Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 164

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI

GIÁO ÁN HỌC PHẦN


Lịch sử văn hóa Việt Nam
Mã học phần: CIF1031
Số tín chỉ: 02
Người biên soạn: ThS. Nghiêm Xuân Mừng

Hà Nội - 2021

1
THÔNG TIN HỌC PHẦN
Lịch sử văn hóa Việt Nam
1. Thông tin về giảng viên
1.1. Nghiêm Xuân Mừng
- Chức danh, học hàm, học vị: Giảng viên, Thạc sĩ
- Đơn vị công tác: Khoa Quản lý xã hội
- Các hướng nghiên cứu chính:
+ Văn hoá dân gian Việt Nam
+ Văn hoá nông thôn Việt Nam
+ Lịch sử văn hóa Việt Nam
- Địa chỉ liên hệ: Phòng C401, Khoa Quản lý xã hội.
- Điện thoại: 0914902907 email: xuanmung79@gmail.com
1.2. Triệu Thế Việt
- Chức danh, học hàm, học vị: Giảng viên cao cấp, Phó Giáo sư, Tiến sĩ
- Đơn vị công tác: Khoa Quản lý xã hội
- Các hướng nghiên cứu chính:
+ Các lý thuyết văn hóa học
+ Di sản văn hóa Việt Nam
+ Tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam
+ Văn hóa ẩm thực Việt Nam
+ Phong tục, tập quán Việt Nam
- Địa chỉ liên hệ: Phòng C401, Khoa Quản lý xã hội.
- Điện thoại: 0989878964 email: aimytheviet@yahoo.com.vn
2. Thông tin chung về học phần
+ Vị trí của học phần trong CTĐT
+ Mục tiêu của học phần
+ Nội dung học phần
+ Phương pháp học tập
+ Phương pháp kiểm tra đánh giá
+ Chuẩn đầu ra của môn học
- Tên học phần bằng tiếng Anh (nếu có):

2
- Mã học phần: CIF1031
- Số tín chỉ: 02
- Áp dụng cho bậc đào tạo: Đại học
- Học phần tiên quyết:
- Học phần học trước:
- Học phần kế tiếp:
- Yêu cầu của học phần: Bắt buộc
- Các yêu cầu khác đối với học phần (nếu có): Không
- Phân bổ giờ tín chỉ:
+ Giờ lý thuyết: 22
+ Giờ bài tập/ thảo luận: 04
+ Giờ thực hành: 04
- Khoa/Bộ môn phụ trách học phần: Khoa Quản lý xã hội, Bộ môn Văn hóa
3. Mục tiêu chung của học phần
- Kiến thức: Cung cấp cho sinh viên kiến thức nền tảng về lịch sử văn hóa Việt
Nam, bao gồm: khái niệm lịch sử văn hóa, các phương án phân kỳ lịch sử văn hóa Việt
Nam, các thời kỳ văn hóa Việt Nam và đặc trưng văn hóa từng thời kỳ; sự vận động biến
đổi của văn hóa Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Từ đó giúp người học biết vận dụng
kiến thức đã học vào việc nhận biết, phân tích và lý giải những hiện tượng văn hóa
dân tộc.
- Kỹ năng: Sinh viên có khả năng đánh giá, phân tích các đặc trưng của văn hóa
Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Vận dụng kiến thức về lịch sử văn hóa để nhận định
văn hóa Việt Nam trong bối cảnh đương đại.
- Thái độ: Người học có thái độ tôn trọng và nhìn nhận khách quan lịch sử văn
hóa Việt Nam. Từ đó có tinh thần kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc
trong bối cảnh đất nước đang tiến hành mở cửa, hội nhập, trước xu thế công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa.
4. Tóm tắt nội dung học phần
Lịch sử văn hóa Việt Nam là học phần bắt buộc thuộc khối kiến thức trong
chương trình đào tạo trình độ đại học ngành Văn hóa học. Học phần cung cấp cho
người học nhóm kiến thức cơ bản sau:

3
- Khái niệm cơ bản về văn hóa, cấu trúc văn hóa, lịch sử văn hóa, điều kiện chủ
thể, tự nhiên và lịch sử xã hội hình thành văn hóa Việt Nam; phương án phân kỳ lịch
sử văn hóa Việt Nam.
- Các thời kỳ của văn hóa Việt Nam và đặc trưng của văn hóa từng thời kỳ.

