. Ông hỏi con về làng, để thỏa nỗi nhớ làng, để khắc sâu tình cảm
cội nguồn nơi con. Ông muốn khẳng định vói con qua câu trả lời của đứa con: “nhà ta ở
làng Chợ Dầu". Ông muốn con ghi nhớ Chợ Dầu là quê hương, là gốc gác, không được
phép quên. Đây cũng chính là tình cảm gắn bó máu thịt của ông Hai và của hàng triệu
người Việt Nam. Ông hỏi con về cụ Hồ, biểu tượng của Cách mạng: để chứng minh
cho tấm lòng yêu nước, tấm lòng thủy chung với cháng chiến, với cách mạng và đồng
thời, hỏi con để gieo vào lòng đứa con những tình cảm thiêng liêng, cao quí ấy. Đứa con
ông bé tí mà đã biết giơ tay thề “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm”. Lúc này ông
mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ông, cụ Hồ trên cổ xét soi cho bố con ông”.
Bằng tấm lòng trun thành tuyệt đối với cách mạng, với cụ Hồ ông Hai bộc lộ rất mộc
mạc chân thành, tình cảm đó gần gũi sâu nặng vô cùng thiêng liêng: “có bao giờ dám
đơn sai, chết thì chết, có bao giờ dám đơn sai.”

Với tấm lòng, tình cảm cao đẹp ấy, ông Hai đã được đền bù xứng đáng khi cái tin đồn
kia được cái chính, gánh nặng tâm lý được trút bỏ. Thế là sau bao ngày tháng đau khổ
giờ đây “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên”. Ông đi khắp nơi
cải chính với mọi người cái tin làng chợ Dầu theo giặc, nào là Tây nó đốt nhà tôi rồi bác
ạ! Đốt nhẵn. Đó là biểu hiện cụ thể của ý chí: thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ.Yêu làng yêu nước con người có thể hi sinh những quyền
lời của cá nhân mình mà không hề tiếc nối. Chính tình yêu làng yêu nước chân thành
thắm thiết ấu đã biến thành sức mạnh giúp cho bao người nông dân ngày đó sẵn sàng xả
thân mình để bảo vệ đất nước. Chính họ với những tình cảm cao đẹp chất phác đó đã
biến họ thành những người anh hùng của thời đại, chính họ đã làm ra đất nước.

Cũng thể hiện hình tượng người nông dân, số phận bất hạnh cùng đường của có các nhà
văn như Ngô Tất Tố, Nam Cao qua nhân vật chị Dậu trong Tắt đèn, Lão Hạc,…Ông Hai
và họ là những người nông dân hiền lành, cần cù chịu khó, một đời chăm lo lo làm ăn.
Họ là những người giàu lòng nhân ái. Họ còn có phẩm chất cao cả, lương tâm trong
sạch. Tuy nhiên ông Hạc và chị Dậu cuộc sống lại đi vào đường cùng không lối thoát
còn ông Hai lại được ánh sáng của cách mạng soi sáng mà thoát khỏi cuộc đời nô lệ.

Nhân vật ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ nhờ ghệ thuật tự sự, ngôn ngữ nhân
vật bình dị, chân thật, sống động. Nhà văn đã để cho nhân vật nói năng, hành động, suy
nghĩ một cách rất tự nhiên chân thật, gần gũi. Ngôn ngữ đậm chất bình dị, dân dã được
lấy từ trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của người bình dân. Đặc biệt nghệ thuật miêu

22
tả rất cu thể gợi cảm qua các diễn biến nội tâm bằng ngôn ngữ đối thoại, độc thoại và
độc thoại nội tâm. Nhân vật ông Hai là hình ảnh đẹp của những người nông dân bình
thường nhưng mang trong mình hai tình cảm thiêng liêng nhất: tình yêu làng tha thiết và
tình yêu nước nồng nàn. Kim Lân đã làm cho người đọc thấm thía về tình yêu làng yêu
nước mộc mạc chân thành mà vô cùng sâu nặng cao quý, trong những người nông dân
bình thình sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước là nét
nhận thức mới.

Nhân vật ông Hai đã để lại nhiều tình cảm đẹp trong lòng người đọc: sự yêu mến,
lòng trân trọng và sự cảm phục. Những chuyển biến tình cảm của ông Hai cũng chính là
chuyển biến tình cảm của người nông dân Việt Nam trong thời kì đầu kháng chiến
chống Pháp, họ từ lập trường trung lập rồi đứng hẳn về phía Cách mạng, góp sức cùng
cách mạng làm nên những chiến thắng vĩ đại. Ông Hai trở thành một nhân vật tiêu biểu
cho những người nông dân Việt Nam cần cù, chân chất, luôn cháy bỏng tình yêu đất
nước, quê hương.

Lặng lẽ Sa Pa ( Nguyễn Thành Long )

Đề bài : Cảm nhận về nhân vật anh thanh niên trong LLSP

A .Mở bài

Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết truyện ngắn và kí tiêu biểu, đáng chú ý
của nền văn học hiện đại Việt Nam trong những năm 60-70 của thế kỉ XX. Với một
phong cách viết truyện nhẹ nhàng, mang vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng, Nguyễn Thành
Long đã để lại cho đời những tác phẩm có sức sống lâu bền ngân nga, vang vọng với
thời gian năm tháng. Truyện ngắn "Lặng lẽ Sa Pa" là một minh chứng tiêu biểu cho
phong cách nghệ thuật ấy. Truyện đã phác họa thành công hình ảnh con người lao động
bình dị vô danh, đang ra sức cống hiến làm giàu đẹp cho quê hương, đất nước. Nhân
vật anh thanh niên làm công tác khí tượng thủy văn kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh núi
Yên Sơn cao 2600m tiêu biểu cho vẻ đẹp của những con người đó.

B .Thân bài

I.Tổng

- HCST : Tác phẩm ra đời năm 1970 giữa lúc miền Bắc đang hăng say lao động sản
xuất để xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và chi viện cho miền Nam đánh Mĩ. Mỗi
người dân miền Bắc ý thức sâu sắc vai trò của bản thân mình đối với sự nghiệp chung
của đất nước: sống đẹp, sống có ích để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Và nhân
vật anh thanh niên trở thành biểu tượng đẹp cho những con người tích cực, trách nhiệm

23
như thế. Qua câu chuyện, nhà văn muốn khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp và ý nghĩa của
những công việc lao động mà những con người đang cống hiến một cách thầm lặng.

II. Phân tích

1. Hoàn cảnh sống và công việc .

- Nhân vật anh thanh niên là nhân vật chính trong truyện. Tuy nhiên, anh lại không
xuất hiện một cách trực tiếp ngay ở mở đầu truyện mà lại xuất hiện qua lời giới thiệu
của bác lái xe với ông họa sĩ và cô gái kĩ sư trẻ khi họ nghỉ ngơi bên dọc đường. Điều
đó cho thấy cách dẫn truyện rất khéo léo của NTT, đồng thời nhân vật hiện lên cũng rất
tự nhiên, chân thực, khách quan qua cái nhìn và đánh giá của nhân vật khác. Cuộc gặp
gỡ tình cờ giữa anh thanh niên và ông họa sĩ, cô kĩ sư tuy rất ngắn ngủi nhưng người
đọc cũng đủ cảm nhận thật sâu sắc hoàn cảnh sống, làm việc và những phẩm chất tốt
đẹp, cũng như những cống hiến thầm lặng của anh thanh niên đối với quê hương, đất
nước. Đúng như nhà văn đã nói về tác phẩm của mình: “Nghĩ cho cùng Lặng Lẽ Sa Pa
là một chân dung…”. Đó là chân dung đẹp đẽ - gương mặt tinh thần có sức tỏa sáng
của người thanh niên hai mươi bảy tuổi, làm công tác khí tượng trên đỉnh núi Yên Sơn
cao 2.600 mét giữa rừng núi Sa Pa.

- Dưới cái nhìn của bác lái xe, anh thanh niên được gọi bằng một cái tên vô cùng đặc
biệt “người cô độc nhất thế gian”. Cách gọi ấy quả thực rất đúng với hoàn cảnh sống
của anh khi mà quanh năm suốt tháng, bốn bề anh chỉ biết làm bạn với cỏ cây, mây núi
Sa Pa. Buồn tẻ tới mức anh phải hạ cây chắn ô tô lại để được trông thấy và nghe thấy
tiếng người nói vì “thèm người quá”.Công việc của anh là: “Đo gió, đo mưa, đo nắng,
tính mấy, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản
xuất, phục vụ chiến đấu”. Công việc này đỏi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác và phải có tinh
thần trách nhiệm cao. Nửa đêm, đúng giờ “ốp” thì dù mưa tuyết hay lạnh giá thế nào thì
vẫn phải trở dậy ra ngoài trời làm công việc đã qui định. Đặc biệt là khi thời tiết khắc
nghiệt trên cao, khi làm việc xong thì trở về không tài nào ngủ được nữa. Nhưng có lẽ,
cái gian khổ nhất với chàng trai trẻ này là sự cô đơn, quanh năm suốt tháng không có
một bóng người qua lại. Hoàn cảnh sống và công việc của anh thanh niên thật đặc biệt.
Nhưng tất cả những khó khăn, gian khổ ấy anh đều vượt qua để vươn tới một cuộc sống
tốt đẹp hơn bằng việc cống hiến cho đời.

2. Phẩm chất

- Trước tiên anh thanh niên này đẹp ở tấm lòng yêu đời,yêu nghề ,ở tinh thần
trách nhiệm cao với công việc lắm gian khổ của mình, ý thức được công việc thầm
lặng của mình. Trong công việc và trong cuộc sống anh luôn nghiêm túc, có tinh thần
trách nhiệm cao,. Ngày nào cũng thế, nửa đêm đúng giờ “ốp”, dù mưa tuyết lạnh giá
thế nào anh cũng trở dậy ra ngoài trời làm việc. Anh làm việc đều đặn, chính xác đủ

24
bốn lần trong ngày vào lúc bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối và một giờ sáng .Anh
luôn tâm niệm: “Khi ta làm việc, ta với công việc đôi, sao gọi là một mình được’. Càng
yêu nghề a càng ý thức sâu sắc công việc của mình là cần thiết, có ích cho mọi người
cho đất nước: “Huống chi công việc của cháu gắn liền với bao anh em đồng chí dưới
kia, công việc của cháu gian khổ thế đáy, chứ cất nó đi cháu buồn chết mất”. Anh còn
đẹp ở những suy nghĩ sâu sắc về công việc và cuộc sống : “Mình sinh ra làm gì, ở
đâu….Anh coi công việc chính là người bạn đồng hành với mình trong cuộc
sống.Thậm chí anh hiểu sự cống hiến của mình và nó sợi dây để gắn kết anh với mọi
người xung quanh anh. Đối với anh, hạnh phúc là khi được cống hiến, tận tụy với công
việc. Khi biết một lần tình cờ phát hiện ra một đám mây khô mà không quân ta hạ được
bao nhiêu là phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng, anh thấy mình “thật hạnh phúc”. Hạnh
phúc đối với anh thật ý nghĩa biết bao khi anh cảm thấy mình đã góp phần vào thắng
lợi của đất nước trong kháng chiến chống Mĩ. Có lẽ, chính những suy nghĩ với thái độ
sống tích cực ấy đã khiến anh vượt qua khó khăn trong hoàn cảnh sống và công việc
của mình mà hướng tới cuộc sống đẹp và ý nghĩa hơn.

-Tuy sống trong điều kiện thiếu thốn nhưng người thanh niên ấy biết sắp xếp lo
toan cuộc sống riêng khoa học chủ động ,ngăn nắp, ổn định.Anh nuôi gà, trồng hoa,
đọc sách,thỉnh thoảng anh xuống đường tìm gặp bác lại xe cùng hành khách để trò
chuyện cho vơi bớt nỗi nhớ nhà. Anh biết cống hiến cho công việc chung nhưng cũng
không quên làm đẹp cho cuộc sống riêng của mình. Nơi anh ở có một vườn hoa rực rỡ
đủ màu, anh nuôi cả đàn gà và trồng cả những luống rau để phục vụ tự cung tự cấp cho
cuộc sống của mình. Khi mời ông họa sĩ và cô kĩ sư nông nghiệp lên nhà chơi, xong
anh chạy về trước không phải là anh “chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn”
như ông họa sĩ nghĩ mà anh chạy về trước để cắt hoa, pha trà đón khách. Điều đó cho
thấy anh thực sự là con người sống rất tình cảm, chu đáo, cẩn thận.

- Sống trong hoàn cảnh như thế sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cô
đơn.Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi “ thèm người ”,lòng hiếu
khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo.Ngay từ
những phút gặp gỡ ban đầu ,lòng mến khách ,nhiệt tình của anh đã gây được thiện cảm
tự nhiên đối với người hoạ sỹ già và cô kỹ sư trẻ.Niềm vui được đón khách dào dạt
trong anh,toát lên qua nét mặt,cử chỉ:anh biếu bác lái xe củ tam thất,mừng quýnh đón
quyển sách bác mua hộ,hồ hởi đón mọi người lên thăm “nhà”,hồn nhiên kể về công
việc,đồng nghiệp và cuộc sống của mình nơi Sa pa lặng lẽ.Khó người đọc nào có thể
quên,việc làm đầu tiên của anh khi có khách lên thăm nơi ở của mình là:hái một bó hoa
rực rỡ sắc màu tặng người con gái lần đầu quen biết.Bó hoa cho cô gái ,nước chè cho
ông hoạ sỹ già, làn trứng ăn đường cho hai bác cháu…Tất cả không chỉ chứng tỏ đó là
người con trai tâm lý mà còn là kỷ niệm của một tấm lòng sốt sắng , tận tình đáng quí .

- Công việc vất vả ,có những đóng góp quan trọng cho đất nước nhưng người
thanh niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn.Anh cảm thấy đóng góp của

25
mình bình thường,nhỏ bé so với bao ngừơi khác.Bởi thế anh ngượng ngùng khi ông hoạ
sỹ già phác thảo chân dung mình vào cuốn sổ tay .Con người khiêm tốn ấy hào hứng
giới thiệu cho ông hoạ sỹ những người khác đáng vẽ hơn mình:“Không,không ,bác
đừng mất công vẽ cháu,để cháu giới thiệu cho bác những người khác đáng vẽ hơn.”Đó
là ông kỹ sư ở vườn rau vượt qua bao vất vả để tạo ra củ su hào ngon hơn,to hơn.Đó là
“người cán bộ nghiên cứu sét,11 năm không xa cơ quan lấy một ngày”…Dù còn trẻ
tuổi,anh thấm thía cái nghiã,cái tình của mảnh đất Sa pa,thấm thía sự hy sinh lặng thầm
của những con người đang ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước .

III. Hợp - NT : Bằng một cốt truyện khá nhẹ nhàng ,tình huống truyện hợp lí, những
chi tiết chân thực tinh tế ,ngôn ngữ đối thoại sinh động giàu chất thơ chất họa. Nguyễn
Thành Long đã kể lại một cuộc gặp gỡ tình cờ mà thú vị nơi Sa pa lặng lẽ.Chưa đầy 30
phút tiếp xúc với anh thanh niên,khiến người hoạ sỹ già thêm suy ngẫm về vẻ đẹp cuộc
đời mà mình không bao giờ thể hiện hết được và còn làm cô kỹ sư trẻ bao cảm mến
bâng khuâng.
- ND: +Truyện ngắn LLSP khắc họa thành công hình ảnh những người lao động bình
thường, mà tiêu biểu là anh thạn niên làm công tác khí tượng một mình trên đỉnh núi
cao. Qua đó truyện khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của những
công việc thầm lặng.( Liên hệ văn học : Mùa lạc của Nguyễn Khải, Người lái đò sông
Đà của Nguyễn Tuân…

+ Anh thanh niên tiêu biểu cho những con người lao động trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa XH ở miền bắc , tiêu biểu cho vẻ đẹp của thế hệ tre VN những năm kháng
chiến chống Mĩ

+ Với truyện ngắn này ,phải chăng nhà văn muốn khẳng định:Cuộc sống của chúng ta
được làm nên từ bao phấn đấu,hy sinh lớn lao và thầm lặng?Những con người cần
mẫn,nhiệt thành như anh thanh niên ấy, khiến cuộc sống này thật đáng trân trọng,thật
đáng tin yêu .

- Liên hệ

- Bàn luận về lối sống của thanh niên hiện nay.

C .Kết bài

Chiếc lược ngà ( Nguyễn Quang Sáng)


Phân tích nhân vật bé Thu

A . Mở bài

26
Tình cảm gia đình là một đề tài quan trọng của văn học Việt Nam thời kì kháng
chiến chống Mĩ cứu nước. Khai thác mảng đề tài này, Nguyễn Quang Sáng đã có một số
tác phẩm đặc sắc như “Chiếc lược ngà”, “Bông cẩm thạch”,.. Trong đó, “Chiếc lược
ngà” tạo được nhiều ấn tượng hơn cả. Một trong những yếu tố làm nên thành công của
tác phẩm là nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật chính - nhân vật bé Thu - một cô
bé cá tính, đáng yêu và có tình yêu ba tha thiết.
B. Thân bài
I .Tổng
“Chiếc lược ngà” ra đời năm 1966 rồi được đưa vào tập truyện cùng tên (Chiếc
lược ngà) của Nguyễn Quang Sáng. Câu chuyện được xây dựng trên một tình huống
hiểu lầm tạo nhiều bất ngờ cảm động: Anh Sáu đi kháng chiến chống Pháp từ khi đứa
con duy nhất của anh chưa đầy một tuổi. Từ đó hai ba con chưa hề gặp lại nhau, cho đến
khi kháng chiến kết thúc, anh trở vể, đứa con gái tám tuổi không chịu nhận ba. Trong ba
ngày ở nhà, bằng đủ mọi cách mà con bé vẫn không chịu gọi lấy một tiếng ba. Đến lúc
phải ra đi nhận nhiệm vụ mới, bé Thu mới gọi anh bằng ba. Thật bất ngờ. Thì ra, nó
không chịu nhận ba là vì vết thẹo trên má đã khiến anh không còn giống như trong bức
ảnh chụp ngày cưới. Con bé chỉ gọi ba khi bà ngoại giải thích cho nó rõ điều này. Giây
phút anh nghe được tiếng gọi mà anh chờ đợi đã bao năm ấy cũng là lúc cha con xa
nhau. Anh Sáu hứa sẽ mang về tặng con một cây lược. Những ngày chiến đấu trong
rừng, anh Sáu cặm cụi làm chiếc lược bằng ngà cho con gái. Chiếc lược đã làm xong
nhưng chưa kịp trao cho con gái thì anh hi sinh.
II. Phân tích.
Nhân vật cô bé tám tuổi ấy là Thu, mới có tám tuổi nhưng cô đã bướng
bỉnh, gan góc rất có cá tính và đặc biệt là tình yêu cha sâu sắc. Trong tâm hồn trẻ
thơ của bé Thu, chỉ có duy nhất hình ảnh một người ba mà nó biết qua bức ảnh chụp với
má ngày cưới. Nó nhất quyết không chịu nhận ông Sáu là ba dù cả nhà thừa nhận điều
đó. Họ đón ông với tất cả tấm lòng chân thành, yêu thương của con người Nam Bộ.
Chẳng những thế, ông còn vô cùng xúc động khi gặp nó. Nhưng bỏ qua tất cả, Thu vẫn
hét lên sợ hãi khi ông Sáu lập cập đến với nó và lắp bắp gọi: “Thu! Ba đây con...”. Có
điều đó bởi Thu thấy ba nó trong bức ảnh không hề có vết thẹo trên má còn người cứ
gọi nó là con, bắt nó gọi bằng ba bây giờ lại có vết thẹo dài trên má.
Không chỉ vậy, qua nhiều chi tiết miêu tả hành động của bé Thu Nguyễn Quang
Sáng vừa thể hiện được tính cách đặc biệt của cô bé vừa tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ.
Khi mẹ yêu cầu “mời ba vô ăn cơm", Thu gọi "trổng" “vô ăn cơm”. Nồi cơm sôi, không
tự chắt được con bé nhất quyết không chịu gọi ba để được giúp đỡ. Nó tìm mọi cách
chăt nước không cần nhờ vả. Đặc biệt, tính cách rắn rỏi, ngang bướng vô cùng trẻ con
của Thu được thể hiện qua chi tiết bé hất đổ cả chén cơm khi anh Sáu gắp cho nó cái
trứng cá. Bị ba đánh, tưởng đâu "con bé sẽ lăn ra khóc, sẽ giẫy, sẽ đạp đổ cả mâm cơm,
hoặc sẽ chạy vụt đi. Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó
cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm.".
Đành rằng trẻ con chỉ tin vào những gì chúng thấy, đành rằng bé Thu không thể biết
được sự ác nghiệt của bom đạn là thế nào, và nó có cách suy nghĩ theo kiểu trẻ con của

27
nó, nhưng phải thừa nhận rằng cô bé này có một cá tính mạnh mẽ. Sự bướng bỉnh, gan
góc đến kì lạ cùa bé Thu đã trở thành tiền đề để sau này trở thành lòng dũng cảm, sự
lanh lợi của cô giao liên Thu.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, Thu cùng “Chiếc lược ngà" sẽ nằm lẫn vào vô vàn tác
phẩm khác viết cho thiếu nhi. Điều khiến nhân vật cùng tác phẩm đi xa hơn trong
lòng người đọc là ở chỗ bé Thu có một tình yêu ba nồng nàn, tha thiết.
Cô bé không nhận ba bởi cô hiểu nhầm về vết sẹo trên mặt ba. Cô đã nghĩ rằng
“người ta” mang đến cho mình một người “ba giả"! Và vì thế, Thu càng phản đối quyết
liệt người “ba giả” ấy bao nhiêu càng thể hiện cô bé yêu ba mình bấy nhiêu. Cái tình
yêu ấy thật sâu sắc: nó chỉ có một, không thể chia sẻ cho bất kì ai khác, ngay cả khi đó
là người được tất cả mọi người thừa nhận là ba của nó, là người yêu thương và quan tâm
đến nó rất chân thành.
Khi biết rằng ông Sáu là ba thật của mình, và vết sẹo trên mặt ông là do thằng Mĩ
gây nên, buổi sáng cuối cùng trong những ngày phép của ba "Con bé như bị bỏ rơi, lúc
đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa của và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó, vẻ mặt
của nó có cái gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó
sẩm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương.
Với đôi mi dài uốn cong, và như không bao giờ chớp, đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn
của nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa. " Không hiểu
con bé “nghĩ ngợi sâu xa” điều gì, chỉ biết rằng khi ông Sáu buồn rầu quay lại nhìn nó -
không dám lại gần sợ nó lại bỏ chạy như lần trước - nói: “Ba đi nghe con” thì nó bất
ngờ lao đến thét lên: Ba., a... a...ba! Rồi ôm chặt lấy ông nức nở “Con không cho ba đi”.
Đến đây, người đọc mới vỡ lẽ ra rằng Thu thèm được gọi ba như thế nào. "Tiếng kêu
của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là
tiếng "ba" mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng "ba" như vỡ tung ra từ đáy
lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang
hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó.". Bé Thu là đứa trẻ giàu tình cảm. Thái độ của bé Thu với
ba bây giờ trái ngược trong những ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà. Song, trái ngược
mà vẫn nhất quán. Vì quá yêu ba, quá khao khát được có ba nên khi nhận định không
phải ba nó thì nó nhất định không chịu nhận, nhất định không gọi "ba" lấy một tiếng.
Cho nên, khi tiếng gọi như xé kia cất lên ta thấy nó thiêng liêng vô cùng. Tiếng gọi ấy
càng trở nên thiêng liêng, quý giá bởi đón chờ nó là cả tấm lòng cao đẹp, thương yêu
con vô hạn của người cha.
Trong quá trình thể hiện diễn biến tâm lí nhân vật bé Thu có một chi tiết vô cùng
quan trọng: chi tiết cái thẹo. Chính cái thẹo là nguyên nhân gây ra những hiểu lầm trong
tình cảm của cha con mà Thu dành cho ba. Cái thẹo là vết thương mà giặc Mĩ gây ra
cho ba Thu. Sự chia cắt gia đình không chỉ riêng gia đình bé Thu mà còn hàng triệu gia
đình người Việt cũng là do giặc Mĩ gây ra. Thấu hiểu sâu sắc điều đó, sau này, Thu đã
trở thành một nữ giao liên dũng cảm, can đảm. Cô đã quyết tâm tiếp bước con đường
cha cô đã đi để đánh đuổi kẻ thù của gia đình, kẻ thù của dân tộc.
III. Hợp

28
- Xây dựng nhân vật bé Thu - một cô bé bướng bỉnh, cá tính nhưng có tình cảm yêu
ba tha thiết cảm động - Nguyễn Quang Sáng đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ bởi vậy
nhà văn đã tạo nên được một nhân vật trẻ thơ thực sự sống động gây nhiều niềm xúc
động sâu xa trong lòng người đọc. Bên cạnh đó, tác phẩm đã tạo nên một tình huống
hiểu lầm độc đáo mà chi tiết quan trọng nhất là chi tiết cái thẹo. Chi tiết này có giá trị
giống như một “cái bóng” trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
hay “chiếc lá cuối cùng” trong truyện ngắn cùng tên của Ô Hen-ri,...
- NT:
- ND :
- Bình luận : Phê phán chiến tranh …..
C. Kết bài
Nhân vật bé Thu trong “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đã để lại trong
lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc bởi một tính cách đặc biệt khó có thể nhầm lẫn.
Nhân vật này đã góp phần tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc cho tác phẩm. Và vì vậy,
cùng với tác phẩm, nhân vật bé Thu đã giành được một vị trí riêng trong lòng độc giả
yêu truyện ngắn Việt Nam.

ÔNG SÁU (CLN)


Tình cảm gia đình là một đề tài quan trọng của văn học Việt Nam thời kì kháng
chiến chống Mĩ cứu nước. Khai thác mảng đề tài này, Nguyễn Quang Sáng đã có một số
tác phẩm đặc sắc như “Chiếc lược ngà”, “Bông cẩm thạch”,.. Trong đó, “chiếc lược
ngà” tạo được nhiều ấn tượng hơn cả. Một trong những yếu tố làm nên thành công của
tác phẩm là nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật chính-nhân vật ông Sáu- một
người chiến sĩ giàu lòng yêu nước, có tinh thần chiến đấu dũng cảm và là một người cha
rất mực thương con

Tổng : “Chiếc lược ngà” ra đời năm 1966 rò được đưa vào tập truyện cùng tên
của Nguyễn Quang Sáng. Câu chuyện được xây dựng trên một tình huống hiểu làm tạo
nhiều bất ngờ cảm động: Chiến tranh xảy ra, đất nước lâm nguy, anh Sáu cũng như
nhiều thanh niên, đàn ông khác đều xung phong lên đường đi đánh giặc. Ngày anh đi,
bé Thu- con gái anh còn chưa đầy một tuổi, trong suốt khoảng thời gian gần chục năm
trời ở chiến trường bom đạn khốc liệt, anh chỉ được nhìn thấy con gái qua nhưng tấm
ảnh nhỏ hiếm hoi mà vợ anh đem đến mỗi lần liều mình đi thăm chồng nơi tiền
tuyến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con nhưng
bé Thu-con gái ông, không chịu nhận ông là cha. Trong ba ngày ở nhà, bằng đủ mọi
cách mà con bé vẫn không chịu gọi lấy một tiếng ba. Đến lúc phải ra đi nhận nhiệm vụ
mới, bé Thu mới gọi anh bằng ba. Thật bất ngờ. Thì ra, nó không chịu nhận ba là vì vết
thẹo trên má đã khiến anh không còn giống như trong bức ánh chụp ngày cươi Con bé
chịu gọi ba khi bà ngoại giải thích cho nó rõ điều này. Giây phút anh nghe được tiếng
gọi mà anh chờ đợi đã bao năm ấy cũng là lúc cha con xa nhau.

29
Phân : Nhân vật ông Sáu là người chiến sĩ giàu lòng yêu nước, sẵn sàng chấp
nhận từ bỏ gia đình, gác lại trách nhiệm làm chồng, làm cha để đi theo tiếng gọi thiêng
liêng của Tổ quốc; anh dũng chiến đấu, sẵn sàng hi sinh mạng sống của mình vì đất
nước, nhân dân. Thoát ly gia đình đi kháng chiến, bảy năm trời xa cách gia đình vợ con,
lòng anh xiết bao mong nhớ nhưng cũng đành nén chặt trong lòng. Đợi đến khi hoà bình
lặp lại, hoàn thành trách nhiệm của người trai đối với đất nước anh mới quyết định về
thăm gia đình. Nhưng đến khi về thăm nhà thì bé Thu, đứa con gái đầu lòng và cũng là
đứa con duy nhất của anh lại không chịu nhận cha. Mãi đến lúc anh lên đường, đứa con
hiểu ra mọi chuyện, hai cha con mới nhìn nhận nhau. Mặc dù rất đau đớn, lưu luyến, bịn
rịn nhưng anh vẫn dứt áo ra đi để làm tròn trách nhiệm của mình đối với đất nước. Có ai
ngờ, đó cũng là lần gặp con cuối cùng trong cuộc đời của anh bởi sau khi từ giã gia đình
đi chiến đấu. Trong một trận càn lớn của Mĩ – Nguỵ anh đã anh dũng hi sinh. Cái chết
của anh Sáu và của biết bao những người lính ngày đó là đỉnh cao của chủ nghĩa yêu
nước anh hùng cách mạng của dân tộc ta trong những năm tháng đầy đau thương, mất
mát nhưng rất đỗi anh hưng.

