LÝ THUYẾT THI CUỐI KỲ

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 28

SAU MỖI CÁI ĐẶC TRƯNG MỤC TIÊU PHƯƠNG HƯỚNG ĐỀU NÊN GHI RA Ý NGHĨA

CHƯƠNG 1: Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền năm 1930-1945
1. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM NĂM 1930 LÀ TẤT YẾU LỊCH SỬ?
Trong đó:
Cụm từ “ TẤT YẾU” ĐƯỢC HIỂU LÀ:

Tại sao lại nói Nhất thiết phải có Đảng Cộng Sản thì mới có được độc lập, tự do.
Nhìn lại vấn đề lịch sử lúc bấy giờ
- Tình hình thế giới:
+ Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa. Đây là thời điểm nền kinh tế hàng hóa trong các nước tư bản phát triển mạnh mẽ, đặt ra yêu
cầu bức thiết về thị trường tiêu thụ hàng hóa và nguyên liệu để sản xuất. Đó chính là nguyên nhân sâu
xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương Đông, biến các quốc gia
này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và
xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc.
+ Cách mạng tháng Mười Nga thành công đã tác động sâu sắc đến tình hình chính trị, sự phát triển của
phong trào Cách Mạng vô sản và phong trà giải phóng dân tộc trên TG.
+ QTCS ra chỉ thị hợp nhất ĐCS
- Tình hình trong nước:
+ Tại Việt Nam, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy
thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
+ Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực dân, xã hội Việt
Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc
lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá. Một bộ phận
địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình
thức và mức độ khác nhau.
+ Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước,
bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn,
thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam
chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
Ý NGHĨA RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN:
Đảng ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giải cấp, của quá trình
khảo nghiệm đường lối cứu nước đúng đắn, của sự kết hợp lý luận cách mạng khoa học với thực tiễn
phong trào cách mạng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng chứng tỏ giai cấp công nhân đã trưởng
thành và đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo của cách mạng Việt Nam.
- Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã đáp ứng
được những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội, định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình
phát triển của cách mạng Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước, đồng thời dẫn đến những thắng lợi và bước nhảy vọt lớn trong lịch sử dân tộc.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cách mạng Việt Nam đã trở thành một bộ phận của cách mạng thế
giới, hội nhập vào phong trào cách mạng thế giới.
=> Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt quyết định trong sự phát triển của
dân tộc ta, tạo những tiền đề và nhân tố hàng đầu quyết định đ­ưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác.
ĐỌC THÊM:
**Đảng Cộng sản Việt Nam** ra đời vào ngày 3 tháng 2 năm 1930 là một sự kiện lịch sử vô cùng
quan trọng trong hành trình phát triển của dân tộc Việt Nam. Dưới đây là một số điểm nổi bật về ý
nghĩa và lịch sử ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam:

1. **Tất yếu lịch sử**:


- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp.
- Đây là sự kết hợp lý luận giữa chủ nghĩa Mác-Lênin và phong trào công nhân, yêu nước tại Việt
Nam.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân tại Việt
Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam giai đoạn đó².

2. **Lãnh đạo tuyệt đối**:


- Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất được phép hoạt động tại
Việt Nam theo Hiến pháp.
- Đảng là đại diện của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa
Marx-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động¹.
- Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam 2013 khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng lên Nhà
nước và xã hội¹.

3. **Vai trò lịch sử**:


- Đảng Cộng sản Việt Nam ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của nhà nước.
- Đảng viên nắm giữ các cương vị chủ chốt trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt
Nam¹.

Như vậy, việc ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là một tất yếu lịch sử mà còn là một
bước ngoặt quan trọng trong hành trình cách mạng của dân tộc Việt Nam⁴.
2. TẠI SAO CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA (7-11-1917) LẠI TÁC ĐỘNG MẠNH MẼ ĐẾN
TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ CÁC NƯỚC?
Ý NGHĨA CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA:
Các mạng Tháng Mười Nga đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị được Đảng ta vận dụng
sáng tạo trong điều kiện thực tiễn Việt Nam, đặc biệt là bài học về bảo vệ chính quyền cách mạng.
Thời kỳ 1930 - 1945, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng
Mười Nga trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đó là bài học về củng cố khối liên minh công - nông, tăng
cường vận động và tập hợp sức mạnh của quần chúng; về xây dựng Đảng và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng; bài học về chuẩn bị lực lượng cách mạng, về nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách
mạng; về nghệ thuật tạo và chớp thời cơ cách mạng.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đứng trước tình thế
“ngàn cân treo sợi tóc”. Nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, đời sống nhân dân cực kỳ khó khăn, hơn 90% dân
số mù chữ, Nhà nước non trẻ chưa được quốc gia nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao, thù trong giặc
ngoài…Tổ quốc lâm nguy. Chính trong thời điểm cam go, thử thách đó, ánh sáng và những bài học sâu sắc
về củng cố và giữ vững chính quyền Xô Viết của Cách mạng Tháng Mười Nga giai đoạn 1917 - 1920 đã
soi chiếu, thức tỉnh, trở thành nguồn cổ vũ to lớn để Đảng, Chính phủ, Hồ Chủ tịch lãnh đạo nhân dân ta
tiếp tục vững bước trên con đường cách mạng giải phóng dân tộc.
Trải qua hơn một thế kỷ, mặc dù chủ nghĩa xã hội hiện thực đã từng chịu những tổn thất nặng nề bởi sự sụp
đổ ở Liên Xô và Đông Âu, nhưng giá trị vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn trường tồn, ảnh hưởng
sâu rộng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục khẳng định giá trị bền vững, sức sống
mạnh mẽ, là xu thế phát triển của nhân loại.
Tiếp tục khẳng định con đường phát triển của đất nước để đi tới xã hội phồn vinh, hạnh phúc theo những
giá trị thời đại được khởi nguồn từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng khẳng định: “tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và coi đó là một vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý
nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng tư tưởng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả
nghiêng, dao động.

3. Nội dung và ý nghĩa của Cương lĩnh chính trị đầu tiên tháng 2-1930, Luận cương chính trị tháng 10-
1930 và so sánh ( trang 17 có một dòng nguyên nhân những hạn chế) ?
CƯƠNG LĨNH:

LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ:

NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN 2-1930: ( trang 13)
NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ THÁNG 10-1930( trang 15)
4. TẠI SAO LẠI NÓI CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ THÁNG 2 -1930 DO NGUYỄN ÁI QUỐC SOẠN
THẢO LÀ CƯƠNG LĨNH ĐÚNG ĐẮN VÀ SÁNG TẠO:

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc dự thảo được thông qua tại
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản (1/1930) gồm các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng.
Tính cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh đầu tiên đó được thể hiện qua những nội dung sau :
-Cương lĩnh vạch rõ tính chất của cách mạng Việt Nam là phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng tư sản dân
quyền (về sau gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) và cách mạng xã hội chủ nghĩa (“làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”).
=> Như vậy, ngay từ đầu, Đảng ta đã thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
-Cương lĩnh đề ra nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta: đánh đổ đế quốc Pháp, vua quan
phong kiến và tư sản phản cách mạng.
Mục tiêu đề ra rõ ràng:
+ Làm cho nước Việt Nam độc lập.
+ Dựng lên chính phủ công nông binh.
+ Tổ chức ra quân đội công nông.
+ Tịch thu sản nghiệp lớn của bọn đế quốc và ruộng đất của bọn đế quốc, bọn phản cách mạng đem chia
cho dân cày nghèo, chuẩn bị cách mạng thổ địa.
Như vậy, Cương lĩnh bao gồm nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến nhưng nổi
bật là chống đế quốc và tay sai phản động, giành độc lập tự do cho toàn thể dân tộc.
-Lực lượng cách mạng chủ yếu là công nông, đồng thời phải lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông về phe
giai cấp vô sản, còn phú nông, trung, tiểu địa chủ, tư sản Việt Nam chưa lộ rõ bộ mặt phản động thì phải lợi
dụng và làm cho họ trung lập.
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã tranh thủ tối đa lực lượng cách mạng, cô lập tối đa lực lượng kẻ thù. Thành
lập mặt trận dân tộc thống nhất dước sự lãnh đạo của đảng, trên cơ sở công -nông-trí liên minh.
-Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam.
-Đảng phải lấy chủ nghĩa Marx Lenin làm nền tảng tư tưởng.
- Đảng phải có trách nhiệm phục vụ đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp mình lãnh đạo được
quần chúng.
Phải thu phục đại đa số dân cày, dựa vững vào dân cày.
Đồng thời phải liên minh với các giai cấp và tầng lớp yêu nước khác, đoàn kết, tổ chức họ đấu tranh chống
đế quốc và phong kiến.
-Cương lĩnh đầu tiên của Đảng còn coi cách mạng nước ta là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới,
đứng về phía mặt trận cách mạng gồm các dân tộc thuộc địa bị áp bức và giai cấp công nhân thế giới.
Như vậy, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và
sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn với tư tưởng cốt
lõi là Độc lập – Tự do cho dân tộc.
-Nội dung con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là con đường cách mạng vô sản, do giai cấp
công nhân lãnh đạo, lực lượng nòng cốt là công – nông, đồng thời phải đoàn kết với tiểu tư sản, trí thức,
trung, tiểu địa chủ, tư sản dân tộc và phú nông, dùng bạo lực cách mạng.

5. BỐI CẢNH LỊCH SỬ, SỰ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI
CUỘC CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC NĂM 1930-1935?

PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930-1931:

- Các phong trào đấu tranh diễn ra nhỏ lẻ ở nhiều nơi ( trang 14)
- Đỉnh cao là phong trào Xô Viết – Nghệ Tĩnh:
2. Xô viết Nghệ - Tĩnh đỉnh cao phong trào các mạng 190-1931
Tại Nghệ An, Xô viết ra đời từ tháng 9 - 1930 ở các xã thuộc huyện Thanh Chương, Nam Đàn, một
phần huyện Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên. Diển Châu, ở Hà Tĩnh, Xô viết hình thành ở các xã
thuộc huyện Can Lộc, Nghi Xuân, Hương Khc vào cuối năm 1930 - đầu năm 1931. Các xô viết đã thực
hiện quyền làm chủ của quấn chúng, điều hành mọi mặt đời sống xã hội.
Đấu tranh trong phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh (tranh sơn dầu)
Về chính trị, quần chúng được tự do tham gia hoạt động trong các đoàn thể cách mạng, tự do hội họp.
Các đội tự vệ đỏ và toà án nhân dân được thành lập.
Vê kinh tế, thi hành các biện pháp như : chia ruộng đất công cho dân cày nghèo ; bãi bỏ thuế thân, thuế
chợ, thuế đò, thuế muối ; xoá nợ cho người nghèo ; tu sửa cầu cống, đường giao thông ; lập các tổ chức
để nông dân giúp đỡ nhau sản xuất.
Về vân hoá - xã hội, chính quyền cách mạng mở lớp dạy chữ Quốc ngữ cho các tầng lớp nhân dán ; các
tệ nạn xã hội như mê tín, dị đoan, tệ rượu chè, cờ bạc,... bị xoá bỏ. Trật tự trị an được giữ vững ; tinh
thần đoàn kết, giúp đỡ nhau được xây dựng.
 Xô viết Nghệ - Tĩnh là đỉnh cao của phong trào cách mạng 1930 - 1931. Tuy chỉ tồn tại được 4-5
tháng, nhưng đó là nguồn cổ vũ mạnh mẽ quần chúng nhân dân trong cả nước.
Trước tác động của phong trào, thực dân Pháp tập trung lực lượng tiến hành khủng bố dã man. Chúng
điều động binh lính dóng nhiều đồn bốt ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Cùng với việc cho binh lính đi
càn quét, bắn giết dân chúng, đốt phá, triệt hạ làng mạc, chúng còn dùng nhiều thủ doạn chia rẽ, dụ dỗ,
mua chuộc. Vì vậy, nhiều cơ quan lãnh dạo của Đảng, cơ sở quần chúng bị phá vỡ, nhiều cán bộ, đảng
viên, những người yêu nước bị bắt, tù đày hoặc bị sát hại.
Ý NGHĨA NÊN VIẾT TRONG TRANG 15
Từ giữa năm 1931, phong trào cách mạng trong cả nước dần dần lắng xuống.
* Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của phong trào cách mạng 1930-1931
Phong trào cách mạng 1930 - 1931 chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn nhưng có ý nghĩa lịch sử to
lớn. Phong trào khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân đối
với cách mạng Đông Dương. Từ phong trào, khối liên minh công nông được hình thành, công nhân và
nông dân đã đoàn kết trong đấu tranh cách mạng.
Phong trào cách mạng 1930 - 1931 được đánh giá cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Quốc tế Cộng sản đả công nhận Đáng Cộng sản Đông Dương là phân bộ độc lập, trực thuộc Quốc tế
Cộng sản.
Phong trào cách mạng 1930 - 1931 để lại cho Đảng ta nhiều bài học quý báu về công tác tư tưởng, về
xây dựng khối liên minh công nồng và mặt trận dân tộc thống nhất, về tổ chức, lãnh đạo quần chúng
đấu tranh. Phong trào có ý nghĩa như cuộc tập dượt đầu tiên của Đảng và quần chúng cho Tổng khởi
nghĩa tháng Tám sau này.
KHÔI PHỤC TỔ CHỨC VÀ PHONG TRÀO CÁCH MẠNG NĂM 1932-1935:
So với các cuộc CM diễn ra 1930-1931 thì các phong trào CM 1932-1935 có sự đổi mới gì?

Chương trình hành động của Đảng Cộng Sản Đông Dương?
Ý nghĩa của Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3-1935)
* Nội dung:
- Xác định 3 nhiệm vụ chủ yếu của Đảng: củng cố và phát triển Đảng; tranh thủ quần chúng rộng rãi;
chống chiến tranh đế quốc.
- Thông qua Nghị quyết chính trị, điều lệ Đảng, vận động công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên,
phụ nữ; về công tác trong các dân tộc thiểu số, đội tự vệ, cứu tế đỏ.
- Bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 người do Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư, Nguyễn Ái
Quốc làm đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản.
* Ý nghĩa: Đánh dấu mốc quan trọng Đảng đã khôi phục được hệ thống tổ chức từ Trung ương đến
địa phương, từ trong nước đến ngoài nước, các tổ chức quần chúng.
PHONG TRÀO DẪN CHỦ 1936-1939: (trang 18)
Cách mạng điền địa?
Điền địa cụ thể là ruộng đất, nói chung là cải cách ruộng đất vì lúc bấy giờ hơn 90% người dân ở Việt
Nam là nông dân.
Tại sao trong hội nghị lần thứ 2 của BCHTW Đảng lại nói cuộc giải phóng dân tộc không nhất
thiết phải kết chặt với cuộc CM Điền địa? Vấn đề quan trọng nhất lúc bấy giờ là gì?
Hội nghị chỉ rõ nhiệm vụ chiến lược “chống đế quốc và chống phong kiến của cách mạng dân tộc dân
chủ ở Đông Dương” mà Đảng đề ra từ khi thành lập không hề thay đổi. Nhưng căn cứ vào trình độ tổ
chức và khả năng đấu tranh của nhân dân Đông Dương, nhiệm vụ chiến lược đó chưa phải là nhiệm vụ
trực tiếp trước mắt. Hội nghị quyết định tạm thời chưa nêu ra khẩu hiệu “đánh đổ đế quốc Pháp và giai
cấp địa chủ phong kiến , giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày” mà chỉ nêu ra mục tiêu trực
tiếp trước mắt là “đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chống chiến tranh ,
đòi tự do dân chủ , cơm áo và hoà bình”. Kẻ thù chủ yếu , trước mắt của nhân dân Đông Dương là bọn
phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng. Bọn này là những tên tay sai đắc lực nhất ,trung thành
nhất của 200 gia đình tư bản tài chính Pháp và của chủ nghĩa phát xít. Chúng không muốn thực hiện
bất cứ cải cách nào ở thuộc địa. Chúng không chịu thi hành mệnh lệnh của Chính phủ phái tả của Pháp.
Chúng bóp méo hoặc thi hành một cách nửa vời, thậm chí còn làm ngược lại những mệnh lệnh đó.
Chúng vẫn ra sức đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân thuộc địa.
Vấn đề nào Đảng gặp phải khi bắt đầu cải cách điền địa, chia ruộng đất cho nhân dân năm 1939
mà phải dừng lại?
Tại sao khẩu hiệu lại là “ Ủng hộ mặt trận nhân dân Pháp”, Nếu mặt trận nhân dân Pháp thành
công, nước ta nhận được những lợi ích như thế nào ?
- Mặt trận Bình dân Pháp (tiếng Pháp: Front populaire) là một liên minh chính trị của các lực lượng
cánh tả ở Pháp, bao gồm Đảng Cộng sản, Chi hội Pháp của Công nhân Lao động Quốc tế (SFIO),
Đảng Cấp tiến và các chính đảng, tổ chức chính trị khác trong thời kì 1936 – 1938, do lực lượng cánh
tả.
TRONG ĐÓ CÁNH TẢ LÀ:

-Hội nghị nêu khẩu hiệu “ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ phải tả ở Pháp”.
-Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương bao gồm các giai
cấp , đảng phái, dân tộc , đoàn thể chính trị , xã hội và tôn giáo khác nhau.
-Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật , không hợp pháp sang hình thức công khai, hợp
pháp và nửa hợp pháp nhằm tập hợp và hướng dẫn đông đảo quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao,
thông qua đó giáo dục, phát triển đội ngũ cách mạng .
-Sự chỉ đạo về chiến lược và sách lược của Hội nghị có những điểm phát triển mới so với các thời kỳ
trước: Đảng nêu ra mục tiêu trước mắt đấu tranh đòi quyền dân chủ , dân sinh là căn cứ vào trình độ tổ
chức và đấu tranh của nhân dân , căn cứ vào lực lượng so sánh giữa ta và địch. Đó không phải là chủ
nghĩa cải lương vì Đảng không một phút xa rời mục tiêu chiến lược của cách mạng , không coi đấu
tranh đòi cải cách là mục đích cuối cùng, mà chỉ sử dụng nó để mở rộng phong trào cách mạng tiến lên
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược của cách mạng .
-Đảng chỉ rõ chủ trương “lập mặt trận rộng rãi” không xa rời quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp
của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó chính là sự vận dụng đúng đắn những quan điểm ấy vào một nước thuộc
địa, nửa phong kiến. Một dân tộc bị áp bức như xứ Đông Dương, vấn đề dân tộc giải phóng là một
nhiệm vụ quan trọng của người cộng sản...
-Những nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 7-1936 đã
được trình bày cụ thể trong tài liệu Chung quanh vấn đề chính sách mới , ấn hành ngày 30-10-1936 và
được bổ sung, phát triển thêm trong các Nghị quyết của những Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
Đảng năm 1937 và 1938.

1.Ý nghĩa Hội nghị

-Hội nghị Trung ương Đảng tháng 7-1936 đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ đấu tranh khôi phục phong
trào , đưa cách mạng Đông Dương chuyển lên một cao trào mới. Nghị quyết Hội nghị chứng tỏ sự
trưởng thành của Đảng trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và Nghị quyết của Đại hội
lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện cụ thể của Đông Dương.
-Hội nghị giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược lâu dài và mục tiêu cụ thể trước
mắt: giữa chủ trương mới và hình thức tổ chức đấu tranh mới: giữa củng cố khối liên minh công nông
và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất; giữa phong trào cách mạng ở Đông Dương và cách mạng
Pháp, cách mạng thế giới; giữa vấn đề độc lập dân tộc và vấn đề dân chủ .
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH ĐÒI TỰ DO, DÂN CHỦ, CƠM ÁO, HÒA BÌNH:

Trong trang 22 có phòng trào truyền bá quốc ngữ và ý nghĩa của các phong trào 1936-1939
Phong trào Đông Dương đại hội trong cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 ở Việt Nam có ý nghĩa lớn
nhất là đông đảo quần chúng lao động đã được thức tỉnh, và Đảng Cộng sản Đông Dương tích lũy
thêm kinh nghiệm lãnh đạo đấu tranh. Đây là một giai đoạn quan trọng trong lịch sử dân tộc, thể hiện
sự tập dượt lần thứ hai cho cách mạng tháng Tám năm 19453. Trong phong trào này, quần chúng đã
đòi hỏi Chính phủ Pháp thực hiện quyền tự do và dân chủ cho nhân dân Đông Dương.

PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỐC 1939-1945:


VÕ TRANG BẠO ĐỘNG ĐƯỢC ĐỀ CẬP TRONG LUẬN CƯƠNG THÁNG 10 CỦA TRẦN PHÚ
Như vậy con đường tiến lên giành chính quyền bằng bạo lực của quần chúng là phải “võ trang bạo
động”. Cần phải hiểu rằng, “võ trang bạo động” ở đây cũng là một nghệ thuật, phải tuân thủ theo
“khuôn phép nhà binh”, chứ không phải là một việc ngẫu hứng. Trong hoàn cảnh một nước thuộc địa,
cần phải hết sức coi trọng mối quan hệ giữa yếu tố thời cơ và tình thế trực tiếp cách mạng. Phải biết
thúc đẩy tình thế trực tiếp cách mạng cho nhanh chóng chín muồi; tuy nhiên, trong khi chưa xuất hiện
tình thế trực tiếp cách mạng thì không được thụ động ngồi chờ, mà phải kịch liệt tranh đấu, “nhưng
kịch liệt tranh đấu ấy không phải là để tổ chức những cuộc manh động, hoặc là võ trang bạo động quá
sớm, mà cốt là để huy động đại quần chúng ra thị oai, biểu tình, bãi công… để dự bị về cuộc võ trang
bạo động sau này”. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ sau Ngày thành lập Đảng và đặc biệt là trong
quá trình vận động của Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh tính đúng đắn của quan điểm trên.
Ý NGHĨA CỦA HỘI NGHỊ BCHTW 6(11-1939):
Về mục tiêu và phương pháp đấu tranh:
Chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đấu tranh đánh đổ đế quốc và tay sai.
Từ hoạt động hợp pháp nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp.
Chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
Ý nghĩa lịch sử:
Hội nghị này đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Đưa nhân dân Việt Nam bước vào thời kỳ trực tiếp vận động cứu nước
vì sao đảng ta quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng trong những năm 1939-1945.
Ý NGHĨA CỦA HỘI NGHỊ BCHTW 7(10-1940):
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7, diễn ra từ ngày 6 đến 9 tháng 11 năm 1940, đã có ý
nghĩa quan trọng trong lịch sử cách mạng Đông Dương. Dưới đây là một số điểm nổi bật từ hội nghị
này:
Xác định tính chất của cách mạng Đông Dương: Hội nghị khẳng định rằng cách mạng Đông Dương
là cách mạng giải phóng dân tộc với hai nhiệm vụ chính là phản đế và thổ địa. Cách mạng phản đế và
cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến hành, không thể cái làm trước cái làm sau.
Xác định kẻ thù chính của cách mạng: Lúc này, kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là đế quốc
chủ nghĩa Pháp và Nhật. Hội nghị chỉ ra rõ rằng đế quốc chủ nghĩa Pháp và phát xít Nhật là kẻ thù
nguy hiểm nhất.
Phương pháp cách mạng: Hội nghị đề ra phương pháp khởi nghĩa vũ trang. Chủ trương đi liền với việc
mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế, tổ chức các đội tự vệ trực tiếp và vũ trang cho quần
chúng. Mục tiêu là giành chính quyền và xây dựng căn cứ cách mạng1.
Duy trì cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn: Hội nghị quyết định duy trì lực lượng vũ trang ở Bắc Sơn, thành
lập các đội du kích và xây dựng cơ sở cách mạng. Đồng chí Hoàng Văn Thụ chịu trách nhiệm thực
hiện Nghị quyết này.
Hội nghị BCHTW lần thứ 7 đã định hình chiến lược và hướng đi cho cách mạng Đông Dương trong
bối cảnh khó khăn và đối đầu với các thế lực thù địch. Đây là một sự kiện quan trọng trong quá trình
đấu tranh giành độc lập và tự do cho dân tộc Việt Nam.
Ý NGHĨA CỦA HỘI NGHỊ BCHTW 8(5-1941): ( GIƯƠNG CAO NGỌN CỜ GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC
Nội dung và ý nghĩa:
Hội nghị đã tiến hành phân tích tình hình trong nước và thế giới.
Đánh giá chiến tranh thế giới đang lan rộng, phát xít Đức đang chuẩn bị đánh Liên Xô, và phát xít
Nhật sắp gây ra cuộc chiến tranh Thái Bình Dương.
Hội nghị đã khẳng định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ
trang.”
Chính sách mới của Đảng là đặt quyền lợi của bộ phận, của giai cấp dưới quyền lợi giải phóng của
toàn thể dân tộc; quyền lợi của nông dân, thợ thuyền phải đặt dưới quyền lợi giải phóng, độc lập của
toàn dân.
Tầm quan trọng:
Hội nghị này đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược của Đảng.
Cùng với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh, hội nghị đã góp phần vào thắng lợi của Cách mạng tháng
Tám năm 1945.
Ảnh hưởng từ các cuộc cách mạng 1930-1939 tác động như thế nào đến cuộc CM năm 1945? (
Trải qua những biến động và diễn biến trước tình hình chiến tranh thế giới đòi hỏi Đảng phải có
sự linh hoạt trong việc thay đổi đường lối) cụ thể như sau:
Trong giai đoạn từ 1930 đến 1945, Việt Nam đã trải qua nhiều biến động lịch sử và ảnh hưởng từ
các cuộc cách mạng. Dưới đây là một số điểm quan trọng:
Phong trào cách mạng 1930 – 1931:
Nguyên nhân dẫn đến sự bùng nổ của phong trào:
Tác động của phong trào cách mạng thế giới: Trong những năm 1929 – 1933, thế giới tư bản đối mặt
với cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Tình hình này tạo ra mâu thuẫn trong xã hội tư bản và thúc
đẩy phong trào đấu tranh của công nhân và quần chúng lao động. Đặc biệt, sự phát triển của phong trào
cách mạng thế giới đã ảnh hưởng tích cực đến cách mạng Việt Nam.
Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp: Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 đã
làm trầm trọng thêm tình trạng đói khổ của các tầng lớp nhân dân lao động tại Việt Nam. Đầu năm
1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc dân đảng lãnh đạo đã thất bại, nhưng nó đã góp
phần thức tỉnh tinh thần đấu tranh của nhân dân.
Cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939:
Uy tín và ảnh hưởng của Đảng: Đảng đã tập hợp hàng triệu người, xây dựng và giáo dục quần chúng.
Cuộc vận động này đã tích lũy nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, cả những bài học thành công và bài
học thất bại.
Chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám năm 1945: Cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 đã là diễn tập
thứ hai chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Ảnh hưởng của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945):
Góp phần vào thắng lợi của cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít: Việt Nam đã đóng góp vào
thắng lợi của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, chống lại chủ nghĩa phát xít và chọc thủng hệ thống
thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc 3.
Cổ vũ các dân tộc thuộc địa: Việt Nam cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Lào và Campuchia
trong cuộc đấu tranh tự giải phóng
 Như vậy, các cuộc cách mạng và biến động trong giai đoạn 1930 – 1945 đã tạo nền tảng quan
trọng cho cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 tại Việt Nam.

PHONG TRÀO PHÁP-NHẬT, ĐẨY MẠNH CHUẨN BỊ LỰC LƯỢNG CHO CUỘC KHỞI
NGHĨA VŨ TRANG:

XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CHÍNH TRỊ CỦA QUẦN CHÚNG: Việt Minh là lực lượng chính trị

Trong đó lực lượng chính trị là:

Lực lượng chính trị là năng lực của một chủ thể trong việc áp đặt mục tiêu chính trị của mình đối với
toàn xã hội. Đây là quyền lực của một giai cấp hay liên minh giai cấp, của một lực lượng xã hội. Ngoài
ra, chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, cũng như các dân tộc và các quốc
gia với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước.

Hội nghị lần thứ 8 đã phân tích nguồn gốc và đặc điểm của các cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và dự
đoán rằng phe phát xít sẽ thất bại và phe đồng minh chống phát xít sẽ giành thắng lợi.

Đối với tình hình Đông Dương, Hội nghị nhận định rằng nhiệm vụ đánh bại Pháp và đuổi Nhật không
chỉ thuộc về công nhân và nông dân mà là nhiệm vụ chung của toàn bộ nhân dân Đông Dương.

Hội nghị đã xác định tính chất của cuộc cách mạng là “cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”

Vai trò và ý nghĩa của Mặt trận Việt Minh:

Mặt trận Việt Minh đã tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước, xây dựng lực lượng chính trị
của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị.

Mặt trận Việt Minh đã xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn đường
cho nhân dân tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc
và tự do cho nhân dân.

Ý NGHĨA CỦA CAO TRÀO KHÁNG NHẬT CỨU NƯỚC:

Là bước phát triển vượt bậc của cách mạng nước ta, làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa tháng tám thắng
lợi.

Lôi cuốn hàng triệu quần chúng tham gia, rèn luyện cho quần chúng nhiều hình thức đấu tranh phong
phú, quyết liệt.

Củng cố, phát triển vượt bậc lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng, làm cho kẻ
thù hoang mang suy yếu, thúc đẩy thời cơ cách mạng chín muồi.

Tập dượt cho quần chúng đấu tranh, báo hiệu giờ hành động quyết định sắp đến, sẵn sàng khởi nghĩa
giành chính quyền khi thời cơ đến.
CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945:

PHÂN TÍCH THỜI CƠ CỦA CM THÁNG 8:

Trong đó cụm từ“ Thời cơ được hiểu là:

Thời cơ là thời gian, điều kiện, hoàn cảnh chủ quan và khách quan mang yếu tố thuận lợi để tiến hành
thắng lợi một việc gì đó. Trong chiến tranh, vấn đề thời cơ là vấn đề vô cùng quan trọng. Bởi vì, bên
nào nắm được thời cơ thì chắc chắn bên đó sẽ giành được thắng lợi và Cách mạng tháng 8 năm 1945
chính là một minh chứng về việc chớp thời cơ Cách mạng.

