Professional Documents
Culture Documents
Đề-Cương
Đề-Cương
SẢN
ĐỀ TÀI: KHẢO SÁT QUÁ TRÌNH CHIẾT XUẤT CHITOSAN Ở
VỎ CUA
Chitosan là một polyme tuyến tính của d -glucosamine và N -acetyl- d -glucosamine có thể được tạo ra
bằng cách deacetyl hóa chitin. Chitosan đã được báo cáo là có nhiều đặc tính vật lý và sinh học dẫn đến các
ứng dụng khác nhau như mỹ phẩm, dược phẩm, công nghệ sinh học, nông nghiệp, chế biến thực phẩm và
dinh dưỡng. Sự đông tụ và keo tụ trong lĩnh vực xử lý nước và nước thải là ứng dụng đặc biệt của vật liệu
Chitosan do chi phí thấp và thân thiện với môi trường. Chitosan sở hữu một số đặc tính nội tại phù hợp như
một chất keo tụ và keo tụ hiệu quả để loại bỏ các chất rắn lơ lửng như mật độ điện tích cation cao, chuỗi
polymer dài và kết nối các cốt liệu. Đặc biệt là những vật liệu không độc hại, không bị ăn mòn và an toàn khi
xử lý. Tuy nhiên, Chitosan có hiệu quả trong phạm vi pH hạn chế và chỉ hòa tan trong axit hữu cơ loãng, đây
là những hạn chế tiềm ẩn trong việc ứng dụng Chitosan.
Việc chiết xuất Chitosan thương mại từ vỏ cua đã được tiến hành bằng cách xử lý hóa học hoặc sinh học
trong nhiều thập kỷ qua. Phương pháp chiết xuất và tinh chế chitin hóa học được coi là tiêu tốn năng lượng
và nguy hiểm cho môi trường do phải xử lý bằng axit và bazơ mạnh. Phương pháp sản xuất chitosan sinh
học sử dụng lên men vi sinh vẫn chưa đạt hiệu suất mong muốn so với phương pháp hóa học. Vôi (canxi
oxit) được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau để tăng cường độ ion nhằm chiết xuất protein
do giá thành rẻ. Tuy nhiên, rất ít nghiên cứu được thực hiện để sản xuất chitosan bằng vôi từ chất thải động
vật có vỏ. Ngoài ra, chitosan còn được sử dụng như một chất làm đặc và ổn định trong các sản phẩm thực
phẩm như nước giải khát, sữa chua, và các loại nước sốt, giúp cải thiện cấu trúc và độ ổn định của sản phẩm
trong quá trình lưu trữ và vận chuyển. Không chỉ vậy, chitosan còn có khả năng tạo thành màng bọc sinh
học, bảo vệ thực phẩm khỏi vi khuẩn, giữ ẩm và kéo dài tuổi thọ của sản phẩm mà không gây hại cho môi
trường.
Vì vậy việc khảo sát quá trình chiết xuất Chitosan từ vỏ cua không chỉ có ý nghĩa khoa học và công nghệ
mà còn mang lại lợi ích kinh tế và môi trường to lớn. Nghiên cứu này mở ra cơ hội tận dụng các nguồn tài
nguyên tái tạo, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và phát triển các sản phẩm sinh học có giá trị cao. Việc phát
triển các phương pháp chiết xuất Chitosan hiệu quả là cần thiết để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị
trường và xu hướng phát triển bền vững. Nghiên cứu này không chỉ góp phần vào kiến thức khoa học cơ bản
mà còn giúp phát triển các công nghệ mới, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo vệ môi trường.
Chitosan, với những đặc tính ưu việt của mình, hứa hẹn sẽ tiếp tục là một trong những nguyên liệu quan
trọng trong tương lai, đóng góp vào sự phát triển bền vững của xã hội.