Bên cạnh người chiến sĩ kiên trung, ông Sáu lại là người cha rất mực thương
con. Trong những ngày thoát ly gia đình đi kháng chiến lúc nào anh cũng nhớ thương
con, mong muốn được gặp con. Nhiều lần anh bảo vợ dẫn con đến thăm, để anh được
nhìn mặt cho con khuây khoả nỗi nhớ. Nhưng rồi nghĩ tới chuyện băng rừng lội suối
khó khăn, mạng sống của con có thể bị nguy hiểm nên anh lại thôi. Chỉ biết ngắm nhìn
con qua tấm ảnh nhỏ. Ngày được trở về thăm nhà, sắp đươc gặp con, lòng anh vui mừng
khốn xiết. Cái tình người cha cứ nôn nào trong người anh. Trong giây phút đầu gặp gỡ,
anh Sáu nhận biết con chỉ bằng linh cảm, nhưng đó là linh cảm của một người làm cha
đã tám năm đằng đẵng chỉ được nhìn thấy con gái qua vài tấm ảnh nhỏ, nay trở về thăm
nhà với niềm mong chờ và nỗi nhớ mãnh liệt: “đoán biết là con, không thể chờ xuồng
cặp lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên”. Khao khát, mong chờ đến nôn nóng muốn
gặp con: “anh bước vội vàng với những bước dài”, “vừa bước vừa khom người đưa tay
đón chờ con”. Người cha ấy chờ đợi đã bao lâu rồi thời khắc được ôm con vào lòng, xúc
động, nghẹn ngào cất tiếng gọi đầy trìu mến: “Thu! Con”. Anh khao khát được nghe
con gọi tiếng ba. Một tiếng ba thiêng liêng tha thiết mà anh đã chờ đợi bấy lâu. Nhưng
trái lại với những gì anh mong đợi, con anh, nó không chịu nhận anh là cha. Nó coi anh
như một người hoàn toàn xa lạ. Nó nhìn anh lạ lùng, ngơ ngác. Anh Sáu, vẫn với “vẻ
mặt xúc động ấy”, “hai tay vẫn đưa về phía trước” giọng lặp bặp run run”: “Ba đây
con!”. Câu nói được lặp lại tới hai lần đã diễn tả được trọn vẹn sự mong nhớ cùng đợi
chờ, xúc động của người cha khi đứng trước đứa con gái nhỏ mình luôn nhớ nhung bấy
lâu, hoàn toàn chạm đến trái tim bạn đọc. Nhưng chính nỗi xúc động đó đã khiến vết
sẹo dài trên má phải của anh Sáu đỏ ửng lên, khiến bé Thu sợ hãi: “mặt nó bỗng tái đi,
rồi vụt chạy và kêu thét lên”. Nỗi buồn, sự đau đớn, thất vọng đổ ập lên anh Sáu, “anh
đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng
thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Trở về nhà, con người ta sẽ được sống
trong tình yêu thương tràn ngập, được cảm nhận sự quan tâm ấm áp từ những người
thân trong gia đình, nhưng đối với anh Sáu, ba ngày ở nhà lại trở nên thật buồn bã, đau
xót. Suốt những ngày sau đó anh chẳng muốn đi đâu chỉ quanh quẩn trong nhà để được

30
dịp gần con, yêu thương, chăm sóc cho con, bù đắp lại những tháng ngày sống xa nhà
chưa làm tròn trách nhiệm của người cha đối với mình, “lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng
càng vỗ về con bé càng đẩy ra”. Anh tha thiết mong muốn được nghe con gọi môt tiếng
ba nhưng con bé nhất quyết không chịu gọi. Mời anh vô ăn cơm nó chỉ toàn nói trổng.
Mẹ doạ đánh nó cũng mặc. Nó nhất quyết không chịu mở miệng gọi anh một tiếng ba
dù bị dồn vào tình thế gây cấn. Trước thái độ cương quyết, bướng bỉnh của con,, anh chỉ
biết “nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”- nụ cười chua xót, đau khổ của một người
cha bị chính con gái mình xa lánh. Thất vọng buồn bã nhưng anh không hề giận con.
Anh vẫn kiên nhẫn, dồn tất cả tình thương sự quan tâm lo lắng cho con. Bữa cơm chiều
hôm ấy anh gắp vào bát con một cái trứng cá thật to nhưng không biết nghĩ thế nào, nó
săm soi rồi hất cái trứng cá rơi ra mâm. Trước thái độ và hành động kiên quyết có phần
ngỗ ngược, bất cần, quá quắt của con, không thể nhịn được nữa anh liền “vung tay đánh
vào mông nó và hét lên: -Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?” mà trong lòng vô cùng đau
khổ. Mãi sau này trong những ngày ở chiến khu anh vẫn con day dứt, ân hận vì đã lỡ
đánh con mình.

Cuối cùng, dù không muốn, giây phút chia tay cũng đã đến. Trước khi ra đi anh
muốn chào từ biệt con, ôm hôn con nhưng lại sợ khi đến gần, con lại giẫy lên rồi bỏ
chạy như những lần trước nên anh lại thôi. Anh chỉ còn biết đứng đó nhìn con, “đôi mắt
trìu mến lẫn buồn rầu” rồi khe khẽ nói những lời cuối cùng chào từ biệt con mà trong
lòng vô cùng buồn bã, đau đớn. Nhưng rồi thật bất ngờ vào lúc ấy, bé Thu chợt kêu thét
lên thật lớn: “Ba…a…a…ba!”. Nói sao hết niềm vui mừng hạnh phúc của anh khi nghe
con gọi một tiếng ba. Tiếng ba thiêng liêng kì diệu được thốt ra từ chính khuôn miệng
xinh xắn của con vỡ oà trong những giọt nước mắt mừng mừng tủi tủi, trong sự chờ đợi
khắc khoải bấy lâu khiến anh không kiềm chế được cảm xúc của mình mà bật khóc.
Tiếng “ba”ấy nó làm cho trái tim của người cha trào dâng biết bao niềm hân hoan hạnh
phúc. Anh khóc vì vui, vì hạnh phúc, khóc vì tiếc nuối khi giây phút chia ly đã cận kề.
Không muốn để con nhìn thấy những giọt nước của mình bởi không muốn không khí
buổi chia tay trở nên nặng nề, “anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước
mắt”. Chính anh cũng không muốn phải xa con, giá như thời gian cứ dừng lại mãi ở
giây phút này, anh sẽ có thể cảm nhận được tình yêu thương cùng niềm mong nhớ mà
con gái anh dành cho người cha dấu yêu của mình suốt những năm tháng qua. Nhưng đó
tất nhiên chỉ là một điều ước không thể trở thành sự thật, những giọt nước mắt tiếc
nuối nhanh chóng được anh Sáu lau đi, bởi nếu để bé Thu nhìn thấy sự yếu đuối ấy, con
bé sẽ không để cho anh đi. Giây phút chia tay cũng chính là thời khắc anh Sáu chính
thức được đoàn tụ với con gái. Thật éo le, đau đớn!

Mang theo tình yêu thương và lời hứa mua cho con chiếc lược ngà trở về
căn cứ, khi nhặt được khúc ngà, anh Sáu đã “hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên
khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Lời hứa với con gái sắp được
hoàn thành, anh Sáu tràn ngập niềm vui, hạnh phúc. Ở giữa chiến trường máu lửa khốc
liệt, anh càng mong nhớ con gái nhiều hơn. Làm cho con cây lược bằng tất cả tình yêu
thương và niềm mong nhớ, anh Sáu càng khát khao được trở về gặp lại con: “Anh cưa
từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Tất cả tình cảm
của anh được gửi gắm ở “hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét:

31
“Yêu nhớ tặng Thu con của ba””. Với tình yêu thương và niềm mong nhớ con tha thiết,
anh Sáu đã trở thành nghệ nhân một lần duy nhất trong cuộc đời. Chiếc lược ngà do
chính tay mình làm ra dường như đã giải tỏa được mối ân hận vì đã trót đánh con mà
anh vẫn day dứt, dằn vặt bấy lâu. Chiếc lược ngà chính là biểu tượng của tình cha con,
tình phụ tử thiêng liêng, bất diệt, cũng chính là kỉ vật mà anh Sáu để lại cho con gái
trước lúc hy sinh nơi chiến trường khốc liệt.“Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ
sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn
lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho
người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả
những lời di chức. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ
tử. Và bắt đầu từ giây phút ấy, cây lược của tình phụ tử đã biến người đồng đội của ông
Sáu thành một người cha thứ hai của bé.
Hợp : Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, lối miêu tả nội
tâm nhân vật sắc bén cùng với những tình cảm hết sức chân thành Nguyễn Quang Sáng
nhân vật anh Sáu được nhà văn xây dựng một cách chân thật sông động, gần gũi, có đời
sống nội tâm phong phú, rất mực thương con và giàu lòng yêu nước. Xây dựng chi tiết
chiếc lược ngà trở thành biểu tượng thiêng liêng cao đẹp cho tình cảm cha con thiết tha
sâu nặng mà bom đạn kẻ thủ không thể tàn phá nổi. Lời văn nôm na, bình dị nhưng giàu
cảm xúc, rất đặc trưng của người dân Nam Bộ. Bên cạnh đó, nhà văn đã tạo nên một
tình huống hiểu lầm độc đáo mà chi tiết quan trọng nhất là cái thẹo. Chi tiết này có giá
trị giống như một “cái bóng” trong “CNCGNX” của Nguyễn Dữ hay “chiếc lá cuối
cùng” trong truyện ngắn cùng tên của Ô Hen-ri... Dường như ông Sáu cũng chính là
nhân vật đại diện cho biết bao thế hệ cha anh thời đó. Họ vì tình yêu quê hương đất
nước mà sẵn sàng lên đường ra đi bảo vệ Tổ quốc, để lại sau lưng là gia đình thân yêu
của mình để rồi anh dũng hi sinh.
Câu chuyện còn là bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác mà chiến tranh đã gây ra cho
biết bao người dân vô tội. Nó cũng là lời khẳng định rằng dù bom đạn chiến tranh có tàn
khốc, quyết liệt đến đâu thì cũng không thể dập tắt được tình cảm cha con thiêng liêng
trong trái tim mỗi người chiến sĩ.

KB Với lời văn giản dị, chân thành, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa nên
nhân vật ông Sáu, nhân vật chính, cũng là nhân vật đóng vai trò cốt lõi làm nên thành
công của tác phẩm. Ông Sáu hiện lên trong truyện ngắn khiến người đọc xúc động,
nghẹn ngào với tình yêu thương con tha thiết, mãnh liệt, cùng với đó là tình yêu và sự
hy sinh đối với độc lập, tự do của Tổ quốc. Câu chuyện khép lại, ông Sáu đã hy sinh
nhưng chiếc lược ngà chắc chắn sẽ luôn ở bên bé Thu như sự chăm sóc, che chở của
người cha dành cho con gái mình.

32
CHUYÊN ĐỀ THƠ HIỆN ĐẠI

ĐỒNG CHÍ

A. MB
VD 1 : Chính Hữu là một trong những nhà thơ xuất sắc trong nền văn học VN, ông
trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm của ông thường viết về
chiến tranh và hình ảnh người lính với những ngôn từ hàm xúc, giản dị. Bài thơ “Đồng
chí” là một trong những tiêu biểu và thành công nhất của ông.Bài thơ thể hiện hiện thực
kháng chiến gian khổ thiếu thốn đã nẩy nở ra bao nhiêu mối tình đẹp đẽ thiêng liêng đó
là tính đồng chí, đồng đội thắm thiết.

: VD 2 Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc
sống bằng những gam màu hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những chốn

33
xa hoa mĩ lệ để làm mãn nhãn người đọc, nó tiếp cận hiện thực và tiếp nhận thứ tình
cảm chân thật không giả dối. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim mình để đưa bạn đọc trở
lại với đời thực để cùng lắng đọng, cùng sẻ chia. Với bài thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã
dẫn bạn đọc vào bức tranh hiện thực nơi núi rừng biên giới nhưng thấm đẫm tình đồng
chí đồng đội bằng lời thơ giản dị, mộc mạc.

B. TB

I. Tổng : -
Bài thơ được viết và in lần đầu trên một tờ báo đại đội ở chiến khu Việt Bắc (1948),
dựa trên những trải nghiệm của Chính Hữu cùng đồng chí đồng đội trong chiến dịch
Việt Bắc thu đông (1947), đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp vào cơ
quan đầu não của ta. Bài thơ đã ca ngợi một nét đẹp tinh thần của người lính “tình đồng
chí, đồng đội” qua những hình ảnh thơ giản dị, đậm đà, giàu sức gợi tả, gợi cảm.
II. Phân :
1. Phần 1: Cơ sở hình thành tình đồng chí
- Bài thơ mở đầu bằng giọng thơ mộc mạc, chân thành như lời tâm tình thủ thỉ của 2
người lính về quê hương.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi ngèo đất cày sỏi đá”


- Câu thơ cho ta hiểu những người lính chống Pháp thời ấy đa phần xuất thân từ
giai cấp nông dân, ra đi từ những làng quê nghèo khó. Cấu trúc câu thơ song hành,
thành ngữ dân gian “nước mặn đồng chua”, cách nói sáng tạo từ tục ngữ “đất cày lên sỏi
đá” giàu sức gợi tả. Họ đều sống ở những vùng quê nghèo khó, lam lũ, nhọc nhằn: một
người ở miền biển “nước mặn đồng chua”, một người ở miền trung du “đất cày lên sỏi
đá” nên giữa họ có cái đồng cảnh. Họ thương nhau, hiểu nhau, dễ gần nhau hơn. Chính
nguồn gốc xuất thân của các anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí. Xuất thân
cùng hoàn cảnh chính là cơ sở đầu tiên của tình đồng chí.
Đồng hoàn cảnh, chung lý tưởng đánh giặc cứu nước, các ạnh đã tham gia đội
ngũ bộ đội kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì của dân tộc chính là
nơi hội tụ trái tim những người con yêu nước, đã đưa các anh từ lạ thành quen:

“Anh với tôi đôi người xa lạ


Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Không hẹn đợi, chẳng thân quen, thậm chí còn xa cách quá chừng mà bỗng nhiên trở
thành gần gũi. Ở câu thơ thứ nhất của đoạn thơ nói về “anh”, câu thứ hai nói về “tôi”

34
như một kiểu xưng danh còn tách ra thì đến câu thứ ba đã gộp cả hai người “anh với
tôi”, ấy là cái bước ngoặt “quen nhau”. Từ “xa lạ” ban đầu giữa “đôi người” ấy họ đã
tình cờ “chẳng hẹn quen nhau”.

- Các anh từ mọi miền quê xa lạ chẳng hẹn mà quen nhau rồi trở thành tri kỉ của
nhau:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
Cấu trúc các câu thơ sóng đôi vừa mang ý nghĩa tả thực vừa ẩn dụ. ““Súng bên súng,
đầu sát bên đầu” không chỉ gợi ra hình ảnh, tư thế hai người lính đứng cạnh nhau mà
còn có nghĩa biểu trưng: “Súng bên súng” là chung nhiệm vụ, chung hành động; “đầu
sát bên đầu” là chung chí hướng, chung lí tưởng. Chính Hữu đã dung các từ “sát, bên,
chung” gợi sự chia sẻ của người lính, ý hợp tâm giao.
- Đời lính gian nan, thiếu thốn trăm bề đã gắn kết họ lại với nhau.
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Hình ảnh đêm thơ trên rất cảm động, làm sống lại một thời kì vô cùng gian nan, vất vả
của quân đội ta. Trong những đêm sương muối giá rét, các anh cùng chung nhau đắp
một tấm chăn, tình đồng chí, đồng đội đã sưởi ấm cho nhau. “Chung chăn” không chỉ là
cùng chung hơi ấm với nhau mà đồng thời còn chung cả những khó khăn gian khổ,
đồng cam cộng khổ. Từ những đêm rét chung chăn ấy làm người lính xích lại gần nhau
hơn. Không biết tự bao giờ họ thành đôi tri kỉ.
- Đoạn thơ đang dạt dào tuôn chảy bỗng ngắt lại bởi tiếng gọi thân thương “Đồng
chí!” Nhà thơ đã tách riêng từ “đồng chí” thành một dòng thơ có lẽ muốn khắc họa,
ngợi ca ý nghĩa thiêng liêng của nó. .Nó như nốt nhấn trên bản đàn, buộc người đọc
phải dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi ra. Đó là tiếng gọi thiêng liêng của những
người có chung chí hướng lí tưởng vang lên từ sâu thẳm tâm hồn người lính. Tình đồng
chí là đỉnh cao của tình bạn, tình người, là kết tinh của mọi tình cảm, là cội nguồn sức
mạnh để người lính vượt qua những tháng ngày khó khăn gian khổ. Hai tiếng “đồng
chí” đơn sơ mà cảm động đến nao lòng, làm bừng sang ý nghĩa của cả đoạn thơ và bài
thơ. Từ “đồng chí” như một dấu gạch nối, bản lề giũa hai đoạn thơ, khép mở tài tình cơ
sở của tình đồng chí, mở ra những biểu hiện của tình đồng chí.

2. Phần 2 : Biểu hiện của tình đồng chí

- Trải qua những khó khắn nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có
được sự cảm thông, thấu hiểu nỗi lòng, tình cảm của nhau .Những lúc ngồi cận kề bên
nhau, các anh đã tâm sự cho nhau nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ :
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc cho thấy
những người lính vốn là những người nông dân quen chân lấm tay bùn, gắn bó với căn
nhà thửa ruộng vườn là những cơ nghiệp ngàn đời họ. Hình anh thơ cho ta thấy được
gia cảnh của những người lính thạt gieo neo, thiếu thốn. Những mái nhà tranh nghèo ấy
rất cần những đôi vai trụ cột của các anh. Nhưng khi tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ

35
bỏ những gì thân thuộc nhất để ra đi làm nhiệm vụ: ruộng nương gửi bạn thân cày, để
mặc căn nhà trống trải đang cần người sửa mái -----
+ “mặc kệ” vốn chỉ thái dộ thờ ơ vô tâm của con người, nhưng trong lời thơ của
Chính Hữu lại thể hiện được sự quyết tâm của người lính khi ra đi vì nghĩa lớn, dằn
lòng chỉ hướng về Tổ quốc. Các anh ra đi để lại tình yêu quê hương trrong tim mình, để
nâng lên thành tình yêu Tổ quốc. Đó cũng là sự quyết tâm chung của cả dân tộc, của cả
thời đại. Tuy quyết tâm “mặc kệ” ra đi nhưng trong sâu thẳm tâm hồn các anh, hình ảnh
quê hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi nhớ thân thương: “giếng nước gốc đa nhớ người
ra lính”. Cách nói nhân hóa ấy đậm đà mà ý nhị biết bao, “giếng nước gốc đa” cũng biết
nhớ người ra lính hay lòng người ra lính không nguôi nỗi nhớ quê nhà. Hình ảnh hoán
dụ cũng với nghệ thuật nhân hóa, Chính Hữu đã tạo ra nỗi nhớ hai chiều: quê hương –
nơi có cha mẹ, dân làng luôn nhớ và đợi chờ các anh, các anh – những người lính luôn
hướng về quê hương với bao tình cảm sâu nặng. Có lẽ chính nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm
cho các anh sức mạnh để các anh chiến đấu dành lại độc lập cho dân tộc. Qua những lời
tâm sự ấy người lính thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc với tâm tư của đồng đội. Vì sao?
Bởi cảnh ngộ của anh cũng chính là cảnh ngộ của tôi.

- Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và
niềm vui bên chiến hào chiến đấu:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Những câu thơ với các hình ảnh đối xứng “áo anh-quần tôi”, “rách vai-vài mảnh vá”
một các đầy dụng ý cho ta thấy được sự tương đồng về cảnh ngộ. Qua những hình ảnh
thơ giản dị, chân thực, nhà thơ như đã làm sống lại thời kì gian khổ, thiếu thốn chưa
từng có: ăn uống kham khổ, khí hậu khắc gnhiejte, thiếu quân trang, thuộc men làm cho
bao người lính phải chịu căn bệnh quái ác: bệnh sốt rét rừng. Căn bệnh này là nguyên
nhân dẫn đến tử vong hoặc còn là một cách tạo hình “lạ hóa” trong bài thơ “Tây Tiến”
của Quang Dũng :
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Căn bệnh sốt rét làm biến dạng con người trong một nghịch lý “sốt run người vừng trán
ướt mồ hôi”, ướt mồ hôi là phần da thịt bên ngoài còn thực chất bên trong rất lạnh. Cái
run rẩy ấy của người lính là do bị kẹp chặt giữa nóng và lạnh giao nhau. Đói,rét, gian
khổ khắc nghiệt đã khiến người lính “miệng cười buốt giá”. “Miệng cười buốt giá” ấy là
một nửa nụ cười vừa hồ hởi tươi vui vừa xuýt xoa vì cái rét thời tiết tràn về. Nụ cười đó
tuy thấm thía gian khổ, thiếu thốn mà vẫn hồn nhiên. Đến đây theo chiều dọc của tác
phẩm, nhân vật “anh” luôn được nói đến trước “tôi”, điều này cho ta thấy được người
lính luôn luôn nói về bạn trước khi nói về mình, đồng thời hiểu bạn như hiểu mình. Đây
là một hình tượng sóng đôi nhưng khuất đi, mờ đi một vế.
- Có tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, chia bùi sẻ ngọt mà họ có đủ sức
mạnh lớn lao để vượt qua tất cả:

36
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Đâu cần vật chất của cải, đâu cần lời hay ý đẹp, những người đồng chí bộc lộ tình cảm
với nhau thật chân thành lặng lẽ nắm lấy bàn tay nhau. Hình ảnh “Thương nhau tay nắm
lấy bàn tay” cho ta cảm nhận được cội nguồn sức mạnh giúp người lính vượt qua khó
khăn, có lòng lạc quan đó là sức mạnh của tình đồng đội. Hình ảnh thơ mộc mạc, giản
dị mà có sức biểu cảm cao, một cử chỉ giản dị mang đầy ý nghĩa. Cái nắm tay truyền
cho nhau hơi ấm, sức mạnh của người lính, sự động viên vượt qua khó khắn. Tay nắm
lấy tay, im lặng nhưng là sự im lặng của tình đoàn kết, gắn bó, cảm thông, động viên
chia sẻ. Nó thay cho cả lời hứa hẹn quyết tâm lập chiến công, nói hộ những điều người
lính muốn nói. Qua cử chỉ ấy ta hiểu được tình thương của đồng đội thật mộc mạc, chân
thành, không ồn ào, phô trương, lặng thầm mà thấm thía.

3. Phần 3. Bức tranh đẹp về tình đồng chí

Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ngay giữa
một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng biên giới
trong đêm khuya:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận đánh
giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi vào
lịch sử khiến người lính không thể nào quên. Các anh đứng bên nhau chủ động chờ giặc
trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: “rừng hoang sương muối”
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”.
Từ “chờ” đã thể hiện được tư thế chủ động, vững vàng của người lính, biến tư thế bị
động thành chủ động, họ luôn bình thản trước thềm cuộc chiến đấu. Khép lại bài thơ là
hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị, một phát hiện của người lính trong chính đêm phục kích
của mình: “đầu súng trăng treo”. Hình ảnh ấy được coi là điểm nhãn của khổ cuối, điểm
sáng toàn bài. Ở đây người lính trong đêm phục kích địch không chỉ có đồng đội làm
bạn mà còn có cả một người bạn nữa là vầng trăng. Câu thơ gợi từ hiện thực: đêm về
khuya, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời, trăng lên cao, cảm
giác đứng từ dưới nhìn hắt lên ánh trăng trên đầu súng khiến các anh tưởng như trăng
đang treo trên đầu súng của mình.
+ Súng là biểu tương của chiến tranh, cuộc chiến đấu đầy gián khổ, hi sinh mà
người lính đang trải qua, trăng là biểu tượng của cuộc sống hòa bình trong tương lai mà
người lính đang hướng tới, vừa mang ý nghĩa hiện thực vừa lãng mạn.
+ Súng là biểu tượng của người chiến sĩ, trăng là biểu tượng của thi sĩ.
+Súng – trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình,
chất chiến sĩ và chất thi sĩ, hiện thực và lãng mạn cũng tồn tại, bổ sung tô điểm cho vẻ
đẹp cuộc đời người chiến sĩ. Ánh trăng dường như đang ngập tràn khắp núi rừng chiến
khu, trên bầu trời và chiếu cả trong làn sương huyền ảo. Tâm hồn các anh, những người
chiến sĩ cũng như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh sáng lạc quan, luôn hướng về một
ngày mai tươi sáng. Phải chăng chính từ tình yêu cái đẹp mong muốn có cuộc sống
thanh bình cho nhân dân mà người lính ra đi bảo vệ quê hương, bảo vệ cuộc sống. Hình

37
ảnh đã kín đáo bộc lộ ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu, của các anh bộ đội cụ Hồ.
Từ những ý nghĩa sâu sa của hình ảnh trên, tỏa sáng cả bài thơ và có lẽ chính vì thế mà
nhà thơ đã lấy câu thơ này đặt tên cho cả tập thơ “Đầu súng trăng treo”.

Hợp :
- NT
Bài thơ “Đồng chí” giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo về tình đồng chí đồng
đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới mẻ, một bức
tranh đẹp, bình tượng đẹp về người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng
ngôn ngữ bình dị, tự nhiên, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên
thi vị, mộc mạc, đi thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những hình ảnh biểu
trưng, những câu văn sóng đôi, ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ
đẹp sáng ngời của tình đồng chí.

- ND : Đồng chí là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Chính Hữu. Là một
trong những bài thơ hay nhất, đặc sắc nhất viết về đề tại người lính của văn học cách
mạng. Bài thơ giúp ta cảm nhận được cội nguồn, vẻ đẹp, sức mạnh của tình đồng chí,
đồng đội và vẻ đẹp anh bộ cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Để rồi khi thời
gian trôi qua, tác phẩm trở thành bài ca không quên trong lòng bạn đọc. Nhất là thế hệ
trẻ ngày nay đọc bài thơ họ càng trân trọng hơn cuộc sống hòa bình và cố gắng học tập
phát huy phẩm chất các anh bộ đội cụ Hồ…
- Liên hệ
- BL
C. KB

Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu

A ,MB :

Cách 1: Chính Hữu là nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam hiện đại .Ông
đã để lại một sự ngiệp văn chương có giá trị . Ông thường viết về chiến tranh và hình
tượng nười lính. Bài thơ Đồng chí là bài thơ tiêu biểu nhất của Chính Hữu. Bài thơ đã
đưa người đọc…………

Cách 2: Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc
sống bằng những gam màu hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những chốn
xa hoa mĩ lệ để làm mãn nhãn người đọc, nó tiếp cận hiện thực và tiếp nhận thứ tình
cảm chân thật không giả dối. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim mình để đưa bạn đọc trở
lại với đời thực để cùng lắng đọng, cùng sẻ chia. Với bài thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã

38
dẫn bạn đọc vào bức tranh hiện thực nơi núi rừng biên giới nhưng thấm đẫm tình đồng
chí đồng đội bằng lời thơ giản dị, mộc mạc.

B, TB

I. Tổng :

Khi nhắc đến Chính Hữu, ta thường nhắc đến một nhà thơ chiến sĩ trưởng thành
trong kháng chiến chống Pháp.Tác phẩm của ông thường viết về chiến tranh và hình
ảnh người lính với những ngôn từ hàm xúc, giản dị. Bài thơ "Đồng chí" là một trong
những tiêu biểu và thành công nhất của ông. Bài thơ được viết và in lần đầu trên một tờ
báo đại đội ở chiến khu Việt Bắc (1948), dựa trên những trải ngiệm của Chính Hữu
cùng đồng chí đồng đội trong chiến dịch Việt Bắc thu đông (1947), đánh bại cuộc tấn
công quy mô lớn của thực dân Pháp vào cơ quan đầu não của ta.

- Bằng những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ thể hiện ấn tượng hình ảnh
người lính thời kì đầu chống Pháp và tình đồng chí đồng đội thắm thiết, keo sơn giữa
các anh.

II. Phân

1. Cơ sở hình thành tình đồng chí.

Ngòi bút tài hoa của chính hữu cùng với những câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm
tình, ngôn ngữ giản dị, một cách tự nhiên Chính hữu đã từ từ dẫn người đọc đến với cơ
sở hình thành tình đồng chí:

"Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi ngèo đất cày sỏi đá"

Hai câu đàu với cấu trúc câu thơ song hành, thành ngữ dân gian "nước mặn đồng chua",
cách nói sáng tạo từ tục ngữ "đất cày lên sỏi đá", giọng thơ thủ thỉ tâm tình gợi cảnh hai
người lính đang ngồi kể cho nhau nghe về quê hương mình. Đó là những vùng quê
nghèo khó, lam lũ: một người ở miền biển "nước mặn đồng chua", một người ở miền
trung du "đất cày lên sỏi đá". Phải chăng chính nguồn gốc xuất thân, cùng chung giai
cấp của các anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí?

"Anh với tôi đôi người xa lạ

………………………………….

Đồng chí!"

39
Đồng hoàn cảnh, chung lý tưởng đánh giặc cứu nước, các ạnh đã tham gia đội ngũ bộ
đội kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì của dân tộc chính là nơi hội tụ
trái tim những người con yêu nước, đã đưa các anh từ lạ thành quen "anh với tôi đôi
người xa lạ, tự phương trời chẳng hẹn quen nhau". Có lẽ chung cuộc sống chiến đấu
gian khổ bên chiến hào vì độc lập tự do của dân tộc, đã từ khi nào các anh trở thành tri
kỉ của nhau :

"Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"

Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực vừa mang ý nghĩa biểu trưng. Câu thơ: "súng bên
súng, đầu sát bên đầu" đã gợi lên tư thế của người lính trong đêm phục kích. Họ luôn sát
cánh bên nhau trong mọi khó khăn, nguy hiểm. "Súng bên súng" là chung nhiệm vụ,
chung hành động; "đầu sát bên đầu" là chung chí hướng, chung lí tưởng. Chính Hữu
đã dung các từ "sát, bên, chung" gợi sự chia sẻ của người lính, ý hợp tâm giao. Hình ảnh
"đêm rét chung chăn" là một hình ảnh đẹp, đầy ý nghĩa, đã cho ta thấy được sự sẻ chia
những thiếu thốn gian lao trong cuộc đời người lính. Cũng sự sẻ chia ấy, Tố Hữu
từng viết:

"Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng

Tấm chăn tuy mỏng nhưng ấm tình đồng chí, đồng đội mà người lính không thể nào
quên. Nó đã vun đắp lên tình đồng chí của các anh, cái tình ấy ngày một thắm thiết,
càng đậm sâu. Các anh giờ đây không chỉ là tri kỉ than thiết của nhau mà đẫ trở thành
những người "đồng chí"."Đồng chí!" Là một câu đặc biệt như một bản lề khép mở: khép
lại cơ sở hình thành tình đồng chí và mở ra biểu hiện sức mạnh của tình đồng chí. Nó
như nốt nhấn trên bản đàn, buộc người đọc phải dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi
ra. Đó là tiếng gọi thiêng liêng của những người có chung chí hướng lí tưởng vang lên
từ sâu thẳm tâm hồn người lính. Tình đồng chí là đỉnh cao của tình bạn, tình người, là
kết tinh của mọi tình cảm, là cội nguồn sức mạnh để người lính vượt qua những tháng
ngày khó khăn gian khổ. Hai tiếng "đồng chí" đơn sơ mà cảm động đến nao lòng, làm
bừng sang ý nghĩa của cả đoạn thơ và bài thơ.

2. Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí.

40
Mười câu thơ tiếp theo vẫn là những câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, mộc mạc cho
người đọc thấy được biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí. Trải qua những khó khắn
nơi chiến trường, tình đồng chí đã giúp các anh có được sự cảm thông, thấu hiểu nỗi
lòng, tình cảm của nhau .Những lúc ngồi cận kề bên nhau, các anh đã kể cho nhau
nghe chuyện quê nhà đầy bâng khuâng, thương nhớ :

"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"

Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng những hình ảnh giản dị quen thuộc cho thấy
những người lính vốn là những người nông dân quen chân lấm tay bùn, gắn bó với căn
nhà thửa ruộng. Nhưng khi tổ quốc cần, các anh sẵn sàng từ bỏ những gì thân thuộc
nhất để ra đi làm nhiệm vụ: ruộng nương gửi bạn thân cày, để mặc căn nhà trống trải
đang cần người sửa mái "mặc kệ" vốn chỉ thái dộ thờ ơ vô tâm của con người, nhưng
trong lời thơ của Chính Hữu lại thể hiện được sự quyết tâm của người lính khi ra đi. Các
anh ra đi để lại tình yêu quê hương trrong tim mình, để nâng lên thành tình yêu Tổ quốc.
Đó cũng là sự quyết tâm chung của cả dân tộc, của cả thời đại. Tuy quyết tâm ra đi
nhưng trong sâu thẳm tâm hồn các anh, hình ảnh quê hương vẫn in đậm, vẫn hằn lên nỗi
nhớ thân thương: "giếng nước gốc đa nhớ người ra lính". Hình ảnh hoán dụ cũng với
nghệ thuật nhân hóa, Chính Hữu đã tạo ra nỗi nhớ hai chiều: quê hương - nơi có cha mẹ,
dân làng luôn nhớ và đợi chờ các anh, các anh - những người lính luôn hướng về quê
hương với bao tình cảm sâu nặng. Có lẽ chính nỗi nhớ ấy đã tiếp thêm cho các anh sức
mạnh để các anh chiến đấu dành lại độc lập cho dân tộc.

Không chỉ thấu hiểu, cảm thông, các anh còn sẻ chia những thiếu thốn, gian lao và
niềm vui bên chiến hào chiến đấu:

"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

………………………….

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay"

Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh sóng đôi đối xứng "anh - tôi", "áo anh - quần
tôi" tạo được sự gắn kết của những người đồng chí luôn kề vai sát cánh, đồng cam cộng
khổ bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ ốm đau bệnh tật, cũng trải qua
những cơn sốt rét rừng ghê gớm, cùng chia sẻ những thiếu thốn về vật chất, bằng niềm

41
lạc quan "miệng cười buốt giá", bằng tình yêu thương gắn bó "thương nhau tay nắm lấy
bàn tay". Hình ảnh "miệng cười buốt giá" gợi nụ cười lạc quan bừng lên trong giá lạnh
xua tan đi sự khắc nghiệt của chiến trường. Các anh nắm tay nhau để chuyền cho nhau
hơi ấm, để động viên nhau vượt qua khó khăn gian khổ, những sẻ chia ấy đã tạo nên
sức mạnh của tình đồng chí.Thật hiếm khi thấy cái bắt tay nào nồng hậu đến vậy!

3. Bức tranh đẹp về tình đồng chí.

Chính Hữu bằng những nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp ngay giữa
một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng gác giữa núi rừng biên giới
trong đêm khuya:

"Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo."

Đêm nay cũng như bao đêm khác, các anh phục kích chờ giặc, chuẩn bị cho trận đánh
giành thắng lợi cuối cùng trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi vào
lịch sử khiến người lính không thể nào quên. Các anh phục kích chủ động chờ giặc
trong hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: "rừng hoang sương muối" "Đứng cạnh bên nhau chờ
giặc tới". Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp căng thẳng khi ranh giới của sự
sống cái chết rất mong manh. Từ "chờ" đã thể hiện được tư thế chủ động của người lính
trong đêm phục kích cũng là tư thế chủ động của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc
thu đông 1947.

Khép lại bài thơ là hình ảnh tuyệt đẹp và thi vị, một phát hiện của người lính trong
chính đêm phục kích của mình: "đầu súng trăng treo". Câu thơ gợi từ hiện thực: đêm về
khuya, người lính đứng gác trong tư thế chủ động, súng chĩa lên trời, trăng lên cao, ánh
trăng trên đầu súng khiến các anh tưởng như trăng đang treo trên đầu súng của mình.
Súng là biểu tương của cuộc chiến đấu đầy gián khổ, hi sinh mà người lính đang trải
qua, trăng là biểu tượng của cuộc sống hòa bình trong tương lai mà người lính đang
hướng tới. Súng là biểu tượng của người chiến sĩ, trăng là biểu tượng của thi sĩ. Súng -
trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và
chất thi sĩ, hiện thực và lãng mạn cũng tồn tại, bổ sung tô điểm cho vẻ đẹp cuộc đời
người chiến sĩ. Ánh trăng dường như đang ngập tràn khắp núi rừng chiến khu, trên bầu
trời và chiếu cả trong làn sương huyền ảo. Tâm hồn các anh, những người chiến sĩ cũng

42
như ánh trăng ấy nồng hậu, lấp lánh ánh sáng lạc quan, luôn hướng về một ngày mai
tươi sáng.

III, Hợp

Như vậy, "Đồng chí" giống như một lời ca nhẹ nhàng trong trẻo về tình đồng chí đồng
đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới mẻ, một bức
tranh đẹp về người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ bình dị, tự
nhiên, những tục ngữ, thành ngữ dân gian làm cho lời thơ trở nên thi vị, mộc mạc, đi
thẳng đến trái tim người đọc. Bên cạnh đó với những hình ảnh biểu trưng, những câu
văn sóng đôi, ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm thêm vẻ đẹp sáng ngời
của tình đồng chí.

C, Kết bài

Văn chương nghệ thuật cần đến những con người biết nhìn hiện thực bằng trái
tim. Chính Hữu đã đem hiện thực vào trang viết của mình một cách tự nhiên nhưng
đồng thời cũng đặt vào bức tranh ấy một viên ngọc sáng thuần khiết nhất, đó là tình
đồng chí đồng đội keo sơn thắm thiết. Để rồi khi thời gian trôi qua, tác phẩm trở thành
bài ca không quên trong lòng bạn đọc. ( Liên hệ …)

43
TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
A. Kiến thức cần nhớ.
1 Tác giả
- Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ơ tỉnh Phú Thọ Sau khi tốt nghiệp đại
học, năm1964 vào bô đôi, hoạt động ở tuyến đường Trường Son và trở thành một
trong những nhà tho? tiêu biểu của phong trào thơ trẻ những năm kháng chiến
chống đế quốc Mỹ.
- Thơ ông giàu chất liệu hiện thực, chiến trường, có giọng điệu ngang tàng,
tinh nghịch, sôi nổi, tưoi trẻ, đã làm sống lại hinh ảnh thế hệ trẻ ở Trựòng Sơn và
những khổ khăn của thòi đánh Mỹ gian khồ
- Phạm Tiến Duật thể hiện hình ảnh thế hệ thanh niên trong cuộc chiến tranh
chống đê quốc Mỹ qua những hình tượng cô gái thanh niên xung phong và anh bộ đội
trên tuyến đường Trường Sơn.
- Tác phẩm chính: vầng trăng -Quầng lửa (1970), Thơ một chặng đương (1971),
Ở hai đầu núi (1981). Nhiều bài thơ đã đi vào trí nhớ của công chúng như các bài:
Trường Sơn Đông, Trường Sơn tây, Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung phong....
- 2. Tác nhẩm:
a. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính rút từ tập thơ vầng trăng -Quầng lửa của
tác giả. Là tác phẩm đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ trong báo Văn nghệ (1969 -
1970).

44
Bài thơ được ra đời trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra rất ác liệt. Mĩ trút
hàng ngàn, hàng vạn tấn bom trên con đường chiến lược Trường Sem. Trong khi đó
những đoàn xe vận tải vẫn băng ra chiến trường vì Miền Nam phía trước. -
b. Nôi dung. : Ghi nhớ
c. NT : Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính, qua
nước nồng nhiệt của tuổi trẻ thời chống Mĩ.
- Thế thơ tự do, câu dài ngắn khác nhau, gieo vần ở tiếng cuối cùng của dòng thơ.
- Phương thức biểu đạt chính là,biểu cảm nhưng có sự gia tăng đáng kể của các yếu tố
tự sự. Điều đó tạo nhiềụ cơ sở để biểu cảm đồng thời tăng sức phản ắnh hiện thực cho
thơ.
- Tác giả đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường,
cùng với ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn, có nét khá
đặc biệt gần với văn xuôi, gần với lời nói bình thường hàng ngày. Nét nổi bật là giọng
điệu vui, tinh nghịch, lạc quan. Nó làm nên chất trẻ trong thơ Phạm Tiến Duật nói riêng
và thơ chống Mĩ nói chung.

45
B. Dàn bài
I. MB
Cách l: Phạm Tiến Duật là nhà thư lớn trong nền văn học VN……“Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” là bài thơ hay của Phạm Tiến Duật, của thơ ca chống Mỹ nằm trong chùm thơ
đoạt giải nhất của cuộc thi thơ báo văn nghệ, in trong tập thơ “Vầng trắng quầng lửa”.
Bằng ngôn ngữ, giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khỏe khoắn, bằng chất liệu hiện
thực sinh động của cuộc sống chiến trường, bài thơ đã khắc họa hình ảnh những chiếc xe
không kính qua đó làm nổi bật hình ảnh người lái xe Trường Sơn thời chống Mỹ vs p/c
cao đẹp hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi, ấm áp tình đồng đội, yêu nước nồng nàn.
Cách 2 : Đề tài….
…….
II. TB
1. Tổng
- Dẫn dắt hình tựơng người lính
- Hoàn cảnh sáng tác : Bài thơ sáng tác năm 1969 giữa những năm khốc liệt của cuộc
khác chiến chống Mĩ. Đây là cuộc chiến khốc liệt chưa từng có trên đất nước ta. Trong
những năm tháng ấy con đường huyến mạch Trường Sơn là con đường quan trọng nhất để
miền Bắc tiếp tế cho tiền tuyến miền Nam. Mỹ ngày đêm điên cuồng bắn phá con đường
nhằm cắt đứt sự chi viện của miền Bắc.
- Chủ đề :
2. Phân tích

* Hai câu đầu lí giải nguyên nhân những chiếc xe không kính.
- Trên tuyến đường ấy ngày đêm vẫn không ngớt đoàn xe vận tải tiến vào Nam phục vụ
tiền tuyến. Điều kì lạ là những chiếc xe ấy đều không có kính.
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai
lái xe dũng cảm. Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó
ngờ của ngôn từ. Bằng những câu thơ rất thực, đậm chất văn xuôi, điệp ngữ “không”, cùng
với động từ mạnh “giật”, “rung”. Tác giả đã lí giải nguyên nhân không có kính của những
chiếc xe. Bom đạn chiến tranh đã làm cho những chiếc xe trở nên biến dạng “không có
kính”, “không có đèn”,”không có mui xe”,”thùng xe có xước”. Từ đó, tác giả đã tạo ấn
tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội,
về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua. Sự ác liệt của chiến tranh không
được giới thiệu mà chỉ dùng hình ảnh:” bôm giật, bom rung” rất co đọng làm sống lại sự
ác liệt của chiến tranh. Đối mặt hàng ngày với mưa bom bão đạn nhưng những chiếc xe
không kính vẫn băng băng trên đường ra trận hướng về miền Nam như thách thức quân

46
thù. Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở
Trường Sơn.
* Vẻ đẹp phẩm chất người lính.
- Tư thế của ngừơi lính
+ Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người
lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là
lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn:
“Ung dung buồn lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
+ Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thứ nhất và nghệ
thuật điệp ngữ với từ “nhìn” được nhắc đi nhắc lại trong câu thơ thứ hai nhấn mạnh tư thế
ung dung, bình tĩnh, tự tin của người lính lái xe. Cái nhìn của các anh là cái nhìn bao
quát, rộng mở “nhìn đất”,”nhìn trời”, vừa trực diện, tập trung cao độ “nhìn thẳng”. Các
anh nhìn vào khó khăn, gian khổ, hi sinh mà không hề run sợ, né tránh – một bản lĩnh
vững vàng.
- Cảm nhận của người lính.
+ Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi được
tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồn lái”

Sau tay lái của chiếc xe không có kính chắn gió nên các yếu tố về thiên nhiên, chướng
ngại vật rơi rụng, quăng ném, va đạp vào trong buồng lái. Song, quan trọng hơn là các
anh có được cảm giác như bay lên, hòa mình với thiên nhiên rồi được tự do giao cảm,
chiêm ngưỡng thế giới bên ngoài.Điều này được thể hiện ở nhịp thơ đều đặn, trôi chảy
như xe lăn với việc vận dụng linh hoạt điệp ngữ “thấy” và phép liệt kê. Có rất nhiều
cảm giác thú vị đến với người lính trên những chiếc xe không có kính. Các hình ảnh
“con đường”, “sao trời”, “cánh chim”… diễn tả rất cụ thể cảm giác của những người
lính khi được lái những chiếc xe không kính. Khi xe chạy trên đường bằng, tốc độ xe
chạy đi nhanh, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, chính
vì thế, các anh mới có cảm giác con đường đang chạy thẳng vào tim. Và cái cảm giác
thú vị khi xe chạy vào ban đêm, được “thấy sao trời” và khi đi qua những đoạn đường
cua dốc thì những cánh chim như đột ngột “ùa vào buồng lái”. Thiên nhiên, vạn vật
dường như cũng bay theo ra chiến trường. Tất cả điều này đã giúp người đọc cảm nhận
được ở các anh nét hào hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ tuổi.
Tất cả là hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở thành những hình ảnh lãng
mạn.
- Lòng dũng cảm , tinh thần lạc quan
+ Khó khăn gian khổ

47
Trên tuyến đường ấy ngày đêm vẫn không ngớt đoàn xe vận tải tiến vào Nam phục vụ
tiền tuyến. Điều kì lạ là những chiếc xe ấy đều không có kính. Không có kính, người lính
phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, gian khổ.

“Không có kính, ừ thì có bụi


Bụi phun tóc trắng như người già”
Và:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời”
Nếu như hai khổ đầu của bài thơ mang lại cho ta những cảm giác về những khó khăn thử
thác của những người lính - dù sao cũng vẫn mơ hồ, thì đến đây, thử thách, khó khăn ập
tới cụ thể, trực tiếp
“Bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn xối xả” , gió, bụi, mưa tượng trưng cho gian khổ thử
thách ở đời. Nhà thơ đã dùng những động từ mạnh như “phun”, “rửa”, “xối” và những
hình hình so sanh “như người già”, “như ngoài trời” có giá trị biểu cảm cao. Hiện thực
cuộc sống của người lính được phản ánh hết sức sinh động: gội nắng, tắm mưa, hứng bụi.
+ Gian nan vất vả là vậy nhưng thái độ của các anh bộc lộ sự coi thường gian
khổ . Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một sự chấp nhận khó khăn đầy
chủ động, một thái độ cứng cỏi. Họ nói về những khó khăn gian khổ của mình bằng giọng
điệu ngang tàng, sôi nổi, đậm phong cách lính “ừ thì có bụi” “ừ thì ướt áo”. Ngôn ngữ
mang tính chất khẩu ngữ, chất phách biểu lộ thái độ bất chấp gian khổ. Các anh coi khó
khăn gian khổ là điều kiện để tôi luyện bản lĩnh và thử thách ý chí.. Đằng sau thái độ ấy là
những tiếng cười, những quyết tâm vượt gian khổ:
“Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Và:
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”

Đọc những câu thơ trên, ta tưởng như nhìn thấy mái đầu bụi trắng cùng bộ mặt lấm lem và
nghe rõ tiếng cười ha ha, sảng khoái của người lính. Tiếng cười đó là tiếng cười sảng
khoái vô tư tràn đầy tinh thần lạc quan và dũng cảm. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp
nhàng theo nhịp rung của những bánh xe lăn, thanh điệu phối hợp linh hoạt. Cuối đoạn là
câu thơ bảy tiếng có đến sáu thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác
nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui của tuổi mười tám
đôi mươi hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc - nhìn nhau mặt
lấm cười ha ha” ... ý thơ rộn rã, sôi động như sự sôi động hối hả của đoàn xe trên đường đi
tới.

- Tình đồng chí đồng đội : Một trong nguồn sức mạnh cho người lính vượt
lên khó khăn, gian khổ đó là tình đồng đội thắm thiết thiêng liêng. Tình cảm của
những người lính được thể hiện qua hình ảnh thật bình dị mà đặc sắc:
“Những chiếc xa từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội

48
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”
Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính. Những chiếc xe
từ khắp mọi miền Tổ quốc về đây họp thành tiểu đội. Cái “bắt tay” thật đặc biệt “Bắt
tay qua cửa kính vỡ rồi”. Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để các anh
thể hiện tình cảm. Cái bắt tay thể hiện niềm tin, hứa hẹn lập công, truyền cho nhau sức
mạnh, tình yêu thương, bù đắp tinh thần cho những thiếu thốn về vật chất mà họ phải
chịu đựng. Có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí”: “Thương
nhau tay nắm lấy bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng
thành của thơ ca, của quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân
tộc. Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ
phút sinh hoạt của họ:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi lại đi trời xanh thêm.”

Gắn bó trong chiến đấu, họ càng gắn bó trong đời thường. Sau những phút nghỉ ngơi
thoáng chốc và bữa cơm hội ngộ, những người lính lái xe đã xích lại thành gia đình:
“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Cách định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu hóm
mà thật chân tình sâu sắc. Đó là gia đình của những người lính cùng chung nhiệm vụ, lí
tưởng chiến đấu. Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” tạo âm hưởng thanh thản,
nhẹ nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Câu thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình
yêu họ gửi lại cho cuộc đời. Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các
anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Sức mạnh của
người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại.
- Lòng yêu nước, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước:
Song có lẽ động lực mạnh mẽ và sâu sa để làm nên sức mạnh, tư thế hiên ngang và lòng
dũng cảm của những người lính lái xa chính là lòng yêu nước, ý chí quyết tâm và khát
vọng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước:
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:”
Giờ đây những chiếc xe không chỉ mất kính mà lại không đèn, không mui, thùng xe có
xước. Chiếc xe đã biến dạng hoàn toàn. Người lính xế lại chất chồng khó khăn. Sự gian
khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng không thể làm chùn bước
49
những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước. Nguyên nhân nào mà những
chiếc xe tàn dạng ấy vẫn băng băng chạy như vũ bào? Nhà thơ đã lí giải:
“Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Câu thơ dồn dập cứng cáp hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe không kính. Từ hàng
loạt những cái “không có” ở trên, nhà thơ khẳng định một cái có, đó là “một trái tim”.
Linh hồn của xe không phài là máy móc mà là “trái tim”-trái tim gan góc, kiên cường.
+ “Trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật tu từ chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm
xưa. Trái tim của họ đau xót trước cảnh nhân dân miền Nam sống trong khói bom thuốc
súng, đất nước bị chia cắt thành hai miền. Trái tim ấy dào dạt tình yêu Tổ quốc như máu
thịt, như mẹ cha, như vợ như chồng… Trái tim ấy luôn luôn sục sôi căm thù giặc Mỹ bạo
tàn. Hình ảnh hoán dụ này đã khép lại bài thơ nhưng có sức tỏa sáng gợi đến một triết lí
sâu sa: Không phải vũ khí hiện địa, tối tận quyết định chiến thắng mà quyết định chiến
thắng là con người. Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ
lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện
thực,chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày
càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không hề thay đổi.
3. Hợp
- NT + ND
Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút
gì nghịch ngợm, lính tráng. Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới
của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Giọng điệu thơ
ngang tàng, ngôn ngữ thơ đậm chết văn xuôi, hình ảnh thơ độc đáo gợi nên sức hấp
dẫn sâu sắc của bài thơ. Bài thơ đã sáng tạo hình ảnh những chiếc xe không kính, qua
đó khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong công cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp
khó khăn, nguy hiểm, yêu nước, giàu lí tưởng, lạc quan
- Liên hệ : Hình tượng người lính trong 2 cuộc kháng chiến
- Bình luận
III. KB
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong những tác phẩm thành công nhất
của Phạm Tiến Duật và là một trong những bài thơ hay viết về người lính. Bài thơ đã
khắc họa một hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, một
thế hệ thanh niên anh hùng, sống đẹp, ý thức sâu sắc về trách nhiệm của tuổi trẻ trước
vận mệnh đất nước, trong gian khổ hy sinh mà vẫn lạc quan phơi phới…….

50
Phân tích bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật
A. MB :
Cách 1: Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trong những năm
kháng chiến chống Mĩ. Với phong cách trẻ sôi nổi, hồn nhiên mà sâu sắc, những bài thơ
viết về hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam qua hình tượng những cô gái thanh niên xung phong
và những anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến đã để lại
trong người đọc ấn tượng sâu đậm. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ như
thế.

Cách 2 :
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây...
(Trường Sơn đông, Trường Sơn
tây)
Con đường chiến lược Trường Sơn là một chiến tích mang màu sắc huyền thoại
của dân tộc ta trong kháng chiến chống Mĩ. Đã có biết bao vần thơ, biết bao ca khúc
đã viết về con đường huyền thoại máu lửa ấy. Trong đó có Bài thơ về tiểu đội xe
không kính của Phạm Tiến Duật . Bài thơ đã làm sống lại một thời gian khổ, oanh
liệt của anh bộ đội Cụ Hồ cùng với chất anh hùng ca dào. Bài thơ cũng là một chứng
tích tuyệt dẹp của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn anh hùng.

B.TB
I.Tổng
Năm 1970, tập thơ Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật ra đời. Tiếng thơ
của người chiến sĩ hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn cất lên hào hùng, trẻ trung và
hồn nhiên kì lạ. Thơ Phạm Tiến Duật thể hiện tình cảm yêu nước và chí khí anh hùng của
thế hệ thanh niên trong cuộc chiến tranh chống Mĩ qua những hình ảnh cô gái thanh niên
xung phong và anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. Lửa đèn, Trường Sơn đông,

51
Trường Sơn tây, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em, Cô thanh niên xung phong,...
là những bài thơ rất nổi tiếng của chàng lính trẻ làm thơ này.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính được anh viết vào năm 1969 - khi cuộc chống Mĩ đang
diễn ra vô cùng ác liệt. Máy bay giặc Mĩ trút hàng ngàn, hàng vạn tấn bon đạn và chất độc
hóa học xuống con đường chiến lược mang tên con đường Hồ Chí Minh. Các trọng điểm
mịt mù lửa khói suốt đêm ngày. Những đoàn xe vận tải quân sự vẫn nối đuôi nhau đi lên
phía trước. Bài thơ đã ghi lại những nét ngang tàng, dũng cảm và lạc quan của người chiến
sĩ lái xe trong binh đoàn vận tải quân sự, qua đó ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng
Việt Nam thời đánh Mỹ. Bài thơ làm hiện lên chiếc xe không kính đang vượt qua bom
đạn băng băng tiến ra tiền phương. Một hình tượng thật độc đáo vì xưa nay ít có, ít thấy
loại xe không kính qua lại trên mọi nẻo đường. Thế mà, trên con đường chiến lược Trường
Sơn vẫn có loại xe như vậy, không phải đôi ba chiếc mà là hàng vạn chiếc xe "không kính
"đang vượt qua mưa bom bão đạn, đi qua mọi địa hình: đèo cao, dốc thẳm, khe suối, ngầm
sông, chạy trong mưa gió, đêm tối mịt mùng, để chở hàng, tiếp viện cho chiến trường
miền Nam. Hình tượng độc đáo vì chiếc xe mang sức mạnh thần kì của một dân tộc đang
chiến đấu vì một quyết tâm sắt đá "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Nó còn thể hiện cuộc
chiến đấu diễn ra trên mặt trận giao thông vận tải, trên con đường chiến lược Trường Sơn
là vô cùng ác liệt, dữ dội, con người và binh khí kĩ thuật mang tầm vóc kì vĩ sử thi hào
hùng.
II. Phân
Hai câu thơ đầu nói rõ vì sao xe "không có kính". Cấu trúc câu thơ dưới hình thức
"hỏi-đáp". Ba chữ "không" đi liền nhau, hai nốt nhấn "bom giật, bom rung" biểu lộ "chất
lính" trong cách nói phóng túng hồn nhiên. Câu thơ đậm đặc chất văn xuôi, nhưng đọc lên
nghe vẫn thú vị:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Mười bốn câu thơ tiếp theo khắc họa hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến
đường Trường Sơn qua một loạt hình ảnh hoán dụ: con mắt, mái tóc, tim, mặt, nụ cười...
Một tư thế ngồi lái "ung dung" tuyệt đẹp: thong thả, khoan thai. Những cái nhìn khoáng
đạt, nhìn thấp, nhìn thẳng, nhìn cao, nhìn xa. Dũng mãnh và hiên ngang:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Hai chữ "ta ngồi " với điệp từ "nhìn " láy lại 3 lần; giọng thơ, nhịp thơ mạnh mẽ, đĩnh đạc.
Phạm Tiến Duật đã dành trọn một khổ thơ nói lên những gì người chiến sĩ "nhìn thấy".
Những câu thơ nối tiếp xuất hiện với bao hình ảnh chẳng khắc nào một đoạn phim quay
nhanh:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng,
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
52
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Có gió thổi, có cánh chim chiều và cả ánh sao đêm. Gió được nhân hóa và chuyển đổi cảm
giác đầy ấn tượng: "gió vào xoa mắt đắng". Xe chạy thâu đêm, xe lại không có kính nên
mới có cảm giác "đắng" như thế. Con đường phía trước là con đường chiến lược cụ thể, nó
còn mang hàm nghĩa, "chạy thẳng vào tim", con đường chiến đấu chính nghĩa vì lẽ sống,
vì tình thương, vì độc lập tự do của đất nước và dân tộc. Các từ "nhìn thấy"... "nhìn thấy...
” "thấy... "với các chữ "sa", chữ "ùa" góp phần đặc tả tốc độ phi thường của chiếc xe quân
sự đang bay đi, đang lướt nhanh trong bom đạn!
Nếu khổ thơ trên nói đến "gió" thì khổ thơ tiếp theo nói đến "bụi". Gió bụi tượng trưng
cho gian khổ, thử thách. Chữ "ừ" vang lên như một thách thức, một chấp nhận nhưng chủ
động của người chiến sĩ lái xe:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!
Bao chi tiết hiện thực đầy ắp vần thơ. Một mái tóc xanh của chàng trai qua mấy dặm
trường có sự đổi thay đáng sợ: "Bụi phun tóc trắng như người già". Một hình ảnh so sánh
hóm hỉnh, độc đáo, một kiểu hút thuốc rất "lính". Một nụ cười lạc quan yêu đời và hồn
nhiên "ha ha" cất lên từ một gương "mặt lấm "khi đồng đội gặp nhau: "Nhìn nhau mặt lấm
cười ha ha!".
Sau "bụi" nói đến "mưa": "Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời". Thế là người lính nếm trải
đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rừng. Mưa đã "tuôn" tất nhiên phải "xối". Bao nhiêu áo
quần ướt sạch vì ngồi trong buồng lái mà "như ngoài trời". Chấp nhận, ngang tàng, phơi
phới lạc quan:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!
Nhiệt tình cách mạng của người lính không còn là trừu tượng nữa mà được tính bằng
những cung đường "lái trăm cây số nữa". Cung đường ấy trong bom đạn, mưa tuôn phải
trả giá bằng bao mồ hồi, xương máu. Câu thơ 7 từ mà có đến 6 thanh bằng diễn tả cái phơi
phới, thênh thênh đầy nghị lực, bất chấp mọi gian khổ: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau
thôi!".
Hai khổ thơ thứ 5, thứ 6 ghi lại hình ảnh tiểu đội xe không kính và cuộc trú quân giữa
rừng. Sau những chặng đường gian khổ, những tháng ngày mưa gió, bụi mù và bom đạn,
53
họ gặp lại nhau, cái bắt tay cũng vô cùng độc đáo. Trong niềm vui gặp gỡ đã có nhiều mất
mát hi sinh:
... Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Có bữa cơm hội ngộ. Tình đồng đội cũng là tình anh em gia đình ruột thịt. Cảnh mắc võng
dã chiến "chông chênh " bên đường. Rồi đoàn xe "lại đi, lại đi", nối tiếp nhau ra tiền
phương. Trên đầu họ, trong tâm hồn họ "trời xanh thêm", chứa chan hi vọng, lạc quan dạt
dào:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.
Khổ cuối bài thơ làm nổi bật cái dữ dội và khốc liệt của chiến tranh: Chiếc xe vận tải quân
sự mang trên mình đầy thương tích. Đã có biết bao chiến sĩ lái xe dũng cảm hi sinh. Chiếc
xe như một dũng sĩ kiên cường, 3 cái "Không có" và chỉ có 1 cái "có": "Không có kính, rồi
xe không có đèn - Không có mui xe, thùng xe có xước. Sau cái "thùng xe có xước", người
chiến sĩ lái xe tự hào khẳng định cần "có một trái tim "trong xe. "Có trái tim?" ấy là sẽ có
tất cả: "Trái tim"- hình ảnh hoán dụ thể hiện sức mạnh chiến đấu, ý chí kiên cường của
người chiến sĩ lái xe trẻ vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thân yêu, vì sự nghiệp thống
nhất đất nước:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước;
Chỉ cần trong xe có một trái tim
"Trái tim" ấy là trái tim yêu thương, trái tim sục sôi căm giận? Phải chăng câu thơ của
Phạm Tiến Duật khơi nguồn cảm hứng từ câu nói nổi tiếng của Hồ Chủ tịch kính yêu:
"Miền Nam luôn luôn trong trái tim tôi"?
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là một bài thơ hay. Chất hiện thực
ngồn ngộn về đời sống chiến đấu gian khổ mà hào hùng của các chiến sĩ lái xe trên đường
Trường Sơn thời đánh Mĩ đã kết hợp một cách hài hòa với cảm hứng sử thi tạo nên những
vần thơ "góc cạnh" đầy ấn tượng. Nếu có gió, bụi, mưa, cánh chim, ánh sao sa vào, ùa vào
buồng lái chiếc xe không kính thì cũng có những câu thơ rất gần với lối nói thường đậm
chất văn xuôi tràn vào bài thơ. Có nhiều câu thơ mang cái dáng vẻ thô mộc, bình dị rất lính
tráng một thời trận mạc:
- "Không có kính không phải vì xe không có kính,
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi..."
- "Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già..."
54
- "Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời..."
- "Không có kính, rồi xe không có đèn
- Không có mui xe, thùng xe có xước...”
Nếu tước đi những câu thơ ấy, thay vào bài thơ bằng những câu óng ả êm xuôi, chắc chắn
giọng điệu, chất thơ, hồn thơ của Bài thơ về tiểu đội xe không kính sẽ chẳng còn gì nữa.
Đúng như Vũ Quần Phương đã nhận xét: "Chỗ đặc sắc của thơ Phạm Tiến Duật: lấy cuộc
sống để nói tình cảm. Cái sâu sắc tình cảm trong thơ anh phải tìm trong cuộc sống, không
tìm trong chữ nghĩa.
Hình tượng những chiếc xe không kính thật là li kì, độc đáo. Những chiếc xe không kính
đã làm nổi bật hình ảnh những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Họ là những
chiến binh sống và chiến đấu trong tư thế hiên ngang, quả cảm bất chấp mọi khó khăn,
nguy hiểm, lạc quan, sôi nổi yêu đời, hi sinh chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam.
Ngoài các ẩn dụ, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, Phạm Tiến Duật rất thành công trong sáng tạo
các hình ảnh hoán dụ (gió, bụi, mưa, mắt, tóc, tim,...) khắc họa vẻ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp ý
chí của người chiến sĩ lái xe tiền phương.
Con đường chiến lược Trường Sơn là một chiến tích mang màu sắc huyền thoại của dân
tộc ta trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật
đã làm sống lại một thời gian khổ, oanh liệt của anh bộ đội Cụ Hồ. Chất anh hùng ca dào
dạt bài thơ. Bài thơ cũng là một chứng tích tuyệt đẹp của hậu phương lớn đối với tiền
tuyến lớn anh hùng.

ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ


Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới . Trước cách mạng thơ ông
thường buồn sầu, ảo não. Sau cách mạng thơ ông tràn đầy niềm vui phơi phới. Một trong
những bài thơ tiêu biểu cho cảm hứng mới của HC là bài ĐTĐC. Bài thơ là một khúc
tráng ca ca ngợi tinh thần lao động hăng say của con người, ca ngợi thiên nhiên hùng vĩ, ca
ngợi biển giàu đẹp…..

Bài thơ được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc
thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới.
Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành, đang thay da đổi thịt đã trở
thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ. Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày
ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và
dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
Bài thơ có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm
hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới, Thời
gian của bài thơ là nhịp tuần hoàn của vũ trụ từ lúc hoàng hôn đến lúc bình minh cũng là
thời gian hoạt động của đoàn thuyền đánh cá từ lúc ra khơi đến khi trở về.
55
Bài thơ sự vận động tuần hoàn của vũ trụ đã tạo nên những bức tranh đẹp trong không
gian rộng lớn của trời biển. Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá trong
khung cảnh hoàng hôn:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then,đêm sập cửa”
Cảnh hoàng hôn trên biển được phác họa thật đẹp. Bằng cách so sánh, nhân hóa thú vị nhà
thơ đã miêu tả cảnh hoàng hôn huy hoàng tráng lệ: Mặt trời xuống biển nhưng dường như
không tàn lụi, không tắt. Nó như “hòn lửa” khổng lồ chìm vào đáy nước đại dương. Biển
cả bao la như nồng ấm hẳn lên. Và liền sau đó là sự liên tưởng độc đáo “Sóng đã cài then
đêm sập cửa”. Thiên nhiên, vũ trụ, biển cả như đi vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ ngơi, thư
giãn. Vũ trụ được hình dung như một ngôi nhà khổng lồ. Những lượn sóng dài như chiếc
then cài cửa, còn màn đêm đang buông xuống là cánh cửa đang đóng lại. Hình ảnh thơ cho
thấy thiên nhiên vũ trụ bao la mà gần gũi, ấm áp với con người – biển cả hay đó cũng
chính là ngôi nhà thân thuộc của mỗi ngư dân. Thiên nhiên vũ trụ đã dứt khoát nghỉ ngơi
hoàn toàn thì con người lại bắt đầu lao động với khí thí hào hùng:
“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
Hình ảnh “đoàn thuyền” gợi lên không khí tấp nập, sôi nổi đông vui của những người dân
lao động chứ không phải là một con thuyền lẻ loi cô đơn. Đoàn thuyền lại ra khơi, tuần tự,
nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ .Nhà thơ dùng từ “lại” vừa gợi sự
đối lập vừa gợi tư thế chủ động của người dân lao động với ý nghĩa là công việc lặp lại
mỗi ngày. Họ ra khơi đánh cá, ra khơi để kiếm nguồn sống, những người lao động vùng
biển vất vả trong khi những người khác sắp sửa đi vào giấc ngủ thì những con người lao
động nơi đây lại thức đêm đánh cá. “Câu hát” gợi nên vẻ thanh bình mà cũng không kém
phần nhộn nhịp. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm” thể hiện người dân
ra khơi trong một tâm thế lạc quan, yêu đời, yêu nguồn sống, nên vừa ra khơi họ vừa hát,
nhạc điệu trong câu thơ diễn tả khí thế khỏe khoắn, phấn chấn của những người lao động:
khẩn trương làm việc bất kể ngày đêm. Họ hát để lấy sức căng buồm, hát để chèo thuyền,
lái thuyền, hát để mọi người cảm nhận được niềm vui sướng trong mỗi chuyến tàu ra khơi.
Có cùng sự liên tưởng ấy nhưng bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh lại mang một nét đặc
sắc khác:
“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rươn thân trắng bao la góp gió”
Bốn câu thơ có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt: hai câu đầu tả cảnh, hai
câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp, cảnh làm
nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh – bức tranh lao
động khỏe khoắn, vui tươi tràn ngập rực rỡ sắc màu và âm thanh. Tiếng hát của những
người ngư còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá: mong ước một chuyến ra khơi
đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi:

56
“ Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi”

Là khúc ca ca ngợi biển thật nhiều cá, thật đẹp. Phép liệt kê “cá bạc, cá thu” cùng với
điệp ngữ “biển Đông” cho thấy sự giàu có của biển khơi. Ý thơ càng khắc họa rõ
nét hơn qua hình ảnh so sánh “như đoàn thoi”. Từng đàn cá bơi lội tung tăng, di
chuyển nhịp nhàng, đông đúc như những đoàn thoi đang kéo sợi để dệt nên những
tấm lưới đầy màu sắc. Người dân cầu mong sao “Biển Đông lặng”, sóng yên để có thể
đánh bắt được nhiều cá. Đoàn cá được nhân hóa như những người thợ dệt nên những tấm
thảm trên mặt biển muôn màu sắc lấp lánh. Người ngư dân đã cất lên khúc ca say mê goi
cá vào lưới, lời mời gợi thật vui vẻ:
“Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,
Đến dệt lưới ta,đoàn cá ơi!”
Ở đây, ta thấy có sự độc đáo trong cách dùng từ “dệt biển” khiến người đọc hình
dung nên những tấm lụa rực rỡ đầy màu sắc. “Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”
là hình ảnh của những chiếc thuyền đánh cá trong đêm với ánh sáng từ nhiều nguồn khác
nhau rọi xuống: ánh sáng từ trăng, ánh sáng từ những chiếc đèn pin củ ngư dân, hòa sắc
màu tạo nên vùng sáng long lanh dưới mặt nước. Chính nguồn sáng đó đã tạo cho mặt
biển lấp lánh mà tác giả đã khéo léo đặt nó bên từ “dệt”. Một cảm giác hài hòa “dệt” giống
như bàn tay mảnh mai của con người tạo nên những tấm lụa phát sáng ngay trên mặt biển.
Hình ảnh ẩn dụ nói quá “muôn luồng sáng” gợi vẻ đẹp lung linh, kì ảo của biển đêm. Lời
gọi thân thương “cá ơi” khéo léo làm cho đàn cá thật sự gần gũi hơn với những người
lao động cũng như mong muốn đánh bắt nhiều cá của người ngư dân. Cảm hứng lãng mạn
giúp nhà thơ phát hiện vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng với
niềm vui phơi phới, khỏe khoắn khi con người làm chủ cuộc đời, làm chủ biển trời quê
hương.
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
Việc nhân hóa cụm từ “lái gió” thể hiện ý thơ táo bạo. Con thuyền vốn nhỏ bé trước
biển trời bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ. Thuyền có gió làm
bánh lái, có trăng làm cánh buồm, lướt giữa mây cao với biển bằng, giữa mây trời và sóng
nước. Gió, trăng, mây đã hòa nhập với con thuyền, trong cái bao la của trời biển con
thuyền nhỏ bé không hề mất hút trong thiên nhiên mà hòa nhập vào thiên nhiên. Thiên
nhiên và người lao động có một sự hòa hợp, đồng cảm với nhau đến tuyệt đối. Đó
chính là sự giao hòa tâm trạng vui tươi, yêu mến cuộc sống, tha thiết của người lao
động. Qua những hình ảnh “mây cao, biển bằng” cùng với động từ gợi tả “lướt, với”
thể hiện sự hăng say đết tột cùng của người dân chài. Tình yêu lao động khiến ta
cảm tưởng như chiếc thuyền đang dần bay lên cùng mây cao, cưỡi gió, đạp sóng,…
Những hình ảnh phóng khoáng, mạnh mẽ ấy đã làm cho bài thơ thêm dạt dào sức
sống. Hình ảnh con người đã hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ.
Không chỉ vậy, họ còn nổi bật ở vị trí trung tâm – ra tận khơi xa dò bụng biển, tìm luồng
cá, dàn đan thế trận,bủa lưới vây giăng:
57
“Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.
Cụm từ “dò bụng biển” thể hiện mong muốn khám phá, chinh phục khó khăn, thử thách
của con người. Thành ngữ “dàn đan thế trận” nói lên tư thế sẵn sàng, quyết tâm đem về
thành quả lao động tốt đẹp cho quê hương đất nước. Đó là những công việc bình thường
của việc đánh cá nhưng qua cách so sánh miêu tả của nhà thơ thì những nghư cụ là vũ khí
còn những người ngư dân như những người lính sắp xung trận với một vũ khí thế quyết
tâm, tự tin. Đoàn thuyền đánh cá băng băng lướt sóng, bủa vây điệp trùng. Công việc lao
động trên biển như là một cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Người lao động làm việc
với tất cả lòng dũng cảm, sự hăng say, trí tuệ nghề nghiệp, tâm hồn phơi phới. Bức tranh
lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và
cá cũng có những sáng tạo bất ngờ,độc đáo:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé


Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở:sao lùa nước Hạ Long”

Thủ pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc
“đen hồng”, “vàng chóe”… đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng,
lung linh huyền ảo như trong câu chuyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên. Mỗi loài cá là một
kiểu dáng, một màu sắc: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé.Cá song lấp lánh đuốc đen hồng”
làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Như có một hội rước đuốc trong lòng biển
đêm sâu thẳm. Mỗi khi: “Cái đuôi em quẫy”, trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển cả như
sống động hẳn lên. Người xưa thường nói: “Thi trung hữu họa” – nghĩa là trong thơ có
hình có ảnh. Quả đúng như thế, mỗi loài cá ở đây là bức kí họa thần tình. Chúng đâu chỉ là
sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con người. Với họ cá là bạn, là “em”, là niềm
cảm hứng cho con người trong lao động, và cũng chính là đối tượng thẩm mĩ cho thi ca.
Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh.Nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ
lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm:
"Đêm thở:sao lùa nước Hạ long"
Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển cả như một sinh thể sống động. Tiếng sóng
vỗ dạt dào dâng cao hạ thấp là nhịp thở trong đêm của biển. Thế nhưng nhà thơ lại viết
“Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”. Thật ra, là sóng biển đu đưa rì rào va đập vào mạn
thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước biển, mỗi khi sóng vỗ nhịp tưởng như
có bàn tay của sao trời đang “lùa nước Hạ Long”. Đó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo
nghệ thuật. Có thể nói, bằng tâm hồn hết sức tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của
thiên nhiên, vũ trụ. Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm đầu khôi
phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực của những hình ảnh lãng mạn trên.Bút pháp
lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú của tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh đẹp khiến
58
công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp
nhàng cùng thiên nhiên:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”
Với động từ “hát, gọi” đã thể hiện được tinh thần lạc quan, yêu đời của những người
dân chài. “Gõ thuyền” là công việc thực của người đánh cá, nhưng cái độc đáo ở đây là
vầng trăng được nhân hóa, tham gia lao động cùng con người . Người lao động không
phải làm công việc gõ vào mạn thuyền để đưa cá vào lưới mà công việc đó đã có
“nhịp trăng cao” làm thay họ. Trăng soi bóng nước, sóng xô bóng trăng trong nước gõ vào
mạn thuyền, tạo nên nhịp trăng để lùa cá vào nước. Đây là một yếu tố rất lãng mạn đã
được tác giả đưa vào, sử dụng khéo léo, làm tăng thêm nét biểu cảm cho câu thơ. Hai
câu thơ cuối người đọc còn cảm nhận được thái độ tri ân của người dân đánh cá đối với
biển khơi. Qua động từ so sánh “biển cho ta cá như lòng mẹ” đã giúp ta hiểu thêm về
thái độ sống của người dân chài, cũng như niềm tự hào về tài nguyên thiên nhiên của
đất nước mình. Vùng trời, vùng biển như mẹ hiền, luôn sẵn sàng dang tay bảo bọc, che
chở cho con người. Đọc hai câu thơ trên ta càng hiểu rõ hơn về thành ngữ “rừng vàng
biển bạc” mà nhân dân ta rất tự hào về quê hương đất nước mình. Sao mờ, đêm tàn cũng
là lúc người dân chài kéo lưới kịp trời sáng. Cảnh kéo lưới, bắt cá được miêu tả vừa chân
thực, vừa đầy chất thơ với không khí khẩn trương, gấp gáp:
“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”
Chất thơ làm ta cảm nhận được không khí vất vả, khẩn trương của người dân chài.
Màn đêm đen đã nhường chỗ cho ánh dương. Những ngôi sao cũng sắp mờ dần, ý muốn
hối thúc mọi người phải mau chóng hoàn thành công việc của mình. Động từ gợi tả
“kéo, xoăn” kết hợp với danh từ “chùm” và tính từ “nặng” thể hiện sự khỏe khắn,
mạnh mẽ của dân chài. Dưới những cánh tay săn chắc, cơ bắp cuồn cuồn là những mẻ
lưới trĩu nặng cá vàng, cá bac. Thành quả “chùm cá nặng” thật là xứng đáng với một
đêm lao động vất vả trên biển khơi. Chữ “lóe” gợi sự nhảy nhót của những con cá mắc
trong lướt vừa gợi ánh bình minh lên.Có thể nói, cảnh lao động đánh cá trên biển như bức
tranh sơn mài rực rỡ. Màu hồng của bình minh làm ấm bức tranh lao động .Thiên nhiên và
con người cùng nhịp nhàng trong sự vận hành của vũ trụ. Khép lại khổ thơ chính là khúc
ca reo vui, say sưa, hân hoan ngây ngất trước cuộc sống mới:
“Câu hát căng buồm với gió khơi”
Câu đầu của khổ thơ lặp lại gần như nguyên vẹn câu cuối của khổ thứ nhất, chỉ thay có
một từ“cùng” thành từ “với” đem đến kết cấu đầu – cuối tương ứng, tạo sự hài hòa cân
đối. Cấu trúc lặp lại ấy thể hiện rõ tiếng hát theo người dân lao động suốt hành trình, nhấn
59
mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp quê hương và khắc họa đậm nét vẻ đẹp khỏe khoắn
cùng niềm vui phấn khởi của người ngư dân.Câu hát lúc ra khơi là câu hát thể hiện mong
muốn đánh bắt được nhiều cá còn lúc trở về là câu hát vui sướng trước chuyến đi bội thu.
Đoàn thuyền hào hứng chạy đua cùng mặt trời:
“Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”
Phép tu từ nhân hóa, hình ảnh mang đầy tính táo bạo ”đoàn thuyền chạy đua cùng mặt
trời”cho thấy tư thế chủ động chinh phục biển trời, vũ trụ của người ngư dân, giành lấy
thời gian để lao động. Đoàn thuyền ở đây sánh ngang với vũ trụ và cũng là hình ảnh hoán
dụ để chỉ những người tư thế ngư dân sánh ngang cùng vũ trụ. Trong cuộc chạy đua ấy
con người đã thắng, thuyền về bến, cá được phơi ra thì mặt trời mới nhô lên:
“Mặt trời đội biển nhô màu mới”
Nếu khổ thơ đầu, mặt trời xuống biển báo hiệu hoàng hôn thì ở khổ cuối lại là mặt trời đội
biển – là ngày mới bắt đầu – ngày mới với thành quả lao động bội thu và niềm tin yêu
phấn chấn. Qua phép ẩn dụ “màu mới” muốn nói đến ý nghĩa sâu xa hơn đó là màu của
hạnh phúc, ấm no, màu của người lao động tự do được làm việc trên chính vùng
trời,vùng biển của quê hương sau bao năm tháng chịu cảnh nô lệ. Ánh mặt trời phản
chiếu trong muôn ngàn mắt cá khiến nhà thơ liên tưởng đến hàng ngnaf những mặt trời
nhỏ xíu đang tỏa rạng niềm vui:
“Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Câu thơ kết bài vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa khiến người đọc liên tưởng tới một tương
lai tươi sáng, huy hoàng: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Hình ảnh thơ gợi sự liên
tưởng về tương lai rạng rỡ huy hoàng của người dân vùng biển trong cuộc sống mới và
cũng là tương lai của đất nước. Ngày mới bắt đầu, thành quả lao động trải dài muôn dặm
phơi. một cuộc đời mới đang sinh sôi, phát triển.

Có thể nói bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là một bài thơ hay đặc sắc
mang đậm tính thực tế. Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp thi vị của đêm đánh cá ngoài biển khơi
đồng thời ca ngợi cuộc sống của những người dân chài rất chi tiết, sống động. Bằng trí
tưởng tượng phong phú, sự liên tưởng độc đáo, bút pháp hiện thực kết hợp cảm hứng lãng
mạn, sử dụng nhiều hình ảnh kì vĩ, trắng lệ đã làm chói sáng cho cảnh sắc thêm rực rỡ,
tráng lệ, huyền ảo, mà vẫn rất là chân thực. Bằng những biện pháp tu từ đặc sắc,
tinh tế nhà thơ đã đem đến cho bạn đọc những trải nghiệm mới, giúp ta thấu hiểu
nỗi khó khăn, vất vả, nhọc nhằn mới có được một thành quả lao động. Qua đó cũng
thấy được niềm tin yêu của nhà thơ vào còn người lao động và còn hàm ý đưa ra một
thông điệp đáng quý: ta phải biết trân trọng công sức lao động của người khác.

Đoàn thuyền đánh cá là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Bài thơ “Đoàn thuyền
đánh cá” đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và
con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc
sống. Bài thơ là động lực giúp cho người lao động vươn lên chính mình, vươn lên trong
cuộc sống, xây dựng cuốc sống tốt đẹp, hạnh phú và gặt hái được nhiều thành công.
60
ÁNH TRĂNG
Không biết tự bao giờ trăng đã trở thành nàng thơ, thành người bạn tri âm, tri kỉ của
bao tâm hồn thi sĩ,. Ánh trăng như một lời tâm sự chân thành để lại trong lòng người đọc
tâm trạng riêng. Trăng trở thành người bạn tâm giao của bậc tao nhân mặc khách, là một
trong tứ thú thanh cao của quân tử thời xưa. Nhưng qua mỗi bàn tay người nghệ sĩ vầng
trăng lại mang những vẻ đẹp khác nhau, có khi là người bạn tri kỉ cùng nâng chén rượu
làm vơi nỗi cô đơn trong câu thơ của Lí Bạch, có khi mang vẻ đẹp kì dị, ma quái đầy ấn
tượng trong thơ Hàn Mặc Tử, rồi có khi trở thành người bạn đồng hành trong suốt những
đếm dài chiến đấu của chiến sĩ bộ đội ta và trôi nổi đến trang thơ của Nguyễn Duy, trở
thành hình tượng nghệ thuật gửi gắm những thông điệp ý nghĩa về nhân sinh trong bài thơ
“Ánh Trăng”.
Nguyễn Duy viết bài thơ “Ánh trăng” vào năm 1978, tại thành phố Hồ Chí Minh -
nơi đô thị của cuộc sống tiện nghi hiện đại, nơi những người từ trận đánh trở về đã để lại
sau lưng cuộc chiến gian khổ mà nghĩa tình.Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ
kể theo trình tự thời gian từ qúa khứ đến hiện tại. Dòng cảm nghĩ của nhà thơ cũng men
theo dòng tự sự này để bộc lộ…..
Đời người dù có đi đâu về đâu cũng không bao giờ xa vầng trăng tình nghĩa. Trăng trên
bầu trời như người bạn sẵn sàng cùng ta sẻ chia tâm sự. Có lẽ vì thế mà đối với mọi người,
vầng trăng là tri kỉ. Với Nguyễn Duy cũng vậy:
“Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể”
Giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lời kể của nhà thơ. Nghệ thuật liệt kê “đồng” “sông” “bể”
gợi một vùng không gian quen thuộc của tuổi ấu thơ, nó cứ mở rộng dần ra cùng với thời
gian lớn đần lên của nhà thơ. Nhưng cái chính là nó diễn tả một nỗi niềm sung sướng đến
hả hê được chan hòa, ngụp lặn trong cái mát lành của quê hương như dòng sữa ngọt. Điệp
từ “với” được lặp lại ba lần càng tô đậm thêm sự gắn bó chan hòa của con người với thiên
61
nhiên, với những tươi đẹp của tuổi thơ. Ngay cả khi đã trưởng thành, trở thành một người
lính, lúc ở rừng trăng và nhà thơ là đôi bạn không thể thiếu, chia sẻ ngọt bùi, đồng cam
cộng khổ:
“Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ”
“Hồi chiến tranh ở rừng” – những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh,“vầng trăng
thành tri kỉ” Điệp từ “hồi” được nhắc đi nhắc lại mở ra những khoảng không gian hòa hợp,
đầy ắp những kỉ niệm gắn bó giữa con người và vầng trăng, thân thiết như “tri kỉ”. Từ hán
việt “tri kỉ” không chỉ mang ý nghĩa là bạn thân thiết mà còn mang sắc thái nâng niu, trân
trọng mối quan hệ giữa trăng và người. Nghệ thuật nhân hóa càng khẳng định mối quan hệ
gần gũi gắn bó giữa trăng và người. Vầng trăng hiện lên là hình ảnh thiên nhiên thơ mộng,
tươi mát, là người bạn tri kỉ, nghĩa tình đồng hành cùng con người trên những bước đường
gian lao. Hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường chông gai ra mặt trận, những phiên
gác giữa rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen đặc, người lính
đều có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở bên, bầu bạn, cùng cảm nhận cái giá buốt nơi “Rừng
hoang sương muối” (Đồng chí), cùng trải qua bao gian khổ của cuộc sống chiến đấu, cùng
chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm vui thắng trận, cung xao
xuyến, bồn chồn, khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê… Con người và vầng
trăng trong quá khứ sống giản dị, hòa hợp với thiên nhiên, gieo vào tâm hồn người lính và
tưởng như nó sẽ mãi xanh tươi:
“Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa”
Những từ “trần trụi” “hồn nhiên” gợi ra cuộc sống đơn giản, mộc mạc, ở đó chỉ chất chứa
những tình cảm hồn nhiên nhất, đơn sơ nhất của một con người. Phép liên tưởng đầy tính
nghệ thuật “trần trụi với thiên nhiên”, so sánh độc đáo “hồn thiên như cây cỏ” cho ta thấy
rõ hơn vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, trong sáng, rất đỗi vô tư, hồn nhiên của vầng trăng. Đó
cũng chính là hình ảnh con người lúc bấy giờ: vô tư, hồn nhiên, trong sáng. Con người đã
xác định được rằng “không bao giờ quên” “vầng trăng tình nghĩa”. Từ “ngỡ” như một
điểm nhất, một dấu hiệu đặc biệt, gợi cho ta suy nghĩ về những điều còn chưa nói. Nó thể
hiện sự đinh ninh của nhà thơ sẽ không bao giờ quên được vầng trăng. Nhưng đó chỉ là sự
đinh ninh, không chắc chắn sẽ làm được, cho nên từ “ngỡ” như dự báo trước được lòng
người sẽ thay đổi. Ngay từ khổ thơ đầu nhà thơ đã cho chúng ta thấy được rằng vầng trăng
đã gắn bó thân thiết với con người từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành, cả trong hạnh phúc và
gian lao. Trăng là vẻ đẹp của đất nước bình dị, hiền hậu; của thiên nhiên vĩnh hằng, tươi
mát, thơ mộng. Vầng trăng không những trở thành người bạn tri kỉ, mà đã trở thành “vầng
trăng tình nghĩa” biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình. Thế nhưng chiến tranh kết thúc,
người lính trở về với thành thị, cuộc sống thay đổi:
“Từ hồi về thành phó
Quan ánh điện, cửa gương”
Chiến tranh qua đi, hòa bình lập lại, cũng như nhiều chiến sĩ khác, nhà thơ trở về nhưng
không phải về với “sống” với “đồng, với “bể” mà là về với thành phố tấp nập, đông vui
“ánh điện, cửa gương”. Nhà thơ chọn hai chi tiết “ ánh điện, cửa gương” bình dị nhưng có
ý nghĩa gợi cảm sâu sắc. Đây là cách nói hoán dụ của nhà thơ đã nói lên được sự thay đổi
về cuộc sống vật chất của người lính sau chiến tranh. Họ đã bước từ cuộc sống chiến tranh
62
gian khổ, hi sinh thiếu thốn sang cuộc sống hòa bình với vật chất hiện đại, đầy đủ, tiện
nghi, hoàn toàn xa rời thiên nhiên. Khi hoàn cảnh sống đổi thay thì ý nghĩa về sự gắn bó
ân tình với thiên nhiên, với bạn bè, với quá khứ không còn nguyên vẹn như trước. Bởi vậy,
vầng trăng tình nghĩa khi xưa, người bạn chia ngọt sẻ bùi giờ đây trở thành:
“Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường”
Ánh trăng bị lu mờ bởi ánh điện chiếu rọi. Vầng trăng bây giờ đối với người lính năm xưa
giờ chỉ là dĩ vãng, dĩ vãng nhạt nhòa của quãng thời gian xa xôi nào đó. Biện pháp nhân
hóa, so sánh “vầng trăng tình nghĩa” trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng vẫn
“đi qua ngõ”, vẫn tròn đầy, vẫn thủy chung tình nghĩa, nhưng con người đã quên trăng, hờ
hững, lạnh nhạt, dửng dưng đến vô tình. Vầng trăng giờ đây bỗng trở thành người xa lạ,
chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay biết. Nghệ thuật đối lập giữa hình ảnh trăng “tri kỉ”
trong quá khứ cùng với hình ảnh so sánh “như người dưng” đã diễn tả những đổi thay
trong tình cảm của con người-một sự thay đổi dến phũ phàng tê tái. Rõ ràng, khi thay đổi
hoàn cảnh, con người có thể dễ dàng quên đi quá khứ, có thể thay đổi về tình cảm.Nói
chuyện quên nhớ ấy, nhà thơ đã phản ánh một sự thực trong xã hội thời hiện đại. Giọng
thơ thầm thì như lời trò chuyện giãi bày tâm sự. Nhà thơ đang trò chuyện với chính mình
về cuộc đời đổi thay. Nhưng có lẽ nhà thơ cũng như bao người khác không nhận ra sự đổi
thay ấy nếu không có tình huống bất ngờ xảy ra:
“ Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn - đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Từ láy “Thình lình”, “đột ngột” được đảo trật tự lên đầu câu, tạo nên nhịp thơ nhanh, nhất
mạnh sự bất ngờ :”đèn điện tắt”, “vầng trăng tròn”. Trăng vẫn luôn tỏa sáng nhưng chỉ khi
“đèn điện tắt” ta mới thực sự cảm thấy ánh trăng thật tuyệt vời. Khi không gian “tối om”,
con người theo thói quen, phản xạ tự nhiên đi tìm nguồn sáng khác, “vội bật tung”, vội
vàng, khẩn trương và giây phút ấy đột ngột bắt gặp: vầng trăng tròn. Hình ảnh “vầng trăng
tròn” tượng trưng cho trăng vẫn ân tình, ân nghĩa, không bao giờ thay đổi. Đây là khổ thơ
quan trọng trong cấu tứ toàn bài. Chính cái khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt
trong mạch cảm xúc của nhà thơ . Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng khiến nhà thơ ngỡ
ngàng, bối rối, gợi cho nhà thơ bàng hoàng trước vẻ đẹp của trăng, bao kỉ niệm nghĩa tình
ùa về:
“Ngửa mặt lên nhìn mặt
Có cái gì rưng rưng
Như là đồng là bể
Như là sông là rừng”
Không phải là “ngửa mặt lên nhìn trăng” mà là “ngửa mặt lên nhìn mặt” vì với nhà thơ lúc
này, trăng đích thực là một con người có gương mặt, có ánh nhìn và tâm trạng. Trong giây
phút, nhà thơ và vầng trăng đối mặt, vào đúng khoảnh khắc đó, nhà thơ nhận ra quá khứ
đang ồ ạt hiện về. Từ láy “ rưng rưng” diễn tả niềm xúc động nghẹn ngào không nói nên
lời, là nước mắt dưới hàng mi hay sự thức tỉnh của tâm hồn con người.. Vầng trăng đã
đánh thức một quá khứ tưởng như đã ngủ yên, gợi nhớ về đồng, sông, bể rừng…Nhà thơ
xúc động khi tìm thấy kí ức xưa nhưng trên tất cả là sự ân hận, xót xa vì nhà thơ ý thức
được sự vô tình, sự đổi thay của mình qua năm tháng. Gặp lại ánh trăng, nhớ lại kỉ niệm
xưa cũ, nhà thơ như tìm lại được chính mình của một thời khổ đau, gian khó nhưng sống
63
vô cùng ân nghĩa, thuỷ chung. Kí ức về quãng đời ấu thơ trong sáng, về lúc chiến tranh
máu lửa, về cái ngày xưa hồn hậu hiện lên rõ dần theo dòng cảm nhận trào dâng, “như là
đồng là bể, như là sông là rừng” Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập
cùng biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ “như là” và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức
về thời gian gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình,
tri kỉ. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân
thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người
lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính
biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”, đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc. Con
người đổi thay là vậy nhưng vầng trăng thì:
“ Trăng cứ tròn vạnh vạnh
kể chi người vô tình”
Dù trước hay sau thì ánh trăng vẫn vậy, vẫn dân dã, mộc mạc, vẫn bình dị thuỷ chung.
Trăng vẫn lặng lẽ tròn một cách trong sáng vô tư, mặc cho thời gian trôi chảy, mặc cho
dòng đời đổi thay, mặc cho bầu bạn ai đó quay lưng. Và trăng chính là chất xúc tác, khơi
gợi sự cảm xúc chân thành. Vầng “trăng cứ tròn vành vạnh” không chỉ thể hiện vẻ đẹp
bình dị, vĩnh hằng của cuộc sống mà còn có ý nghĩa tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình,
thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu. Từ “kể chi” thể hiện thái độ bao dung, độ lượng
của vầng trăng. Nghệ thuật đối lập càng tô đậm 2 sắc thái tình cảm của trăng và người.
Trăng lặng lẽ, tròn đầy trong sáng và tự mặc cho thời gian trôi, mặc cho người bạn xưa
quay lưng dù trong quá khứ đã là tri kỉ:
“ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”
Hình ảnh nhân hóa kết hợp từ láy “ánh trăng im phăng phắc” gợi sự liên tưởng đến cái
nhìn bao dung, độ lượng của người bạn nghĩa tình. Điều đó đã làm xúc động lòng người.
Bởi trăng không chỉ thuỷ chung mà còn rất cao thượng vị tha, lặng lẽ, khoan dung. Từ sự
im lặng ấy, trăng như một nhân chứng nghĩa tình nghiêm khắc nhắc nhở con người phải
day dứt, trăn trở để nhìn lại chính mình, tìm lại mình, tìm lại những điều lãng quên trong
quá khứ, một quá khứ đẹp và bất diệt. Chính sự im lặng ấy là điều kiện, là cơ hội để cho
người lính nhìn nhận lại bản thân mình và bỗng "giật mình". Cái giật mình ấy là sự thức
tỉnh của lương tâm. Người lính tự thấy mình đổi thay trong cách sống, cách nghĩ. Người
lính đã quên đi quá khứ, quên đi những năm tháng gian lao mà hào hùng. Cái " giật mình"
ấy là biểu hiện của sự ân hận, day dứt khi nhận ra mình bội bạc. Câu chuyện như một lời
xám hối chân thành khi nhà thơ tự nhận ra lỗi lầm của mình.

