Professional Documents
Culture Documents
MỘT SỐ TÁC GIẢ VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
MỘT SỐ TÁC GIẢ VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
• “Một chiếc linh hồn nhỏ mang thiên cổ sầu”: “hồn”, “linh hồn”: yếu tố tinh thần gắn
liền với niềm tin và lương tri của con người, là thế giới trong sáng thanh cao đối lập
với cuộc đời phàm tục.
è Tương lai tối tăm, mù mịt, lạnh lẽo + Hiện tại bơ vơ lạc lỏng à Sự mâu thuẫn giữa
hồn và xác à Trốn về quá khứ, trở về với thiên nhiên, với bóng dáng xưa cũ của ngọn
nguồn dân tộc.
• “Ta gặp hồn ta trong vũ trụ”: khát khao vượt thoát khỏi những trói buộc của xã hội,
rũ bỏ những ham muốn tầm thường của thế tục để vươn tới cõi tinh thần tự do cao
khiết. Ban đầu, con người tìm đến thiên nhiên như tri kỉ. Nhưng chẳng bao lâu, Huy
Cận đã từ giã mặt đất để thực hiện cuộc viễn chinh vào bầu trời xa thẳm à Bầu trời
trở thành thế giới nghệ thuật đặc thù, là môi trường hoạt động của các nhân vật.
1.2. Quan niệm sau Cách mạng tháng Tám 1945
§ “Trái tim ở giữa cuộc đời”:
Tài liệu tổng hợp
• Trước: nhìn con người trong vũ trụ, giữa thiên nhiên thì giờ: nhìn con người giữa
cuộc đời.
è Xã hội mới à Con người mới: con người hoà hợp tin yêu, con người vui vẻ lạc quan.
• Nhìn con người trong mối quan hệ với sự nghiệp chung của dân tộc, đất nước.
è Hình tượng con người lao động trở thành hình tượng trung tâm trong thơ Huy Cận.
§ “Sống hiên ngang mà nhân ái chan hoà”: nhìn con người với những vẻ đẹp của họ. Vẻ
đẹp ấy là sự kết hợp hài hoà giữa anh hùng và nghệ sĩ, giữa khí phách hiên ngang và
nhân ái chan hoà à Vẻ đẹp truyền thống những đã được nâng cao trong thời đại mới,
mang tầm vóc thời đại lớn lao.
2. Phong cách sáng tác
2.1. Phong cách sáng tác của Huy Cận
- Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945: giọng điệu thâm trầm, sầu não.
- Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945: giọng điệu tươi vui, khoẻ khoắn, lạc quan.
à Có sự kết hợp giữa văn chương phương Đông và phương Tây.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành phong cách thơ Huy Cận
§ Gia đình và quê hương
Trong Hồi ký song đôi, phần viết về gia đình, quê hương của mình, Huy Cận đã giúp người đọc hình dung
khá rõ về họ Cù Huy. Ông sinh ra trong gia đình một thời tương đối “có tiếng và có miếng” ở làng Ân Phú (Ân
Phú nghĩa là giàu có, thịnh vượng; người dân Ân Phú dựa vào chữ nghĩa “dân ân, quốc phú” trong truyện Tam
quốc chí để luận tên làng). Vào thời còn trẻ, cụ ông (ông nội nhà thơ Huy Cận) nhờ chăm chỉ cần cù, cày sâu
cuốc bẫm, dần dần khấm khá lên, ông tậu được ít ruộng, trở thành một hộ khá giả. Trong làng Ân Phú thời ấy
xem ra nhà ông nội cũng thường thường bậc trung (nghĩa trung lưu), không thua kém ai và thừa sức nuôi thầy
dạy chữ Hán trong nhà, rèn cặp con cái. Sang đến đời ông Cù Huy Chương, bố nhà thơ, không may cảnh
nhà bắt đầu sa sút. Sau cái chết của cụ ông, nhiều biến cố nho nhỏ ập đến, bắt đầu nảy sinh những mối
bất đồng, dằn vặt trong mối quan hệ gia đình. Thuở ấy, tâm trí cậu bé Huy Cận luôn nhuốm lên những
nỗi buồn từ những câu chuyện xung quanh mình: bố thường vắng nhà; mẹ hờn bà; bà đốt nhà; mẹ giận
bố chơi bài bạc suýt gán ruộng vì nợ... Nhưng rồi, nỗi buồn thời thơ ấu cũng chỉ thoáng qua khi cậu bé Huy
Cận luôn “bị” bận bịu học vỡ lòng chữ Hán tại gia với bố; rồi lại được thầy Cù Hoàng Thự rèn cặp học chữ
quốc ngữ ở trường làng (khoảng năm 1924, 1925).