Khách quan:
+ Đầu tháng 8/1945, quân đồng minh tấn công quân Nhật ở Châu Á - Thái Bình Dương. Ngày 6 và
9/8/1945, Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống Hirosima và Nagasaki
+ Ngày 9/8/1945, Hồng quân Liên Xô tiêu diệt đội quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung quốc.
Ngày 14/8/1945, Nhật đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện
Chủ quan:
+ Ngay từ ngày 13/8/1945, khi nhận được những thông tin về Nhật đầu hàng, Trung ương Đảng và
Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, ban bố Quân lệnh số 1 chính thức
phát Lệnh Tổng khởi nghĩa cả nước.
+ Từ ngày 14 đến ngày 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang),
quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh
vào Đông Dương; quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành
chính quyền.
+ Từ ngày 16 đến ngày 17/8/1945, Đại hội quốc dân được triệu tập ở Tân Trào, tán thành Tổng khởi
nghĩa của Đảng thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử ra Ủy Ban dân tộc Giải phóng Việt Nam
do đồng chí Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đại hội quyết định lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm quốc
kì, bài hát Tiến quân ca là quốc ca.
"Thời cơ ngàn năm có một"
- Ngày 15/8/1945, Phát xít Nhật đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương bị tê liệt,
bọn tay sai hoang mang, dao động đến cực độ. Trong lúc đó quân Đồng Minh chưa kịp vào nước ta.
Như vậy khoảng thời gian sau khi Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh và trước khi quân Đồng Minh
vào nước ta là thời cơ "Ngàn năm có một" ta phải đứng dậy Tổng khởi nghĩa dành chính quyền và
đứng ở tư thế của nước độc lập để tiếp Đồng Minh
- Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 cũng diễn ra đúng trong khoảng thời gian đó và ta dành thắng
lợi nhanh chóng
Vì sao nói thời cơ tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 không những đã chín muồi mà còn là thời
cơ ngàn năm có một? NHỚ GHI ĐỒNG ĐỀU VỚI TÍNH CHẤT CỦA CUỘC CM 33
* Thời cơ của cách mạng tháng Tám là thời cơ chín muồi vì: Đến tháng 8-1945, Đảng ta đã có sự
chuẩn bị đầy đủ về đường lối và phương pháp cách mạng cho một cuộc Tổng khởi nghĩa. Toàn đảng,
toàn dân đã sẵn sàng hành động, kiên quyết hy sinh để giành độc lập.
- Về mặt đường lối: Hội nghị tháng 5-1941, đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác
khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước Đông Dương,
thành lập mặt trận Việt Minh, đề ra chủ trương khởi nghĩa vũ trang.
- Về mặt lực lượng: lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa các mạng đều đã được đảng ta
chuẩn bị chu đáo trong suốt 15 năm 1930 - 1945.
- Về phía quần chúng nhân dân: đã sẵn sàng cùng Đảng vùng lên đấu tranh.
- Về phía tầng lớp trung gian đã ngả về phía cách mạng. Từ khi Nhật đảo chính Pháp, tầng lớp tiểu tư
sản, tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ cũng đứng về phía cách mạng. Nhiều nhà tư sản dân tộc sẵn sàng bỏ
tiền ra mua phiếu ủng hộ Việt Minh. Bộ phận binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp cũng trở thành
quần chúng cảm tình với cách mạng, nhờ đó các cán bộ cách mạng có điều kiện hoạt động tích cực
trong thành phố.
* Là thời cơ "ngàn năm có một" vì:
- Quân đồng minh đang thắng lợi trên tất cả các mặt trận, phát xít Đức đầu hàng, Nhật Bản bị tấn công
và cô lập => Chủ tịch Hồ Chí Minh dự đoán chiến tranh sẽ nhanh chóng kết thúc, Nhật Bản sẽ thua
trận.
- Tại Đông Dương, quân Pháp đã bị Nhật hất cẳng từ trước. Quân Nhật thì lại đang thua trận, chính
phủ Trần Trọng Kim hoang mang, rệu rã => kẻ thù đang suy yếu, đây là thời cơ thuận lợi.
- Trong khi đó, quân đồng minh đang bận đối phó với Nhật. Sau khi chiến tranh kết thúc, quân đồng
minh sẽ viện cớ giải giáp phát xít Nhật để tiến vào nước ta. Bản chất của chúng đều là chủ nghĩa đế
quốc xâm lược không khác gì Pháp - Nhật. => Vì vậy, ta phải giành chính quyền ngay khi quân đồng
minh chưa kịp vào nước ta.
Yếu tố chủ quan: Sự lãnh đạo của đảng và Đảng đã chuẩn bị 15 năm về các mặt về chủ trương, lực
lượng và tập dượt qua cao trào kháng nhật cứu nước, các phong trào cách mạng 1930-1931, 1936-
1939, 1939-1945, đặc biệt là cao trào cách mạng từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1945. Bên cạnh đó là sự
kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp nổi dậy của quần chúng, đảng
biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta lúc bấy giờ.
=> Đây chính là thời cơ "ngàn năm có một", nếu không chớp thời cơ để giành chính quyền thì sẽ
không có cơ hội tốt đẹp như vậy lần sau nữa.
=> Trong bối cảnh trên, Đảng ta quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc để giành chính
quyền.
* Ý nghĩa đối với thế giới:
- Góp phần vào thắng lợi của cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít; chọc thủng hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc.
- Cổ vũ các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh tự giải phóng; có ảnh hưởng trực tiếp đến cách
mạng Lào và Campuchia.
Bài học kinh nghiệm và ý nghĩa thời cơ của cách mạng tháng 8
Có thể nói Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam đã sáng suốt trong việc chớp thời cơ của
cách mạng tháng 8. Từ việc tận dụng thuận lợi trong và ngoài nước Đảng ta đã giành được độc lập cho
dân tộc. giành được chính quyền một cách nhanh chóng ít đổ máu.

Thời cơ của cách mạng tháng 8 mang đến bài học không chủ riêng dân tộc Việt Nam mà còn dành cho
tất cả nước thuộc địa trên thế giới. Việc tận dụng yếu tố khách quan, chủ quan trong chiến tranh là vô
cùng quan trọng. Sự lãnh đạo độc quyền của một Đảng lãnh đạo cũng đóng vai trò với chiến thắng của
Việt Nam.

Một yếu tố nữa chính là tận dụng được mâu thuẫn của kẻ thù. Biết nhìn xa trong rộng cũng như lường
trước trước được kết quả sẽ diễn ra. Tận dụng được khối đại đoàn kết dân tộc, lực lượng công – nông –
binh hùng hậu. Và quan trọng nhất chính là chớp thời cơ của cách mạng tháng 8.

Với nghệ thuật chớp thời cơ của cách mạng tháng 8 dân tộc ta đã đạp đổ chính quyền thực dân và trở
thành quốc gia độc lập. Tránh được ý đồ xâm lược nước ta lần nữa của thực dân Anh và quân Tưởng.
Cuộc đấu tranh diễn ra nhanh chóng, hạn chế tổn thất và đổ máu.
Nghệ thuật chớp thời cơ của Đảng ta trong cách mạng Tháng 8
Có thể nói thời cơ của cách mạng tháng 8 năm 1945 chính là thời cơ của đất nước Việt Nam độc lập.
Trong thời điểm chính quyền Pháp bị quân phiệt Nhật lật đổ tình hình chính trị khủng hoảng. Phát xít
Nhật đầu hàng Đồng minh nếu Đảng ta không chớp thời cơ trước khi quân đồng minh tiến vào nước ta
với danh nghĩa giải giáp quân Nhật thì sẽ không thể tự giành được độc lập.
Bên cạnh đó quân Pháp đã đầu hàng, quân Nhật rệu rã không còn tinh thần chiến đấu. Đây chính là
thời cơ của cách mạng tháng 8, thời cơ của toàn Đảng và toàn dân ta. Nếu lật đổ được chính quyền
trong thời điểm này Việt Nam mới được công nhận là một nước độc lập không lệ thuộc vào quân đội
Đồng Minh.
Sự sáng suốt của Đảng ta trong chớp thời cơ của cách mạng tháng 8 còn thể hiện ở mức độ thương
vong của quân và dân ta. Tại thời điểm này quân dân ta hoàn toàn có thể lật đổ chính quyền từ các địa
phương đến toàn quốc với mức tổn thất về người và của ít nhất.
Nguyễn Ái Quốc đã từng khẳng định đây chính là lúc thời cơ chín muồi nhất. Bác cũng khẳng định:
“Lúc này thời cơ đã đến, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết
giành cho được độc lập”. Trong bức thư gửi đồng bào cả nước Bác cũng đã viết: “Giờ quyết định cho
vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta…
Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến
lên!”.

Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (5-1941) nhận định: “Trong lúc này nếu không giải
quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng
những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi lại được”.
Trang 30 có ghi rõ bối cảnh, nếu ra nhớ dò bối cảnh trang 30 với những thứ copy rồi hãy ghi vào
!
Đối với phần ý nghĩa và bài học kinh nghiệm nên viết trong sách/32

CHƯƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG NGOẠI XÂM, HOÀN THÀNH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC,
THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1945-1975) CHỐNG PHÁP CÓ MỸ CAN THIỆP
1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG TRONG CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG PHÁP VÀ CAN THIỆP MỸ QUA CÁC GIAI ĐOẠN 1945-1946:
Nạn đói năm 1945 ảnh hưởng như thế nào đến ĐCS lúc bấy giờ:
Nguyên nhân dẫn đến nạn đói 1945:
Nguyên nhân trực tiếp là những hậu quả của chiến tranh tại Đông Dương. Các cường quốc đang chiếm
đóng Việt Nam như Pháp, Nhật Bản vì mục đích phục vụ chiến tranh đã lạm dụng và khai thác quá sức vào
nông nghiệp vốn đã lạc hậu, đói kém gây nhiều tai họa ảnh hưởng đến sinh hoạt kinh tế của người Việt.
Trong khi Nhật thu gom gạo để chở về nước thì Pháp dự trữ lương thực phòng khi quân Đồng minh chưa
tới, phải đánh Nhật hoặc dùng cho cuộc tái xâm lược Việt Nam.Những biến động quân sự và chính trị dồn
dập xảy ra đã ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất lương thực miền Bắc vốn dĩ đã thiếu gạo nên càng bị đói.
Nguyên nhân gián tiếp là những biện pháp quân sự hóa kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu chiến tranh của chế
độ thực dân Pháp tại Việt Nam, do tại nước Pháp khi đó đang có chiến tranh và cũng đang bị xâm chiếm.
Sau đó Nhật Bản dùng vũ lực loại bỏ Pháp chiếm đóng Việt Nam rồi thực hiện các biện pháp khác khốc liệt
hơn nhằm mục đích khai thác phục vụ chiến tranh (bắt nông dân nhổ lúa trồng đay, buộc người dân bán lúa
gạo với giá rẻ mạt để chuyển về Nhật).[cần dẫn nguồn.
Nguyên nhân tự nhiên, thời tiết là yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất lương thực tại miền Bắc.
Thiên tai, lũ lụt, sâu bệnh gây mất mùa tại miền Bắc. Bệnh dịch tả lây lan nhanh và rộng khắp trong mùa lũ
cũng góp phần làm tăng thêm nạn đói.
Nhật cấm vận chuyển lúa từ miền Nam ra Bắc, cũng cấm luôn việc mở kho gạo cứu đói. Đồng Minh phá
hủy các trục đường sắt từ Huế trở ra, phong tỏa đường biển khiến hàng hóa không lưu thông được.
Ảnh hưởng đến Đảng Cộng sản Việt Nam:
Nạn đói đã đặt nền độc lập và chính quyền cách mạng non trẻ của Việt Nam vào tình thế ngàn cân treo sợi
tóc.
Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của ĐCSVN) đã huy động sự hỗ trợ rộng lớn từ nông dân, là thành
phần nòng cốt trong cách mạng tháng 8 năm 1945.
Điều này đã đưa Việt Minh và Hồ Chí Minh lên nắm quyền, tạo điều kiện cho việc xây dựng nền chính trị
mới sau khi nước Việt Nam giành được độc lập.
Tính tàn khốc của nạn đói:
Nạn đói kéo dài cái chết, khiến nạn nhân bị các cơn đói dày vò, đau khổ, tủi nhục.
Xác người chết đói nằm ngổn ngang khắp nơi, và hình ảnh này vẫn ám ảnh khôn nguôi trong ký ức của
nhiều người.
Nạn đói đã để lại những tổn thất lâu dài chưa thể nhìn thấy, và việc nhìn lại quá khứ giúp đánh giá được
những ảnh hưởng này.
Phương hướng giải quyết của Đảng lúc bấy giờ:
Ý nghĩa của chỉ thị kháng chiến kiến quốc (25-11-1945): ( Bổ sung ý nghĩa ở trang 39)
Chỉ thị là bước đi hợp lý, là biện pháp cần thiết sau khi giành chính quyền nhằm cũng cố chế độ, giải quyết
những khó khăn của quần chúng càng làm tăng cường sự gắn bó chặt chẽ của nhân dân với cách mạng. Chỉ
thị thể hiện sự sáng tạo trong việc giải quyết chỉ đạo chiến lược và sách lược của Đảng trong tình hình mới,
chiến lược ở đây được hiểu là chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, còn sách lược ở đây là
những biện pháp cụ thể có tính mềm dẻo, khôn khéo, giải pháp mang tính tạm thời nhưng vẫn hướng tới
mục tiêu chiến lược đó là giải phóng dân tộc.
Bản Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc” đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, nhãn quan chính trị của một chính
Đảng mới ra hoạt động công khai chưa bao lâu trên một loạt vấn đề liên quan trực tiếp tới sự nghiệp bảo vệ
nền độc lập tự do của Tổ quốc, bảo vệ Nhà nước dân chủ nhân dân - thành quả cao nhất của Cách mạng
tháng Tám 1945, tạo tiền đề cơ bản đưa cách mạng Việt Nam tiến lên. Đó là việc xác định rõ tính chất và
nhiệm vụ chiến lược của giai đoạn cách mạng từ sau Tổng khởi nghĩa tháng Tám, xác định và phân loại
chính xác kẻ thù, phương hướng cơ bản vừa kháng chiến vừa kiến quốc, một loạt giải pháp nhằm xây dựng
và tăng cường thực lực cho cuộc kháng chiến, những quan điểm cơ bản về chỉ đạo chiến tranh và những nội
dung chính của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh... Trong tình hình
“nước sôi lửa bỏng” lúc bấy giờ, những chiến lược và sách lược được thể hiện trong bản Chỉ thị lịch sử
“Kháng chiến kiến quốc” của Đảng Cộng sản Đông Dương thực sự là ánh sáng soi đường cho toàn dân,
toàn quân trong cuộc chiến đấu nhằm bảo vệ sự sống còn của dân tộc.
Tổ chức cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ: ( ĐÁNH BẠI ÂM MƯU ĐÁNH NHANH THẮNG
NHANH CỦA THỰC DÂN PHÁP)
Chiến tranh du kích:
Chiến tranh du kích là một loại hình chiến tranh không thông thường được phe, nhóm quân sự nhỏ và yếu
hơn, cơ động hơn áp dụng đối với kẻ thù lớn mạnh hơn và kém cơ động hơn. Lối đánh du kích bao gồm các
cuộc phục kích, phá hoại, đánh bất ngờ, chớp nhoáng và rút lui nhanh. Địa bàn tổ chức chiến tranh du kích
có thể bất cứ ở đâu, miễn phù hợp có lợi cho ta, bất lợi cho địch.
Ý nghĩa của phong trào “Nam Tiến” thể hiện gì ở con người Việt Nam:
Phong trào “Nam Tiến” là một phần quan trọng trong lịch sử mở rộng lãnh thổ của người Việt. Đây là quá
trình mở rộng vùng đất về phương nam, từ thời điểm độc lập ban đầu cho đến hình dạng lãnh thổ như ngày
nay. Dưới đây là một số điểm ý nghĩa của phong trào này:
Tăng cường sức mạnh quốc gia: Nam tiến góp phần tăng cường sức mạnh cho nhân dân ở miền Nam Việt
Nam, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Đây là hình ảnh cả nước ra trận, đoàn kết chống giặc ngoại xâm.
Biểu tượng của đoàn kết và chiến đấu cho độc lập: Phong trào Nam tiến thể hiện ý chí chiến đấu cho độc
lập thống nhất đất nước. Đây là biểu tượng sinh động của cả dân tộc Việt Nam, đoàn kết chống xâm lược vì
độc lập và tự do của Tổ quốc.
Như vậy, phong trào “Nam Tiến” không chỉ là một sự mở rộng lãnh thổ, mà còn mang trong mình ý nghĩa
chính trị và tinh thần đoàn kết của người Việt Nam trong cuộc chiến đấu cho độc lập và tự do.
 Phong trào ủng hộ miền Nam kháng chiến là một phong trào rộng lớn, kéo dài suốt 5 tháng. Cuộc
chiến đấu của quân dân Nam bộ và phong trào Nam tiến góp phần ngăn chặn và làm thất bại bước
đầu chủ trương chiến lược của quân Pháp là đánh nhanh thắng nhanh.

Hiệp định sơ bộ 6/3/1946: Nước cờ sắc sảo của Hồ Chủ tịch và Đảng ta ( Hòa hoãn Tưởng, Pháp )

Cách đây đúng 70 năm, chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chính phủ Cộng hòa Pháp ký kết Hiệp định
sơ bộ tại Hà Nội. Bản Hiệp định Việt-Pháp này được đánh giá là kỳ tích khởi đầu lịch sử đấu tranh ngoại giao của
nước Việt Nam mới. Không phải là văn kiện chấm dức một cuộc chiến tranh, mà Bản Hiệp định Việt-Pháp này được
đánh giá là kỳ tích khởi đầu lịch sử đấu tranh ngoại giao của nước Việt Nam mới

Từ năm 1945, ở miền Bắc Việt Nam, 180.000 quân của Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa Dân quốc) hiện diện với
danh nghĩa giải giáp quân đội phát xít Nhật. Trong khi đó, ở miền Nam Việt Nam, quân viễn chinh Pháp núp bóng
quân Anh (giải giáp quân Nhật) để gây hấn, khủng bố, lấn chiếm, mưu toan phá bỏ thành quả cách mạng

CHỚP LẤY THỜI CƠ:

Ý nghĩa bổ sung trang 42

Tuy nhiên đàm phán bế tắc quanh vấn đề độc lập của Việt Nam. Phía ta không chấp nhận “tự trị” còn phía Pháp
không chấp nhận “độc lập”.Trong bối cảnh xảy ra vụ bắn nhau Pháp-Hoa, vào sáng ngày 6/3/1946 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đưa ra công thức mới để phá vỡ thế bế tắc, đó là thay từ “độc lập” bằng từ “tự do” đi kèm với định nghĩa.
“Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do…”. Ta và Pháp đã nhanh chóng ký
được bản Hiệp định sơ bộ vào chiều 6/3/1946. Trong bối cảnh Việt Nam khi đó chưa được cường quốc nào công
nhận, thì việc thương lượng với Pháp rồi ký Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, như Hồ Chủ tịch nhận định, đã “mở ra con
đường làm cho quốc tế thừa nhận ta, sẽ dẫn ta đến một vị trí ngày càng chắc chắn trên trường quốc tế”.

Sự kiện ký kết Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 có những nét tương đồng với việc chính quyền Nga Xô viết chấp nhận ký
kết Hòa ước Brest-Litovsk riêng rẽ với Đức để rút khỏi Thế chiến 1 với nhiều điều khoản nặng nề. Đảng ta đã vận
dụng sáng tạo năm 1918 vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam năm 1946. Điểm chung giữa hai sự kiện này là việc
chủ động nhân nhượng có nguyên tắc để bảo toàn chế độ trong những hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm. Bài học rút ra từ
Hiệp định này không chỉ là , nhân nhượng có nguyên tắc mà còn là nghệ thuật lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ
thù (cụ thể là trong nội bộ thực dân Pháp, trong nội bộ quân Tưởng Giới Thạch, và giữa Pháp và Tưởng), cũng như
nghệ thuật đón lõng và tận dụng đúng thời cơ.

 Các bài học từ Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 vẫn có giá trị cho tới tận ngày nay, khi Tổ quốc đối diện
với nhiều thách thức mới.

LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC 1946-1950:

Phương châm của cuộc kháng chiến này là“Chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là
chính“ 43 có giải thích kỹ ý nghĩa và phân tích phương châm.

TỔ CHỨC, CHỈ ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN (1947-1950)

Chiến dịch thu đông 1947 khiến Pháp thất bại trong kế hoạc đánh nhanh thắng nhanh, buộc Pháp chuyển sang đánh
lâu dài, chiến dịch biên giới 1950 (đề cương trang 45)

ĐẠI HỘI LẦN THỨ 2 CỦA ĐẢNG (2-1951) ( TRANG 45) ( chủ tịch HCM được bầu cử làm chủ tịch Đảng)

Tại sao lại nói nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời làm thay đổi so sánh lực lượng trên trường quốc tế
có lợi cho hòa bình và cách mạng?
1. Đưa Trung Quốc bước vào kỷ nguyên độc lập và chủ nghĩa xã hội: Cách mạng Trung Quốc năm 1949 đã
đánh bại chế độ phong kiến và mở ra cánh cửa cho chủ nghĩa xã hội. Mao Trạch Đông, chủ tịch thứ nhất
của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, thúc đẩy cải cách ruộng đất và xây dựng một hệ thống phân chia công
bằng hơn. Ông cũng đưa ra những dự án tham vọng như Đại nhảy vọt năm 1957 để tập trung hóa sản xuất
tại các vùng nông thôn. Mặc dù có những thất bại, nhưng sự ra đời của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã
đánh dấu sự tiến lên của chủ nghĩa xã hội trong lịch sử Trung Quốc.
2. Tăng cường lực lượng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi thế giới: Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra
đời, nước này đã thay thế Trung Hoa Dân Quốc tại Liên Hợp Quốc và giành được ghế một ủy viên thường
trực của Hội đồng Bảo an. Điều này đã tạo ra một sự thay đổi trong so sánh lực lượng trên trường quốc tế
và tăng cường sức mạnh của phong trào giải phóng dân tộc

Tính chất “ dân chủ nhân dân,một phần thuộc địa và nửa phong kiến” là gì?

Tính chất “dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến” là một khía cạnh của xã hội Việt Nam. Đây là
một phần của Chính cương Đảng Lao động Việt Nam. Hãy cùng tìm hiểu chi tiết:

Dân chủ nhân dân: Đây là tính chất của xã hội Việt Nam, trong đó quyền lực thuộc về nhân dân lao động. Xã hội
này được xây dựng dựa trên nguyên tắc “do nhân dân lao động làm chủ.” Điều này bao gồm việc nhân dân tham gia
vào quản lý, quyết định và kiểm soát các hoạt động xã hội.

Một phần thuộc địa: Trong lịch sử, Việt Nam từng là một thuộc địa của Pháp. Tuy đã giành được độc lập, nhưng
một phần của xã hội Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào các yếu tố thuộc địa. Điều này có thể liên quan đến kinh tế,
văn hóa, chính trị, và quan hệ với các nước khác.

Nửa phong kiến: Tính chất này ám chỉ sự tồn tại của một phần hệ thống phong kiến trong xã hội Việt Nam. Mặc dù
đã có những bước tiến trong việc loại bỏ hệ thống phong kiến, nhưng nó vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng đến xã hội.

 Như vậy, ba tính chất này đang đấu tranh lẫn nhau trong xã hội Việt Nam, và mâu thuẫn chủ yếu
lúc này là giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa.

