Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 11

MÔN CÔNG NGHỆ CHẾ BIẾN VÀ BẢO QUẢN THỊT VÀ THỦY

SẢN
ĐỀ TÀI: KHẢO SÁT QUÁ TRÌNH CHIẾT XUẤT CHITOSAN Ở
VỎ CUA

GVHD: Lý Thị Minh Hiền


Lớp: DH21FT01
Nhóm: 7
Họ và tên các thành viên:
Phạm Thành Duy – 2153023023

Phạm Anh Tuân – 2153023128


Nguyễn Quốc Khang -

Nguyễn Duy Khương -

Trần Quốc Tuấn –

TP.HCM, ngày 30 tháng 6 năm 2024


MỤ C LỤ C:
MỞ ĐẦU...................................................................................................................................................................................... 4
1.1 Chitin và Chitosan..............................................................................................................................................................4
1.1.1 Nguồn gốc Chitin, Chitosan........................................................................................................................................4
1.1.2 Chitin, Chitosan là gì?.................................................................................................................................................5
1.1.3 Cấu tạo.........................................................................................................................................................................5
a) Tính chất vật lý của Chitosan......................................................................................................................................6
MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hiện nay, việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững đang trở thành mục tiêu hàng đầu
của nhiều quốc gia, Việt Nam đang đứng trước những thách thức và cơ hội lớn. Là một quốc gia có nền kinh
tế phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp và thủy sản, ngành công nghiệp thủy sản phát triển mạnh mẽ đã tạo ra
lượng lớn phế thải từ vỏ cua. Một lượng lớn vỏ cua bị vứt bỏ ở chợ và công ty hải sản trong những năm gần
đây do sự gia tăng dân số và tiêu thụ hải sản. Việc sản xuất liên tục các vật liệu sinh học tái tạo này mà
không phát triển công nghệ sử dụng đã dẫn đến các vấn đề về môi trường. Những phế phẩm này nếu không
được xử lý đúng cách sẽ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Vỏ cua chứa một lượng đáng kể chitin, sắc
tố, protein và chất béo. Việc tái chế và tận dụng các phế phẩm này để chiết xuất Chitosan không chỉ giúp
giảm thiểu ô nhiễm mà có tiềm năng ứng dụng lớn cho các ngành công nghiệp y tế, trị liệu, mỹ phẩm, giấy,
bột giấy và dệt may, công nghệ sinh học và công nghiệp thực phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị
trường đối với các sản phẩm tự nhiên và thân thiện với môi trường.

Chitosan là một polyme tuyến tính của d -glucosamine và N -acetyl- d -glucosamine có thể được tạo ra
bằng cách deacetyl hóa chitin. Chitosan đã được báo cáo là có nhiều đặc tính vật lý và sinh học dẫn đến các
ứng dụng khác nhau như mỹ phẩm, dược phẩm, công nghệ sinh học, nông nghiệp, chế biến thực phẩm và
dinh dưỡng. Sự đông tụ và keo tụ trong lĩnh vực xử lý nước và nước thải là ứng dụng đặc biệt của vật liệu
Chitosan do chi phí thấp và thân thiện với môi trường. Chitosan sở hữu một số đặc tính nội tại phù hợp như
một chất keo tụ và keo tụ hiệu quả để loại bỏ các chất rắn lơ lửng như mật độ điện tích cation cao, chuỗi
polymer dài và kết nối các cốt liệu. Đặc biệt là những vật liệu không độc hại, không bị ăn mòn và an toàn khi
xử lý. Tuy nhiên, Chitosan có hiệu quả trong phạm vi pH hạn chế và chỉ hòa tan trong axit hữu cơ loãng, đây
là những hạn chế tiềm ẩn trong việc ứng dụng Chitosan.

Việc chiết xuất Chitosan thương mại từ vỏ cua đã được tiến hành bằng cách xử lý hóa học hoặc sinh học
trong nhiều thập kỷ qua. Phương pháp chiết xuất và tinh chế chitin hóa học được coi là tiêu tốn năng lượng
và nguy hiểm cho môi trường do phải xử lý bằng axit và bazơ mạnh. Phương pháp sản xuất chitosan sinh
học sử dụng lên men vi sinh vẫn chưa đạt hiệu suất mong muốn so với phương pháp hóa học. Vôi (canxi
oxit) được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau để tăng cường độ ion nhằm chiết xuất protein
do giá thành rẻ. Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu được thực hiện để sản xuất chitosan bằng vôi từ chất thải động
vật có vỏ. Ngoài ra, chitosan còn được sử dụng như một chất làm đặc và ổn định trong các sản phẩm thực
phẩm như nước giải khát, sữa chua, và các loại nước sốt, giúp cải thiện cấu trúc và độ ổn định của sản phẩm
trong quá trình lưu trữ và vận chuyển. Không chỉ vậy, chitosan còn có khả năng tạo thành màng bọc sinh
học, bảo vệ thực phẩm khỏi vi khuẩn, giữ ẩm và kéo dài tuổi thọ của sản phẩm mà không gây hại cho môi
trường.