Nhắc đến quê hương qua hồi ức của Huy Cận, người ta hình dung một vùng quê nằm ở chân núi Mồng
Ga (thật ra là Mồng Gà, theo tên chữ là Kê Quan), cách bến Tam Soa (còn có tên Linh Cảm) khoảng 3km về
phía tả ngạn sông Ngàn Sâu (tên chữ là Thâm Giang). Khúc sông này là thượng nguồn sông La rất vắng lặng
và rất đẹp. Huy Cận tâm sự: “Tôi sinh trong một quê hương đẹp mà nghèo, trong một gia đình nghèo mà buồn...
Sông núi đất đai ấy như đã làm ra xương thịt của tôi và tâm hồn tôi nữa”. Trong hồi ức, ông hình dung chợ Nướt
bên kia sông (dạng chợ phiên họp 9 kỳ trong tháng vào những ngày 3, 6, 9 âm lịch), tương đối nhộn nhịp vì thu
Tài liệu tổng hợp
hút đông đảo dân buôn bán và nông dân trong vùng. Thế nhưng, đó chỉ là chợ nhỏ, sinh hoạt bán buôn trong địa
bàn xã, nhu cầu gia tăng và mở rộng hơn là vào dịp giáp Tết: đi chợ Thượng. Mỗi năm người dân Ân Phú mới
có chuyến đò dọc, xuôi từ bãi Giang đến chợ Thượng (chợ huyện Đức Thọ). Chợ Thượng được Huy Cận ví von
là nơi gặp gỡ của “thế giới văn minh Âu Tây” với những mặt hàng hóa công nghiệp từ các thành phố lớn chuyển
đến. Mỗi lần có dịp đi những chuyến đò xuôi đã để lại những ấn tượng thú vị, mới lạ đối với Huy Cận. Nhưng
có lẽ điều đáng nói là những ấn tượng lạ lùng như nỗi ám ảnh của tuổi thơ đầy mơ mộng của Huy Cận về
dòng sông mênh mông, những buổi trưa hè trời xanh ngắt, bãi cát ven sông chạy dài vắng lặng hay những
ám ảnh về khúc sông đầy ghềnh thác, đáng sợ và cảnh nước lũ làm eo sèo, hiu hắt một vùng quê nghèo
khổ...
Tuổi thơ đi qua nhưng những hình ảnh ấy cứ lấp loáng trong ký ức. Sau này, lớn lên, Huy Cận tự hỏi có
phải đó là một trong những nguyên nhân đã “ươm” nụ thành nỗi buồn rười rượi, sầu não không đâu, nhen nhóm
một cách khó giải thích trong lòng cậu trai nhỏ 8 tuổi ở một vùng quê bán sơn cước?
§ Những vùng đất học của Huy Cận
Trang đời tươi sáng của Huy Cận bắt đầu từ việc được người cậu ruột là ông giáo Bùi Văn nhận nuôi dạy
từ bậc tiểu học ở huyện Quảng Điền và sau đó vào đất Huế. Những năm tháng này, kiến thức từ tủ sách của ông
giáo Bùi Văn đã giúp tâm hồn cậu học sinh Huy Cận gặp được nhiều thế giới văn chương Đông Tây kim cổ thật
thú vị. Huy Cận đọc sách tiếng Việt từ những truyện thơ Nôm: Thạch Sanh, Phan Trần, Tống Trân Cúc
Hoa, Hoàng Trừu, Nữ tú tài, Trê Cóc, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm... đến vè Thất thủ
kinh đô, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Tú Xương...
Sách tiếng Pháp cũng được Huy Cận say mê tìm đến với truyện cổ tích của Perrault, Andersen, Nghìn lẻ
một đêm, tiểu thuyết Những người khốn khổ của Victor Hugo, Ba người ngự lâm pháo thủ của A.