Bài thơ đã gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa
thủy chung cùng quá khứ. Cuộc đấu tranh hướng thiện âm thầm mà khốc liệt, nó đòi hỏi
lòng dũng cảm của con người. Người lính năm xưa đã dành trọn quá khứ soi mình trong
hiện tại để loại bỏ sự vô tình, vô nghĩa, hướng tới những bài học nhân sinh sâu sắc. Thể
thơ 5 chữ, phương thức biểu đạt tự sự kết hợp với trữ tình. Giọng thơ mang tính tự bạch,
chân thành sâu sắc……

Bài thơ “Ánh trăng” là một lần “giật mình” của Nguyễn Duy về sự vô tình trước thiên
nhiên, vô tình với những kỉ niệm nghĩa tình của một thời đã qua. Bài thơ khép lại nhưng
đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Nguyễn Duy - một phong cách rất giản dị
nhưng mang triết lí sâu xa. Nó gợi ra trong lòng chúng ta nhiều suy ngẫm sâu sắc về cách
64
sống, cách làm người “uống nước nhớ nguồn” ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ.

MÙA XUÂN NHO NHỎ


A. MB Thanh Hải là nhà thơ xứ Huế. Ông tham gia hoạt động văn nghệ từ thời
chống Pháp, là cây bút có công xây dựng nền văn học cách mạng miền Nam ngay từ
những ngày đầu chống Mĩ. Bài thơ MXNN là một trong số bài thơ hay của nhà thơ được
viết trước khi nhà thơ qua đời không lâu. Bài thơ chính là tiếng lòng thiết tha yêu mến đối
với đất nước, với cuộc đời, thể hiện khát vọng được cống hiến cho đất nước của nhà thơ.
………….
B. TB
I. Tổng
Bài thơ sáng tác vào năm 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Bài thơ bắt đầu
từ những cảm xúc trực tiếp hồn nhiên, trong trẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân
thiên nhiên, từ đó mở rộng cảm nghĩ về mùa xuân đất nước. Từ mùa xuân lớn của thiên
nhiên đất nước mà liên tưởng tới mùa xuân của mỗi cuộc đời – một mùa xuân nho nhỏ góp
vào mùa xuân lớn. Bài thơ là tiếng lòng thiết tha yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc
đời và thể hiện chân thành một ước nguyện hiến dâng. Bằng tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc
sống nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân thiên nhiên, đất nước bằng trí tưởng
tượng phong phú của một tâm hồn nhạy cảm, lạc quan, yêu đời. Từ tình yêu cuộc sống mà
nhờ thơ đã bày tỏ ước nguyện được cống hiến, thể hiện qua những hình ảnh thơ độc đáo.
II. PT
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh
Hải được vẽ bằng những hình ảnh, màu sắc, âm thanh hài hòa, sống động, tràn
đầy sức sống, không gian khoáng đãng, cao rộng:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
Bức tranh mở ra trong gam màu xanh dịu mát, hiền hòa của con sông Hương êm đềm
uốn lượn. Nổi bật trên mặt nước sông xuân ấy là một bông hoa tím biếc, nhỏ xinh. Bức
tranh là một sự pha trộn đặc biệt của màu sắc. Hai gam màu xanh, tím kết hợp với nhau
tạo ra không gian tươi sáng với nét vẽ mềm mại, màu sắc hài hòa. Động từ “mọc” được
đảo lên đầu câu thơ gợi về sức sống trỗi dậy và vươn lên của bông hoa, của mùa xuân.
Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xòe nở trên mặt
nước xanh của dòng sông xuân. Màu xanh của nước hài hoà với màu tím biếc của bông
hoa tạo nên một nét chấm phá nhẹ nhàng mà sống động, đem lại một vẻ đẹp tự nhiên.
Nghệ thuật chấm phá của Thanh Hải gợi ta liên tưởng đến bài thơ “Cảnh ngày xuân”
Nguyễn Du cũng sử dụng nghệ chấm phá như vậy miêu tả cảnh sắc xuân:
65
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Bức tranh không chỉ có “họa” mà còn có “nhạc” bởi tiếng chim chiền chiện cất lên với
muôn vàn lời ca tiếng hót, reo mừng:
“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.”
- Chỉ với từ cảm thán “ôi” được đặt ở đầu dòng thơ đã gói trọn niềm cảm xúc dạt dào
trong lòng nhà thơ. Nhà thơ gọi “ơi” nghe sao mà tha thiết thế! Những từ địa phương:
ơi,chi, mà thật dịu ngọt. Lời gọi ấy không cất lên từ tiếng nói mà cất lên từ sâu thẳm tình
yêu thiên nhiên, cất lên từ tấm lòng của nhà thơ trước mùa xuân tươi đẹp với những âm
thanh rộn rã. Lời gọi ấy mới đầu nhen nhóm ở một góc trái tim, nhưng con người nhà thơ
và những cảnh sắc, âm thanh kia như đã hòa vào làm một, cảm xúc từ đó mà òa ra thành
lời, thật ngỡ ngàng. Cảm xúc của nhà thơ đã trào dâng thực sự qua câu hỏi tu từ: “Hót chi
mà vang trời”. Thứ âm thanh không thể thiếu ấy làm sống dậy cả không gian cao rộng,
khoáng đạt, làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn con người đang phải đối mặt với
những bóng đen ú ám của bệnh tật, của cái chết rình rập. Nhà thơ lắng nghe tiếng chim hót
bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo, tiếng chim được nhà
thơ miêu tả bằng hình ảnh ẩn dụ:
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
- Cụm từ “giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị. Nó có thể là
giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi
sáng bên thềm, có thể giọt mưa xuân đang rơi… Theo mạch cảm xúc của nhà thơ thì có lẽ
đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang, đọng lại thành từng giọt niềm vui, kết lại
thành dấu ấn mùa xuân rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rạo
rực tình xuân. Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được vận dụng một cách tài hoa, tinh tế
qua trí tưởng tượng của nhà thơ. Thành Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng nhiều
giác quan: thị giác, thính giác và cả xúc giác. Cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự
nâng niu, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc với xuân với
cảm xúc say sưa, xốn xang, rạo rực. Nhà thơ như muốn ôm trọn vào lòng tất cả sức sống
của mùa xuân, của cuộc đời. Chỉ bằng vài nét chấm phá: dòng sông xanh, bông hoa tím,
tiếng chim chiền chiện. Thanh Hải đã vẽ nên bức tranh mùa xuân trong sóng với không
gian cao rộng, màu sắc tươi tắn, hài hòa, âm thanh sống động. Khổ thơ không chỉ lột tả
được vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn diễn tả được sự say đắm, ngỡ ngàng và thái độ nâng
niu trân trọng của nhà thơ.
- Từ mùa xuân của thiên nhiên,Thanh Hải đã nghĩ đến mùa xuân của đất
nước
“Mùa xuân người cầm súng….
…..Lộc trải dài nương mạ

66
- Không phải ngẫu nhiên trong khổ thơ lại xuất hiện hình ảnh “người cầm súng” và
“người ra đồng”. Họ là những con người cụ thể, những con người làm nên lịch sử với hai
nhiệm vụ cách mạng của đất nước ta trong suốt quá trình phát triển lâu dài: chiến đấu và
sản xuất, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Mùa xuân không những chắp thêm đôi cánh sức
mạnh cho con người mà còn chuẩn bị cho con người những “lộc” non tươi mới, căng tràn
nhựa sống. “Lộc” không chỉ là hình ảnh tả thực mà con mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng.
“Lộc” là nhành non chồi biếc của cỏ cây trong mùa xuân. “Lộc” còn tượng trưng cho
thành quả cách mạng, cho sức sống tràn đầy, cho niềm tin, hi vọng. Nhưng đặc biệt hơn
cả, “lộc” là sức sống, là tuổi trẻ, sức thanh xuân tươi mới đầy mơ ước, lí tưởng, đầy những
hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người. Điệp
từ “lộc” diễn tả mối quan hệ khăng khít giữa mùa xuân với người cầm súng và người ra
đồng. Với “người cầm súng” lộc non là những cành lá ngụy trang đeo trên lưng họ lên
đường, lộc là niềm tin chiến thắng mà các anh sẽ mang về cho mọi người hay các anh
đang đem mùa xuân đến khắp nơi trên đất nước. Với “người ra đồng” lộc non là những
nhánh mạ non theo bước chân họ. Họ là những người gieo lộc non, lộc non sinh sôi nảy nở
dưới bàn tay họ tạo nên mùa màng bội thu.. Họ đang mang mùa xuân, gieo mùa xuân về
khắp đất nước. Đất nước chuyển mình vào xuân với một sức sống mới, không khí khẩn
trương, rộn ràng, náo nức lan tỏa khắp nơi.
“Tất cả như hồi hả
Tất cả như xôn xao”
- Điệp ngữ “tất cả”, các từ láy biểu cảm “hối hả”, “xôn xao”, nhịp thơ nhanh gợi tả hình
ảnh đất nước như kết thành khối thống nhất, đồng sức đồng lòng trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhà thơ đã gợi lên một hơi thở của cuộc sống khẩn trương sôi
nổi trên khắp mọi miền đất nước. Phép so sánh đi cùng hai từ láy “hối hả”, “xôn xao”
mang giá trị biểu cảm cao. Chất nhạc trong hai câu thơ được hòa quyện vào không
khí hăng say lao động của những con người đang ra sức làm việc, cống hiến cho đất
nước. Họ làm việc rất “hối hả”, rất khẩn trương để nhanh chóng đưa đất nước phát
triển phồn vinh. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên,
của đất nước.
- Những câu thơ tiếp theo là sự suy ngẫm, hồi tưởng của tác giả về chặng đường dài
đã qua của dân tộc:

“Đất nước bốn ngàn năm………


……..Cứ đi lên phía trước”
- Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tần tảo,vất vả và gian lao, đã làm
nổi bật sự trường tồn của đất nước. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này
đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của các thế hệ, của những tháng năm đằng đẵng
lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Đặc biệt, phép tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng vô cùng
đặc sắc, làm ý thơ hàm súc “Đất nước như vì sao.Cứ đi lên phía trước”. Sao là nguồn sáng
bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng
trong vũ trụ. So sánh như thế, là tác giả đã ngợi ca đất nước trường tồn, tráng lệ, đất nước
đang hướng về một tương lai tươi sáng. Điệp ngữ “đất nước” được nhắc lại hai lần thể
hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân, vất vả, đất nước vẫn toả sáng, ngoan cường
67
“đi lên phía trước” không chỉ bằng sức mạnh của hôm nay còn bằng sức mạnh của bốn
nghìn năm lịch sử. Câu thơ như là một điểm nhấn, lời tổng kết về sức sống mãnh liệt của
đất nước đồng thời ẩn chứa niềm tự hào, niềm tin của tác giả vào cuộc đời và đất nước.
- Từ những cảm xúc về mùa xuân, tác giả đã chuyển mạch thơ một cách tự nhiên
sang bày tỏ những suy ngẫm và tâm niệm của mình về lẽ sống, về ý nghĩa giá trị của
cuộc đời mỗi con người:

“ Ta làm con chim hót…….


……Một nốt trầm xao xuyến”
- Điều tâm niệm ấy được gửi gắm vào những hình ảnh tự nhiên, giản dị, khiêm nhường
đẹp mà giàu ý nghĩa. Trong muôn ngàn điều ước, nhà thơ chỉ ước làm một tiếng chim
trong muôn ngàn giọng hót để gọi xuân về, một bông hoa trong muôn triệu đóa hoa để tô
điểm cho mùa xuân. Những ước muốn giản dị để thành những vật nhỏ bé, nhưng chính
những vật nhỏ bé này lại góp phần quan trọng không thể thiếu để tạo nên mùa xuân, tạo
nên sắc xuân. Bên cạnh đó, nhà thơ còn muốn làm một nốt trầm trong bản hòa ca êm ái.
Chỉ là một nốt trầm kín đáo, khiêm nhương, chứ không phải là một nốt thanh thánh thót,
nổi trội. Lẫn vào trong bản hòa ca, khó nghe và nhận ra những nốt trầm khiêm nhường đó
đã tạo nên cái hay của bản nhạc. Nhà thơ muốn làm một nốt trầm nhưng là nốt trầm có sức
ngân vang, một nốt trầm có ích cho đời. Những ước muốn tưởng chừng như giản dị ấy lại
có một ý nghĩa lớn lao đó là phải đóng góp những gì tươi đẹp nhất cho cuộc đời, cho đất
nước, dù đó là sự cống hiến khiêm nhường, giản dị cũng diễn tả ước nguyện chân thành,
tha thiết, khiêm nhường. Được sống có ích, được cống hiến cho cuộc đười chung phần tốt
đẹp dù nhỏ bé.
- Điệp từ “ta” được lặp đi lặp lại thể hiện một ước nguyện chân thành, thiết tha. Động từ
“làm” - “nhập” ở vai trò vị ngữ biểu lộ sự hoá thân đến diệu kỳ - hoá thân để sống đẹp,
sống có ích. Cái “tôi” ở khổ thơ đầu chuyển thành cái “ta” trong khổ thơ này một cách
nhuần nhuyễn. Ta vừa là riêng nhà thơ, ta lại là tất cả mọi người. Cái tôi đã hòa nhập với
cái ta chung. Tâm niệm của nhà thơ đã biến thành lí tưởng của tất cả mọi người, trở thành
nguyện ước chung. Từ mùa xuân của thiên nhiên nhà thơ ước nguyện được làm:
“Một mùa xuân nhỏ

Lặng lẽ dâng cho đời “


- Mùa xuân nho nhỏ là hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, một sáng tạo bất ngờ, độc đáo mà tự
nhiên, hợp lí. Mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian thế mà ở đây “mùa xuân” lại
có khối, có hình. Mùa xuân đã trở thành một ẩn dụ biểu hiện về khát vọng, lẽ sống, ý thức
cao đẹp: Mỗi người hãy làm một mùa xuân, hãy đem tất cả những gì tốt đẹp, tinh tuý của
mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp cho mùa xuân đất nước. Cặp từ láy “nho nhỏ”,
“lặng lẽ” cho thấy một thái độ chân thành, khiêm nhường, lấy tình thương làm chuẩn mực
cho lẽ sống đẹp, sống để cống hiến đem tài năng phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân. Đây
là một quan niệm sống đẹp, có trách nhiệm, việc cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên, tự
nguyện, thầm lặng, khiêm tốn. Càng đẹp hơn khi tác giả dùng từ “dâng” cho thấy tình

68
cảm và thái độ trân trọng của nhà thơ muốn góp những tinh hoa của cuộc đời cho đất
nước. Sự cống hiến ấy của nhà thơ là suốt đời:
“Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
Hình ảnh hoán dụ tuổi hai mươi, khi tóc bạc là lúc tuổi thanh xuân đang tràn đầy sức
xuân hay đến lúc tuổi cao sức yếu nhà thơ vẫn khao khát được cống hiến hết mình cho
cuộc đời. Điệp ngữ “dù là” đặt ở 2 đầu câu thơ liên tiếp như là thách thức với thời gian,
tuổi tác, bệnh tật. Đó là tâm niệm, khát vọng dâng hiến miệt mài, không mệt mỏi của tác
giả ngay cả khi đang trên giường bệnh, đang sống những ngày tháng cuối cùng của cuộc
đời.. Không khoe khoang, cao điệu mà chỉ lặng lẽ âm thầm dâng hiến. Ý thơ thể hiện một
ước nguyện, một khát vọng, một mục đích sống. Biết lặng lẽ dâng đời, biết sống vì mọi
người. Đây là một vấn đề nhân sinh quan nhưng đã được chuyển tải bằng những hình ảnh
thơ sáng đẹp, bằng giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ, thiết tha..
Bài thơ kết thúc bằng sự trở về với những cảm xúc thiếttha, tự hào về quê hương, đất
nước qua điệu dân ca xứ Huế.
Mùa xuân – ta xin hát
………………………
Nhịp phách tiền đất Huế.

Nhà thơ có nhắc đến những khúc dân ca xứ Huế “Nam ai”, “Nam bình”, có giai điệu buồn
thương nhưng vô cùng tha thiết.Và qua những khúc “Nam ai”, “nam bình” này thì nhà thơ
đã bộc lộ tình yêu tha thiết của mình đối với quê hương, đất nước; thể hiện niềm tin yêu
vào cuộc đời, vào đất nước với những giá trị truyền thống vững bền. Nhà thơ như muốn
ôm trọn hình ảnh của quê hương, đất nước, muốn hát mãi bài ca, ca ngợi quê hương đất
nước.
C. Hợp
* NT- ND
Thể thơ năm chữ, gần với các làn điệu dân ca. Bài thơ giàu nhạc điệu, với âm hưởng
nhẹ nhàng, tha thiết. Kết hợp những hình ảnh tự nhiên, giản dị, từ thiên nhiênvới những
hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, khái quát.Cấu tứ chặt chẽ, sự phát triển tự nhiên của
hình ảnh mùa xuân với các phép tu từ đặc sắc. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng
tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời; thể hiện ước nguyện chân thành
của nhà thơ được cống hiến cho đất nước; góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào
mùa xuân lớn của dân tộc.
* Liên hệ
* Bình luận
C. KB :
Bài thơ kết thúc đã làm lay động trái tim mỗi người bởi chất họa gợi cảm, chất nhạc
vấn vương và ước nguyện tha thiết, chân thành của nhà thơ. Có lẽ vì vậy bài thơ đã ra đời
gần 40 năm nhưng vẫn làm rung động, say đăm lòng người bao thế hệ bạn đọc và trở
69
thành một trong những tác phẩm viết hay nhất về mùa xuân. Bài thơ còn gợi cho ta những
suy nghĩ sâu sắc về ý nghĩa cuộc sống: cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi con người biết cống
hiến, biết chăm lo cho cuộc đời chung và có thể đóng góp những gì tốt đẹp của mình cho
đất nước, cho cuộc đời.

VIẾNG LĂNG BÁC


Sinh thời Bác Hồ đã dành tình cảm đặc biệt cho đồng bào miền Nam, Bác
mong ngày đất nước thống nhất để vào thăm miền Nam ruột thịt. Đồng bào miền Nam
cũng khao khát đến ngày dựng cổng chào để chào đón Bác vào thăm. Ước nguyện ấy chưa
được thực hiện thì Bác đã vĩnh viễn đi xa để lại bao nỗi đau xót, tiếc thương cho nhân dân
nói chung, đồng bào miền Nam nói riêng. Viễn Phương-một người con miền Nam, khi đất
nước thống nhất mới có dịp ra lăng viếng Bác. Bao tình cảm, cảm xúc trong lần viếng lăng
ấy đã cho ra đời bài thơ “Viếng lăng bác”. Bài thơ đã thế hiện niềm xúc động thiêng liêng,
tấm lòng thiết tha, thành kính của tác giả từ Miền nam ra viếng Bác.

Sự vĩ đại, vẻ đẹp của Bác, lòng kính yêu với Bác đã trở thành cảm hứng cho các các
nghệ sĩ sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật bất hủ. Đến sau trong đề tài thơ về Bác do điều
kiện, hoàn cảnh: là người con miền Nam, cầm súng ở ngoài tiền tuyến...nhà thơ Viễn
Phương đã để lại bài thơ "Viếng lăng Bác" độc đáo, có sức cảm hóa sâu sắc bởi tình đẹp,
bởi lời hay. Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền
Nam,đất nước vừa được thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được
khánh thành, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước là được đến viếng lăng
Bác.

Niền xúc động thiêng liêng, tấm lòng thành kính của tác giả đã thể hiện theo mạch cảm
xúc của nhà thơ.Cảm xúc của một người con đã đi từ một nơi rất xa cả về không gian và
thời gian, giờ đây giờ phút được trở về bên Bác :
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Nhà thơ kể: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Câu thơ mở đầu như một lời thông báo
ngắn gọn, lời lẽ giản dị nhưng chứa đựng trong nó biết bao điều sâu xa, Nhà thơ nói mình
ở miền Nam, ở tuyến đầu của Tổ quốc, ở nơi máu đổ suốt mấy chục năm trời. Như vậy,
không đơn giản là chuyên đi thăm công trình kiến trúc, không chỉ chiêm ngưỡng trước di
hài một vĩ nhân mà đó là cây tìm về cội, lá tìm về cành, máu chảy về tim, sông trở về
nguồn. Đó là cuộc trở về để báo công với Bác, để được Bác ôm vào lòng và ngợi khen.
Cách xưng hô “con-bác” thật gần gũi, thật thân thiết, ấm áp tình thân thương mà vẫn rất
mực thành kính, thiêng liêng. Đồng thời, cũng diễn tả tâm trạng xúc động của người con ra
thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách. Ta cảm nhận được giữa lãnh tụ và quần chúng đã
không còn khoảng cách. Nhà thơ sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”: “Viếng”: là đến
chia buồn với thân nhân người mất. “Thăm”: là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống.
Đây là cách nói giảm, nói tránh, giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát, khẳng định Bác vẫn

70
còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc, sống mãi cùng non sông.
Đồng thời gợi sự thân mật, gần gũi: Con về thăm cha – thăm người thân ruột thịt, thăm
chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khao mong nhớ bấy lâu. Câu thơ thật vui
mừng khôn xiết lại vừa thật xót xa. Một cái gì như kìm nén bỗng òa ra tức tưởi. Hai mảnh
đất, hai địa đầu đất nước đã được nối liền bằng cuộc hành hương. Hình ảnh mà nhà thơ
gặp gỡ đầu tiên khi ra thăm lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là hàng tre quen thuộc đến nao
lòng.
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Hình ảnh “hàng tre” vừa có ý nghĩa tả thực vừa gợi nhiều suy ngẫm. Từ xa về đây hình
ảnh đầu tiên hiện lên trong mắt nhà thơ là hình ảnh hết sức gần gũi, thân thuộc của làng
quê Việt Nam. Trước hết, hàng tre là hình ảnh hết sức thân thuộc và gần gũi của làng quê,
đất nước Việt Nam. Hình ảnh hàng tre còn là một biểu tượng con người, dân tộc Việt
Nam, mang tâm hồn của con người VN: kiên trung, ngay thẳng, bất khuất, hiên ngang
không bao giờ bị khuất phục Hàng tre ấy như những đội quân danh dự cùng với những
loài cây khác đại diện cho những con người ở mọi miền quê trên đất nước Việt Nam tụ
họp về đây xum vầy với Bác, trò chuyện và bảo vệ giấc ngủ cho Người. Nơi Bác nghỉ vẫn
luôn xanh mát bóng tre xanh.Thán từ “ôi!” thể hiện sự bất ngờ, ngạc nhiên xen lẫn niềm
xúc động tự hào trước hàng tre. Thành ngữ “bão táp mưa sa” nhằm chỉ những khó khăn,
gian khổ, những vinh quang và cay đắng mà nhân dân ta đã vượt qua trong trường kì dựng
nước và giữ nước, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ vừa
qua.“Đứng thẳng hàng” là tinh thần đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao
giờ khuất phục, tất cả vì độc lập tự do của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Bác Hồ.Từ hình ảnh hàng tre bát ngát trong sương quanh lăng Bác, nhà thơ đã suy
nghĩ, liên tưởng và mở rộng khái quát thành một hình ảnh hàng tre mang ý nghĩa ẩn dụ,
biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam, dân tộc
Việt Nam. Dù gặp bão táp mưa sa – gặp những thăng trầm trong cuộc kháng chiến cứu
nước và giữ nước, vẫn “đứng thẳng hàng”, vẫn đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng,
không bao giờ khuất phục. Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những
cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính
yêu.
Bằng sự xúc động ấy nhà thơ hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác và đã tạo nên những
hình ảnh thơ đặc sắc:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Từ láy “ngày ngày” diễn tả vòng tuần hoàn vô tận của thời gian, mặt trời rực rỡ của thiên
nhiên vẫn đi qua trên lăng Bác, được nhân hóa mỗi khi qua lăng soi mình vào đó để nhận
ra “mặt trời trong lăng rất đỏ”. Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực. Đó là
mặt trời thiên tạo, là hành tinh quan trọng nhất của vũ trụ, nó gợi ra sự kì vĩ, sự bất tử,
vĩnh hằng. Mặt trời là nguồn cội của sự sống, ánh sáng. Hình ảnh “mặt trời trong lăng”
cũng là một ẩn dụ đầy sáng tạo, độc đáo – đó là hình ảnh của Bác Hồ. Giống như “mặt
trời”, Bác Hồ cũng là nguồn ánh sáng, nguồn sức mạnh. “Mặt trời” – Bác Hồ soi đường
71
dẫn lối cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, thống nhất đất
nước. Chi tiết đặc tả “rất đỏ” gợi trái tim đầy nhiệt huyết vì tổ quốc, vì nhân dân- trái tim
yêu thương vô hạn của Bác. Cái so sánh ngầm Bác Hồ nằm trong lăng rất đỏ trong cái
nhìn chiêm ngưỡng hàng ngày của mặt trời tự nhiên là một sáng tạo độc đáo và mới mẻ
của Viễn Phương, diễn đạt sự tôn kính, ngưỡng vọng, thành kính với Bác.. Cách ví đó một
mặt ca ngợi sự vĩ đại, công lao trời biển của Người đối với các thế hệ con ngườiViệt Nam.
Mặt khác bộc lộ rõ niềm tự hào của dân tộc Việt Nam khi có Bác Hồ - có được mặt trời
của cách mạng soi đường chỉ lối cũng như ánh sáng của mặt trời thiên nhiên. Công lao ấy
của Bác có sức sống trường tồn, vĩnh cửu. Hình ảnh dòng người vào thăm lăng Bác đã
được nhà thơ miêu tả một cách độc đáo và để lại nhiều ấn tượng:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhơ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chin mùa xuân”
Từ lấy “ngày ngày” được lặp lại theo vòng tuần hoàn của thời gian không ngớt những
dòng người vào lăng viếng Bác. Những dòng người nặng trĩu nhớ thương từ khắp mọi
miền đất nước đã về đây xếp hàng, lặng lẽ theo nhau vào lăng viếng Bác – “Dòng người đi
trong thương nhớ”. Nhịp thơ chầm chậm như những bước chân của dòng người đi trong
tưởng niệm. Chúng ta có thể hiểu “tràng hoa” ở đây theo nghĩa thực là những bông hoa
tươi thắm kết thành vòng hoa được những người con khắp nơi trên đất nước và thế giới về
thăm dâng lên Bác để bày tỏ tình cảm, tấm lòng nhớ thương, yêu quý, tự hào của mình.
“Tràng hoa” ở đây còn mang nghĩa ẩn dụ chỉ từng người một đang xếp hàng viếng lăng
Bác mỗi ngày là một bông hoa ngát thơm. Những dòng người bất tận đang ngày ngày vào
lăng viếng Bác nối kết nhau thành những tràng hoa bất tận. Những bông hoa – tràng hoa
rực rỡ đó dưới ánh mặt trời của Bác đã trở thành những bông hoa – tràng hoa đẹp nhất
dâng lên Người. Bởi cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng cách mạng của Người. Nhà
thơ còn sử dụng hình ảnh hoán dụ đặc sắc “bảy mươi chín mùa xuân”. Mỗi tuổi đời của
Bác là một mùa xuân, cả cuộc đời là một chuỗi mùa xuân. Bác đã sống một cuộc đời đẹp,
dân hiến trọn đời cho dân tộc. Bác đã đem lại cho cuộc đời, cho đất nước những mùa xuân
tươi đẹp. Hình ảnh thơ vằ xúc động thiêng liêng, vằ là lời ngợi ca tuyệt đẹp, chân thành.
Trong niềm xúc động, bước chân vào lăng, nhìn di hài Bác, nhà thơ đã viết:
“Bác nằm trong giắc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.”

Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình
ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ,
trong trẻo của không gian trong lăng Bác.
Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận Người đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa
vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến
tâm hồn, cách sống cao đẹp, thanh cao, sang trong của Bác vừa gợi người bạn tri kỉ tri âm
trong những vần của Người. Trăng với Bác đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến
trận, giờ đây trăng cũng đến để giữ giấc ngủ ngàn thu cho Người. Chỉ có thể bằng trí
tưởng tượng, sự thấu hiểu và yêu quí những vẻ đẹp trong nhân cách của Hồ Chí Minh thì
nhà thơ mới sáng tạo nên được những ảnh thơ đẹp như vậy! Nhà thơ cảm nhận Bác đang

72
trong “giấc ngủ bình yên” thanh thản nhưng giữa lí trí và tình cảm, giữa niềm tin và thực
tại lại khác biệt, nhà thơ đã thổn thức:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
“Trời xanh” trước tiên được hiểu theo nghĩa tả thực đó làhình thiên nhiên mà chúng ta
hằng ngày vẫn đang chiêm ngưỡng, nó tồn tại mãi mãi và vĩnh hằng. Mặt khác, “trời
xanh” còn là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước, như “trời
xanh” vĩnh hằng. Tên tuổi và sự nghiệp của Bác còn sống mãi với non sông, đất nước.Dù
tin như thế nhà thơ vẫn đau xót và nuối tiếc khôn nguôi trước hiện thực Bác đã đi xa, nhà
thơ đã bộc lộ trực tiếp: “ Mà sao nghe nhói ở trong tim” “Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực
tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột quặn thắt. Tác giả tự cảm thấy nỗi đau mất mát ở tận trong
đáy sâu tâm hồn mình: nỗi đau uất nghẹn tột cùng không nói thành lời. Đó không chỉ là
nỗi đau riêng tác giả mà của cả triệu trái tim con người Việt Nam. Cặp quan hệ từ “vẫn,
mà” diễn tả mâu thuẫn. Cảm giác nghe nhói ở trong tim mâu thuẫn với nhận biết trời xanh
là mãi mãi.”Vẫn” biết về mặt lí trí rằng Bác đang sống nhưng về mặt tình cảm “mà” thấy
nhói ở trong tim. Như vậy, giữa tình cảm và lý trí có sự mâu thuẫn. Con người đã không
kìm nén được khoảnh khắc yếu lòng. Chính đau xót này đã làm cho tình cảm giữa lãnh tụ
và nhân dân trở nên ruột già, xót xa.. Cảm xúc này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của
niềm đau xót. Nó chính là nguyên nhân dẫn đến những khát vọng ở khổ cuối bài thơ.

Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ giới thiệu mình là người con miền Nam ra thăm Bác thì
trong khổ thơ cuối, nhà thơ lại đề cập đến sự chia xa Bác. Nghĩ đến ngày mai về miền
Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà
được bộc lộ thể hiện ra ngoài:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Câu thơ như một lời giã biệt. Lời thơ giản dị, không cầu kì gọt giũa diễn tả tình cảm
sâu lắng với cụm từ cảm thán “thương trào nước mắt” cho ta thấy những giọt nước mắt
kìm nén vỡ òa của nhà thơ. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn
không muốn xa nơi Bác nghỉ. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn
triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa
Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá. Mặc dù lưu luyến muốn được ở mãi bên Bác
nhưng tác giả cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam. Và chỉ có thể gửi tấm lòng
mình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật quanh lăng để được luôn ở
bên Người trong thế giới của Người:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác


Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên “con chim”, “đóa hoa”, “cây
tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt, chân thành, lưu luyến của tác giả.Nhà thơ
ao ước được hóa thân thành con chim nhỏ cất tiếng hót làm vui lăng Bác, thành đóa hoa
đem sắc hương, điểm tô cho vườn hoa quanh lăng. Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây
tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của
73
Người. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết
cấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như
mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre
trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác,
nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời
hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng
ta nói chung với Bác. Bài thơ khép lại trong sự xa cách về không gian nhưng lại gần gũi về
tình cảm, ý chí.

Bài thơ “Viếng lăng Bác” thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng thiết tha thành
kính của tác giả với Bác Hồ. Tình cảm với Bác được nhà thơ thể hiện hết sức chân thành,
tha thiết. Tình cảm ấy trở trành lẽ sống của cuộc đời nhà thơ nói riêng, nhân dân Việt Nam
nói chung.Bài thơ có giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang
nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7
hoặc 9 chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những
cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của niềm
mong ước. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu
tượng.

Viếng lăng Bác là bài thơ độc đáo làm nên tên tuổi của Viễn Phương. Bài thơ giàu chất
suy tưởng, trữ tình phong phú, âm điệu điệu khiến bài thơ nhanh chóng được tiếp nhận. Vì
vậy nó đã sớm được phổ nhạc và trở thành một bài ca sâu lắng quen thuộc với mỗ người
Việt Nam.

SANG THU
Mùa thu thơ mộng là nguồn cảm hứng dạt dào cho các thi nhân. Mùa thu bước
vào thi ca thật tự nhiên, gần gũi. Nguyễn Khuyến có chùm thơ thu đặc sắc, Thế Lữ với
“Tiếng thu” man mác buồn, Xuân Diệu với “Đây mùa thu tới”. Nhà thơ Hữu Thỉnh bằng
sự đắm say tha thiết và cảm nhận tinh tế trước mùa thu đã vẽ nên một bức tranh mùa thu
thơ mộng trong khoảnh khắc giao mùa qua bài “Sang thu”.

Bài thơ được sáng tác năm 1977 thể hiện những cảm nhận tinh tế về những chuyển
biến nhẹ nhàng mà rõ rệt của đất trời từ hạ sang thu, qua đó bộc lộ tình yêu thiên nhiên,
gắn bó với quê hương, đất nước của tác giả. Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc
đẹp đẽ nhất của tự nhiên, nó gieo vào lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như
giao hòa, đồng điệu. Khi chúng ta chưa hết ngỡ ngàng bởi một Xuân Diệu “tựa cửa nhìn
xa nghĩ ngợi gì” thì đã gặp một Hữu Thỉnh tinh tế, sâu sắc đến vô cùng qua một thoáng
“sang thu”.

74
Những biến chuyển trong không gian lúc sang thu được Hữu Thỉnh cảm nhận qua
nhiều yếu tố bằng nhiều giác quan và cả sự rung động tinh tế. Không phải là sắc “mơ
phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác”, màu thu của Hữu Thỉnh được mở ra bằng
mùi hương ổi thơm ngòn ngọt phả vào trong gió thu.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió thu”
Từ “bỗng” diễn tả sự bất ngờ, đột ngột khi thu đến mà không báo trước. “Hương ổi” gắn
liền với bao kỉ niệm của thời thơ ấu, là mùi vị của quê hương đã thấm đẫm trong tâm
tưởng nhà thơ và cứ mỗi độ thu về thì nó lại trở thành tác nhân gợi nhớ. Mùi hương ấy
không hòa vào quyện vào mà “phả” vào trong gió “Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra từng
luồng. Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự liên tưởng thú
vị: tại vườn tược quê nhà, những quả ổi chín vàng trên các cành cây kẽ lá tỏa ra hương
thơm nức, thoang thoảng trong gió. Chỉ một chữ “phả” thôi cũng đủ gợi hương thơm như
sánh lại. Sánh lại bởi hương đậm một phần, sánh bởi tại gió se. Làn “gió se” không chỉ
thoảng thơm mùi hương ổi mà còn đem đến cho lòng người bao cảm giác thi vị trước sự
chuyển mình của thiên nhiên, đất trời. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế
của một người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân
dã mà thi vị. Hữu Thỉnh đã phát hiện một nét đẹp đáng yêu của mùa thu vàng nông thôn
vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thu sang mang theo hơi thở của mình và mang theo cả vẻ thu mơ
màng, huyền ảo.
“Sương chùng chình qua ngõ”
Từ láy “chùng chình” kết hợp với biện pháp nhân hóa đã gợi tả những làn sương thu như
những làn khói mong manh vờn nhẹ trên mái nhà. Nó “chùng chình” nửa ở nửa đi, nghĩa
là chính nó cũng phân tâm, vô định.. Hình hành “ngõ” có thể là con ngõ nơi tác giả đang
sống nhưng ta cũng có thể hiểu ràng là cửa “ngõ” giao mùa giữa hạ và thu. “Sương” như
cố ý đi chậm lại, nó đang lưu luyến không muốn chia tay mùa hạ. Hình ảnh này đã gợi
bước đi chầm chậm của mùa thu, gợi sự lay động của lá cây, vẻ tự lự của lòng người, cái
man mác của không gian chớm thu. Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về
khá bất ngờ và đột ngột. Thu làm lòng người xao xuyến quá đến nỗi không biết thu đến
thực hay mơ. Để rồi thi sĩ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thì thầm như tự hỏi:
“Hình như thu đã về”
Câu thơ này có sự đan cài giữa ba kiểu câu: câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cảm thán.
Thành phần tình thái “hình như” đã gợi ta thấy một chút nghi hoặc, một chút bang khuâng,
có cái gì đó không thật rõ ràng. Tâm hồn thi sĩ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng,
mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ
nhẹ của mùa thu.
Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra
trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:

“Sông được lúc dềnh dàng


Chim bắt đầu vội vã”
75
Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, sự vận động của mùa thu
được cụ thể hóa bằng những sắc thái đổi thay của tạo vật. Từ láy “dềnh dàng” cùng biện
pháp nhận hóa đã gợi tả dòng sông vào mùa thu, nước sông êm đềm, nhẹ nhàng, trôi lững
lờ mà không chảy xiết như sau những cơn mưa mùa hạ của dòng sông không chỉ gợi ra vẻ
êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn mang đầy tâm trạng của con người như
chậm lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời. Trái
ngược với vẻ khoan thai của dòng sông là sự vội vàng của những cánh chim trời bắt đầu di
trú về phương Nam. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại
gợi được cái động. Hai chữ “vội vã” là cảm nhận rất tinh tường của nhà thơ. Nhà thơ nhận
ra cả sự “bắt đầu” của những cánh chim. Hai câu thơ đối nhau rất nhịp nhàng, dựng lên
hai hình ảnh đối lập, ngược chiều nhau: sông dưới mặt đất, chim trên bầu trời, sông “dềnh
dàng” chậm rãi, chim “vội vã” lo lắng. Đó là sự khác biệt của vạn vật trên cao và dưới
thấp trong khoảnh khắc giao mùa. Nhà thơ đã gợi ra tốc độ trái chiều của thiên nhiên,của
sự vật để tạo ra một bức tranh mùa thu đang về - có những nét dịu êm, nhẹ nhàng, lại có
những nét hối hả, vội vã. Ý thơ đồng thời còn gợi cho người đọc một liên tưởng khác: Sự
chuyển động của dòng sông, của cánh chim phải chăng còn là sự chuyển mình của đất
nước. Cả đất nước ta vừa trải qua chiến tranh tàn khốc mới có được hòa bình, và giờ đây
mới được sống một cuộc sống yên bình, êm ả. Nhưng rồi mỗi người dân Việt Nam cũng
lại bắt đầu hối hả nhịp sống mới để xây dựng đất nước trong niềm vui rộn ràng. Đất trời
mùa thu như đang rùng mình để thay áo mới. Cả bầu trời mùa thu cũng có sự thay đổi:
“Có đám may mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Câu thơ được vẽ bằng ngôn ngữ đậm chất hội họa, gợi ra nhiều sự liên tưởng thú vị. Động
từ “vắt” đã gợi hình ảnh trên bầu trời cao rộng, một dải mây trắng mềm mại kéo ngang bầu
trời, nửa bên này còn rực rỡ nắng mùa hạ, nửa bên kia đã dịu dàng sắc thu. Đám mây vắt
lên cái ranh giới mỏng manh và ngày càng bé dần, bé dần đi rồi đến một lúc nào đó không
còn nữa để toàn bộ sự sống, để cả đám mây mùa hạ hoàn toàn nhuốm màu sắc thu. Cái
hay, cái khéo của nhà thơ là tả không gian mà gợi cả sự chuyển mình của thời gian. Đám
mây còn gợi sự liên tưởng thú vị: như một tấm khăn voan mỏng vắt ngang bờ vai nàng thu
để làm duyên ới đất trời, cũng có thể hiểu đám mây chính là chiếc cầu nối giao mùa đất
trời. Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất trong sự tìm tòi khám phá của Hữu Thỉnh trong
khoảnh khắc giao mùa. Nó giống như một bức tranh thu vĩnh hằng tạc bằng ngôn ngữ. Cả
ba hình ảnh trên là tín hiệu của mùa thu sang còn vương lại một chút gì của cuối hạ. Nhà
thơ đã mở rộng tầm quan sát lên chiều cao (chim), chiều rộng (mây) và chiều dài (dòng
sông). Phải chăng có sợi tơ duyên đồng cảm giữa con người với thiên nhiên đang vào thu.
Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu Thỉnh có một hồn thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha
thiết, một trí tưởng tượng bay bổng.
Qua sự miêu tả của tác giả, ta cảm nhận rằng hạ đã nhạt dần và thu trở nên rõ ràng hơn bởi
các hiện tượng thiên nhiên, thời tiết . TÁc giả đã chiêm nghiệm mùa thu bằng cảm nhận
của một đời người:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa”
Nắng, mưa vốn là hiện tượng của thiên nhiên vận hành theo quy luật riêng của nó. Hữu
Thỉnh đã nhìn ra từ cái mưa nắng hàng ngày một sự hụt vơi – dấu hiệu của sự chuyển mùa
76
từ hạ sang thu.Nắng vẫn còn vàng tươi nhưng nắng thu trong và dịu hơn cái nắng chói
chang, gay gắt của mùa hạ.Mưa cũng vẫn còn nhưng đã vơi nhiều so với những cơn mưa
bong bóng kéo dài của mùa hạ. “Vơi dần” không chỉ là ít mưa đi mà còn là mưa ít nước đi.
Đây cũng là dấu hiệu của sự chuyển mùa. Hai chữ “bao nhiêu” thường hướng về một cái
gì đong đếm được nhưng sắc nắng làm sao có thể cân đo? Cũng như “vơi”, dù biết vơi bớt
nhưng vơi bớt đến mức nào thì ai có khả năng xác định? Tất cả chỉ là ước lượng mà thôi,
không có gì là chừng mực cố định cả. Cách nói mơ hồ của nghệ thuật khác hẳn với khoa
học ở chỗ này. Các hiện tượng thiên nhiên , thời tiết lúc này giảm dần về sắc độ, cường độ
dần ổn định. Tất cả đều đúng với hồn thu. Cuối hạ - đầu thu, khi đã vơi đi những cơn mưa
xối xả thì sấm cũng bớt bất ngờ và dữ dội:
“Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”
Nó không còn đột ngột, đùng đoàng rền vang cùngvới những tia sáng chớp lòe như xé rách
bầu trời trong những trận mưa báo tháng 6 tháng 7 nữa. “Hàng cây đứng tuổi” phải chẳng
là hàng cây đã đi qua bao cuộc chuyển mùa nên không biết chính xác là bao nhiêu nhưng
chắc cũng đủ trải nghiệm để có thể điềm nhiên đứng trước những biến động. Hai câu kết
của bài thơ không chỉ mang nghĩa tả thực, mà còn mang ý nghĩa ẩn dụ, gợi những suy nghĩ
cho người đọc người nghe: Sấm tượng trưng cho những thay đổi bất thường của ngoại
cảnh, những khó khăn, gian khổ, bắt trắc của cuộc đời. Hàng cây đứng tuổi ẩn dụ cho
những người từng trải, bước sang nửa kia cuộc đời. Từ những hình ảnh vừa mang ý nghĩa
tả thực, hàng cây đứng tuổ đã qua nhiều mùa thu nên sấm không còn bất ngờ nữa, vừa có ý
nghĩa biểu tượng, nhà thơ muốn nói lên một triết lí: Khi con người tuổi đời bước sang thu
là lúc con người ta chin chắn, vững vàng, sẵn sàng đón nhận những thay đổi bất thường
của ngoại cảnh, những going bão thăng trầm của cuộc đời ít làm con người ta bất ngờ, bị
động.
Vậy là “Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc
đời mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng.
Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.

Thể thơ 5 chữ, âm hưởng nhẹ nhàng, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh thơ đẹp, giàu chất tạo
hình, gợi cảm. Hữu Thỉnh đã thể hiện một cách đặc sắc những cảm nhận tinh tế để tạo ra
một bức tranh chuyển giao từ cuối hạ sang thu nhẹ nhàng, êm dịu,trong sáng nên thơ…ở
vùng đông bằng Bắc Bộ của đất nước. Bài thơ của Hữu Thỉnh đánh thức tình cảm của mỗi
người về tình yêu quê hương đất nước và suy ngẫm về cuộc đời.

Sang thu của Hữu Thỉnh độc đáo và thú vị, cách cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cùng những
chiêm nghiệm đáng suy ngẫm đã khiến cho người đọc có cái nhìn khái quát và mới mẻ
hơn về mùa thu. Gấp trang sách lại, mùa thu của Hữu Thỉnh vẫn còn quẩn quanh đâu đây
trong trí óc của mỗi chúng ta.

77
NÓI VỚI CON – Y PHƯƠNG
Y Phương là nhà thơ lớn người dân tộc Tày. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật,
mạnh mẽ, trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh người miền núi. Bài thơ “Nói với con” là
một bài thơ đặc sắc của nhà thơ viết về tình cảm quê hương. Dưới hình thức lời người cha
tâm sự, dặn dò con, nhà thơ đã đem đến cho bài thơ giọng điệu thiết tha, trìu mến, ấm áp
và tin cậy. Bài thơ không chỉ giúp ta cảm nhận được về tình cảm gắn bó với quê hương, ý
chí vươn lên của người dân tộc miền núi mà còn cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn, sức sống của
họ.

Bài thơ ra đời vào năm 1980 – khi đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân cả
nước nói chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng vô cùng khó khăn,
thiếu thốn.Bài thơ là lời tâm sự của ông với đứa con gái đầu lòng. Tâm sự với con, còn là
tâm sự với chính mình. Qua bài thơ ấy, nhà thơ muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự
ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa. Từ hiện thức khó khăn ấy, nhà thơ viết bài thơ này
đểtâm sự với chính mình, động viên mình, đồng thời để nhắc nhở con cái sau này. Mạch
cảm xúc của bài thơ đi từ tình cảm gia đình mà mở rộng ra tình cảm quê hương, từ những
kỉ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống. Chủ đề của bài thơ được bộc lộ và
dẫn dắt một cách tự nhiên qua lời của người cha.

Đến với bài thơ, ta thấy điều đầu tiên Y Phương muốn nóivới con chính là cội nguồn sinh
dưỡng mỗi con người – tình yêu thương vô bờ bến mà cha mẹ dành cho con – tình gia
đình:

“Chân phải bước tới cha


Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.”
Nhịp thơ 2/3, cấu trúc đối xứng tạo ra một âm điệu tươi vui, quấn quýt: “chân phải” –
“chân trái”, rồi “một bước” – “hai bước”, rồi lại “tiếng nói” – “tiếng cười” cùng với cách
diễn đạt ngộ nghĩnh theo tư duy của người miền núi nhà thơ đã dựng lên một không khí
gia đình đầm ấm. Gia đình có đứa con, một đứa con thơ, đứa con đang lẫm chẫm tập đi, bi
bô tập nói trong tình yêu thương, khích lệ của cha mẹ. Từng bước đi của con đều có sự
nâng niu, chờ đón, dang rộng vòng tay của cha mẹ. Ngôi nhà ấy tràn ngập tiếng nói, tiếng
cười. Lời đầu tiên ngời cha nói với con về tình cảm gia đình vì gia đình chính là chiếc nôi
êm, cái tổ ấm để con lớn khôn, trưởng thành. Con được sinh ra được nuôi dưỡng trong
vòng tay yêu thương của cha mẹ. Đó chính là tình cảm ruột thịt, công lao biển trời, là cội

78
nguồn mà con phải khắc cốt ghi tâm. Không chỉ vậy bằng câu khẳng định, cha nhắc về kỉ
niệm ngày cưới
“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.”
“Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.”- ngày đầu tiên tạo lập ra đình mà ở đó con được sinh ra,
lớn lên trong tình yêu trong sáng của cha mẹ. Cái ngày hạnh phúc ban đầu đấy mà cho đến
bây giờ cha mẹ vẫn sống tràn ngập trong hạnh phúc. Nhắc lại và khẳng định một lần nữa
như vậy người cha muốn cho con biết rằng con chính là trái ngọt tình yêu, hạnh phúc của
cha mẹ.

Cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người được Y Phương nói đến không chỉ là gia đình
mà còn là quê hương, là thiên nhiên tươi đẹp và thấm đượm nghĩa tình. Con không chỉ lớn
lên trong tình yêu của cha mẹ mà còn lớn lên giữa cuộc sống lao động của “người đồng
mình”:
“Người đồng mình yêu lắm, con ơi!”
“Người đồng mình”, một cái tên rất gần gũi, thân thương kết hợp với cum từ “yêu lắm
con ơi” đã bộc lộ trực tiếp cảm xúc, niềm xúc động mãnh liệt của người cha khi vỗ về đứa
con của quê hương. Cách gọi như thế, cùng với hô ngữ “con ơi” khiến lời thơ trở nên tha
thiết, trìu mến. Chữ “yêu” được bật ra từ đáy lòng rất tự nhiên, diễn tả tình cảm chân
thành, cảm động của người cha. Người đồng mình đáng yêu lắm vì họ lao động cần cù, có
đôi bàn tay khéo léo. Tuy cuộc sống lao động vất vả nhưng không thiếu lời ca, tiếng hát:
“Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát”
Các động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả chính xác động tác khéo léo trong lao động vừa gợi
sự gắn bó, quấn quýt của những con người quê hương trong cuộc sống lao động. “Đan lờ
cài nan hoa” muốn nói tới công việc tạo vẻ đẹp cho con người lao động còn “vách nhà ken
câu hát” chỉ công việc tạo niềm vui trong cuộc sống. Những nan nứa, nan tre dưới bàn tay
tài hoa của người quê mình đã trở thành “nan hoa”. Vách nhà không chỉ ken bằng tre, gỗ
mà còn được ken bằng những câu hát si, hát lượn. Con còn được lớn lên giữa một miền
quê tươi đẹp, giàu nghĩa tình:
“Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.”
“Rừng cho hoa” vừa là hình ảnh thực vừa mang ý nghĩa sâu sa. “Hoa” có thể là hoa trong
rừng nhưng cũng muốn thể hiểu rằng nó cũng chính là những nét tinh túy, đẹp nhất của
quê hương mình. “Con đường” ở đây là con đường quê hương, mang đến cho con những
tình cảm, cảm xúc, che chở cho con. Điệp từ “cho” mang nặng nghĩa tình. Thiên nhiên

79
đem đến cho con người những thứ cần để lớn, giành tặng cho con người những gì đẹp đẽ
nhất. Thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống. Bằng cách
nhân hoá “rừng” và “con đường” qua điệp từ “cho”, người đọc có thể nhận ra lối sống tình
nghĩa của “người đồng mình”. Quê hương ấy chính là cái nôi để đưa con vào cuộc sống
êm đềm. Lời dạy của cha vừa giản dị lại sâu sắc giúp cho con hiểu rằng: con luôn được
sống trong hạnh phúc, trong tình yêu thương của gia đình, quê hương. Con cần phải ghi
nhớ và biết ơn cha mẹ, quê hương mình vì gia đình, quê hương là cội nguồn sinh dưỡng.
Lời cho nói với con có thể coi là bài học đạo đức đầu đời cho dạy con sống có nghĩa sống
với đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.
Trong cái ngọt ngào của kỉ niệm về gia đình và quê hương, người cha đã tha thiết nói với
con về những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình. Người đồng mình không chỉ là
những con người giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà còn là những con người biết
lo toan và giàu mơ ước:
“Người đồng mình thương lắm con ơi!
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chi lớn.”
Sự lặp lại nhiều lần cụm từ “người đồng mình” như có một dụng ý: phầm chất của “người
đồng mình” là đại diện cho phẩm chất quê hương bởi lẽ chính sức sống của quê hương là
do “người đồng mình” tạo ra.
Nếu trên kia “yêu lắm con ơi”– yêu cuộc sống vui tươi bình dị, yêu bản làng thơ mộng,
yêu những tấm lòng chân thật nghĩa tình, thì đến đây người cha nói “thương lắm con ơi”–
bởi sau từ “thương” đó là những những nỗi vất vả, gian khó của con người quê
hương .Người cha biểu lộ tình cảm yêu thương chân thành về gian truân, thử thách cùng ý
chí mà người đồng mình đã trải qua. Bằng cách tư duy độc đáo của người miền núi, Y
Phương đã lấy cái cao vời vợi của trời để đo nỗi buồn, lấy cái xa của đất để đo ý chí con
người. Sắp xếp tính từ “cao”, “xa” trong sự tăng tiến, nhà thơ cho thấy khó khăn, thử thách
càng lớn thì ý chí con người càng mạnh mẽ. Những từ ngữ ấy đã khẳng định, ca ngợi
phẩm chất kiên cường, giàu ý chí, bản lĩnh của con người quê hương. Từ đó người cha
mong muốn đứa con của mình biết đồng cảm, sẻ chia, yêu thương, gắn bó hơn với buôn
làng. Người đồng mình dù sống trong nghèo khổ, gian nan vẫn thủy chung gắn bó với quê
hương, cội nguồn. Bằng lời tâm sự giản dị, chân thành mà người cha đã bày tỏ niềm ước
mong tha thiết:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn


Sống trên đá không chê đá gập gềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói”

80
Phép liệt kê với những hỉnh ảnh ẩn dụ “đá gập gềnh”,“thung nghèo đói” đã gợi cuộc sống
đói nghèo, khó khăn, cực nhọc. Điệp ngữ “sống”, “không chê” và điệp cấu trúc câu cùng
hình ảnh đối xứng đã nhấn mạnh: người đồng mình có thể nghèo nàn, thiếu thốn vềvật
chất nhưng họ không thiếu ý chí và quyết tâm. Người đồng mình chấp nhận và thủy chung
gắn bó cùng quê hương, dẫu quê hương có đói nghèo, vất vả. Và phải chăng, chính cuộc
sống nhọc nhằn, đầy vất vả khổ đau ấy đã tôi luyện cho chí lớn để rồi tình yêu quê hương
sẽ tạo nên sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả. Người đồng mình không chỉ đẹp trong lói
sống mà còn đẹp ở tâm hồn:
“Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”
Với nghệ thuật so sánh và cách vận dụng thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” người cha đã
nói với con về vẻ đẹp tâm hồn, cuộc sống của “người đồng mình” khó khăn, khắc nghiệt
nhưng họ có ý chí nghị lực phi thường “không lo cực nhọc”, lạc quan trọng cuộc sống. Họ
như những con suối nhỏ bé mà có sức mạnh vượt qua mọi thác ghềnh, như cây tùng, cây
bách hiên ngang giữa núi rừng mà không bị quật ngã trước phong ba bão táp. Tình cảm
của họ trong trẻo, dạt dào như dòng suối, con sống trước niềm tin yêu cuộc sống, tin yêu
con người. Phẩm chất của người của con người quê hương còn được người cha ca ngợi
qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong,
nhưng rất đúng với người miền núi:
“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”
“Thô sơ da thịt” là một cách nói chân thực, giản dị cụ thể bằng hình ảnh của dân tộc Tày
phác họa “người đồng mình”. Đồng thời nhà thơ ca ngợi những con người mộc mạc, chân
chất, thật thà, rắn rỏi cao đẹp “chẳng mấy ai nhỏ bé đâu”. “Nhỏ bé” ở đây không chỉ là nhỏ
bé về thể chất mà còn mang ý nghĩa khẳng định: chẳng nhỏ bé về tinh thần, ý chí nghị lực,
nghị lực. Sự tương phản này đã tôn lên tầm vóc của người đồng mình. Họ mộc mạc nhưng
giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể “thô sơ da thịt” nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về ý
chí, về mong ước xây dựng quê hương:
“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
Hình ảnh “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương” vừa mang tính tả thực chỉ
truyền thống làm nhà kê đá cho cao của người miền núi, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc.
Câu thơ còn có ý nghĩa khái quát về phẩm chất của con người quê hương tuy giản dị
nhưng giàu ý chí, nghị lực, có tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn cội nguồn. Khép lại đoạn
thơ bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ trìu mến với biết bao niềm tin hi vọng của người
cha đặt vào đứa con yêu:
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
81
Nghe con.”