Vì vậy việc khảo sát quá trình chiết xuất Chitosan từ vỏ cua không chỉ có ý nghĩa khoa học và công nghệ
mà còn mang lại lợi ích kinh tế và môi trường to lớn. Nghiên cứu này mở ra cơ hội tận dụng các nguồn tài
nguyên tái tạo, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và phát triển các sản phẩm sinh học có giá trị cao. Việc phát
triển các phương pháp chiết xuất Chitosan hiệu quả là cần thiết để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị
trường và xu hướng phát triển bền vững. Nghiên cứu này không chỉ góp phần vào kiến thức khoa học cơ bản
mà còn giúp phát triển các công nghệ mới, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ môi trường.
Chitosan, với những đặc tính ưu việt của mình, hứa hẹn sẽ tiếp tục là một trong những nguyên liệu quan
trọng trong tương lai, đóng góp vào sự phát triển bền vững của xã hội.

I: TỔNG QUAN
1.1 Chitin và Chitosan
1.1.1 Nguồn gốc Chitin, Chitosan
Chitin được tìm thấy chủ yếu ở hai nguồn sau đây:
Từ động vật bậc thấp: Chitin là chất hữu cơ chủ yếu trong võ mai ( bộ xương ngoài của động vật không
xương sông). Theo Richard, chitin được tìm thấy trong lớp vỏ cuốn của loài chân đốt. Ngoài ra. Chitin còn
được tìm thấy trong tế bào ông của loài mực, ở lớp võ bao ngoài của loài Bọ cánh cùng trong lớp vỏ mai của
loài giáp xác trong loại nhẹn và bướm. Chitin thường có khoảng 25%- 50% trên lượng khan của lớp cutin
thành phần khác chủ yếu là protien và calci carbonat.
Từ thực vật bậc thấp: Nguồn gốc của chitin trong thực vật giới hạn ở một số loài nấm và táo. Trong năm
chitin đóng vai trò như cenlulose trong các loài cây Người ta đưa các giả thiết khác nhau về sự hiện diện của
chitin hoặc cenlulose làm cơ sở cho mối quan hệ phát sinh giữa các nhóm của giống nấm đặc biệt là
phycomecetus. Qua phân tích băng tia X, Frey đã xác nhận rằng chitin và cenlulose không hiện diện đồng
thời. Chitin hiện diện trong tào xanh bằng phương pháp vi hóa học Roelofsen và Hoette đã tìm thấy chitin
trong nấm men Kreger cũng thu được chitin trong một số loài nấm men bằng nhiễu xạ tia X lớp vỏ ngoài của
loài nấm mà nó được liên kết với những thành phân khác. Lương chitin được tinh chế từ một số loài nấm
thông thường từ 3%- 5%.
Chitosan được tạo ra từ chitin thông qua một quá trình gọi là deacetylation, trong đó các nhóm acetyl (-
COCH₃) được loại bỏ khỏi chitin. Quá trình này thường được thực hiện bằng cách xử lý chitin với dung dịch
kiềm (như natri hydroxit) ở nhiệt độ cao.

1.1.2 Chitin, Chitosan là gì?


Chitin là một polysaccharide cấu trúc chính được tìm thấy trong vỏ của côn trùng, giáp xác (như tôm,
cua), và thành tế bào của nấm. Chitin là một polyme sinh học rất phổ biến trong tự nhiên và đứng hàng thứ
hai chỉ sau celluloze. Chitin tham gia vào thành phần cấu tạo của vách tế bào nấm, cấu tạo nên bộ khung
xương của vỏ tôm của côn trùng, các động vật giáp xác. Trong các loại nguyên liệu này, chitin liên kết chặt
chẽ với protein, lipid, các muối vô cơ (CaCO;) và các sắc tố màu (astarene, astaxanthin, canthaxanthin,
lutin...).
Chitosan là dẫn xuất của chiến, nó được tạo thành bởi phản ứng deacetyl hóa chitin. Khi chitin được xử lý
với các chất kiếm đậm đặc ở nhiệt độ cao (1200C) trong dung dịch nó sẽ bị loại nhóm acetyl và bị phân huỷ
khác nhau để cho ra một sản phẩm là chitosan. Vậy chitosan không phải là một đơn chất mà nó là một nhóm
sản phẩm của chitin bị loại nhóm acetyl từng phần.
1.1.3 Cấu tạo
1.1.3.1 Cấu tạo Chitin
Cấu trúc của kitin được xác định bởi Albert Hofmann vào năm 1929. Hofmann thủy phân kitin bằng cách sử
dụng chế phẩm thô của enzyme chitinase, mà ông thu được từ ốc sên Helix pomatia.
chitin là một polysaccharide biến đổi có chứa nitơ; nó được tổng hợp từ các đơn vị N -acetyl- D -
glucosamine (chính xác là 2- (acetylamino) -2-deoxy- D -glucose). Các đơn vị này tạo thành liên kết cộng
hóa trị β- (1 → 4) (giống như liên kết giữa các đơn vị glucose tạo thành cellulose). Do đó, chitin có thể được
mô tả là cellulose với một nhóm hydroxyl trên mỗi monome được thay thế bằng một nhóm acetyl amin. Điều
này cho phép tăng liên kết hydro giữa các polyme liền kề, làm tăng độ bền của ma trận chitin-polyme.