Dumas... Ở giai đoạn sau này, trong hồi ký của Huy Cận, còn cho biết trong lần vào Mỹ Tho, thăm Xuân Diệu
lúc đang làm Tham tá nhà đoan, ông đã may mắn gặp tủ sách riêng của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh (Xuân
Diệu lúc ấy đang trọ tại nhà bà Nguyễn An Ninh ở Mỹ Tho). Tâm thế háo hức của một trí thức trẻ ham hiểu
biết, khao khát tri thức, Huy Cận bỏ thời gian say mê, nghiền ngẫm đọc những bộ sách quý giá bằng tiếng Pháp
về thơ, về triết học của Tagore, Heine, Omar- Khayam, Goethe, Schiller...
Nhiều người mô tả đất Huế thơ mộng, là nơi ươm mầm cho nhiều hạt giống văn chương qua nhiều
thế hệ, trong đó có thế hệ Huy Cận, Nguyễn Xuân Sanh, Tế Hanh...
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh kể một số mẩu chuyện trong những năm tháng học trường Quốc học Huế
cùng Huy Cận và Nguyễn Xuân Tám (không phải là nhà thơ Nguyễn Xuân Tâm)... với tình bạn thân thiết thật
đẹp.
Thuở ấy Nguyễn Xuân Sanh và Huy Cận những cậu học sinh vừa mới lớn, đầy hoài bão, đầy ước mơ.
Gặp gỡ nhau, những người bạn trẻ yêu văn chương đã trao đổi bàn luận nhiều điều băn khoăn của tuổi trẻ và họ
nhanh chóng thấu hiểu tấm lòng của nhau, bắt gặp những điều cùng tâm đắc từ những câu chuyện văn chương,
nghệ thuật. Nhưng trong lòng, họ vẫn luôn khắc khoải, liệu rồi sẽ tìm một hướng đi của nghệ thuật như thế nào
để nhận ra được giá trị nhân bản của cuộc đời? Cuối cùng, họ cho ra mắt “tạp chí văn chương” Bước Đầu (của
học sinh trường cao đẳng tiểu học Quốc học Huế những năm 1934-1936) do Huy Cận và Nguyễn Xuân Sanh
chịu trách nhiệm thực hiện. Thực ra, tạp chí chỉ là dạng chép tay nhưng cũng có thơ, truyện ngắn, xã luận và cả
bình luận văn học, ra chiều thứ năm mỗi tuần. Nguyễn Xuân Sanh cho rằng đó cũng là cách tỏ bày thiết thực
Tài liệu tổng hợp
những ước mơ, chí hướng của tuổi trẻ được bộc lộ ra bằng chữ viết. Họ chờ đợi, hy vọng những bông hoa tươi
thắm sẽ nở ở tương lai không xa. Đó cũng là cơ sở bước đầu để sau này Nguyễn Xuân Sanh cộng tác với báo
Tiếng Địch và bắt đầu được độc giả biết đến tên qua bài Gió thu; còn Huy Cận tham gia viết bài cổ vũ Thơ mới
trên báo Tràng An và tạp chí Sông Hương với bút danh Hán Quỳ.
Tuy nhiên, về chuyện đọc sách, cũng theo nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh hồi tưởng: vào thời điểm ấy thư
viện nhà trường chỉ toàn sách tiếng Pháp, rất hiếm hoi có sách tiếng Việt. Thanh niên phần lớn đọc sách Pháp,
tiếp thu văn hóa phương Tây một cách nhanh chóng. Khao khát những kiến thức mới, khao khát đọc sách tiếng
Việt, viết văn bằng tiếng Việt, Huy Cận và Nguyễn Xuân Sanh vẫn thường bách bộ từ trường qua cầu Trường
Tiền vào thành phố Huế, tìm sách ở cửa hiệu Hương Giang của Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn) và cửa hiệu Văn
Hóa của Đào Duy Anh. Đặc biệt, tại hiệu sách Hương Giang, nhà cách mạng Hải Triều đã cung cấp cho các
chàng trai trẻ có khi là sách mới, những tập thơ, những bộ tiểu thuyết họ yêu thích; có khi là sách quý hiếm về
di sản văn hóa dân tộc, sách mô tả cái hay, cái đẹp của quê hương, đất nước; hoặc một số tư liệu sách báo tiến
bộ không được phổ biến công khai. Thân tình hơn, “ông chủ nhà sách” rất thích trò chuyện, bàn luận chuyện
văn chương với nhóm thanh niên hiếu học, đầy nhiệt huyết này. Hiệu sách Hương Giang lúc bấy giờ còn là “cầu
nối” giao lưu giữa một số nhà văn, nhà thơ với độc giả Huế. Chính nơi đây, Huy Cận đã gặp Nguyễn Công
Hoan từ Hà Nội vào đất Trung Kỳ, giới thiệu tác phẩm của ông...