4
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM
(Tổng số giờ 04; lý thuyết:04 , bài tập/thảo luận: 0, thực hành: 0)
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Văn hóa và một số khái niệm liên quan
1.1.2. Cấu trúc văn hóa
1.1.3. Lịch sử văn hóa
1.2.Điều kiện hình thành văn hóa Việt Nam
1.2.1. Điều kiện về tự nhiên
1.2.2. Điều kiện về chủ thể
1.2.3. Điều kiện về lịch sử - xã hội
1.3. Phân kỳ lịch sử văn hóa Việt Nam
1.3.1. Các thuật ngữ liên quan đến phân kỳ văn hóa
1.3.2. Một số phương án phân kỳ lịch sử văn hóa Việt Nam
Chương 2
VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ
(Tổng số giờ 04; lý thuyết:02 , bài tập/thảo luận: 0 , thực hành: 02)
2.1.Văn hóa Việt Nam thời tiền sử
2.1.1. Bối cảnh lịch sử văn hóa
2.1.2. Đặc trưng văn hóa
2.2. Văn hóa Việt Nam thời sơ sử
2.2.1. Bối cảnh lịch sử văn hóa
2.2.2. Đặc trưng các nền văn hóa Việt Nam thời sơ sử
2.2.2.1. Văn hóa tiền Đông Sơn và văn hóa Đông Sơn
2.2.2.2. Văn hóa Sa Huỳnh
2.2.2. 3. Văn hóa Đồng Nai
Chương 3
VĂN HÓA VIỆT NAM THIÊN NIÊN KỶ ĐẦU CÔNG NGUYÊN
(Tổng số giờ 04; lý thuyết:04 , bài tập/thảo luận: 0, thực hành: 0)
3.1. Văn hóa Việt ở châu thổ Bắc Bộ
3.1.1. Bối cảnh lịch sử văn hóa

5
3.1.2. Đặc trưng văn hóa
3.1.2.1.Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt - Hán
3.1.2.2. Giao lưu văn hóa tự nguyện với Ấn Độ
3.1.2.3. Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc
3.2. Văn hóa Chămpa
3.2.1. Bối cảnh lịch sử văn hóa
3.2.2. Đặc trưng văn hóa
3.3. Văn hóa Óc Eo
3.3.1. Bối cảnh lịch sử văn hóa
3.3.2. Đặc trưng văn hóa
Chương 4
VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ NĂM 939 ĐẾN NĂM 1883
(Tổng số giờ 08; lý thuyết:04, bài tập/thảo luận: 02, thực tế: 02)
4.1. Bối cảnh, đặc điểm lịch sử văn hóa
4.1.1. Bối cảnh
4.1.2. Đặc điểm lịch sử văn hóa
4.2. Đặc trưng văn hóa thời kỳ từ năm 939 đến năm 1883
4.2.1. Văn hóa vật chất
4.2.1.1. Sản xuất nông nghiệp
4.2.1.2. Nghề thủ công và buôn bán
4.2.1.3. Ẩm thực
4.2.1.4. Trang phục và nhà cửa
4.2.1.5. Đi lại và vận chuyển
4.2.2. Văn hóa xã hội
4.2.2.1. Gia đình và dòng họ
4.2.2.2. Tổ chức làng xã
4.2.2.3. Tổ chức đô thị
4.2.2.4. Tổ chức nhà nước
4.2.3. Văn hóa tinh thần
4.2.3.1. Tư tưởng
4.2.3.2. Ngôn ngữ và chữ viết

6
4.2.3.3. Học tập, khoa cử
4.2.3.4. Khoa học kỹ thuật
4.2.3.5. Tín ngưỡng tôn giáo
4.2.3.6. Văn học, nghệ thuật