I: TỔNG QUAN
1.1 Chitin và Chitosan
1.1.1 Nguồn gốc Chitin, Chitosan
Chitin được tìm thấy chủ yếu ở hai nguồn sau đây:
Từ động vật bậc thấp: Chitin là chất hữu cơ chủ yếu trong võ mai ( bộ xương ngoài của động vật không
xương sông). Theo Richard, chitin được tìm thấy trong lớp vỏ cuốn của loài chân đốt. Ngoài ra. Chitin còn
được tìm thấy trong tế bào ông của loài mực, ở lớp võ bao ngoài của loài Bọ cánh cùng trong lớp vỏ mai của
loài giáp xác trong loại nhẹn và bướm. Chitin thường có khoảng 25%- 50% trên lượng khan của lớp cutin
thành phần khác chủ yếu là protien và calci carbonat.
Từ thực vật bậc thấp: Nguồn gốc của chitin trong thực vật giới hạn ở một số loài nấm và táo. Trong năm
chitin đóng vai trò như cenlulose trong các loài cây Người ta đưa các giả thiết khác nhau về sự hiện diện của
chitin hoặc cenlulose làm cơ sở cho mối quan hệ phát sinh giữa các nhóm của giống nấm đặc biệt là
phycomecetus. Qua phân tích băng tia X, Frey đã xác nhận rằng chitin và cenlulose không hiện diện đồng
thời. Chitin hiện diện trong tào xanh bằng phương pháp vi hóa học Roelofsen và Hoette đã tìm thấy chitin
trong nấm men Kreger cũng thu được chitin trong một số loài nấm men bằng nhiễu xạ tia X lớp vỏ ngoài của
loài nấm mà nó được liên kết với những thành phân khác. Lương chitin được tinh chế từ một số loài nấm
thông thường từ 3%- 5%.
Chitosan được tạo ra từ chitin thông qua một quá trình gọi là deacetylation, trong đó các nhóm acetyl (-
COCH₃) được loại bỏ khỏi chitin. Quá trình này thường được thực hiện bằng cách xử lý chitin với dung dịch
kiềm (như natri hydroxit) ở nhiệt độ cao.
Chitosan là dẫn xuất của chitin, nó được tạo thành bởi phản ứng deacetyl chitin. Khi chitin được xử lý
với các chất kiềm đặc ở nhiệt độ cao 120C trong dung dịch, nó sẽ bị loại nhóm acetyl và bị phân hủy khác
nhau để cho ra sản phẩm là chitosan. Vậy chitosan không phải là một chất đơn thuần mà nó là một nhóm sản
phẩm của chitin bị loại nhóm acetyl từng phần (Attila E, Pavlath và Dominic 'W.S.Wong, 1996)
Chitosan là sản phẩm biến tính của chitin, là một chất rắn xốp, nhẹ, hình vảy, màu trắng ngà, không
mùi, không vị hay được dùng nhiều nhất trong y tế và trong thực phẩm. Chitosan được khám phá bởi
(Roughet vào năm 1859), và nó được đặt tên là chitosan bởi nhà khoa học người đức Hoppe Seyler vào năm
1894. Chitosan là polymer hữu cơ tự nhiên duy nhất mang điện tích dương, điều này tạo cho chitosan những
thuộc tính đặc biệt nhất.
Chitosan là polymer không độc, có khả năng phân hủy sinh học và có tính tương thích về mặt sinh học.
Trong nhiều năm qua, các polymer có nguồn gốc từ chitin, đặc biệt là chitosan đã được chú ý như một loại
vật liệu mới có tính ứng dụng trong các ngành công nghiệp như dược, y học, thực phẩm, xử lý nước thải.
Chitosan có tính kiềm nhẹ, không tan trong nước, trong kiềm, hoặc các dung môi hữu cơ khác nhưng
hòa tan được trong dung dịch acid loãng như: acid acetic, acid formie, acid lactice, HCI, HI, HNO3... tạo
thành dung dịch keo nhớt trong suốt. Chitosan hòa tan trong dung dịch acid acetic 1 - 1,5%. Chitosan kết
hợp với aldehit trong điều kiện thích hợp để hình thành gel, đây là cơ sở đề bẫy tế bào, enzyme.
Chitosan hình thành muối tan được trong nước với một nhóm acid hữu cơ. Những nghiên cứu về muối
của chitosan và các acid aromatic carboxylic cũng cho thấy khả năng tan được trong nước như chitosan
benzoate, chitosan o-amino benzoate và cũng có một số muối không tan hoặc ít tan trong nước như chitosan
phenylacetate... Còn muối của chitosan và acid formic, acid acetic tan rất tốt trong nước.