Đất Huế cũng là mảnh đất văn chương nhen nhóm, phát triển hồn thơ Huy Cận; gặp gỡ văn nhân, trí thức.
Huy Cận được học với thầy Phan Tiên, Đoàn Nồng, Nguyễn Đình Dụ, Bửu Cân, Mai Trung Thứ..., đánh bạn
với Nguyễn Xuân Sanh, Tế Hanh, tìm “biết mặt” Thế Lữ, biết Đào Duy Anh, bàn luận chuyện văn chương, với
Hải Triều, làm quen với Hoài Thanh (lúc ấy đang làm việc ở tạp chí Sông Hương)...Và, kỳ lạ, cảm động nhất là
cuộc hội ngộ giữa Huy Cận và Xuân Diệu- tình bạn trong cuộc đời, tình bạn trong nghệ thuật, tri kỷ, tri âm hơn
nửa thế kỷ...
III. Hàn Mặc Tử
1. Quan niệm nghệ thuật
§ Quan niệm về thơ: một thứ thơ tuyệt đối:
(1) “hưởng Cái Thơ trên Cái Thơ khác nữa”
(2) “Thơ là sự ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời
cách biệt”
(3) “thơ là một tiếng kêu rên thảm thiết của một linh hồn thương nhớ, ước ao trở lại trời,
là nơi đã sống ngàn kiếp vô thỉ vô chung, với những hạnh phúc bất tuyệt”
§ Quan niệm về người làm thơ:
• Là kẻ mang trong mình niềm khát khao vô giới hạn: “thi sĩ là người khát khao vô tận”
(Hàn Mặc Tử, Chơi giữa mùa trăng).
• Người say mê cái lạ, săn tìm cái lạ.
(1) “người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo”
Tài liệu tổng hợp
(2) “Thi sĩ đã ngất ngư trong khi nuốt hết khí vị thanh tao của mùa xuân ấm, của tất
cả những lương thực ngon ngọt mĩ vị làm bằng hương báu, làm bằng nhạc thiêng,
làm bằng rượu say, làm bằng châu lệ”
à Đều hướng tới cái tột cùng.
§ Quan niệm về việc làm thơ:
(1) “Tôi làm thơ?/ - Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh
một làn ánh sáng”
(2) “Tôi làm thơ?/ Nghĩa là tôi yếu đuối quá! Tôi bị cám dỗ, tôi phản lại tất cả những
gì mà lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sức giữ bí mật./ Và cũng nghĩa là tôi đã
mất trí, tôi phát điên./ Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra tiếng khóc, tiếng gào tiếng
rú. Có ai ngăn cản được tiếng lòng tôi.”
è Xuất phát từ chí hướng “Nguyện suốt đời đi tìm sự lạ”.
2. Phong cách sáng tác
2.1. Phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử
- Trong “Lệ Thanh thi tập”: cái Tôi đối mặt với thời cuộc, với lối bóng gió ước lệ, mang
tâm sự nước non, cảm khái thời thế, kiểu người vũ trụ. Thiên nhiên ở đây chỉ là hiện tâhn
của giang sơn: thiên nhiên – giang sơn. à Cái Tôi cổ điển
- Sang “Gái quê”: cái Tôi lãng mạn, cụ thể là cái Tôi khao khát ái tình: thiên nhiên – vườn
tình: nơi nảy nở duyên tình và hẹn hò tình tự.
- Bước đến “Đau thương”: cái Tôi đau thương: giằng xé dằn vặt về thân phận, vừa khắc
khoải yêu đời vừa hoài nghi số kiếp:
+ Cái Tôi nguyên phiến bị phá vỡ thành các thực thể phản trái nhau: xác – hồn – máu –
thơ…
+ Thiên nhiên ở đây cũng bị phá vỡ thành những mảng đối chọi gay gắt: thiên nhiên đường
trần gian, địa ngục trần giới, ngoài kia thắm tươi, trong này u tối, thiên giới, trời sâu,…
- Đến “Xuân như ý” và “Thượng thanh khí”: cái Tôi giải thoát: tìm tới thế giới huyễn tưởng
mà thi sĩ đã gọi là “Thế giới Huyền diệu”.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành phong cách thơ Hàn Mặc Tử
- Quê ở Quảng Bình: thơ phảng phất cái nắng, gió,… của miền biển.