Chương 5
VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘC
(1884 - 1945)
(Tổng số giờ 04; lý thuyết:04 , bài tập/thảo luận: 0, thực hành: 0)
5.1. Bối cảnh, đặc điểm lịch sử văn hóa
5.1.1. Bối cảnh
5.1.2. Đặc điểm lịch sử văn hóa
5.2. Đặc trưng văn hóa Việt Nam thời Pháp thuộc
5.2.1. Văn hóa vật chất
5.2.1.1. Sản xuất nông nghiệp và nghề thủ công
5.2.1.2. Ẩm thực, trang phục, nhà ở và đi lại
5.2.2. Văn hóa xã hội
5.2.2.1. Gia đình, họ hàng
5.2.2.2. Nông thôn và đô thị
5.2.2.3. Chính quyền thuộc địa và chính quyền Nam triều
5.2.3. Văn hóa tinh thần
5.2.3.1. Tư tưởng
5.2.3.2. Giáo dục
5.2.3.3. Khoa học
5.2.3.4. Báo chí, xuất bản
5.2.3.5. Tôn giáo
5.2.3.6. Văn học, nghệ thuật
Chương 6
VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
(Tổng số giờ 06; lý thuyết:04 , bài tập/thảo luận: 02 , thực hành: 0)
6.1. Bối cảnh, đặc điểm lịch sử văn hóa

7
6.1.1. Bối cảnh
6.1.2. Đặc điểm lịch sử văn hóa
6.2. Đặc trưng văn hóa từ Việt Nam từ 1945 đến nay
6.2.1. Sự phát triển của văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp
6.2.2. Kế thừa và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống
6.2.3. Giao lưu văn hóa ngày càng mở rộng
6. Học liệu
6.1. Học liệu bắt buộc:
1. Nguyễn Xuân Kính (Chủ biên) (2015), Lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
2. Trần Quốc Vượng (Chủ biên) (2005), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
3. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, TP
Hồ Chí Minh.
6.2. Học liệu tham khảo:
4. Đào Duy Anh (2010), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Thời đại, Hà Nội.
5. Huỳnh Công Bá (2012), Lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế.
6. Nguyễn Khắc Thuần (2012), Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb
Thời đại, Hà Nội.

8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM
(Tổng số giờ 04; lý thuyết:04 , bài tập/thảo luận: 0, thực hành: 0)
YÊU CẦU
- Người học hiểu và so sánh được các khái niệm cơ bản, bao gồm khái
niệm văn hóa và các khái niệm liên quan, khái niệm lịch sử, lịch sử văn hóa,
cấu trúc văn hóa.
- Người học hiểu và phân tích được các điều kiện hình thành văn hóa Việt
Nam, bao gồm: điều kiện tự nhiên, điều kiện về chủ thể, điều kiện về lịch sử - xã
hội.
- Người học hiểu và phân tích được các phương án phân kỳ lịch sử văn
hóa Việt Nam của một số tác giả tiêu biểu; hiểu và vận dụng được các thuật
ngữ liên quan đến phân kỳ văn hóa như thời kỳ, giai đoạn, thời đoạn văn hóa,...
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Văn hóa và một số khái niệm liên quan
Văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh của xã
hội loài người. Ở phương Đông, từ văn hoá đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất
sớm. Trong sách Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và từ hoá: “Quan hồ nhân văn
dĩ hoá thành thiên hạ” (Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hoá thiên hạ) 1.
Cụm từ này với nghĩa như một phương thức giáo hóa, giáo dục con người. Khổng
Tử, nhà triết học - luân lý có nói đến “văn”, sau này môn đệ của ông là Tuân Tử
(Thế kỷ VI trước CN) có giải thích “văn” là cái “ngụy” (cái do con người làm nên,
không tự nhiên mà có). Tuân Tử, học trò của Khổng Tử có một thuyết thường biết
đến là “tính người là ác; thiện là do người làm ra” (Tuân Tử, thiên 23). Theo ông:
“Tính là tài chất còn nguyên; ngụy là văn lễ hay tốt. Không tính thì không có gì để
làm thêm. Không làm thêm, thì tính không thể tự thành tốt” (thiên 19) 2 . Như vậy
1
Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1997), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.18.