Cấu tạo chitin


Ở dạng nguyên chất, không biến tính, kitin trong mờ, dẻo, đàn hồi và khá dai. Tuy nhiên, ở hầu hết các động
vật chân đốt, nó thường bị biến đổi, phần lớn xuất hiện dưới dạng thành phần của vật liệu composite, chẳng
hạn như trong sclerotin, một chất nền protein rám nắng, tạo thành phần lớn bộ xương ngoài của côn trùng.
Kết hợp với calci cacbonat, như trong vỏ của động vật giáp xác và động vật thân mềm, kitin tạo ra một hỗn
hợp mạnh hơn nhiều. Vật liệu composite này cứng và cứng hơn nhiều so với kitin nguyên chất, đồng thời
cứng hơn và ít giòn hơn calci cacbonat nguyên chất. Có thể thấy sự khác biệt khác giữa dạng tinh khiết và
dạng hỗn hợp bằng cách so sánh thành cơ thể mềm dẻo của sâu bướm (chủ yếu là kitin) với thành elytron
cứng, nhẹ của bọ cánh cứng (chứa một tỷ lệ lớn sclerotin).
 Sợi chitin: Các chuỗi chitin liên kết lại với nhau để tạo thành các sợi microfibrils. Những sợi này có
độ bền cao và là thành phần chính trong cấu trúc của nhiều sinh vật.
 Ma trận: Trong sinh vật, chitin thường không tồn tại đơn độc mà thường liên kết với các protein và
các polysaccharide khác để tạo thành một ma trận phức tạp, giúp tăng cường tính chất cơ học và bảo
vệ của chitin.
Chitin là một polymer sinh học rất phổ biến trong tự nhiên và đứng hàng, thứ hai chỉ sau cellulose. Chitin
tham gia vào thành phần cấu tạo và vách tế bào. nấm, cấu tạo nên bộ khung xương của tôm, cua, côn trùng,
các động vật giáp xác... Trong các nguyên liệu này, chitin liên kết chặt chẽ với protein, lipid và các muối vô
cơ ( CaCO3 ) và các sắc tố màu ( astarene, astaxanthin, canthaxanthin, lutin...)
Chitin là 1 polysaccharide chứa nito, trắng, cứng, không đàn hỏi, không tan trong nước, trong môi trường
kiềm, acid loãng và các dung môi hữu cơ như ete, rượu.... Chitin hòa tan được trong dung dịch đậm đặc,
nóng của muối thyoxyanat liti (LiSCN) và muối thyoxyanat canxi (Ca(SCN)2) tạo thành dung dịch keo.
Chitin ở thể rắn có độ kết tỉnh cao do gốc – NHCOCH3 ở vị trí cacbon thứ hai, làm tăng liên kết hydro giữa
các mạch và trong mạch với nhau.
Chitin ổn định với các chất oxy hóa khử như KMnO4, H2O2, NaClO hay Ca(ClO)2... có thể lợi dụng tính
chất này để khử màu chitin. Khi đun nóng trong môi trường kiểm đậm đặc chitin bị khử gốc acetyl tạo thành
chitosan. Chitin không hòa tan trong hầu hết các dung môi thông thường nên khả năng ứng dụng bị hạn chế.
Do đó người ta thực hiện quá trình deacetyl hóa chitosan đề tạo ra sản phẩm chitosan nhằm cải thiện độ hòa
tan, tăng khả năng ứng dụng trong nhiều lĩnh vực.

1.3.1.2 Cấu tạo của Chitosan

Cấu tạo Chitosan:

a) Tính chất vật lý của Chitosan

Chitosan là dẫn xuất của chitin, nó được tạo thành bởi phản ứng deacetyl chitin. Khi chitin được xử lý
với các chất kiềm đặc ở nhiệt độ cao 120C trong dung dịch, nó sẽ bị loại nhóm acetyl và bị phân hủy khác
nhau để cho ra sản phẩm là chitosan. Vậy chitosan không phải là một chất đơn thuần mà nó là một nhóm sản
phẩm của chitin bị loại nhóm acetyl từng phần (Attila E, Pavlath và Dominic 'W.S.Wong, 1996)

Chitosan là sản phẩm biến tính của chitin, là một chất rắn xốp, nhẹ, hình vảy, màu trắng ngà, không
mùi, không vị hay được dùng nhiều nhất trong y tế và trong thực phẩm. Chitosan được khám phá bởi
(Roughet vào năm 1859), và nó được đặt tên là chitosan bởi nhà khoa học người đức Hoppe Seyler vào năm
1894. Chitosan là polymer hữu cơ tự nhiên duy nhất mang điện tích dương, điều này tạo cho chitosan những
thuộc tính đặc biệt nhất.
Chitosan là polymer không độc, có khả năng phân hủy sinh học và có tính tương thích về mặt sinh học.
Trong nhiều năm qua, các polymer có nguồn gốc từ chitin, đặc biệt là chitosan đã được chú ý như một loại
vật liệu mới có tính ứng dụng trong các ngành công nghiệp như dược, y học, thực phẩm, xử lý nước thải.