- Theo đạo Công giáo: trong cơn đau đớn cuối đời, tìm về đức tin như một sự cứu rỗi.
Tài liệu tổng hợp
- Bị bệnh phong: vần thơ đau thương, ứa lệ.
IV. Hồ Chí Minh
1. Quan niệm nghệ thuật
1.1. “Chất thép” trong thơ
Trong bài thơ “Cảm hứng đọc Thiên gia thi”, một bài thơ có ý nghĩa tổng kết tập thơ “Nhật kí trong tù”,
Bác Hồ đã viết:
Thơ xưa thường chuộng cảnh thiên nhiên đẹp
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông;
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
“Chất thép” ở đây chính là nội dung cách mạng, tính chất chiến đấu của thơ ca. Thơ ca không chỉ giải
thích, mô tả hiện thực mà còn có tác dụng cải tạo hiện thực; còn nhà thơ phải biết tích cực tham gia vào sự
nghiệp chiến đấu giành độc lập tự do và xây dựng cuộc sống mới của nhân dân.
Quan điểm văn nghệ trên đây là sự kế tục và phát triển quan điểm thơ “chuyên chú ở con người” như
Nguyễn Văn Siêu đã nói và tinh thần “đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” của Nguyễn Đình Chiểu và được nâng
cao trong thời đại cách mạng vô sản. Sau này trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, qua bức thư
gửi cho các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951, Người khẳng định “Văn hóa nghệ thuật cũng là một
mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Lời dạy của Bác đã nhấn mạnh vai trò, chức năng của văn
nghệ và sứ mệnh của người nghệ sĩ mới. Văn nghệ đã trở thành một mặt trận giống các mặt trận khác: quân sự,
chính trị, ngoại giao,… Ở đó luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa địch và ta, giữa cái ác và cái mới,
giữa cái lạc hậu và cái tiến bộ, giữa cái ác và cái thiện. Người nghệ sĩ, bằng vũ khí nghệ thuật nhuần nhị và sắc
bén của mình phải là người nghệ sĩ tiên phong trên mặt trận ấy.
1.2. Phải chú ý đến đối tượng thưởng thức và tiếp nhận
Văn chương trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ. Người nêu
kinh nghiệm chung cho hoạt động báo chí và văn chương, mỗi người khi cầm bút cần xác định rõ viết cho ai
(đối tượng), viết để làm gì (mục đích), viết cái gì (nội dung) và viết như thế nào (hình thức). Như vậy đối tượng
và mục đích quy định nội dung và hình thức của tác phẩm. Người viết có xử lí đúng mối quan hệ giữa mục đích
và hình thức thì mới phát huy được hiệu quả hoạt động nghệ thuật. Trong một bài phát biểu khác, Bác Hồ cũng
khẳng định “Quần chúng mong muốn những tác phẩm có nội dung chân thực, phong phú, có hình thức trong
sáng và vui tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích”.
1.3. Tính chân thật của tác phẩm
Phát biểu trong năm đầu cách mạng, Người đã uốn nắn một khuynh hướng “Chất mơ mộng nhiều quá,
mà cái chất thật của sự sinh hoạt lại rất ít”. Người yêu cầu văn nghệ sĩ phải “miêu tả cho hay, cho chân thật, cho
hùng hồn” những vấn đề phong phú của hiện thực cách mạng, phải chú ý nêu gương “người tốt, việc tốt”, uốn
nắn, phê phán cái xấu. Tính chân thực vốn là cái gốc của văn chương xưa nay.
1.4. Hình thức nghệ thuật của tác phẩm
Tài liệu tổng hợp
Tác phẩm phải có ngôn ngữ giản dị, trong sáng, dễ hiểu, nghệ thuật hất dẫn. Theo Bác, tác phẩm văn học
phải thể hiện được tinh thần của dân tộc, của nhân dân và được nhân dân ưa thích. Người nhắc nhở các nghệ sĩ
“nên chú ý phát huy cốt cách dân tộc” và đề cao sáng tạo…
2. Phong cách sáng tác
2.1. Phong cách sáng tác của Hồ Chí Minh
§ Văn chính luận
Thường ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép, bằng chứng đầy sức
thuyết phục, giàu tính luận chiến, đa dạng về bút pháp. Văn chính luận của Bác rất giàu
hình ảnh, thấm đượm cảm xúc, văn phong linh hoạt, khi ôn tồn thấu tình đạt lý, khi đanh
thép, mạnh mẽ, hùng hồn.