Ý thơ “Tuy thô sơ da thịt” và “không bao giờ nhỏ bé” được lặp lại với bốn câu thơ
trước đó càng trở nên da diết, khắc sâu trong lòng con về những phẩm chất cao đẹp của
“người đồng mình”.”Lên đường” là bước vào đời, cha mong con không được mặc
cảm, tự ti, nhỏ bé mà phải vững vãng, tự tin, lạc quan, ý chí vững bước trên đường đời.
Lời dặn của cha thật mộc mạc, dễ hiểu, thấm thía, ẩn chứa niềm hi vọng lớn lao của
cha, hi vọng đứa con sẽ tiếp tục vững bước trên đường đời, tiếp nối truyền thống và
làm vẻ vang quê hương. Hai tiếng “Nghe con” lắng đọng bao cảm xúc, ẩn chứa
tìnhyêu thương vô bờ bến của cha dành cho con. Câu thơ còn gợi ra một cảnh tượng
cảm động đang diễn ra lúc chia li: cha hiền từ âu yếm nhìn con, xoa đầu con và người
con ngoan ngoãn cúi đầu lắng nghe lời cha dặn. Nói với con về những phẩm chất tốt
đẹp của người đồng mình để nhắc nhở con một điều sâu sắc: gia đình, quê hương
không chỉ nuôi dưỡng con về thể xác, những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình,
của gia đình là nguồn sữa trong mát lành nuôi dưỡng tâm hồn, ý chí cho con. Đó là nền
móng, là hành trang để con vững bước vào đời. Cha mong con phải biết phát huy
những truyền thống tót đẹp của quê hương mình: sống có ý chí nghị lực, phát huy
những truyền thống tót đẹp của quê hương, tình nghĩa thủy chung với quê hương.
Đoạn thơ chứa chan ý nghĩa,mộc mạc, đằm thắm mà sâu sắc. Nó tựa như một khúc ca
nhẹ nhàng mà âm vang. Lời thơ tâm tình của người cha sẽ là hành trang đi theo con
suốt cuộcđời và có lẽ mãi mãi là bài học bổ ích cho các bạn trẻ - bài học về niềm tin,
nghị lực, ý chí vươn lên.
Thể thơ tự do, số câu chữ không theo khuôn định phù hợp với mạch cảm xúc, nhịp điệu
lúc bay, lúc bổng, nhẹ nhàng, lúc khúc chiết, mạnh mẽ, sắc nhọn. Ngôn ngữ thơ giản dị,
trong sáng, hình ảnh mộc mạc mà vẫn sinh động giàu chất thơ mang ý nghĩa khái quát theo
tư duy của ngời miền núi. Bài thơ đã tạo ra sự cộng hưởng hài hòa với những cung bậc
tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê
hương. Lời cho nói với con hay chính là lời trao gửi đến thế hệ trẻ hiện nay về tình yêu gia
đình, đạo làm con,nguồn cội của mỗi con người, tình yêu quê hương, đất nước.

Bài thơ Nói với con, Y Phương đã góp thêm tiếng thơ riêng độc đáo và mới mẻ cho thơ ca
dân tộc. Bài thơ đã thể hiện được tình cảm gia đình ấm cúng, sức sống mạnh mẽ của quê
hương qua đó thể hiện tình yêu con sâu nặng và niềm tự hào về truyền thống quê hương
của nhà thơ Y Phương. Ra đời đã gần 4 thập kỉ bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa
sâu sắc trong lòng bạn đọc các thế hệ.

Cách làm bài nghị luận văn học dạng đề so sánh


1. Mở bài
82
- Dẫn dắt (mở bài gián tiếp)

Nên tìm một điểm chung nào đó của hai đối tượng để dẫn dắt. Cách mở bài này không chỉ
tạo nên sự gắn kết của đối tượng ngay từ đầu mà còn tạo được hứng thú cho người đọc.

- Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh

Chỉ cần giới thiệu ngắn gọn, đủ thông tin chính và nêu được đối tượng. Tránh tình trạng
mở bài quá dài hoạc lan man.

2. Thân bài

a. Cảm nhận, phân tích các đối tượng

* Phân tích đối tượng so sánh thứ nhất

* Phân tích đối tượng so sánh thứ hai

Lần lượt phân tích nội dung và nghệ thuật của hai đối tượng. Mức độ đầy đủ nhưng không
quá chi tiết, dàn trải giống như bài nghị luận về một tác phẩm, để tránh tình trạng không
đáp ứng đủ thời gian. Bước này vận dụng kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là
thao tác lập luận phân tích..

b. So sánh các đối tượng

* Nét tương đồng

* Nét khác biệt

Sau khi phân tích làm rõ từng đối tượng, chúng ta tiến hành so sánh để chỉ ra nét tương
đồng và khác biệt trên cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật. Bước này đòi hỏi phải
có sự cân nhắc chọn lọc, tránh tình trạng so sánh tràn lan hoạc không tương ứng ở các bình
diện.

Để làm tốt bước này cần kết hợp nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận
phân tích và thao tác lập luận so sánh.

* Lý giải sự tương đồng, khác biệt giữa hai đối tượng

Để lí giải được sự tương đồng và khác biệt của các đối tượng, chúng ta cần dựa vào bối
cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp
của thời kì văn học…

Bước này vận nhiều thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích.

3. Kết bà- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.- Có thể nêu những cảm
nghĩ của bản thân.

83
Đề bài
I. ĐỌC HIỂU (3 ĐIỂM)
Đọc kĩ đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

Giữa năm 2015, bà Lê Thị Thảo, mẹ của Hòa, quyết định tặng thận…
[…] Tháng 3-2016, Hòa lên bàn mổ để tặng một quả thận cho một người phụ nữ trạc tuổi mẹ mình.
Người được nhận thận quê ở Hà Nam, đã bị suy thận nhiều năm và cần được ghép thận để tiếp tục được
sống.
[…] Để tặng được quả thận, từ khi quyết định hiến tặng đến khi lên bàn mổ, bà Thảo đã phải hơn 10
lần một mình một xe máy từ Bắc Ninh ra bệnh viện Việt Đức ở Hà Nội để làm các xét nghiệm. Con gái bà
Thảo cũng vậy, và cuối năm 2016 khi mẹ con bà được mời lên truyền hình để nói về ý nghĩa của việc hiến
tặng mô tạng, hai mẹ con lại chở nhau bằng xe máy từ Bắc Ninh lên Hà Nội rồi vội vã trở về ngay trong
đêm… Nếu có ai hỏi về chuyện hiến thận đã qua, bà chỉ phẩy tay cười: “Cứ nghĩ bình thường đi, bình thường
với nhau đi, bây giờ tôi chẳng đang rất khỏe là gì…”
Và nhờ cái “bình thường” của mẹ con bà Thảo, giờ đây có thêm hai gia đình được hạnh phúc vì người
thân của họ được khỏe mạnh trở lại. Ở Bắc Ninh, gia đình bà Thảo cũng đang rất vui vẻ. Nỗi đau đớn của ca
đại phẫu thuật đã qua đi, giờ đây trên bụng hai mẹ con là hai vết sẹo dài, như chứng nhân về quyết định rất
đỗi lạ lùng, về việc sẵn sàng cho đi mà không băn khoăn một phần thân thể của mình.
Có lẽ bạn đọc nghĩ rằng đó là hai con người kì lạ, nhưng khi gặp họ và trò chuyện, chúng tôi mới thấy
mẹ con bà Thảo không kì lạ chút nào, họ chỉ muốn tặng quà một cách vô tư để nhận lại một thứ hạnh phúc
tinh thần nào đó mà tôi không thể nào định danh được!
(Trích Hai mẹ con cùng hiến thận, Lan Anh, Báo Tuổi trẻ, ngày 31/5/2018)
Câu 1: (0.5 điểm)
Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.

Câu 2: (0.5 điểm)


Chỉ ra lời dẫn trực tiếp được sử dụng trong đoạn trích.

Câu 3: (1.0 điểm)


Nỗi đau đớn của ca đại phẫu thuật đã qua đi, giờ đây trên bụng hai mẹ con là hai vết sẹo dài, như
chứng nhân về quyết định rất đỗi lạ lùng, về việc sẵn sàng cho đi mà không băn khoăn một phần thân thể
của mình.
a. Xét về mặt cấu trúc, câu trên thuộc kiểu câu gì?

b. Xác định và nêu tác dụng của phép tu từ được sử dụng trong câu trên.

Câu 4: (1.0 điểm)


Có lẽ bạn đọc nghĩ rằng đó là hai con người kì lạ, nhưng khi gặp họ và trò chuyện, chúng tôi mới thấy
mẹ con bà Thảo không kì lạ chút nào, họ chỉ muốn tặng quà một cách vô tư để nhận lại một thứ hạnh phúc
tinh thần nào đó mà tôi không thể nào định danh được!
a. Xác định thành phần biệt lập có trong câu trên.

b. Theo em, thứ hạnh phúc tinh thần mà người viết không thể nào định danh được là gì?
II. LÀM VĂN (7.0 ĐIỂM)
Câu 1: (2.5 điểm)

84
Từ nội dung đoạn trích phần Đọc hiểu, em hãy viết đoạn văn khoảng 200 chữ theo cách lập luận tổng –
phân – hợp bàn về tâm niệm của Trịnh Công Sơn “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng” . Trong đó sử
dụng ít nhất hai phép liên kết. (Gọi tên và xác định từ ngữ liên kết)
Câu 2: (4.5 điểm)
Phân tích tình cảm của ông Sáu dành cho con gái qua đoạn trích sau đây:

[…] Từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe
với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được ngà.
Sau đó anh lấy vỏ đạn hai mươi ly của Mĩ, đập mỏng làm thành một cây cưa nhỏ, cưa khúc ngà thành
từng miếng nhỏ. Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ
bạc… Mỗi ngày anh cưa được một vài răng. Không bao lâu sau, cây lược được hoàn thành. Cây lược dài độ
hơn một tấc, bề ngang độ ba phân rưỡi… cây lược chỉ có một hàng răng thưa. Trên sống lưng có khắc một
hàng chữ nhỏ mà anh đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” … Những đêm
nhớ con,… anh lấy cây lược ra ngắm nghía, rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt. Có cây lược,
anh càng mong gặp lại con. Nhưng rồi một chuyện không mảy xảy ra… Anh bị viên đạn của máy bay Mĩ bắn
vào ngực. Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là
không thể chết được, anh đưa tay vào túi, móc cây lược, đưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu. Tôi không đủ lời
lẽ để tả lại cái nhìn ấy, chỉ biết rằng, cho đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi cứ nhớ lại đôi mắt của anh.
- Tôi sẽ mang về trao tận tay cho cháu.
Tôi cúi xuống gần anh và khẽ nói. Đến lúc ấy, anh mới nhắm mắt đi xuôi.
(Trích Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang Sáng, Ngữ văn 9, Tập 1)
Lời giải chi tiết
I.Đọc hiểu
Câu 1:
Phương thức biểu đạt chính: Tự sự

Câu 2:
Lời dẫn trực tiếp được sử dụng trong đoạn trích: “Cứ nghĩ bình thường đi, bình thường với nhau đi, bây giờ
tôi chẳng đang rất khỏe là gì…”
Câu 3:
a. Câu ghép

b. Biện pháp tu từ được sử dụng trong câu văn trên là biện pháp so sánh. Hai vết sẹo dài trên bụng hai mẹ
con (bà Thảo và Hòa) được so sánh như chứng nhân về quyết định rất đỗi lạ lùng, về việc sẵn sàng cho đi
mà không băn khoăn một phần thân thể của mình.
- Tác dụng của biện pháp so sánh:

+ Khẳng định giá trị của những vết thương mà hai mẹ con phải chịu đựng.

+ Hai vết sẹo ấy là bằng chứng sáng rõ nhất của tinh thần làm việc thiện, sẵn sàng cho đi một phần thân thể
của mình mà không cần đáp lại.

⟹ Khẳng định tinh thần hiến dâng, biết sống vì người khác của hai mẹ con.

Câu 4:
a. Thành phần biệt lập trong câu văn trên là: Có lẽ - thành phần biệt lập tình thái.

85
b. Thứ hạnh phúc tinh thần mà người viết không thể nào định danh được là niềm hạnh phúc của việc cho
đi, của tinh thần sẻ chia, biết sống vì người khác, biết yêu thương với những số phận bất hạnh trong cuộc
đời.
II.Làm văn
Câu 1:
* Yêu cầu về hình thức
- Đoạn văn 200 chữ, sử dụng phép lập luận tổng – phân – hợp.

- Trong đoạn văn có sử dụng ít nhất hai phép liên kết (Gọi tên và xác định từ ngữ liên kết)
- Diễn đạt rõ ràng, không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ, đặt câu.

* Yêu cầu về nội dung:


Đoạn văn đảm bảo các nội dung chính sau:

- Giải thích: “tấm lòng” là những tình cảm tốt đẹp, đáng trân trọng ở con người. Trịnh Công Sơn muốn khẳng
định sống trong đời sống, mỗi người cần có một tấm lòng biết quan tâm, yêu thương, biết dành những điều
tốt đẹp cho người khác.

- Vì mỗi người chỉ được sống có một lần trong cuộc đời, và “người với người sống để yêu nhau” nên phải
dành tất cả những gì tốt đẹp cho mọi người xung quanh thì mới làm cho cuộc sống đẹp hơn, đáng sống hơn.

- Biểu hiện của việc sống có tấm lòng:

+ Tấm lòng trong cuộc sống để biết cảm thông và chia sẻ: biết sẻ chia, chúng ta nhân đôi niềm vui, chia vợi
nửa nỗi buồn. Khi con người biết quan tâm đến nhau, thế giới sẽ không còn khổ đau và bất hạnh.

+ Tấm lòng trong cuộc sống để biết tha thứ và bao dung, để không có sự ích kỉ, hận thù, để xây dựng cuộc
sống hòa bình, ấm êm.

+ Tấm lòng của sự dũng cảm, của đức hi sinh: Dũng cảm để xả thân vì lí tưởng cao đẹp, để biết hi sinh cho
những điều xứng đáng.

- Tuy nhiên, trong cuộc sống ngày nay, vẫn không ít người thiếu những “tấm lòng”, sống nhỏ nhen, chỉ biết
vun vén cho bản thân.

- Bài học hành động và liên hệ bản thân: không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, nuôi dưỡng tâm hồn,
tấm lòng để biết sống vì người khác, biết cho đi.

Câu 2:
I. Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Quang Sáng và tác phẩm “Chiếc lược ngà”.

- Giới thiệu cảm nghĩ khái quát về nhân vật ông Sáu.

- Giới thiệu về vấn đề nghị luận: Tình yêu của ông Sáu dành cho bé Thu, được thể hiện trong đoạn văn kể
chuyện khi ông trở về khu căn cứ và làm cho con cây lược ngà.

II. Thân bài:


1. Khái quát
Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi đến khi con gái ông lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà,
thăm con. Bé Thu không chịu nhận cha vì vết thẹo trên mặt làm ba em không giống với người chụp chung
86
với má trong bức ảnh mà em đã biết. Thu đối xử với ba như người xa lạ, đến lúc hiểu ra, tình cảm cha con
thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường. Ở khu căn cứ, bao nỗi nhớ thương
con ,ông dồn vào việc làm cho con cây lược. Ông hi sinh trong một trận càn của Mỹ nguỵ. Trước lúc nhắm
mắt, ông còn kịp trao cây lược cho một người bạn. Tình đồng đội, tình cha con của ông Sáu được miêu tả
thật cảm động, làm sáng ngời vẻ đẹp của người lính Cách mạng, của người cha yêu con.

2. Tình cảm của ông Sáu dành cho con khi ông ở căn cứ kháng chiến.
- Kiếm được ngà voi, mặt ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Những lúc rỗi, ông “ngồi cưa từng chiếc
răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”. Trên sống lưng cây lược, ông đã tẩn mẩn khắc
một dòng chữ nhỏ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Dòng chữ nhỏ mà chứa bao tình cảm lớn lao. Việc làm
chiếc lược vừa là cách ông giải tỏa tâm trạng mong nhớ, ân hận vừa là cách gửi vào đó những yêu thương
khao khát cháy bỏng dành cho đứa con gái yêu của mình. Chiếc lược ngà giờ đây đã trở thành một vật quí
giá thiêng liêng với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến, nhớ
thương, mong đợi của của người cha đối với đứa con xa cách. Cây lược ấy chưa chải được mái tóc của con
nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của ông. Những lúc nhớ con, ông “lấy cây lược ra ngắm
nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành
một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Ông gửi vào đó bao lời nhắn
nhủ thiêng liêng, gửi vào đó bao nỗi nhớ mong con. Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc mà đằm
thắm, đơn sơ mà diệu kì, là hiện hữu của tình cha con bất hủ giữa ông Sáu và bé Thu. Tình thương ông dành
cho con cháy bỏng, như một dòng sông chảy mãi từ suối nguồn, như dòng máu chảy sâu vào tim ông, vào
tâm hồn ông đến phút cuối vẫn bùng cháy chẳng nguôi.
- Một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu: trong một trận càn lớn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu
bị một viên đạn bắn vào ngực và ông đã hi sinh. “Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại
điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được” , tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm
một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng
nó thiêng liêng hơn cả những lời di chúc. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình
phụ tử. Chiếc lược ngà như là biểu tượng của tình thương yêu, săn sóc của người cha dành cho con gái, cho
dù đến khi không còn nữa anh chưa một lần được chải tóc cho con. Người kể chuyện, đồng đội của ông Sáu
đã bộc lộ một sự đồng cảm và xúc động thực sự khi kể lại câu chuyện.
- Những dòng cuối cùng của đoạn trích khép lại trong nỗi buồn mênh mang mà chứa chan ý nghĩa nhân văn
sâu sắc. Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại. Chiến tranh đã làm cho con người phải xa nhau,
chiến tranh làm khuôn mặt ông Sáu biến dạng,chiến tranh khiến cuộc gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le,
bị thử thách,rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay
cho con mà đã phải hi sinh trên chiến trường. Nhưng những đau thương mất mát mà chiến tranh tàn bạo
gây ra không thể nào giết chết những tình cảm đẹp đẽ của con người Việt Nam. “Chiếc lược ngà” như một
truyện cổ tích hiện đại dẫn người đọc dõi theo số phận của nhân vật. Người còn, người mất nhưng kỉ vật
gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại là chiếc lược ngà nói với chúng ta nhiều điều về tình người, tình đồng
chí, tình cha con.Cảm động nhất, để lại ấn tượng nhiều nhất cho người đọc là tình phụ tử thiêng liêng, sâu
đậm –tình yêu thương mà ông Sáu dành cho đứa con gái.

3. Nhận xét, đánh giá:


- Có thể nói nhân vật ông Sáu được nhà văn xây dựng bằng những nét nghệ thuật đặc sắc. Nguyễn Quang
Sáng đã đặt nhân vật vào cảnh ngộ éo le của đời sống để từ đó ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế đã phát hiện
bao cung bậc cảm xúc của tình phụ tử.

87
- Ngôn ngữ kể chuyện vừa truyền cảm, vừa mang đậm chất địa phương Nam Bộ đem đến cho người đọc
nhiều xúc động. Đặc biệt, nhà văn đã lựa chọn được một số chi tiết nghệ thuật rất đắt giá như lời dặn mua
cho con cây lược của bé Thu,ông Sáu hớn hở khi kiếm được chiếc ngà voi… Tất cả đã góp phần tô đậm vẻ
đẹp của người chiến sĩ Cách mạng, của người cha yêu con nồng thắm.

III. Kết bài:


- Khẳng định thành công của tác giả trong việc thể hiện tình phụ tử thiêng liêng.

- Khẳng định giá trị tác phẩm.

Phân tích nhân vật ông Hai trong đoạn trích ông tâm sự cùng
đứa con út:“ông Hai ngồi lặng…vơi đi được đôi phần”.

Puskin đã từng nói:” Linh hồn là ấn tượng của tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ
ánh sáng. Chim muông sống được là nhờ tiếng ca. Một tác phẩm sống được là nhờ trái tim
người cầm bút”. Quả thực là như thế! Và nhà văn Kim Lân đã để trái tim của mình, để linh
hồn của tác phẩm “Làng” bay lên qua hình tượng nhân vật ông Hai – một lão nông dân với
tấm lòng yêu nước, yêu quê hương sâu sắc. Điều đó được thể hiện rõ ràng trong đoạn trích
khi ông Hai tâm sự với đứa con út của mình.
Truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân được sáng tác vào năm 1948, thời kì đầu
của cuộc kháng chiến chống Pháp. Giặc Pháp càn quét khắp mọi miền quê, khiến cho biết
bao người dân phải đi tản cư đến những vùng quê khác. Truyện xoay quanh gia đình, tâm
trạng của ông Hai khi phải rời xa làng chợ Dầu – quê hương của mình – và những sự việc
xảy ra khi ông ở nơi ở mới. Qua đó làm nổi bật lên tình yêu làng thống nhất với tình yêu
đất nước son sắt, mãnh liệt của ông Hai, qua đoạn trích ông tâm sự với con thì tình cảm đó
lại càng nổi bật hơn cả.
Cũng như biết bao người nông dân khác, ông Hai hiện lên với vẻ đẹp của 1 lão nông
hiền lành, chất phác, chịu thương chịu khó. Ở nơi ở mới, trong không khí lao động vui vẻ,
ông vẫn luôn nhớ về làng cũ và đi khắp nơi khoe về làng chợ Dầu như một căn bệnh.Tình
cảm chân thành ấy của ông Hai bị đặt vào hoàn cảnh éo le khi nghe tin làng chợ Dầu theo
giặc từ miệng một người đàn bà đi tản cư. Đau đớn, xấu hổ tột cùng như đang gặm nhấm
ông từng phút từng giây. Ông bị kẹt giữa ranh giới của tình yêu làng và tình yêu nước.
Trong chính giấy phút mơ hồ ấy, ông trò chuyện, tầm sự cùng con để vơi đi nỗi lòng mình.
Tình cảm với kháng chiến, với cụ Hồ được bộc lộ thực sự cảm động. Bằng hai câu
hỏi: “Thế nhà con ở đâu?” và “Thế con có thích làng chợ Dầu không?”, ông Hai như muốn
khắc sâu trong lòng đứa con về hình ảnh ngôi làng thân thuộc, rằng với ông, tình cảm với
làng Chợ Dầu kia như một cây đại cổ thụ mọc giữa vùng cỏ dại. Và có lẽ, chưa qua nổi cú
sốc tinh thần khi nghe cái tin đau đớn kia, chưa dám tin vào sự việc nên ông hỏi đưa con
88
như một sự an ủi đến trái tim già nua. Lời hỏi ấy thực chất là lời minh oan đến cụ Hồ,
khẳng định tấm lòng của bản thân. Ông hỏi về làng quê để thỏa nỗi nhớ làng, để khắc sâu
cho con về tình cảm cội nguồn máu thịt. Ông muốn con ghi nhớ làng chợ Dầu là quê
hương, là gốc gác mà con không được phép quên, không được phép buông bỏ. Đó là tình
cảm gắn bó của ông Hai cùng như hang triệu người dân Việt Nam khác. Chỉ với câu trả lời
cùng từ “có” của đứa con, ông lão như lặng người đi. Buồn bã lẫn xấu hổ choán lấy tâm trí
ông. Yêu làng, thương làng là thật nhưng làng theo Tây mất rồi, ông chẳng còn dám luyến
tiếc nữa. Ở đây, Kim Lân không miêu tả cụ thể tâm trạng ông Hai nhưng ta cảm nhận
được sự đau đớn, bối rối đến tột cùng của ông.
Một lúc sau, ông lại cất tiếng hỏi con, nhưng lần này là hỏi về cách mạng: “Con ủng
hộ ai?”. Hỏi như thế, chứng tỏ tấm lòng yêu nước, thủy chung với cách mạng của ông là
chân thật và đồng thời gieo vào lòng con những tình cảm cao quý. Đứa con ông bé tí mà
đã biết giơ tay thề: “ Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm”. Giữa những cái đắng cay tủi
nhục của số phận, câu trả lời của đứa trẻ như chiếc phao tung ra đúng lúc người sắp chết
đuối. Nó như cơn mưa rào tưới mát lên cánh đồng khô hạn vào những ngày nắng gắt. Để
rồi, vin vào đó, ông khẳng định chắc chắn về tấm lòng của mình bằng câu nói: “Ừ! Đúng
rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ ?”. Ông khóc, “nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng hai
bên má”.Đó là giọt nước mắt của tình cảm chân quý, của niềm xúc động đến khôn nguôi,
của sự thoả mãn sau bao lo lắng sợ hãi. Đó còn là niềm hạnh phúc trào ra mà ông không
thể nào kiềm chế lại được. Điều đó cho thấy cả gia đình ông Hai và xã hội đều đã thấm
nhuần tinh thần, tư tưởng cách mạng. Lúc này, ông mong “Anh em đồng chí …….. xét xoi
cho bố con ông”. Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng, với cụ Hồ được bộc lộ rất
mộc mạc, chân thành mà thiêng liêng, gắn bó. Tấm lòng ấy nào “có bao giờ dám đơn sai,
chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”. Mỗi lần tâm sự với con như thế, ông lại thấy gánh
nặng trong lòng mình được vơi đi đôi phần, khiến ông nhẹ nhõm hơn. Qua đó ta thấy lòng
yêu nước chính là phẩm chất đáng quý luôn ẩn hiện trong con người của ông Hai.
Có thể nói, bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, ngôn ngữ đối thoại giản
dị chân thực mà quen thuộc, phù hợp với lời ăn tiếng nói của nhân dân, ngôn ngữ độc
thoại nội tâm sâu sắc, ngôi kể thứ 3 đặt điểm nhìn trần thuật lên nhân vật ông Hai, Kim
Lân đã làm nổi bật được tâm trạng đâu buồn cùng tấm lòng yêu làng thống nhất với lòng
yêu nước của ông Hai. Ông Hai là nhân vật điển hình cho tầng lớp nông dân thời kháng
chiến chống Pháp có tình yêu với quê hương đất nước , vượt qua mọi khó khăn thử thách.
Hình tượng ông Hai trong đoạn trích cũng như trong tác phẩm đã thể hiện chuyển biến
mới của người nông dân khi thoát khỏi nô lệ và họ đang hăng hái tham gia kháng chiến.
Như giai đoạn trước cách mạng tháng 8, trong văn học Việt Nam hiện thực thường xuyên
phản ánh số phận bi kịch của những con người như “chị Dậu” trong “Tất Đèn” của Ngô
Tất Tố, “Lão Hạc “, “Chí Phèo” trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao,...vốn
mang những phẩm chất vốn có của người nông dân và tình cảm có tính truyền thống, để
rồi họ phải đi vào đường cùng không lối thoát. Nhưng đến ông Hai thì lại khác biệt hoàn
toàn. Ông được ánh sáng của cách mạng soi sáng và thoát khỏi ách nô lệ thực dân. Nhờ
kháng chiến, cuộc sống của ông Hai cũng như biết bao người dân khác đã thay đổi hoàn

89
toàn, bước sang một giai đoạn mới tươi sáng, đẹp đẽ hơn gấp bội. Tình cảm thiêng liêng
của ông Hai đã gợi cho con người biết bao tình cảm thiêng liêng đáng quý với quê hương
đất nước, và trách nhiệm góp phần đưa đất nước đi lên.
Như vậy, nhân vật ông Hai trong đoạn trích khi ông Hai tâm sự với con đã trở thành
tượng đài bất diệt trong lòng bạn đọc. Ông là hình tượng tiêu biểu cho số phận người nông
dân thuở ấy, mặc khó khăn gian khổ, một lòng hướng về cách mạng, về đất nước. Dù cho
lớp bụi thời gian có phủ mờ đi tất cả thì nhân vật ông Hai cũng như truyện ngắn “Làng”
của nhà văn Kim Lân vẫn còn nguyên giá trị, truyền cho thế hệ trẻ chúng ta trách nhiệm
phải cố gắng học tập, rèn luyện phẩm chất, không quay lưng với Tố Quốc, để xây dựng xã
hội ngày càng một giàu đẹp, văn minh.