Chitosan có tính kiềm nhẹ, không tan trong nước, trong kiềm, hoặc các dung môi hữu cơ khác nhưng
hòa tan được trong dung dịch acid loãng như: acid acetic, acid formie, acid lactice, HCI, HI, HNO3... tạo
thành dung dịch keo nhớt trong suốt. Chitosan hòa tan trong dung dịch acid acetic 1 - 1,5%. Chitosan kết
hợp với aldehit trong điều kiện thích hợp để hình thành gel, đây là cơ sở đề bẫy tế bào, enzyme.

Chitosan hình thành muối tan được trong nước với một nhóm acid hữu cơ. Những nghiên cứu về muối
của chitosan và các acid aromatic carboxylic cũng cho thấy khả năng tan được trong nước như chitosan
benzoate, chitosan o-amino benzoate và cũng có một số muối không tan hoặc ít tan trong nước như chitosan
phenylacetate... Còn muối của chitosan và acid formic, acid acetic tan rất tốt trong nước.

Bản chất điện ly cao phân tử của chitosan trong dung dịch acid: Trong dung dịch acid, những nhóm
amin của chitosan bị proton hóa và thể hiện bản chất của chất điện ly cao phân tử. Trong dung dịch loãng
không có mặt chất điện ly, chỉ số độ nhớt tăng theo sự tăng nồng độ dung dịch chitosan. Đây là đặc trưng
của những dung dịch chất điện ly cao phân tử và là kết quả của sự tăng kích thước sợi khi pha loãng dung
dịch do lực đây tĩnh điện giữa các đoạn mạch. Lực đẩy này có thể bị khử mất nằng cách thêm một chất điện
ly trọng lượng phân tử thấp có tác dụng che những phần mang điện trên mặt polymer. Và đồng thời, chỉ số
độ nhớt cũng giảm theo nồng độ chitosan cho trước. Chitosan có khả năng tích điện đương do đó nó có khả
năng kết hợp với những chất tích điện âm như chất béo, lipid và acid mật.

Chitosan là chất có độ nhớt cao. Độ nhớt của chitosan phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ deacetyl
hóa, khối lượng nguyên tử, nồng độ dung dịch, độ mạnh của lực ion, pH và nhiệt độ...

Mức độ deacetylation ( DDA): là độ chuyển hóa chitin thành chitosan. Quá trình loại nhóm acetyl khỏi
chuỗi phân tử chitin và hình thành phân tử chitosan với nhóm amin hoạt động hóa học cao. Mức độ
deacetylation là một đặc tính quan trọng của quá trình sản xuất chitosan bởi vì nó ảnh hưởng đến tính chất
hóa lý và khả năng ứng dụng của chỉtosan sau này. Thông thường mức độ deacetylation chitosan đạt khoảng
85 —› 95 %. Chitosan có mức độ deacetylation khoảng 75 % trở. lên thường được gọi là chitosan. Chitosan
thương mại ít nhất phải có mức DDA (degree of deacetylation) hơn 70 %. Có rất nhiều phương pháp đề xác
định mức độ deacetyl hóa của chitosan bao gồm : thử ninhydrrin, chuẩn độ điện thế, quang phổ hồng ngoại,
chuẩn độ bằng HI... Khối lượng phân tử trung bình ( MW) : được xác định qua độ nhớt của dung dịch
chitosan và có giá trị biến đổi từ 100000 — 500000 g/mol ( Li, 1997; Onsoyen và Skaugrud, 1990) tùy theo
từng loại chitosan. Thông thường, nhiệt độ Cao sự có mặt của oxy và sức kéo có thể dẫn đến phân hủy
chitosan. Giới hạn nhiệt độ là 280C, sự phân hủy do nhiệt độ có thể xảy ra và mạch polymer nhanh chóng bị
phá vỡ, do đó khối lượng phân tử giảm. Nguyên nhân quá trình depolymer là sử dụng nhiệt độ cao và acid.
như HCI, H2SO4 dẫn đến thay đổi khối lượng phân tử.
Độ nhớt là nhân tố quan trọng đề xác định khói lượng phân tử của chitosan. Chitosan phân tử lượng cao
thường làm cho dung địch có độ nhớt cao. Một số nhân tố trong quá trình sản xuất như mức độ deacetyl hóa,
khối lượng nguyên tử, nồng độ dung dịch, độ mạnh của lực ion, pH và nhiệt độ ảnh hưởng. đến sản xuất
chitosan và tính chất của nó. Ví dụ độ nhớt của chitosan tăng khi thời gian khử khoáng tăng. Độ nhớt của
chitosan trong dung dịch acid acetic tăng khi pH của dung dịch này giảm, tuy nhiên nó lại giảm khi pH của
dung dịch HCI giảm, việc tăng này đưa đến định nghĩa về độ nhớt bên trong của chitosan, đây là một hàm
phụ thuộc của mức độ ion hóa của lực ion .