Bản chất điện ly cao phân tử của chitosan trong dung dịch acid: Trong dung dịch acid, những nhóm
amin của chitosan bị proton hóa và thể hiện bản chất của chất điện ly cao phân tử. Trong dung dịch loãng
không có mặt chất điện ly, chỉ số độ nhớt tăng theo sự tăng nồng độ dung dịch chitosan. Đây là đặc trưng
của những dung dịch chất điện ly cao phân tử và là kết quả của sự tăng kích thước sợi khi pha loãng dung
dịch do lực đây tĩnh điện giữa các đoạn mạch. Lực đẩy này có thể bị khử mất nằng cách thêm một chất điện
ly trọng lượng phân tử thấp có tác dụng che những phần mang điện trên mặt polymer. Và đồng thời, chỉ số
độ nhớt cũng giảm theo nồng độ chitosan cho trước. Chitosan có khả năng tích điện đương do đó nó có khả
năng kết hợp với những chất tích điện âm như chất béo, lipid và acid mật.
Chitosan là chất có độ nhớt cao. Độ nhớt của chitosan phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ deacetyl
hóa, khối lượng nguyên tử, nồng độ dung dịch, độ mạnh của lực ion, pH và nhiệt độ...
Mức độ deacetylation ( DDA): là độ chuyển hóa chitin thành chitosan. Quá trình loại nhóm acetyl khỏi
chuỗi phân tử chitin và hình thành phân tử chitosan với nhóm amin hoạt động hóa học cao. Mức độ
deacetylation là một đặc tính quan trọng của quá trình sản xuất chitosan bởi vì nó ảnh hưởng đến tính chất
hóa lý và khả năng ứng dụng của chỉtosan sau này. Thông thường mức độ deacetylation chitosan đạt khoảng
85 —› 95 %. Chitosan có mức độ deacetylation khoảng 75 % trở. lên thường được gọi là chitosan. Chitosan
thương mại ít nhất phải có mức DDA (degree of deacetylation) hơn 70 %. Có rất nhiều phương pháp đề xác
định mức độ deacetyl hóa của chitosan bao gồm : thử ninhydrrin, chuẩn độ điện thế, quang phổ hồng ngoại,
chuẩn độ bằng HI... Khối lượng phân tử trung bình ( MW) : được xác định qua độ nhớt của dung dịch
chitosan và có giá trị biến đổi từ 100000 — 500000 g/mol ( Li, 1997; Onsoyen và Skaugrud, 1990) tùy theo
từng loại chitosan. Thông thường, nhiệt độ Cao sự có mặt của oxy và sức kéo có thể dẫn đến phân hủy
chitosan. Giới hạn nhiệt độ là 280C, sự phân hủy do nhiệt độ có thể xảy ra và mạch polymer nhanh chóng bị
phá vỡ, do đó khối lượng phân tử giảm. Nguyên nhân quá trình depolymer là sử dụng nhiệt độ cao và acid.
như HCI, H2SO4 dẫn đến thay đổi khối lượng phân tử.
Độ nhớt là nhân tố quan trọng đề xác định khói lượng phân tử của chitosan. Chitosan phân tử lượng cao
thường làm cho dung địch có độ nhớt cao. Một số nhân tố trong quá trình sản xuất như mức độ deacetyl hóa,
khối lượng nguyên tử, nồng độ dung dịch, độ mạnh của lực ion, pH và nhiệt độ ảnh hưởng. đến sản xuất
chitosan và tính chất của nó. Ví dụ độ nhớt của chitosan tăng khi thời gian khử khoáng tăng. Độ nhớt của
chitosan trong dung dịch acid acetic tăng khi pH của dung dịch này giảm, tuy nhiên nó lại giảm khi pH của
dung dịch HCI giảm, việc tăng này đưa đến định nghĩa về độ nhớt bên trong của chitosan, đây là một hàm
phụ thuộc của mức độ ion hóa của lực ion .