2
Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, tr.15.

9
Không Tử và Tuân Tử đều cho rằng văn là cái do con người làm ra, do con người
tu dưỡng, rèn luyện mà có.
Người sử dụng từ “văn hóa” đầu tiên được cho là Lưu Hướng (năm 77 -
6, Thế kỷ 1 TCN), thời Tây Hán ở Trung Quốc. Văn hoá được Lưu Hướng dùng
với hàm ý là một phương thức hay biện pháp để cai trị xã hội, nó đối lập với vũ
lực (Phàm dấy việc võ là vì không phục tùng, dùng văn hoá mà không sửa đổi,
sau đó mới thêm chém giết). Văn hóa ở đây được hiểu là “văn trị giáo hóa”, nghĩa
là tổ chức, quản lý, cai trị xã hội bằng văn hoá.
Tóm lại ở Trung Quốc thời kỳ cổ đại, văn hóa được quan niệm là những giá
trị tốt đẹp được hội tụ và biểu hiện ở điển chương, lễ nhạc, thi thư...là một phương
pháp để giáo dục con người (nhân văn giáo hóa) và một biện pháp để cai trị xã hội
(văn trị giáo hóa).
Ở phương Tây, từ văn hóa bắt nguồn từ một động từ tiếng La - tinh
“cultus” sau chuyển thành “kultura”, có nghĩa là cày cấy, vun trồng. Về sau từ
“kultura” chuyển thành “culture” (tiếng Anh), nghĩa là vun trồng,chăm sóc, bồi
dưỡng tinh thần, trí tuệ cho con người3. BUN KA – VĂN HÓA
Tuy vậy, việc xác định và sử dụng khái niệm văn hoá không đơn giản và
thay đổi theo thời gian thuật ngữ văn hoá với nghĩa “canh tác tinh thần” được sử
dụng vào thế kỉ XVII- XVIII bên cạnh nghĩa gốc là quản lý, canh tác nông
nghiệp.
Vào thế kỉ XIX thuật ngữ “văn hoá” được những nhà nhân loại học
phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn
hoá (văn minh) thế giới có thể phân ra từ trình độ thấp nhất đến trình độ cao
nhất, và văn hoá của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn
hoá hướng về trí lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B
Taylo (E.B. Taylor), nhà Nhân loại học người Anh là đại diện của họ. Theo ông,
“Văn hoá là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo

3
Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1997), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.18.

10
đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có
được với tư cách là một thành viên của xã hội”4.
Ở thế kỉ XX, khái niệm “văn hoá” thay đổi theo Fran - Boa (Franz Boas
1858 - 1942, nhà nhân học người Đức), ý nghĩa văn hoá được quy định do
khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao siêu như “trí
lực”, vì thế sự khác nhau về mặt văn hoá từng dân tộc cũng không phải theo tiêu
chuẩn trí lực. Đó cũng là “tương đối luận của văn hoá”. Văn hoá không xét ở
mức độ thấp cao mà ở góc độ khác biệt.
Nhà nhân chủng học Mỹ A. L. Kroibơ (Alfred Louis Kroeber 1876-1960)
và C.L. Klúchôn (C. L. Kluckhohn) quan niệm văn hoá là loại hành vi rõ ràng
và ám thị đã được đúc kết và truyền lại bằng biểu tượng, và nó là thành quả độc
đáo của nhân loại khác với các loại hình khác, trong đó bao gồm cả đồ tạo tác
do con người làm ra. Từ 1952, hai nhà dân tộc học này đã trích lục được trên
dưới 300 định nghĩa, mà các tác giả khác nhau của nhiều nước từng phát ra từ
trước nữa cho đến lúc bấy giờ. Từ đó cho đến nay, số lượng định nghĩa, khái
niệm về văn hóa tiếp tục tăng lên. Mặc dù có nhiều quan niệm, định nghĩa và
khái niệm về văn hóa không giống nhau nhưng chúng không chống nhau. Tất cả
đều góp phần làm sáng tỏ bản chất của văn hóa. Và các quan điểm, định nghĩa,
khái niệm đều có một điểm chung: văn hóa là do con người sáng tạo ra, nó
mang tính nhân văn, thúc đẩy sự tiến bộ của con người.
Dưới đây là một số định nghĩa văn hóa tiêu biểu:
Trên tinh thần hiểu văn hoá theo nghĩa rộng, Tổ chức văn hoá, khoa học,
giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) đã đưa ra định nghĩa như sau: “Văn
hóa là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm
quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn
hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản
của con người, những hệ thống giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn
hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm
4
. Nguyễn Thị Thường, (2008), Văn hóa học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr.20