1.1.4 Tính chất hóa học của Chitosan


Trong phân tử chitosan có chứa các nhóm chức -OH, -NHCOCH: trong các mắt xích N-acetyl- D-
glucosamine và nhóm -OH, nhóm -NH2 trong các mắt xích D-glucosamine có nghĩa là chúng vừa là ancol
vừa là amin. Phản ứng hóa học có thể xảy ra ở vị trí nhóm chức tạo ra dẫn xuất thế O-, dẫn xuất thế -N, hoặc
các dẫn xuất thế O-, N-
Mặt khác chitosan là những polyme mà các monome được nối với nhau bởi các liên kết β- 1→4
glycoside, các liên kết này rất dễ bị cắt đứt bởi các chất hóa học như acid, tác nhân oxy hóa và các enzyme
thủy phân. Phản ứng thủy phân trong môi trường acid: ~_ Trong môi trường acid chitosan bị thủy phân
nhưng mức độ thủy phân phụ thuộc vào loại acid, nồng độ acid và một số các yếu tố khác như nhiệt độ, thời
gian phản ứng. Những kết quả cho thấy:
Trong môi trường H2SO4; sự thủy phân chitosan kèm theo quá trình N- Sulphate hóa, cho sự phân hóa
ngẫu nhiên các mạch phân tử.
Trong môi trường HE, chỉtosan cũng bị thủy phân nhưng kém hơn chitin, tạo thành hỗn hợp các oligome sau
19h ở 205C.
Trong môi trường acid khác như HCI, H:PO:... sự thủy phân cũng xảy ra ở những mức khác nhau.
Chitosan là một polymer mang điện tích dương nên xem làmột polycationic (pH<5), có khả năng bám dính
trên bề mặt có điện tích âm như protein, aminopolysaccharide (alginate), acid béo và phospholipid nhờ sự có
mặt của nhóm amino (NH›) ( Knorr, 1984; Muzzanelli, 1996).
- Các phản ứng của nhóm -OH:
+ Dẫn xuất sunfat
+ Dẫn xuất O - axyl của chitin/chitosan
+ Dẫn xuất O - tosyl hóa chitin/chitosan
- Phản ứng ở vị trí N:
+ Phản ứng N - acetyl hóa chitosan.
+ Dẫn xuất N - sunfat chỉtosan
+ Dẫn xuất N - glycochitosan
+ Dẫn xuất acroleylen chitosan
+ Dẫn xuất aroleylchitosan
- Phản ứng xây ra tại vị trí O, N:
+ Dẫn xuất O, N - cacboxymetyl chỉtosan
+ Dẫn xuất N,O-caboxychitosan.
+ Phản ứng cắt đứt liên β- 1→4 glycoside
+ Chitosan phản ứng với acid đậm đặc tạo muối khó tan
Chitosan phản ứng với iot trong môi trường H2SO4 cho phản ứng lên màu tím. Đây là phản ứng dùng trong
phân tích định tính chitosan

1.2 Ứng dụng Chitin – Chitosan

1.2.1 Ứng dụng dược phẩm


Chitosan được nghiên cứu trong lĩnh vực y sinh với mục đích cầm máu cho các vết thương. Dung dịch
chitosan được pha vào trong thuốc cầm máu, kết quả cho thấy sau khi cầm máu thì vết thương giảm được
sưng tấy và mau liền da. Chitosan là một polysaccharide có nguồn gốc từ chitin, một thành phần chính của
vỏ tôm, cua và các sinh vật biển khác. Nó có khả năng tương tác với các mô mềm và hình thành một màng
bám, giúp ngăn chặn hoặc giảm thiểu sự chảy máu.
Ngoài tính chất cầm máu, chitosan còn có khả năng kháng khuẩn và kháng nấm, giúp ngăn ngừa nhiễm
trùng từ các vết thương. Điều này làm cho chitosan trở thành một lựa chọn lý tưởng để sử dụng trong điều trị
và bảo vệ chống lại các biến chứng do nhiễm trùng.