Ý Nghĩa và giá trị lý luận, thực tiễn của Đại Hội II:

Tầm vóc và ý nghĩa to lớn của Đại hội II thể hiện ở sự thống nhất của “ý Đảng, lòng Dân”, Những quyết sách từ Đại
hội thấm nhuần bài học “dân là gốc” được đúc rút từ lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta,
cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, thể hiện “ý Đảng, lòng Dân” hòa chung trong khát vọng
giành độc lập, giải phóng dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội; sự kết hợp giữa trí tuệ của đội tiền phong lãnh đạo với
mong muốn, khát vọng độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của nhân dân; sự lãnh đạo của Đảng nhằm phát huy sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; sự vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; khẳng định mục tiêu đúng đắn: độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn thể nhân dân ta đã lựa chọn.

Những quyết sách sáng suốt có ý nghĩa to lớn và tinh thần đoàn kết “quyết chiến, quyết thắng” của Đại hội II tiếp
tục lan tỏa, là động lực quan trọng, nền tảng vững chắc để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua muôn vàn khó
khăn, thử thách trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược ở miền
Nam, từng bước giành thắng lợi, với đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975, hoàn thành sự nghiệp giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Ba nhiệm vụ chính, 14 chính sách lớn của Đảng được đề cập trang 47

ĐẨY MẠNH CUỘC KHÁNG CHIẾN ĐẾN THẮNG LỢI:

Xây dựng lực lượng chính trị: (1951)

Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam là sự kết hợp của hai tổ chức Việt Minh và Liên Việt (48)

Khẩu hiệu“Kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến „
LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH VŨ TRANG (50)

NĂM 1951-1953 (50-51)

NĂM 1953-1954 (51-52)

Ngày 6-12-1953: Mở chiến dịch Điện Biên Phủ.

Ý nghĩa của chiến dịch điện biên phủ:

– Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ chứng tỏ sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng và đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh.

– Chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng một đòn mạnh, quyết định, đập tan hoàn toàn kế hoạch Nava của Pháp. Cuộc
kháng chiến đã chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước ta và các nước trên bán đảo Đông
Dương.

– Bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945; mở ra một giai đoạn cách mạng mới, tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên
chủ nghĩa xã hội.

– Làm xoay chuyển cục diện chiến tranh Đông Dương, giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân
Pháp.

– Chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận đánh “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, trực tiếp đưa Pháp
ngồi vào bàn đàm phán, ký kết Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lại hoà bình ở Việt Nam, tạo điều
kiện để nhân dân ta giải phóng một nửa đất nước, đưa miền Bắc tiếp tục đi lên xã hội chủ nghĩa.

– Khẳng định sự giúp đỡ to lớn về cả vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế, các nước xã hội chủ nghĩa mà đại diện
là Liên Xô và Trung Quốc.

=> Chiến thắng Điện Biên Phủ đã góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại.

Nội dung hiệp định Giơnevơ (52)

Ý NGHĨA LỊCH SỬ VÀ KINH NGHIỆM CỦA ĐẢNG TRONG LÃNH ĐẠO KHÁNG CHIẾN CHỐNG
PHÁP VÀ CAN THIỆP MỸ ( 53)

TRƯỚC ĐÓ LÀ CHỐNG PHÁP VÀ CAN THIỆP MỸ PHẦN 2 LA MÃ NÀY MỚI CHÍNH THỨC CÓ MỸ
THAM CHIẾN

II. LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CNXH Ở MB VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM
(1954-1960)
1.1.2 Lãnh đạo khôi phục kinh tế, cải tạo XHCN ở Miền Bắc (55)\
(HN7,8,10,13,14,16)

Chính sách Tố Cộng Diệt Cộng của chính quyền NDD diễn ra như thế nào ?

Tố Cộng là tổ chức những cuộc tố cáo những người cộng sản tham gia chiến tranh Đông Dương và tham gia đấu
tranh chống Việt Nam Cộng hòa. Trong khi đó, Diệt Cộng là tiêu diệt đảng viên cộng sản. Chế độ Ngô Đình Diệm
đã tổ chức các chiến dịch “Tố Cộng, diệt Cộng”, tiến hành càn quét khắp miền Nam, giết hại hàng loạt những cán
bộ, chiến sỹ từng tham gia chiến tranh Đông Dương của Việt Minh.

Lãnh đạo đấu tranh chống Mỹ Diệm ở Miền Nam: (56)

Ý nghĩa của phong trào Đồng Khởi: (59)

Nguyên nhân diễn ra phong trào đồng khởi:


Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960) trang 59,

Đặc điểm lớn nhất của miền Bắc lúc bấy giờ : Từ một nền KT Nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không
đi qua TBCN. Hạn chế lớn nhất: Nhận thức về con đường đi lên CNXH còn giản đơn, chưa có dự kiến về chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH.

Lãnh đạo kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) Xây dựng xã hội chủ nghĩa ở MB: (61)

Đại Phong: Cụm từ này xuất phát từ phong trào thi đua trong quân đội Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ. Tại
Đại hội Thi đua yêu nước năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Công nhân phất cao ngọn cờ ‘Duyên
Hải.’ Nông dân phất cao ngọn cờ ‘Đại Phong.’ Quân đội anh hùng phất cao ngọn cờ ‘Ba nhất.’” Cụm từ “Đại
Phong” tượng trưng cho sự đoàn kết và phấn đấu của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc1.

Duyên Hải: Cụm từ này liên quan đến phong trào thi đua “Vượt sóng Duyên Hải.” Đây là một phong trào thi đua
trong lĩnh vực kinh tế, mục tiêu là khắc phục khó khăn thiếu thốn để xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững
mạnh, làm hậu phương lớn cung cấp sức người sức của cho chiến trường miền Nam.

Ba Nhất: Cụm từ này xuất phát từ phong trào thi đua trong quân đội. Tại Hội thi Pháo binh toàn quân lần thứ hai
vào ngày 18-6-1960, Đại đội 2 sơn pháo 75mm thuộc Tiểu đoàn 10, Trung đoàn Pháo binh 68 giành huy chương
vàng tập thể và cá nhân. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh biểu dương thành tích của Đại đội 2 là đơn vị “Ba nhất”: Bắn
giỏi nhất; có nhiều người, nhiều đơn vị tham gia nhất; đoàn có thành tích đều nhất. Kể từ đó, Đại đội 2 trở thành đơn
vị “Ba nhất” đầu tiên và phong trào thi đua “Ba nhất” được phát động rộng khắp trong toàn quân.

Tại sao ở thời điểm này Miền Nam lúc này lại chọn ở thế trung lập?

Trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam (1948–1975), Mỹ đã can thiệp quân sự tại Việt Nam với hàng loạt chính sách,
biện pháp chính trị, ngoại giao và quân sự nhằm thực hiện mục tiêu của họ tại khu vực Đông Dương, trong đó Việt
Nam là trọng tâm1. Tuy nhiên, việc chọn ở thế trung lập của Miền Nam khi chiến tranh vớsi Mỹ có một số nguyên
nhân:

Chiến thắng Bình Giã (Bà Rịa) trong Đông – Xuân 1964 – 1965: Quân dân miền Nam đã làm phá sản về cơ bản
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ, và điều này đã thúc đẩy Miền Nam chuyển sang thực hiện chiến lược
"Chiến tranh cục bộ"2.

Thiếu uy tín và sự liên kết với cường quốc thuộc địa cũ: Miền Nam phải đối mặt với vấn đề thiếu uy tín và không có
sự liên kết mạnh mẽ với các cường quốc thuộc địa cũ, điều này đã ảnh hưởng đến khả năng chống lại Mỹ.

Như vậy, việc chọn ở thế trung lập của Miền Nam khi chiến tranh với Mỹ có nhiều yếu tố phức tạp và liên
quan đến tình hình lịch sử và chính trị tại thời điểm đó,

Trong đó ẤP CHIẾN LƯỢC LÀ:

Ấp Chiến lược là một “quốc sách” do chính phủ Mỹ và Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam sử dụng trong Chiến tranh Việt
Nam từ năm đầu năm 1963 (thời kỳ Ngô Đình Diệm làm tổng thống) để đối phó với Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam1. Kế hoạch này được áp dụng để tách rời quân du kích của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam ra khỏi nhân dân ở nông thôn, hòng hạn chế quân Giải phóng xây dựng cơ sở hoạt động và ngăn chặn người
dân tiếp tế cho du kích. Ấp chiến lược còn có dụng ý để quân địa phương có công sự phòng ngự đợi cho đến khi
quân đội có thể đến chi viện2. Tuy nhiên, đối với phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Ấp chiến lược là nội
dung cơ bản, là “xương sống” của chiến lược chiến tranh đặc biệt, nhằm thực hiện ý đồ tiêu diệt lực lượng quân Giải
phóng3. Giáo sư Sử học Randy Roberts còn nhận xét rằng "Cái gọi là Chương trình Ấp Chiến lược thực chất là lùa
nông dân Việt Nam ra khỏi làng quê tổ tiên của họ và nhốt họ trong những khu đất rào quanh chắc chắn giống như
một nhà tù hơn là các cộng đồng thật sự"

Lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (63)

Sau thất bại trong phong trào “Đồng khởi” ở Miền Nam, trong khoảng thời gian từ năm 1961 đến năm 1965, Mĩ
chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, một trong chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” của Tổng thống
Mĩ Ken – nơ – đi, người mới lên thay, tiếp nối sứ mạng xâm lược Việt Nam và Đông Dương của người tiền nhiệm
là Tổng thống Ai – xen – hao. Đây là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ, được tiến hành bằng
quân đội tay sai, do “cố vấn” Mĩ chỉ huy, dựa vào vũ khí, trang bị kĩ thuật, phương tiện chiến tranh của Mĩ,

Mục tiêu là chống lại các lực lượng cách mạng và nhân dân ta để nhanh chóng bình định miền Nam Việt Nam.

Để tiến hành chiến tranh đặc biệt, Mĩ đưa ra 2 bản kế hoạch là kế hoạch Xtalây – Taylo từ năm1961 đến 1963 và
Giônxơn – Mácnamara trong những năm 1964 -1965 với nhiều thủ đoạn như tăng số lượng quân đội Sài Gòn từ 170
ngàn người năm 1961 lên tới 560 ngàn người năm 1964 để làm công cụ tiến hành chiến tranh.

Đồng thời đẩy mạnh lập ấp chiến lược, khu trù mật với mục tiêu dồn 10 triệu dân vào 16 ngàn ấp chiến lược, trong
tổng số 17 ngàn ấp toàn miền Nam. Có thể nói ấp chiến lược, khu trù mật là một loại nhà tù trá hình, nhằm tách dân
ra khỏi cách mạng. Bởi vậy chúng dùng mọi thủ đoạn trắng trợn để cưỡng bức nhân dân ta vào các ấp chiến lược, ở
xung quanh các ấp, chúng xây dựng hàng rào thép gai kiên cố, có hào bao quanh, dải mìn dày đặc, pháo sáng, có bốt
canh,... tiến tới nắm dân, bình định miền Nam.