§ Truyện ký
Tùy theo từng đối tượng tiếp nhận, Bác lựa chọn bút pháp, giọng điệu và văn phong
thích hợp. Nhìn chung, truyện ký Nguyễn Ái Quốc có phong cách rất hiện đại, thể hiện
tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sâu sắc. Tác phẩm thường tạo ra tiếng
cười trào phúng nhẹ nhàng hóm hỉnh nhưng thâm thúy sâu cay. Bên cạnh đó, Bác còn
có những tác phẩm thắm thiết chất trữ tình làm xúc động lòng người. Chất trí tuệ và tính
hiện đại là nét đặc sắc của truyện ngắn Nguyễn Ái Quốc.
§ Thơ ca
• Thơ tuyên truyền cách mạng
Thường được viết theo hình thức bài ca với lời lẽ giản dị mộc mạc, dễ hiểu dễ nhớ,
mang đậm màu sắc dân gian. Loại thơ này cũng rất đa dạng về hình thức:
(1) Thơ châm ngôn
(2) Thơ chúc Tết mừng xuân theo tục lệ cổ truyền dân tộc
(3) Thơ tuyên truyền, kêu gọi
(4) Thơ tặng bạn (thơ cù bạn)
• Thơ ca nghệ thuật
Hầu hết là thơ tứ tuyệt cổ điển viết bằng chữ Hán, mang đặc điểm của thơ cổ
phương Đông với sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển và bút pháp hiện đại.
(1) Màu sắc cổ điển: Thể hiện ở thể loại, ngôn ngữ, thi liệu, thi tứ quen thuộc trong
cổ thi, những đề tài truyền thống như thiên nhiên, tình bạn, thế sự. Các bút pháp cổ điển
như bút pháp chấm phá chủ yếu gợi mà ít tả, chỉ vài nét vẽ đơn sơ mà ghi lấy linh hồn
Tài liệu tổng hợp
tạo vật, bút pháp tả cảnh ngụ tình khiến phong cảnh trở thành tâm cảnh, khiến thiên
nhiên luôn thấm đượm cảm xúc con người; thơ Bác luôn đầy ắp thiên nhiên, nhân vật
trữ tình luôn gắn bó hòa nhập với thiên nhiên mang phong thái ung dung tự tại, tiên
phong đạo cốt.
(2) Bút pháp hiện đại:
+ Chất hiện đại trong thơ Bác được thể hiện ngay ở tính dân chủ, đưa thơ ca trở về
gần gũi với cuộc đời; nhân vật trữ tình luôn ở vị trí trung tâm của bức tranh thiên
nhiên, không chịu sự chi phối của thiên nhiên mà thậm chí còn có tác động tích
cực trở lại thiên nhiên.
+ Chủ thể trữ tình mang phong thái ung dung tự tại, hòa nhập với thiên nhiên nhưng
không phải ẩn sỹ lánh đời mà là chiến sỹ cứu đời, yêu đời.
+ Hình tượng nghệ thuật trong thơ Hồ Chí Minh không tĩnh tại mà luôn vận động
mạnh mẽ hướng về ánh sáng, sự sống, tương lai.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành phong cách Hồ Chí Minh
Sinh thời, Bác Hồ không tự nhận mình là nhà văn “Ngâm thơ ta vốn không ham”,
mà người chỉ có một ham muốn, ham muốn đến tột bậc đó là “Tổ quốc ta được độc lập,
nhân dân ta được tự do và đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành”. Bác Hồ là người bạn lớn của văn nghệ. Người nhận thức được sức mạnh kì diệu
của văn nghệ và vai trò to lớn của nó “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị
em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Vốn là một người có năng khiếu đặc biệt về văn chương,
đời sống tâm hồn cao đẹp, cuộc đời từng trải, Bác Hồ đã sáng tạo được một sự nghiệp
văn chương phong phú về thể loại, đa dạng về phong cách, sâu sắc về tư tưởng, đọc đáo
về nghệ thuật. Người trở thành một nghệ sĩ lớn. Người có ý thức và am hiểu sâu sắc về
quy luật và đặc trưng của hoạt động văn nghệ từ phương diện tư tưởng, chính trị đến
hình thức nghệ thuật. Điều đó trước hết được biểu hiện trực tiếp trong quan điểm sáng
tác văn chương của người.
V. Tố Hữu
1. Quan niệm nghệ thuật