Phân tích nhân vật ông Hai trong đoạn trích “Ông Hai ngồi lặng trên một
góc giường … thì phải thù”
Có lẽ, văn chương chính là bản nhạc hay nhất của cuộc đời. Bởi chỉ khi đến với văn
chương, người nghệ sĩ mới được tự do để trái tim dẫn dắt, được thể hiện quan niệm của
chính mình và rồi mang đến cho người đọc biết bao giai điệu cảm xúc với nhiều cung bậc.
Và nhà văn Kim Lân,đã để lại tác phẩm “Làng’, một nốt ngân đầy sáng tạo trong bản hòa
tấu của văn học. Nốt ngân ấy càng đẹp đẽ hơn qua nhân vật ông Hai và đặc biệt là đoạn
trích “…”.
Truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân được sáng tác vào năm 1948, thời kì đầu
của cuộc kháng chiến chống Pháp. Giặc Pháp càn quét khắp mọi miền quê, khiến cho biết
bao người dân phải đi tản cư đến những vùng quê khác. Truyện xoay quanh gia đình, tâm
trạng của ông Hai khi phải rời xa làng chợ Dầu – quê hương của mình – và những sự việc
xảy ra khi ông ở nơi ở mới. Qua đó làm nổi bật lên tình yêu làng thống nhất với tình yêu
đất nước son sắt, mãnh liệt của ông Hai và đặc biệt qua đoạn trích trên thì tình cảm ấy
càng nổi bật hơn cả.
Cũng như biết bao người nông dân khác, ông Hai hiện lên với vẻ đẹp của 1 lão nông
hiền lành, chất phác, chịu thương chịu khó. Ở nơi ở mới, trong không khí lao động vui vẻ,
ông vẫn luôn nhớ về làng cũ và đi khắp nơi khoe về làng chợ Dầu như một căn bệnh.Tình
cảm chân thành ấy của ông Hai bị đặt vào hoàn cảnh éo le khi nghe tin làng chợ Dầu theo
giặc từ miệng một người đàn bà đi tản cư. Đau đớn, xấu hổ tột cùng như đang gặm nhấm
ông từng phút từng giây. Lại thêm cả chuyện mụ chủ hà đuổi người làng chợ Dầu ra khỏi
nơi tản cư lại khiến ông buồn bã gấp bội. Trong chính phút giây mơ hồ ấy đã có biết bao
suy nghĩ, cả xúc nảy ra trong tâm lý nhân vật ông Hai.
90
Sau khi mụ chủ nhà ra về, ông Hai “ngồi lặng trên một góc giường. Bao nhiêu…ông
lão”. Đã bao ngày nay, cái tin dữ ấy đã trở thành nỗi ám ảnh day dứt trong lòng ông, khiến
ông luôn mặc cảm rằng mình là người phản bội. Và cái tâm trạng ấy càng bị đẩy lên đỉnh
điểm khi nghe những lời mụ chủ nhà nói. Ông Hai rơi vào trạng thái bế tắc, tuyệt vọng.
Bằng việc sử dụng các câu hỏi tu từ: “Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta
chưa bố con ông mà đi bây giwof?”, Kim Lân đã thể hiện rõ ràng sự lo lắng cho tương lại
của ông Hai, khiến ông phải thốt lên rằng: “Thật là tuyệt đường sinh sống”. Ông ngầm
hiểu tronglongf, rằng sã chẳng nơi nào dám chứa chấp bố con ông, rằng “đâu đâu có người
chợ Dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi”. Mà ngay cả nhờ chính sách cụ Hồ người ta
không đuổi đi nữa, thì ông Hai cũng “chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu”. Đó chính là
lòng tự trọng của một người nông dân yêu nước và cũng là tâm trạng chung của biết bao
con người lúc bấy giờ.
Thế rồi, câu nói của người đàn bà tản cư hôm trước lại vang dội trong tâm tí ông:
“Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…”. Nó như mũi dao lạnh giá đâm sâu vào trái tim
ông, khiến ông bồi hồi, tủi nhục, đau đớn. Trong giây phút bế tắc tuyệt vọng ấy, ở ông Hai
diễn ra một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt. Ông chớm nghĩ: “Hay là quay về làng?”, và
lập tức, cái ý nghĩ ấy bị chính ông lão phản đối ngay, bởi lẽ “Về làm gì cái làng ấy nữa.
Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ…”. Với ngôn ngữ độc
thoại nội tâm đã làm nổi bật lên sự đấu tranh trong mội tâm gay gắt của ông Hai.
Lúc này, “nước mắt ông giàn ra”. Đó là giọt nước mắt của những niềm thương nỗi
nhớ với quê hương, của đắng cau tủi nhục trong tâm trạng của một con người đang coi
mình là kẻ phản bội. Ông nhớ về những kí ức ngày xưa, nhớ ngay đến những cái hống
hách ngang tàn của quân phản quốc. Là “mỗi thằng kì lí chuyên môn khua khoét ngay
trước lại ra vào hống hách ở trong cái đình”. Cái đình vốn dĩ là của làng mà bị chúng
chiếm giữu như của riêng. Ngày ngày dong ra dong vào bàn việc riêng trong đây.Hạng
“khố rách áo ốm” đi qua cũng chỉ dám cúi đầu, anh nào ho he một tí thì bị chúng tìm cách
hại cho bằng được. Những hình ảnh ấy khiến ông “rợn cả người”. “Cả một cuộc đời đen
tối, lầm than cũ nổi lên trong ý nghĩ của ông. Nếu như trước đây, tình yêu làng và yêu
nước là hai tình cảm hòa quyện mang tính thống nhất trong ông thì giờ đây ông Hai lại
như bị kẹp chặt giữa cái ranh giới như thực như mơ ấy. Mà ông phải lựa chọn một trong
hai. Điều đó thật khó khăn biết nhường nào. Bởi lẽ làng là nơi chon rau cắt rốn, là máu thịt
là quên hương nhưng cách mạng mới chính là cánh cửa đưa ông cùng biết bao con người
khắc đi đến tự do, hòa bình. Để rồi ông đi đến quyết định: “Làng thì yêu thật, nhưng làng
theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy có nghĩa là ông đã hoàn toàn lựa chọn đi theo
cách mạng, theo cụ Hồ. Qua đó, ta thấy trong ông Hai vẫn luôn thường trực tình yêu sâu
sắc với tổ quốc, với đất nước không thể nào thay đổi.
Có thể nói, bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình, ngôn ngữ độc thoại nội
tâm sâu sắc, ngôi kể thứ ba đặt điểm nhìn trần thuật lên nhân vật ông Hai, Kim Lâm đã
làm nổi bật được tâm trạng đấu tranh nội tâm gay gắt của ông Hai, quá đó thể hiện tình
yêu làng, yêu nước thống nhất, mãnh liệt của nhân vật ông Hai. Ông Hai là nhân vật điển
hình cho tầng lớp nông dân thời kháng chiến chống Pháp có tình yêu với quê hương đất
91
nước , vượt qua mọi khó khăn thử thách. Hình tượng ông Hai trong đoạn trích cũng như
trong tác phẩm đã thể hiện chuyển biến mới của người nông dân khi thoát khỏi nô lệ và họ
đang hăng hái tham gia kháng chiến. Như giai đoạn trước cách mạng tháng 8, trong văn
học Việt Nam hiện thực thường xuyên phản ánh số phận bi kịch của những con người như
“chị Dậu” trong “Tất Đèn” của Ngô Tất Tố, “Lão Hạc “, “Chí Phèo” trong tác phẩm cùng
tên của nhà văn Nam Cao,...vốn mang những phẩm chất vốn có của người nông dân và
tình cảm có tính truyền thống, để rồi họ phải đi vào đường cùng không lối thoát. Nhưng
đến ông Hai thì lại khác biệt hoàn toàn. Ông được ánh sáng của cách mạng soi sáng và
thoát khỏi ách nô lệ thực dân. Nhờ kháng chiến, cuộc sống của ông Hai cũng như biết bao
người dân khác đã thay đổi hoàn toàn, bước sang một giai đoạn mới tươi sáng, đẹp đẽ hơn
gấp bội. Tình cảm thiêng liêng của ông Hai đã gợi cho con người biết bao tình cảm thiêng
liêng đáng quý với quê hương đất nước, và trách nhiệm góp phần đưa đất nước đi lên.
Như vậy, nhân vạt ông Hai trong đoạn trích trên đã trở thành tượng đài bất diệt trong
lòng bạn đọc. Ông là hình tượng tiêu biểu cho số phận người nông dân thuở ấy, mặc khó
khăn gian khổ, một lòng hướng về cách mạng, về đất nước. Dù cho lớp bụi thời gian có
phủ mờ đi tất cả thì nhân vật ông Hai cũng như truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân
vẫn còn nguyên giá trị, truyền cho thế hệ trẻ chúng ta trách nhiệm phải cố gắng học tập,
rèn luyện phẩm chất, không quay lưng với Tố Quốc, để xây dựng xã hội ngày càng một
giàu đẹp, văn minh.

Vẻ đẹp nhân vật anh thanh niên trong trích đoạn Lặng lẽ Sa Pa
Nhà phê bình văn học G.Jung từng viết: “Từ sự không thỏa mãn với đương thời,nỗi
buồn sáng tạo dẫn đưa nghệ sĩ đi vào bể sâu cho tới khi nó tìm thấy trong vô thức mình
cái nguyên tượng có khả năng bù đắp lại cao nhất sự tổn thất và què quặt của tinh thần
hiện đại”.Và trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa”,nhà văn Nguyễn Thành Long đã để nguyên
tượng ấy hiện lên đầy sức sống qua nhân vật anh thanh niên-một chàng trai với sự yêu
đời,yêu nghề,lạc quan,có trách nhiệm và khiên tốn.Điều đó được thể hiện rõ qua đoạn
trích “Hồi chưa vào nghề … những người khác đáng cho bác vẽ hơn”.
Được sáng tác năm 1970, “Lặng lẽ Sa Pa” ra đời giữa lúc miền Bắc đang hăng say
lao động sản xuất để xây dựng xã hội chủ nghĩa và chi viện cho miền Nam đánh Mĩ.Mỗi
người dân miền Bắc ý thức sâu sắc vai trò của bản thân mình đối với sự nghiệp chung của
đất nước ,đó là phải sống đẹp,sống có ích để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Nhân
vật anh thanh niên trở thành biểu tượng đẹp cho những con người tích cực,trách nhiệm
như thế.Qua câu chuyện nhà văn muốn khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp,ý nghĩa của những

92
công việc lao động mà những người đang nỗ lực cống hiến trong thầm lặng. Và đặc biệt
với đoạn trích trên thì những phẩm chất ấy càng nổi bật hơn cả.
Câu chuyện xoay quanh cuộc gặp gỡ giữa ông họa sĩ,cô kĩ sư và anh thanh niên
trong một chuyến đi thưc tế ở Lào Cai.Chính sự ưa nhìn,hòa đồng,dễ thương bên ngoài
của chàng thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu sống một mình trên đỉnh
núi Yên Sơn cao 2600m so với mực nước biển đã thu hút sự chú ý của ông họa sĩ và cô kĩ
sư.Sau khi được anh thanh niên mời lên nhà chơi,cả hai càng cảm phục hơn bởi những
phẩm chất đáng quý của anh.Cái tình cảm ấy càng thêm cảm động hơn qua những lời tâm
sự và suy nghĩ của anh thanh niên về công việc của chính mình.
Trước hết,điều đầu tiên ta thấy ở anh thanh niên là một người sống có lí tưởng,một
thanh niên thời đại mới.Anh còn đẹp ở tấm lòng yêu đời,yêu nghề,ở tinh thần trách nhiệm
cao với công việc lắm gian khổ.Anh kể “Hồi chưa vào nghề,nhiều đến bầu trời đen
kịt,nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao xa,cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một
mình”.Đó là suy nghĩ của một chàng trai tuổi mới lớn đang nhìn đời bằng ánh mắt ngây
thơ ,mơ mộng và cũng chưa nhận rõ sự việc.Nhưng khi vào nghề,anh lại “không nghĩ như
vậy nữa”,ta nhận thấy anh đã có bước thay đổi rõ rệt trong tâm lý.Không còn là cái nhìn
non nớt phiến diện,thay vào đó là sự chính chắn,trưởng thành của một con người là tương
lai của đất nước. “Vả,khi ta làm việc,ta với công việc là đôi,sao gọi là một mình được”.
Nói như thế,nghĩa là anh đã coi công việc là bạn đồng hành vô cùng thân thiết với mình
trong cuộc sống. Sau này,càng gắn bó,anh càng yêu nghề và có ý thức sâu sắc công việc
của mình là có ích,là cần thiết cho mọi người,cho đất nước,như đất hạn,mưa, đến nỗi anh
đã nói rằng : “Huống chi việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em, đồng chí dưới
kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất.”Mỗi khi
làm việc,anh thường tự nhủ “Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm
việc?”.Đó chính là ngọn lửa động lực tiếp thêm sức mạnh cho anh,thôi thúc anh thêm hăng
say làm việc. Anh hiểu, công việc chính là sợi dây gắn kết anh với tất cả mọi người xung
quanh, để anh có thể hoà nhập, để anh hạnh phúc hơn.Đối với anh,hạnh phúc là khi được
cống hiến,tận tụy với công việc. Mỗi khi rảnh rỗi, anh thường đọc sách và coi sách như
người bạn thứ 2 của mình vậy. Sách giúp anh bớt cô đơn giữa chốn hoang vu lạnh lẽo,
giúp anh có thêm nhiều kiến thức, giúp anh cân đối thời gian một cách hợp lý để đỡ thấy
nhớ nhà hơn. Sách và công việc đồng hành cùng anh trên mọi khoảnh khắc. Có lẽ,chính
những suy nghĩ với thái độ sống tích cực ấy đã khiến anh vượt qua khó khăn trong hoàn
cảnh sống và công biệc của mình để hướng tới cuộc sống đẹp và ý nghĩa hơn.
Sống trong hoàn cảnh ấy sẽ có người dần thu mình với nỗi cô đơn, nhưng anh lại
thật đáng yêu ở nỗi “thèm người” và lòng hiếu khách đến nồng nhiệt.Cứ mỗi lần bác lái xe
đi,về Lào Cai cứ đến đây dừng lại một lát.Chỉ cần rảnh rỗi,không vướng giờ ốp là anh lại
chạy xuống chơi,nhiều đến nỗi “thành lệ”.Trong suy nghĩ của anh,cái nỗi nhớ ấy anh cũng
chẳng định nghĩa được. “Nếu đó chỉ là nỗi nhớ phồn hoa đô thị thì thật xoàng”. Không
phải là nhớ những cái xô bồ tấp nập của thành thị, cũng chẳng phải là sự tiện nghi ồn ã của
chốn phố đông. Phải chăng,đó chính là tình người chân thật xuất phát từ tấm lòng của một
con người đang lặng lẽ cống hiến cho đất nước? Thật đáng quý đến nhường nào!
93
Công việc vất vả ,có những đóng góp quan trọng cho đất nước nhưng người thanh
niên hiếu khách và sôi nổi ấy lại rất khiêm tốn.Anh cảm thấy đóng góp của mình bình
thường,nhỏ bé ,chưa xứng đáng để nhận lời khen ngợi và cũng vẫn chưa bằng bố anh dẫu
anh đã có đóng góp lớn trong việc giúp không quân ta bắn rơi máy bay Mĩ trên cầu Hàm
Rồng.Trong suy nghĩ của anh,công lao của anh vẫn rất nhỏ bé,giống như giọt nước giữa
đại dương bao la,không có gì đáng để kể công cả.Bởi thế,anh từ chối lời đề nghị vẽ chân
dung của ông họa sĩ và sẵn sàng,hồ hởi giới thiệu cho ông họa sĩ những người khác mà
anh cho là xứng đáng được vẽ hơn.Ta có thể thấy ,dù trẻ tuổi,nhưng anh đã thấm thía được
cái tình,cái nghĩa của mảnh đất Sa Pa,thấm thía sự hi sinh thầm lặng của những con người
đang ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước.
Có thể nói,đoạn trích trên còn gây ấn tượng với người đọc từ nghệ thuật của
truyện.Với nghệ thuật kể chuyện đơn giản,tình huống tự nhiên cùng với ngôn ngữ giàu
tình cảm,vẻ đẹp của nhân vật đã được thể hiện lên qua cái nhìn của nhân vật khác,qua lời
nói,ý nghĩ,việc làm,Nguyễn Thành Long đã xây dựng nên nhân vật anh thanh niên với
nhiều phẩm chất tốt đẹp bằng lời văn ca ngợi tôn trọng :yêu nghề,yêu đời,yêu cuộc
sống,đất nước,sống chan hòa và khiêm tốn.Anh là nhân vật điển hình tiêu biểu của tuổi tre
Việt Nam những năm 60-70 của thế kỉ XX,trở thành tấm gương sáng ngời để mọi người
noi theo và học tập.Chính bức chân dung của anh đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng
về những con người đang ngày đêm lặng thầm cống hiến cho đất nước. Cùng viết về
những “anh hùng thầm lặng” đang ngày đêm lao động cống hiến cho đất nước trong giai
đoạn miền Bắc xhcn và miền Nam đang kháng chiến, ta có thể bắt gặp họ trong tác phẩm
“Mùa lạc” của Nguyễn Khải, Tập thơ “trời mỗi ngày lại sáng” của Huy Cận, “Gió lộng”
của Tố Hữu, “Ánh sáng và phù sa” của Chế Lan Viên,…. Vẻ đẹp nhẹ nhàng toát ra từ
phẩm chất, lý tưởng và công việc của họ thật đẹp, thật cao quý biết bao. Và ngoài kia, vẫn
còn đang có hàng nghìn hàng triệu những “anh hùng thầm lặng” như thế đã và đang ngày
đêm góp công xây dựng xã hội phát triển. Đoạn trích mang giá trị thời đại khi đã góp một
tiếng nói vào việc giúp con người nhận ra trách nhiệm của chính bản thân mình vào công
cuộc xây dựng Tổ quốc. Tuy nhiên trong xã hội vẫn còn những thành phần sống vô cảm,
thờ ơ dửng dưng không quan tâm đến bất kì điểu gì, có tư tưởng ăn sẵn trên thành quả
người khác mà không bỏ ra chút sức lực, hoặc chỉ làm có ít mà khoe khoang mọi nơi,
không biết lượng sức. Những người như thế thật đáng lên ấn và phê phán biết bao!
Như vậy, đoạn trích trên đã khắc hoạ thành công nên nhân vật ATN với nhiều
phẩm chất tốt đẹp. ATN chính là một hình tượng đẹp đẽ của nền văn học Việt Nam thời kì
kháng chiến. Đoạn trích cũng như toàn tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long
thật ý nghĩa, qua đó truyền cho thế hệ trẻ chúng ta trách nhiệm phải cố gắng học tập, rèn
luyện phẩm chất, nâng cao năng lực để xây dựng đất nước thêm giàu đẹp, văn

94
95
Phân tích đoạn văn thể hiện cảnh chia tay trong Chiếc lược ngà
Chiến tranh là thứ lấy đi hạnh phúc con người dù là nhỏ nhoi nhất. Nó mang lại sự
đau thương mất mát,mang lại sự dằn vặt tiếc nuối khi những người may mắn thấy hạnh
phúc mà không kịp cảm nhận được nó.Và đau lòng làm sao,lấy đi bao nước mắt bạn
đọc;Nguyễn Quang Sáng đã làm nổi bật tình phụ tử một cách thiêng liêng mà đầy ám ảnh
với cảnh chia tay đẫm nước mắt đau buồn trong đoạn trích “Chiếc lược ngà”.
Sáng tác năm 1966,những năm tháng khốc liệt của chiến tranh chống Mĩ đầy gian
khổ,hi sinh.Người lính ra đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc,ra đi để lại gia đình,để
lại trách nhiệm người cha,tình phụ tử.Có nỗi nhớ nào hơn nỗi nhớ con,nỗi nghĩ nào hơn
nỗi nghĩ con,thêm nghe đứa con chưa một lần gặp mặt gọi “ba”.Anh Sáu,bé Thu là hai
nhân vật được tác giả Nguyễn Quang Sáng khắc lên không chỉ phản ánh sự thật khốc liệt
của chiến tranh mà còn là thể hiện nỗi niềm người cha,nỗi khát vọng người con luôn muốn
có cha bên mình.Chỉ tiếc rằng nỗi mong muốn,khát vọng ấy đã vô tình bị sự hiểu lầm,sự
bướng bỉnh che đi.Đó là cả bầu trời nuối tiếc.Để làm nên cái nuối tiếc,làm nên tình phụ tử
thiêng liêng Nguyễn Quang Sáng đã đặt nhân vật anh Sáu vào hoàn cảnh như bao người
lính ra đi khi chưa biết mặt con.Đến lúc trở về tưởng được ôm sà đứa con vào lòng thì lại
bị vết thẹo dài trên mặt anh khiến con bé sợ hãi,không nhận cha vì anh khác với người
chụp chung cùng má nó quá.Gần ba ngày,anh cố dịu dàng,giành hết tình thương cho cô
con gái bướng bỉnh nhưng rồi vì quá nóng giận anh đã lỡ đánh con-điều làm anh hối hận
nhất.Chiến tranh ngăn cách tình cha con.Vết sẹo ngăn cách hạnh phúc khi mọi hiểu lầm
được hóa giải,tình phụ tử được bật ra trong buổi chia tay đẫm nước mắt-được Nguyễn
Quang Sáng viết nên làm điểm sáng trong bài.
96
Có lẽ người nuối tiếc,ân hận nhất chính là bé Thu,vì sự bướng bỉnh,cứng đầu
của mình cô bé đã làm ngắn thời gian ba ngày được hưởng tình phụ tử còn vài phút
lúc chia tay.
Phải chăng sự xấu hổ làm cô bé dù biết được sự thật,muốn ào ra ôm lấy ba mình lại
đứng nép một góc tường trong nhà nhìn ba nó ngày càng xa cách.Nhìn với “đôi mắt mênh
mông”đầy nuối tiếc.Không biết con bé nghĩ gì ,nhìn gì nhưng khi anh Sáu nói lời chia tay
có cái gì kéo con bé gọi tiếng “ba”.Tiếng kêu của bé Thu “như tiếng xé,xé im lặng và xé
cả ruột gan mọi người nghe thật xót xa ”.Tiếng “ba” đó là sự dồn nén trong nó tám năm
nay,dồn lên mạnh mẽ và mãnh liệt.Tiếng “ba” như tiếng vỡ òa từ lòng con bé,cái vỡ òa
của tình phụ tử ,niềm khao khát muốn có cha bên mình.Và giờ đây,tiếng “ba” trong nó
vang lên một cách tự nhiên ,ngỡ ngàng trong phút cuối cha con chia tay.Nó gọi “ba” cũng
đủ thấy nó thèm khát ba như thế nào và sự thèm khát còn hơn thế nữa khi “nó vừa kêu vừa
chạy xô tới,nhanh như một con sóc,nó chạy thót dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”cái
ôm,cái giữ chặt ấy như níu kéo tình phụ tử ,níu kéo một chút hạnh phúc nhỏ nhoi nó chưa
bao giờ được hưởng.Nhưng sức nó vẫn chưa đủ để giữ được ba nó mà bị chiến tranh,tiếng
gọi Tổ quốc kéo ba nó đi.Nó chỉ cố ôm ba nó chặt hơn “Nó hôn lên tóc,hôn cổ,hôn vai và
hôn cả cết thẹo dài trên má của ba nó nữa”.Thu hôn vết thẹo cũng một phần nào là sự xót
thương,ân hận một chút tức giận vì chiến tranh để lại vết thẹo trên mặt ba nó,thứ ngăn
cách tình phụ tử.Một lần nữa anh Sáu lại ra đi như lần nó còn bé tí.Một lần nữa cái nỗi đau
quoằn quại lại nổi lên trong nó,nỗi đau chờ cha,mong cha sao đau bằng nỗi đau cha nói lời
chia tay?Nó chỉ biết thét “không”,chỉ biết “siết chặt lấy cổ” chỉ biết “dang hai chân rồi câu
chặt lấy ba nó” nhưng nó đâu biết rằng hai tay không giữ nổi ba nó và bờ vai nhở bé run
rẩy ấy không kéo ba nói khỏi chiến trường khốc liệt.
Phải nói Nguyễn Quang Sáng rất am hiểu về trẻ con nên mới xây dựng thành công
nhân vật bé Thu với tính cách mạnh mẽ ,sâu sắc nhưng cũng rất dứt khoát rạch ròi có nét
cá tính,cứng cỏi đến mức ương ngạnh.Dù vậy cô bé vẫn là đứa trẻ ngây thơ,đứa trẻ khao
khát muốn có cha,đứa trẻ làm người đọc rơi lệ vì xót thương.Vì hạnh phúc ngay trước mắt
mà xa tận chân trời.Ôi!Chắc cô bé có bao nhiêu tiếc nuối ân hận.Nhưng ta cũng nhìn thấy
ở cô bé tình yêu thương dạt dào chân thành,thắm thiết mà cô bé dành cho cha.Tình cảm đó
hiện lên ấm áp trong khói lửa chiến tranh.
Còn anh Sáu thì sao,anh có đau khổ,buồn bã như bé Thu?
Không kém gì con,anh cũng muốn ôm nó,hôn nó đấy nhưng lại sợ “nó giẫy lên bỏ
chạy” anh lại thôi.Anh chỉ đám nhìn nó bằng “đôi mắt trìu mến buồn sầu” bằng sự xót
xa,yếu đuối của người lính.Trước đứa con gái bé bỏng.Khi nói lời chia tay với con,anh nói
khẽ như sự ngại ngùng,buồn tủi,sự tuyệt vọng không còn hi vọng.Anh nói “Thôi,ba đi
nghe con”.Từ “thôi” anh nói ra như cái kim đâm vào tim anh. “Thôi” giống như buông
bỏ,như cái kết thúc của sự chờ mong bao lâu.Anh từng mong con,từng gọi con,từng vội
vàng nói “Thu con” khao khát muốn ôm con.Giờ chia tay rồi,cái nỗi niềm đó như nguôi
lạnh,…Anh vẫn yêu con đấy nhưng yêu trong sự dằn vặt,tiếc nuối,bất lực không thể khiến
hạnh phúc đến bên mình.Nhưng có cái gì bất ngờ đến với anh,hình như ông trời vẫn còn

97
thương cho người lính đã chịu nhiều khốn khổ này.Ông đã làm thỏa mãn nỗi lòng anh.Lần
đầu tiên nghe con gọi “ba”, nhảy xà vào lòng anh,anh như bất động.Tiếng “ba” con bé gọi
như bén lửa vào lòng anh làm bùng cháy lên tình phụ tử thiêng liêng nồng cháy hơn bao
giờ hết.Tiếng “ba” tiếng gọi tưởng đơn giản mà có ý nghĩa vô cùng lớn với người lính bao
năm mong chờ nó:Anh bé nó,ôm chặt nó.Chắc có lẽ cái đau khổ ở chiến trường cũng
không mang lại cho anh cái nỗi xúc động,xót xa khi giờ níu kéo còn vài phút.Vài phút
ấy,anh cố mạnh mẽ,gìm xúc động,cố trở thành người cha kiên cường “không muốn cho
con thấy mình khóc”.Nhưng dù kiên cường,mạnh mẽ đến đâu người lính cũng là người
cha,cũng đau đớn rơi nước mắt vì tình phụ tử,vì sự tiếc nuối dằn vặt sao hạnh phúc đến với
anh ít ỏi đến thể.Anh ôm con, “rút khăn lau nước mắt” hôn lên mái tóc đứa con chờ mong
mấy năm trời gần như lần cuối,nói với con lời từ biệt mà tim như rỉ máu xót xa “Ba đi rồi
ba về với con?”. Anh nói anh đi mà biết bao giờ trở về gặp con lần nữa.Tình phụ tử của
anh giành cho con gái mới thiêng liêng mộc mạc chân thành làm sao?Khắc họa lên nhân
vật anh Sáu như vậy ,tác giả có biết ông làm cho bao người đọc roi lệ,rơi vì thương vì
buồn,tiếc nuối cho tình cha con cao đẹp đó.
Bạn thấy đấy,Nguyễn Quang Sáng đâu có dùng những ngôn từ hoa mỹ,trau chuốt
từng câu văn mà vẫn làm nổi bật lên tình phụ tử thiêng liêng,cảm động cuốn hút người đọc
nhờ những ngôn từ giản dị,đậm chất Nam Bộ và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc
,xoáy sâu vào tình cảm cha con.Người đọc như rơi lệ trước cảnh phụ tử bên nhau mà chiến
tranh ngăn cách họ.Thật thương cho bé Thu,ông Sáu!Thật đau lòng căm tức chiến
tranh.Ngỡ “vết thẹo” là cái giá quả nhỏ mà chiến tranh để lại trên gương mặt người
lính.Nhưng chiến tranh đâu “nhân từ” đến vậy.Nó để lại ít nỗi đau thể xác mà nhiều nỗi
đau tinh thần.Vết thẹo khiến bé Thu không nhận ra ông Sáu,khiến thời gian hưởng hạnh
phúc của họ trở nên ngắn ngủi,đầy tiếc nuối,dằn vặt.Cái “vết thẹo” ấy tựa như “hạt các
vàng” trong chi tiết có giá trị giống như “cái bóng” trong “Chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ hay “chiếc lá cuối cùng” của Ô-Hen-ri tất cả đều như một cái đòn
bẩy thúc đẩy ý nghĩa của câu chuyện làm tăng tính “nhân sinh” trong tác phẩm. “Vết thẹo”
ở đây làm cho người đọc căm giận chiến tranh hiểu được giá trị quan trọng mà hòa bình
mang lại.Hòa bình được tạo nên từ xương máu bao nhiều như cha bé Thu.Có hòa bình ta
mới có một gia đình hạnh phúc có cha,có mẹ có bữa ăn ấm cúng.Vậy mà nhiều người
không biết coi trọng hòa binhg,coi hạnh phúc gia đình là điều bình thường.Họ phải biết
rằng sống trong cái đâu khổ tột cùng của chiến tranh cái thiếu thốn của vật chất của tình
thương,ông Sáu bé Thu là tình cha con chưa biết đến hạnh phúc đã phải lìa xa.Đâu chỉ có
hai người cha con họ,biết bao tác giả đã phê phán “con quỷ” làm chia lìa hạnh phúc gia
đình như Nguyễn Đình Thi cũng ca ngợi tình cảm phụ tử cảm động trong chiến tranh với
tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”.Chiến tranh là vậy ghê rợn và hãi hùng,lấy đi
hạnh phúc con người,tình cảm gia đình.Vậy nên sống trong hòa bình được hưởng thứ hạnh
phúc thiêng liêng đó,chúng ta phải biết coi trọng ,giữ gìn và cảm ơn nhưng người từ bỏ
“hạnh phúc” thiêng liêng để tìm hòa bình ,hạnh phúc cho thời đại chúng ta sống.
Tình cảm phụ tử mới là thiêng liêng cao đẹp làm sao! Nguyễn Quang Sáng đã mang
lại buổi chia tay cảm động có ý nghĩa nhân sinh có giá trị quan trọng trong mọi thời đại.Và

98
nó như là một hành trang không thể thiếu trong giới trẻ chúng ta.Để chúng ta biết coi trọng
hòa bình lên án chiến tranh và biết giữ gìn tình cảm gia đình thiêng liêng đáng quý.

99

You might also like