Ngoài ra, Mĩ còn trang bị nhiều vũ khí hiện đại, chiến thuật chiến tranh mới, có sức cơ động cao như trực thăng
vận, thiết xa vận. Mời chuyên gia quân sự chống du kích của Anh ở Mailaxia sang cố vấn cho kế hoạch “bình định”
ở miền Nam.

Đến năm 1964, Mĩ còn thả nhiều gián điệp phá hoại ta ở các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Yên Bái,…và cho chiến
hạm 7 đẩy mạnh tuần tiễu ở Vịnh Bắc Bộ, phong tỏa biên giới, vùng biển nhằm ngăn chặn đường tiếp tế cho miền
Nam.

Qua những thông tin trên, có thể thấy, đây là một chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân mới và vô cùng nham
hiểm, thâm độc do Mĩ đề ra, và được thực hiện ở miền Nam Việt Nam. Tại sao vậy?

Các bạn thân mến.

Đây là một chiến lược chiến tranh xâm lược thực dân mới và vô cùng nham hiểm, thâm độc vì Mĩ muốn đánh ta, cai
trị ta nhưng đưa vũ khí, tiền bạc, bày mưu mẹo cho bọn quân đội Sài Gòn thực hiện, Mĩ giật dây, chỉ huy ở đằng
sau. Khác với Pháp trước đây là đem quân trực tiếp xâm lược. Chiến lược này có nét đặc biệt và hiểm độc hơn là ở
chỗ: dùng người Việt đánh người Việt, đưa nhân dân ta vào cảnh nồi da nấu thịt, mà ít oán thù Mĩ.

Nhìn chung có thể khẳng định đặc điểm nổi bật của chiến lược này là: chúng coi chính quyền Sài Gòn và quân lực
Việt Nam Cộng hòa là công cụ, Ấp chiến lược là xương sống, còn đô thị là hậu cứ của Mĩ khi thực hiện chiến lược
“chiến tranh đặc biệt”.
SỰ KHÁC NHAU GIỮA PHÁP VÀ MỸ:

Chiến tranh hai phía:

Chiến tranh hai phía (còn gọi là chiến tranh đối đầu) là một tình huống khi hai phe đối đầu trực tiếp với nhau. Đây
thường là cuộc chiến giữa hai quốc gia hoặc hai liên minh quân sự.

Ví dụ: Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) giữa Đồng Minh và Trung Đồng Minh.

Chiến tranh đơn phương:

Chiến tranh đơn phương là tình huống khi một phe tham gia chiến tranh không gặp phải sự đối đầu trực tiếp với phe
đối thủ. Thường thì một phe mạnh hơn sẽ tấn công một phe yếu hơn mà không bị đáp trả.

Ví dụ: Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã thực hiện chiến tranh đơn phương tại miền Nam Việt Nam. Họ hỗ trợ
chính quyền Sài Gòn và thực hiện kế hoạch thành lập đoàn cố vấn quân sự để giúp Ngô Đình Diệm tiến hành cuộc
“chiến tranh đơn phương” với mục tiêu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới

Chiến tranh đặc biệt là gì? Tại sao nó lại đặc biệt?

Lãnh đạo cả nước CM (1965-1975) (65)

Hoàn cảnh lịch sử và nội dung đường lối kháng Mỹ cứu nước (65)

Chiến tranh cục bộ là gì? (đọc từ trang 70 trở đi để tìm ý)


Việc Trung Quốc và Liên Xô bấy giờ vào tình thế ngày càng căng thẳng ảnh hưởng như thế nào đối với
CMVN?

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Việt Nam đã phải đối mặt với tình hình căng thẳng giữa Trung
Quốc và Liên Xô. Dưới đây là một số điểm quan trọng về tình hình đó:

Liên Xô và Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước:

Liên Xô và Trung Quốc đóng vai trò quyết định vì là hai đồng minh lớn của Việt Nam trong cuộc kháng chiến. Tuy
nhiên, lúc đó hai nước lại đang có bất đồng và mâu thuẫn nghiêm trọng, thậm chí coi nhau như kẻ thù.

Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đoàn kết được với cả Liên Xô và Trung Quốc thông qua chính sách đối ngoại
đúng đắn và nghệ thuật ngoại giao tài tình. Nhờ đó, Việt Nam tranh thủ được sự ủng hộ to lớn, hiệu quả về tinh thần
cũng như vật chất của cả hai đồng minh cho cuộc kháng chiến1.

Chia rẽ giữa Liên Xô và Trung Quốc:

Sau năm 1965, sự chia rẽ giữa hai nước đã định, và việc khởi sự cuộc Cách mạng Văn hoá của Mao đã làm phương
hại tất cả những mối liên lạc giữa hai nước.
Liên Xô và Trung Quốc có mâu thuẫn nhiều về vấn đề lãnh thổ và biên giới. Một trong vấn đề đó là về Cộng hòa
Nhân dân Mông Cổ, khi Trung Quốc luôn có ý định sáp nhập Mông Cổ vào Trung Quốc, nhưng Liên Xô và chính
Mông Cổ đã phản đối điều này2.

 Tóm lại, dù căng thẳng giữa Trung Quốc và Liên Xô, Việt Nam đã tận dụng được sự ủng hộ của
cả hai đồng minh để thực hiện cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một cách hiệu quả và thành
công.

Hội nghị trung ương lần thứ 11(3-1065)-12(12-1965) (66-67)

Việt Nam hóa chiến tranh là gì (75-77)

Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng thời kỳ 1954-1975 (77)

CHƯƠNG 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ TIẾN HÀNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
(1975-2020)
1. Xây dựng và bảo vệ tổ quốc (1975-1981) (79)
Hoàn thành thống nhất nước nhà (80)
Đại hội đại biểu lần thứ IV (81) đề ra kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (82)
2. Về xây dựng XHCN (83), Về bảo vệ TQ, về bảo vệ biên giới phía Bắc (85), Kết quả và thành tựu (86)
3. Về ĐH lần thứ 5 (87), Các bước đổi mới kinh tế (88)
4. BƯỚC ĐỘT PHÁ TƯ DUY QUAN TRONG, ĐẠI HỘI VI (90)
Tại đại hội này, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, từ việc đổi mới tư duy đến đổi mới tổ
chức, cán bộ, và phong cách lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt, đổi mới kinh tế là một phần quan trọng của quá
trình này12. Trước khi Đại hội lần thứ VI diễn ra, Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách
thức, bao gồm khủng hoảng kinh tế và sự bóc lột nặng nề từ các nước đế quốc chủ nghĩa. Đại hội VI đã
quyết tâm đổi mới để vượt qua những khó khăn này và đưa đất nước tiến lên phía trước.
Trong quá trình đổi mới, Đảng đã thay đổi tư duy và nhận thức về kinh tế, từ việc xây dựng chế độ kinh tế
thị trường đến việc củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Điều này đã tạo ra những bước tiến quan
trọng trong sự phát triển của đất nước3. Tuy nhiên, cần nhớ rằng quá trình đổi mới không chỉ dừng lại ở
một đại hội, mà là một hành trình kéo dài qua nhiều giai đoạn và nhiệm kỳ của Đảng.
4 bài học kinh nghiệm trong ĐH VI (91), 6 yêu cầu 93, trong ĐH VI có đưa ra nguyên nhân chủ quan
của những tình trạng trên (91), mục tiêu cụ thể về kinh tế-xã hội , phương hướng cơ bản, tư tưởng
chỉ đạo, chính sách (92)
- Tư tưởng “lấy dân làm gốc”: Đảng phải quán triệt tư tưởng này trong toàn bộ hoạt động của mình.
Điều này đồng nghĩa với việc xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.
- Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam: Sự yêu nước của nhân dân Việt Nam đã đóng góp quan
trọng vào thắng lợi của Đảng. Đây là một bài học quý báu về lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết của
nhân dân2.
- Lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã giúp thắng lợi trong cuộc cách mạng. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của lãnh
đạo trong mọi hoạt động của Đảng2.
- Chuẩn bị lâu dài, chu đáo và rút kinh nghiệm qua đấu tranh: Quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng và việc rút
kinh nghiệm từ những cuộc đấu tranh đã đóng góp quan trọng vào thành công của Đại hội.
Ý nghĩa của các bước đột phá trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng (1979-1986):
Trong cơn khủng hoảng, khó khăn ngày càng nghiêm trọng, ĐCSVN đã có những bước thử nghiệm đổi
mới tư duy, nhận thức, tìm tòi, thử nghiệm thay đổi cơ chế quản lý kinh tế cho phù hợp với điều kiện thực
tiễn của đất nước…, tìm đường đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng.
Những tìm tòi, thử nghiệm đó đã mang lại kết quả tích cực đã góp phần tháo gỡ khó khăn trên một số lĩnh
vực kinh tế - xã hội: lương thực, thực phẩm, lưu thông phân phối…
Những bước đột phá là căn cứ để Đảng CSVN xác định phương hướng và quyết tâm đổi mới toàn diện đất
nước, làm nền móng cho sự đổi mới toàn diện và phát triển không ngừng của Đất nước.
S
Diễn biến hòa bình là :
Diễn biến hòa bình là khái niệm được một số nhà nước Xã hội chủ nghĩa sử dụng để nói về một chiến lược
chính trị - ý thức hệ và xã hội của chủ nghĩa tư bản và chính trị cánh hữu nhằm chống lại chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa Marx-Lenin và chủ nghĩa cộng sản. Đây là một quá trình diễn biến lâu dài, âm thầm, không đổ
máu và yên lặng, nhưng sẽ dẫn đến sự loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và ý thức hệ của nó ở tại
các nước xã hội chủ nghĩa.
Kết quả thực hiện đường lối đổi mới 1986-1991 (96)
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT THƯỜNG THÔNG QUA CÁC HỘI NGHỊ BCHTW (93)
ĐẠI HỘI LẦN THỨ VII VÀ CƯƠNG LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (97)
Xu thế tất yếu là những hướng phát triển, thay đổi hoặc sự thay đổi tự nhiên trong một lĩnh vực hoặc xã
hội. Đây là những xu hướng không thể tránh khỏi và thường được thực hiện để đáp ứng nhu cầu của thời
đại.
1. Hội nhập Kinh tế là xu thế tất yếu trong quan hệ quốc tế:
- Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và quan hệ giữa con người.
Các cá nhân muốn tồn tại và phát triển phải có quan hệ và liên kết với nhau tạo thành cộng đồng.
Nhiều cộng đồng liên kết với nhau tạo thành xã hội và các quốc gia-dân tộc. Các quốc gia lại liên kết
với nhau tạo thành những thực thể quốc tế lớn hơn và hình thành hệ thống thế giới.
- Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải mở rộng các thị trường quốc gia, hình thành
thị trường khu vực và quốc tế thống nhất. Đây là động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung.
- Thêm nữa, với tình hình lúc bấy giờ, nước ta cũng phải đương đầu với các hoạt động phá hoại của các
thế lực thù địch ở cả ngoài nước và ở trong nước trong khi cuộc khủng hoảng về kinhtế - xã hội của đất
nước chưa chấm dứt. Nhưng nhờ những thành tựụ bước đầu của ,gần 5 năm đổi mới thành công, đây
như tín hiệu thông báo rằng chúng ta cần phải đứng vững và tiếp tục tiến lên, tiếp tục đổi mới, tiếp tục
hội nhập mặc dù còn nhiều khó khăn
- Khẳng định hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới cũng đồng thời chỉ ra con đường
phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc
tế. Sự lựa chọn tất yếu này còn được quyết định bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập quốc tế tạo ra cho các
nước.
2. Hội nhập kinh tế xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của Đất nước, Việt Nam nhận được những lợi
ích to lớn khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế:
- Đối với đất nước:
+ Thứ nhất, quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại và các quan hệ kinh tế
quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội.
+Thứ hai, hội nhập cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư
kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và
doanh nghiệp; đồng thời, làm tăng khả năng thu hút đầu tư vào nền kinh tế.
+Thứ ba, hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học công nghệ quốc gia,
nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước và tiếp thu công nghệ mới thông
qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến.
- Thứ tư, hội nhập tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế
phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước và không bị lề
hóa.
- Thứ năm, hội nhập giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế giới, làm giàu
văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
- Thứ sáu, hội nhập tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một xã hội mở,
dân chủ hơn, và một nhà nước pháp quyền.
- Thứ bảy, hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế,
giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng như khả năng duy trì an ninh, hòa bình và ổn định để
phát triển.
- Thứ tám, hội nhập giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các nước tập trung cho phát
triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải quyết những
vấn đề quan tâm chung của khu vực và thế giới.
- Đối với doanh nghiệp:
+ Thứ nhất, hội nhập làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế,
nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.
+ Thứ hai, Nâng cao cạnh tranh: Tham gia hội nhập kinh tế khu vực tạo điều kiện cho doanh nghiệp
nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ để cạnh tranh với các đối thủ trong khu vực. Điều này thúc
đẩy sự cải thiện và đổi mới liên tục.
+ Thứ ba, Triển vọng việc làm: Hợp tác kinh tế quốc tế cho phép áp dụng những thay đổi công nghệ và
di chuyển vốn dễ dàng hơn, tạo ra cơ hội việc làm cho người lao động2.
+ Thứ tư, Cải thiện về thương mại: Hội nhập kinh tế mở rộng thị trường tiêu thụ và cung ứng, giúp
doanh nghiệp tiếp cận nguồn cung cấp mới và khách hàng tiềm năng
Đối với công dân:
- Thứ nhất, hội nhập tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng
về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế
giới bên ngoài, từ đó có cơ hội phát triển và tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
- Thứ hai, Đối với công dân, hội nhập gia tăng cơ hội việc làm, đa dạng ngành nghề, vị trí trong các
doanh nghiệp quốc tế tương ứng với trình độ và năng lực của mỗi công dân.
- Thứ ba, Hội nhập tạo động lực để mỗi cá thể phấn đấu học tập, trau dồi những thành tựu công nghiệp
từ các nước phát triển đem lại. Ngoài ra, việc tiếp xúc với công nghệ hiện đại còn giúp nâng cao dân trí
và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
5 bài học kinh nghiệm (97)
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ( Cương lĩnh năm 1991)
5 bài học lớn (98)
- Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Hai vấn đề này có
quan hệ hữu cơ với nhau. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội sẽ tạo ra sức mạnh to lớn
của dân tộc trong đấu tranh cách mạng, giành thắng lợi.
- Hai là, Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để phát huy, nhân lên sức
mạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và tòan bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và
nguyện vọng chân chính của nhân dân, đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân.
- Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đòan kết, đòan kết toàn Đảng, đòan kết tòan dân, đòan kết
dân tộc, đòan kết quốc tế.Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lịch sử lớn, lâu dài của dân
tộc ta đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo nên nguồn sức mạnh to lớn
để giành thắng lợi.
- Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Sức mạnh dân tộc, sức mạnh trong nước là sức mạnh tổng hợp của nhiều nguồn lực. Sức mạnh thời
đại, sức mạnh quốc tế trước hết là sức mạnh của quy luật và xu thế phát triển không thể đảo ngược của
lịch sử nhân loại.
- Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu bảo đảm thắng lợi
của sự nghiệp cách mạng nước ta. Để làm được điều đó, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị,
tư tưởng và tổ chức, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đáp ứng yêu cầu của tình
hình thực tế, đủ sức giải quyết các vấn đề do cuộc sống đặt ra.