1.2.2 Ứng dụng trong công nghiệp thực phẩm


Chitosan được sử dụng làm vật liệu đóng gói để cải thiện quá trình chế biến thực phẩm. Chitosan đã thu
hút sự chú ý do ứng dụng của nó trong thực phẩm và dược phẩm. Hoạt tính kháng khuẩn và kháng nấm của
chitosan là một số đặc tính hấp dẫn nhất để cải thiện việc bảo quản thực phẩm và giảm việc sử dụng chất bảo
quản hóa học. Một nghiên cứu đã báo cáo việc sử dụng chitosan kết hợp với tinh dầu, sử dụng quy trình
đóng gói nano, có tiềm năng ứng dụng trong công nghiệp thực phẩm. Do thực tế là các loại tinh dầu như
thymol, eugenol và carvacrol có trong tinh dầu húng tây, đinh hương và húng tây dễ bị phân hủy dưới ánh
sáng, không khí và nhiệt độ cao, nên gần đây công nghệ đóng gói nano đã được phát triển như một kỹ thuật
hiệu quả để bảo vệ chúng khỏi bay hơi. và quá trình oxy hóa

1.2.3 Ứng dụng trong nông nghiệp


Hiện nay các nhà nghiên cứu khoa học đã chế tạo ra màng bao chitosan, một chế phẩm sinh học, giúp kéo
dài thời gian bảo quản nông sản. Nông sản có thể được nhúng trực tiếp vào dung dịch đã pha chế phẩm
chitosan hoặc sử dụng dưới dạng chế độ phun sương. Nhờ màng bao này sẽ giúp ngăn sự tiếp xúc giữa trái
cây và môi trường, ngăn chặn sự phát triển của các loại bệnh, hạn chế sự thoát hơi nước, giúp thoát khí
acetylen nhiều hơn, nhờ đó trái cây được giữ tươi lâu hơn. Đặc biệt hơn rằng chitosan có khả năng tự phân
huỷ sinh học tự nhiên và không có sự thẩm thấu vào bên trong sản phẩm theo thời gian, vì thế là chế phẩm
an toàn cho người tiêu dùng.

1.2.4 Ứng dụng trong môi trường


Ứng dụng lớn nhất của chitosan là giảm độ đục của nước thải ngành công nghiệp thực phẩm bằng việc kết
tụ các hợp chất hữu cơ. Sau một số công đoạn sấy, tiệt trung, lượng protein được dùng làm thức ăn cho gia
súc. Chitosan còn có khả năng điều hòa bùn thải, phân hủy sinh học bùn trong môi trường và giảm chi phí
tách nước bằng phương pháp ly tâm.
Loại bỏ ion kim loại nặng khỏi nước thải luôn là một nhiệm vụ khó khăn đối với các nhà môi trường.
Chitosan được sử dụng hiệu quả để loại bỏ kim loại nặng vì diện tích bề mặt lớn và khả năng hấp phụ cao,
kích thước và thể tích lỗ xốp phù hợp, tồn tại số lượng lớn các nhóm chức, tính ổn định cơ học, khả năng
tương thích, dễ tiếp cận, cấu trúc linh hoạt của chuỗi polymer, tính hóa học cao. khả năng phản ứng, dễ tái
sinh, tiết kiệm chi phí, thân thiện với môi trường, xử lý đơn giản.

1.2.5 Ứng dụng trong sản xuất mỹ phẩm


Chức năng chính của Chitosan trong chăm sóc da gồm kháng khuẩn, bảo vệ da, làm mềm da, làm sạch,
dưỡng da, chống oxy hóa, làm ẩm da. Chitosan có khả năng tạo màng mỏng trên bề mặt da, cung cấp nước
và hạn chế sự mất nước, làm tăng khả năng hòa hợp sinh học giữa kem thuốc và da, giúp ổn định nhũ tương,
hạn chế sự phát triển của vi khuẩn… Chất Chitosan thường được sử dụng trong công thức kem như tác nhân
nhũ hóa, tác nhân làm mềm da, giữ ẩm cho da… Trong sản xuất mỹ phẩm, Chitosan được sử dụng phổ biến
trong sản xuất kem chống khô da. Do bản chất Chitosan có thể cố định dễ dàng trên biểu bì da bởi những
nhóm NH4+ nên thường được các nhà khoa học gắn với những chất giữ nước hoặc những chất lọc tia cực
tím. Vì vậy Chitosan là sự liên kết giữa hoạt chất của kem và da.
Ngoài ra Chitosan còn được ứng dụng trong các sản phẩm định hình tóc, nước kẻ mắt, son môi, trong
kem dược liệu ngừa vẩy da, chống viêm ngứa, ức chế các tế bào chết, tăng cường tái tạo da, làm trơn, mịn
da.