11
cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê
phán và dấn thân một cách có đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể
hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành
đặt ra để xem những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa
mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân”.5 .
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá.” 6
Cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Nói tới văn hoá là nói tới một lĩnh
vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là
thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát
triển, quá trình con người làm nên lịch sử…cốt lõi của sự sống dân tộc là văn
hoá với ý nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị:
tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và
tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng
dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngừng lớn
mạnh.”7
PGS. Phan Ngọc đưa ra một định nghĩa văn hoá mang tính chất thao tác
luận, khác với những định nghĩa trước đó, theo ông đều mang tính tinh thần
luận. “Không có cái vật gì gọi là văn hoá cả và ngược lại bất kì vật gì cũng có
cái mặt văn hoá. Văn hoá là một quan hệ. Nó là mối quan hệ thế giới biểu
tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng
của một tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác.

5
. 6.7.8.Trần Quốc Vượng(chủ biên) (1997), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.22, 23, 24.

12
Nét khác biệt giữa các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành
những nền văn hoá khác nhau là độ khúc xạ.”8. Tất cả mọi cái mà tộc người tiếp
thu hay sáng tạo đều có một khúc xạ riêng có mặt ở mọi lĩnh vực và rất khác độ
khúc xạ ở một tộc người khác.
Trên cơ sở phân tích các định nghĩa văn hoá, GS.TS Trần Ngọc Thêm đã
đưa ra một định nghĩa về văn hoá như sau: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình
hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên
và xã hội” 9. Định nghĩa này đã nêu bật 4 đặc trưng quan trọng của văn hoá:
Tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh và tính lịch sử.
Trong vô vàn cách hiểu, cách định nghĩa về văn hoá, ta có thể tạm quy về
hai loại. Văn hoá hiểu theo nghĩa rộng như lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử…
Văn hoá hiểu theo nghĩa hẹp như văn học, văn nghệ, học vấn… và tuỳ theo từng
trường hợp cụ thể mà có những định nghĩa khác nhau. Ví dụ xét từ khía cạnh tự
nhiên thì văn hoá là “cái tự nhiên được biến đổi bởi con người” hay “tất cả những gì
không phải là thiên nhiên đều là văn hoá”.
1.1.2. Cấu trúc văn hóa
Trước đây, người ta chia văn hóa của một tộc người thành 3 bộ phận:
+ Văn hóa vật chất : là những yếu tố tồn tại dưới dạng vật chất (nhà cửa,
quần áo, công cụ sản xuất, đồ ăn thức đựng),
+ Văn hóa tinh thần: là những yếu tố tồn tại không phải ở dưới dạng vật
chất (văn học, âm nhạc, hội họa...),
+ Văn hóa xã hội : các thiết chế xã hội và các định chế xã hội.
Sự phân biệt trên đây chỉ là tương đối. Ví dụ, nén hương, bát hương thuộc
văn hóa vật chất, nhưng hàm chứa cả những giá trị tinh thần, tâm linh của người
thắp hương làm lễ.

9
. Trần Ngọc Thêm (1999) Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. tr.10.