Những đặc trưng cơ bản CNXH mà nhân dân ta xây dựng (99) (6 đặc trưng)
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, những đặc trưng này đóng vai trò quan trọng trong việc
xây dựng một xã hội tiến bộ và phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới đây là mô tả chi tiết về các
đặc trưng này:
- Do nhân dân lao động làm chủ: Xã hội xã hội chủ nghĩa được xây dựng dựa trên sự tham gia tích cực
của nhân dân lao động. Họ là người chủ thể của quyết định và có quyền tham gia vào quản lý và quyết
định về các vấn đề quan trọng của xã hội.
- Có một nền kinh tế phát triển cao: Xã hội chủ nghĩa cần có một nền kinh tế phát triển, dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Điều này đảm bảo sự phát
triển bền vững và cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Xã hội xã hội chủ nghĩa cần phát triển một nền văn
hóa tiên tiến, đồng thời bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công: Xã hội chủ nghĩa đảm bảo cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc cho con người. Mọi người được đánh giá và đối xử công bằng, không bị áp bức
hay bóc lột.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ: Xã hội chủ nghĩa thúc đẩy
tinh thần đoàn kết và hợp tác giữa các dân tộc, đảm bảo bình đẳng và phát triển chung.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới: Xã hội chủ nghĩa cần thiết lập quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước khác để đạt được sự phát triển toàn diện và bảo vệ lợi ích của nhân dân.

7 Phương hướng lớn về xây dựng CNXH ở Việt Nam (99)

Về chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội năm 2000 (100)

Tiếp tục công cuộc đổi mới đẩy mạnh CNH, HĐH VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ (1996) BƯỚC ĐẦU
HỘI NHẬP QUỐC TẾ (105) ĐẠI HỘI VIII

Bài học KN sau 10 năm đổi mới (107)

6 quan điểm về CNH,HĐH (108)

Ý nghĩa đại hội (110)

Lãnh đạo thực hiện nghị quyết ĐH VIII (110)

6 quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa (111)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (112)

Những bài học kinh nghiệm trong 15 năm đổi mới (114), động lực chủ yếu để phát triển đất nước là khối
đại đoàn kết liên minh công- nông-tri thức, do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể
và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế và của toàn XH.

Đánh giá về con đường đi lên CNXH ở nước ta (114)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (121)

Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 20 năm đổi mới (122), đặc biệt Điều lệ Đảng đã được
thay đổi (124)

Chủ trương của Đảng và giải pháp để tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hưỡng
XHCN (127): 5 bài học

ĐẠI HỘI LẦN THỨ XI (130) CÓ RẤT NHIỀU BÀI HỌC KINH NGHIỆM, ĐỌC KỸ ĐỀ VÀ VIẾT
HỢP LÍ (131)

3 đột phá trong chiến lược (134)

ĐẠI HỘI LẦN THỨ 12 (142)

BỔ SUNG CÁC TP KINH TẾ:


Trong nền kinh tế thị trường, với quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo đảm, từ ba loại hình sở hữu
cơ bản (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân), sẽ hình thành nhiều thành phần kinh tế với những
hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng.

Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, nắm những doanh
nghiệp trọng yếu và đảm đương những hoạt động mà các thành phần khác không có điều kiện hoặc không
muốn đầu tư kinh doanh. Khu vực quốc doanh được sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý,
kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức
năng của một công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước.

Các xí nghiệp quốc doanh tồn tại và phát triển dưới hình thức 100% vốn Nhà nước hoặc hình thức doanh
nghiệp cổ phần trong đó vốn Nhà nước chiếm tỉ lệ khống chế, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ kinh
doanh, tự trang trải và tích luỹ trong môi trường hợp tác, cạnh tranh; Nhà nước chỉ tài trợ có thời hạn cho
một số cơ sở thật sự cần thiết.

Những cơ sở không cần giữ hình thức quốc doanh thì Nhà nước chuyển hình thức kinh doanh, hình thức sở
hữu hoặc giải thể, đồng thời có chính sách giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động.

Kinh tế tập thể, với hình thức phổ biến là hợp tác xã, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động, phát triển
rộng rãi và đa dạng trong các ngành, nghề với quy mô và mức độ tập thể hoá khác nhau, trên cơ sở tự
nguyện góp vốn, góp sức của những người lao động. Tổ chức và hoạt động của hợp tác xã không phụ thuộc
vào địa giới hành chính. Một hộ gia đình có thể tham gia các hợp tác xã khác nhau và có quyền rút ra khỏi
hợp tác xã theo điều lệ.

ở nông thôn, trên cơ sở tăng cường vai trò đơn vị kinh tế tự chủ của hộ xã viên, các hợp tác xã hướng hoạt
động vào những khâu và lĩnh vực mà hộ xã viên không có điều kiện tự làm hoặc làm kém hiệu quả hơn
kinh doanh tập thể; cùng với chính quyền và các đoàn thể chăm lo các vấn đề xã hội và xây dựng nông thôn
mới.

Đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Các hộ nông dân được Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và
cấp giấy chứng nhận. Luật pháp quy định cụ thể việc thừa kế và chuyển quyền sử dụng ruộng đất.

Kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển trong các ngành nghề ở cả thành thị và nông thôn, không bị
hạn chế việc mở rộng kinh doanh, có thể tồn tại độc lập, tham gia các loại hình hợp tác xã, liên kết với các
doanh nghiệp lớn bằng nhiều hình thức.

Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành,
nghề mà luật pháp không cấm. Nhà nước có thể liên doanh bằng nhiều hình thức với tư nhân trong và ngoài
nước, hình thành loại doanh nghiệp thuộc thành phần tư bản nhà nước.

Kinh tế gia đình không là một thành phần kinh tế độc lập nhưng được khuyến khích phát triển mạnh.

Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế có thể liên kết thành các liên hiệp hoặc tập đoàn kinh doanh
theo nguyên tắc tự nguyện, trên cơ sở hiệu quả kinh tế và cùng có lợi.

Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, không phân biệt đối xử, không tước
đoạt tài sản hợp pháp, không gò ép tập thể hoá tư liệu sản xuất, không áp đặt hình thức kinh doanh, khuyến
khích các hoạt động có lợi cho quốc kế dân sinh.

You might also like