II Quy trình sản xuất Chitosan và phương pháp từ vỏ cua

2.1 Sở đồ quy trình chiết xuất Chitin và Chitosan từ vỏ cua

2.2 Thuyết minh quy trình:


2.2.1 Rửa và sấy
Mục đích:
Rửa nhằm loại bỏ các tạp chất và một số thịt cua còn sót lại trong vỏ cua.
Sấy nhằm làm mất nước có ở vỏ cua để bảo quản vỏ cua được lâu dài để chuẩn bị cho sản xuất.
Đầu tiên rửa vỏ cua bằng nước sạch sau đó rửa lại một lần nữa bằng nước muối, sau đó đem sấy ở nhiệt
độ 40-45°C.
2.2.2 Nghiền và lọc
Mục đích:
Làm nhỏ nguyên liệu để thuận lợi cho các quy trình tiếp theo.
Dùng thiết bị nghiền và nghiền vỏ cua cho nhỏ lại.
2.2.3 Khử protein
Mục đích:
Nhằm loại bỏ protein ở trong vỏ cua.
Vỏ cua được khử protein bằng cách xử lý vỏ cua sử dụng NaOH 4% trong 3 giờ ở nhiệt độ phòng, sau đó
hỗn hợp được để lắng. NaOH dư được loại bỏ bằng cách gạn, sau đó rửa bằng nước khử ion đến pH trung
tính. Tiếp theo, lọc để thu được phần cặn. Phần cặn được sấy khô ở nhiệt độ 80 °C trong 45 phút để thu
được vật liệu khử protein.
2.2.4 Khử khoáng
Mục đích:
Nhằm loại bỏ khoáng có trong vỏ cua.
Trong bước khử khoáng của vỏ cua đã khử protein, nguyên liệu đã khử protein được xử lí bằng cách sử
dụng HCl 5% trong 5 giờ ở 80°C. Sau khi đun nóng, hỗn hợp được để nguội và lắng xuống. HCl dư được
loại bỏ bằng cách gạn, sau đó rửa bằng nước khử ion đến pH trung tính. Sau đó, lọc để thua được cặn và
được sấy khô ở 80°C trong 45 phút để thu được chitin.
2.2.5 Rửa và sấy
Mục đích:
Nhằm kéo dài thời gian bảo quản chitin.
Sau khi thu được chittin, ta cần rửa sau đó sấy ở nhiệt độ 60°C
2.2.6 Khử Deacetyl
Mục đích:
Chuyển đổi chitin thành chitosan bằng cách loại bỏ các nhóm acetyl (-COCH₃) từ chuỗi polysaccharide.
Để tiến hành khử deacetyl chitin thu được để tạo thành chitosan, chitin được xử lý bằng NaOH 46% trong
2 giờ ở 100°C. Sau khi đun nóng, hỗn hợp được để nguội và lắng xuống. NaOH dư được loại bỏ bằng
cách gạn, sau đó rửa bằng nước khử ion đến pH trung tính. Sau đó, lọc và sấy khô cặn ở nhiệt độ 80 °C
trong 45 phút và thu được chitosan.
2.3 Phương pháp chiết xuất Chitin và Chitosan từ vỏ cua cua
2.3.1 Phương pháp hóa học:
Một phương pháp truyền thống để điều chế chitin thương mại từ vỏ giáp xác (cua) bao gồm hai bước cơ
bản (A) tách protein, tức là khử protein bằng cách xử lý kiềm và (B) tách canxi cacbonat (và canxi
photphat), tức là khử khoáng bằng xử lý axit ở nhiệt độ cao, sau đó là bước tẩy trắng bằng thuốc thử hóa học
để thu được sản phẩm không màu. Quá trình khử protein thường được thực hiện bằng cách xử lý kiềm. Quá
trình khử khoáng thường được thực hiện bằng cách xử lý axit bao gồm HCl, HNO3, H2SO4, CH3COOH và
HCOOH; tuy nhiên, HCl dường như là thuốc thử được ưa thích hơn. Người ta đã chứng minh rằng thứ tự
của hai bước có thể bị đảo ngược đối với chất thải tôm có chứa nồng độ protein lớn, chủ yếu xuất phát từ vỏ
và ở mức độ thấp hơn từ các mô cơ còn lại. Mối quan tâm chính trong sản xuất chitin là chất lượng của sản
phẩm cuối cùng, là hàm số của khối lượng phân tử (trung bình và độ đa phân tán) và mức độ acetyl hóa.
Việc xử lý bằng axit khắc nghiệt có thể gây ra sự thủy phân polyme, làm cho chitin không có tính chất vật lý
và là nguồn gây ô nhiễm. Nồng độ NaOH cao và nhiệt độ khử protein cao có thể gây ra quá trình khử acetyl
và khử polyme chitin không mong muốn. Percot và cộng sự báo cáo rằng việc sử dụng các axit vô cơ như
HCl để khử khoáng chitin sẽ gây ra tác động bất lợi đến khối lượng phân tử và mức độ acetyl hóa ảnh hưởng
tiêu cực đến tính chất bên trong của chitin tinh khiết. Tương tự, theo Crini và cộng sự phương pháp này cho
phép loại bỏ gần như hoàn toàn các muối hữu cơ, nhưng đồng thời có thể xảy ra các phản ứng khử acetyl và
khử polyme. Cải thiện chất lượng có thể đạt được bằng cách cải thiện sự tiếp xúc của hóa chất với chất thải
cua, ví dụ bằng cách sử dụng lò phản ứng sinh học khuấy. Điều này sẽ cho phép các phản ứng tiến hành với
hiệu suất tương tự ở thời gian tiếp xúc ngắn hơn và ở nhiệt độ thấp hơn. So sánh các chitin khác nhau (mức
độ acetyl hóa, khối lượng phân tử và hoạt tính quang học), các biến thể về đặc tính của polyme thu được
được quan sát theo loại axit được sử dụng để khử khoáng.
2.3.2 Phương pháp sinh hoc:
Một cách khác để giải quyết vấn đề chiết xuất hóa học là sử dụng phương pháp sinh học. Việc sử dụng
protease để khử protein vỏ cua sẽ tránh được việc xử lý bằng kiềm. Bên cạnh việc ứng dụng enzyme, vi
khuẩn phân giải protein còn được dùng để khử protein ở vỏ đã khử khoáng . Cách tiếp cận này cho phép thu
được phần chất lỏng giàu protein, khoáng chất và astaxanthin và phần chitin rắn. Phần chất lỏng có thể được
sử dụng làm chất bổ sung protein-khoáng chất cho con người hoặc làm thức ăn chăn nuôi . Các quá trình khử
protein đã được báo cáo để sản xuất chitin chủ yếu từ chất thải cua sử dụng cơ học, enzyme và các quá trình
vi sinh vật liên quan đến các loài như Lactobacillus. Khử khoáng sinh học cũng đã được áp dụng trong sản
xuất chitin từ vỏ giáp xác; bằng enzyme, chẳng hạn như sử dụng alcalase hoặc bằng quá trình vi sinh vật liên
quan đến các loài như L. pentosus hoặc bằng chế phẩm sinh học tự nhiên. Trong các quá trình sinh học này,
quá trình khử khoáng và khử protein xảy ra chủ yếu đồng thời nhưng không đầy đủ. Axit lactic được hình
thành từ sự phân hủy glucose, tạo ra độ pH thấp, giúp cải thiện quá trình enzyme ngăn chặn sự phát triển của
vi sinh vật gây hư hỏng. Axit lactic phản ứng với thành phần canxi cacbonat trong phần chitin, dẫn đến sự
hình thành canxilactate, chất này kết tủa và có thể được loại bỏ bằng cách rửa. Muối hữu cơ thu được từ quá
trình khử khoáng có thể được sử dụng làm chất khử và chống đóng băng hoặc chất bảo quản. Quá trình khử
protein trong chất thải sinh học và hóa lỏng đồng thời protein tôm xảy ra chủ yếu nhờ các enzyme phân giải
protein được tạo ra bởi Lactobacillus được bổ sung, bởi vi khuẩn đường ruột có trong hệ thống đường ruột
của cua hoặc bởi protease có trong chất thải sinh học. Nó tạo ra một phần chất lỏng khá sạch với hàm lượng
peptide hòa tan và axit amin tự do cao
Bảng: So sánh hai phương pháp sinh học và hóa học:
Hóa học Sinh học
Khử khoáng Hòa tan khoáng bằng phương Được thực hiện bởi axit lactic do vi
pháp xử lý axit gồm HCl, khuẩn tạo ra thông qua việc chuyển đổi
HNO3, H2SO4, CH3COOH nguồn carbon bổ sung.
và HCOOH.
Khử protein Hòa tan protein bằng phương Được thực hiện bởi protease được tiết
pháp xử lý kiềm. vào môi trường lên men. Ngoài ra, quá
trình khử protein có thể đạt được bằng
cách bổ sung exo-protease và/hoặc vi
khuẩn phân giải protein.
Giá thành Xử lý nước thải sau khi chiết Chi phí chiết xuất chitin bằng phương
chitin bằng axit và kiềm có pháp sinh học có thể được tối ưu hóa
thể làm tăng giá thành chitin. bằng cách giảm chi phí nguồn carbon.
Protein hòa tan và khoáng chất có thể
được sử dụng làm chất dinh dưỡng cho
người và động vật.
Mối quan tâm chính trong sản Một loạt các đặc tính chất Tính đồng nhất và chất lượng cao của sản
xuất chitin là chất lượng của lượng của sản phẩm cuối phẩm cuối cùng.
sản phẩm cuối cùng, là hàm cùng. Việc sử dụng các axit
số của khối lượng phân tử vô cơ như HCl để khử
(trung bình và độ đa phân khoáng chitin sẽ gây ra tác
tán) và mức độ acetyl hóa. động bất lợi đến khối lượng
phân tử và mức độ acetyl hóa,
ảnh hưởng tiêu cực đến các
đặc tính nội tại của chitin tinh
khiết. Phương pháp này cho
phép loại bỏ gần như hoàn
toàn các muối hữu cơ, nhưng
đồng thời có thể xảy ra các
phản ứng khử acetyl và khử
polyme . Việc so sánh các
chitin khác nhau (mức độ
acetyl hóa, khối lượng phân
tử, hoạt tính quang học) thu
được với bốn loại axit khác
nhau cho thấy các đặc tính
polyme thay đổi tùy theo
phương pháp chiết xuất được
sử dụng.

III. KẾT LUẬN


IV TÀI LIỆU THAM KHẢO

You might also like