13
Các nhà dân tộc học ở nước Ác - mê - ni (Liên Xô) trước đây chia văn
hoá thành 4 bộ phận :
+Văn hóa sản xuất : là những gì để phục vụ trực tiếp sản xuất (công cụ
sản xuất, nguyên vật liệu sản xuất, tri thức, kinh nghiệm sản xuất),
+ Văn hoá bảo đảm đời sống : là những gì liên quan trực tiếp đến ăn, mặc,
ở.
+ Văn hóa chuẩn mực xã hội: gồm các thiết chế xã hội, các ứng xử xã hội
được cố định thành phong tục tập quán, luật tục.
+ Văn hoá nhận thức xã hội: thuộc lĩnh vực tư tưởng (nhận thức về tự
nhiên, xã hội).
Từ năm 1982, UNESCO chia văn hóa thành 2 bộ phận : văn hóa vật thể
(tangible culture) và văn hóa phi vật thể (intangible culture). Văn hóa vật thể là
những hình thái biểu trưng, tồn tại ổn định trong không gian, và thường trực
theo thời gian, (có nghĩa là cái văn hóa sau khi được sáng tạo ra tồn tại ổn định
cùng với thời gian và khách quan đối với chủ thể đã sáng tạo ra nó). Văn hóa
phi vật thể thì tiềm ẩn trong trí nhớ của con người, chỉ khi nó được khách thể
hóa (thông qua các hoạt động của con người xã hội, trong một khoảng thời gian
nhất định) thì người ta mới nhận biết được các hình thái biểu trưng của nó.
Đương nhiên, sự chia này cũng chỉ tương đối.
Ở nước ta, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra các quan điểm phân chia cấu
trúc văn hóa khác nhau. GS. Trần Quốc Vượng và các cộng sự trong cuốn giáo
trình đại học Cơ sở văn hóa Việt Nam (1998) chia văn hóa thành rất nhiều thành
tố: Ngôn ngữ, Nghề thủ công, Sân khấu tuồng, chèo, kịch, Lễ hội, Nghệ thuật
âm thanh, Phong tục tập quán, Tín ngưỡng, tôn giáo, Nghệ thuật tạo hình, Lối
sống, Nhiếp ảnh, điện ảnh, Văn chương, Massmedia (phương tiện thông tin đại
chúng), Thông tin tín hiệu, Kiến trúc, Nghệ thuật trình diễn. GS. Trần Ngọc
Thêm quan niệm văn hóa gồm bốn thành tố: Văn hóa nhận thức, Văn hóa tổ
chức cộng đồng, Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, Văn hóa ứng xử với
môi trường xã hội. GS. Chu Xuân Diên trong cuốn giáo trình đại học Cơ sở văn

14
hóa Việt Nam (1999, 2002) quan niệm rằng, văn hóa gồm có ba dạng thức là
văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần; văn hóa vật chất của
người Việt được trình bày gồm có nghề trồng lúa nước, ăn uống và giữ gìn sức
khỏe, mặc, ở và đi lại; văn hóa xã hội được trình bày gồm có: gia đình và gia
tộc, làng xã, quốc gia (nước), đô thị; văn hóa tinh thần được trình bày gồm có:
tôn giáo - tín ngưỡng và nghi lễ - phong tục, ngôn ngữ và văn học nghệ thuật, tư
tưởng, học thuật.
1.1.3. Lịch sử
Khái niệm “Lịch sử” xuất hiện đã lâu đời, nay được sử dụng phổ biến tuy
nhiên nhận thức đúng các hàm nghĩa của nội hàm khái niệm này lại hoàn toàn
không đơn giản.
- Ở Trung Hoa cổ đại, từ thời nhà Chu đã có chức Sử quan làm công việc
nghi chép những sự việc xảy ra hàng ngày tại triều đình và phần nào trong dân
chúng .(Nội sử, Ngoại sử, Ngự sử - viết những bài ca ngợi nhà vua; Thái sử-
ghi chép những sự việc xảy ra trong triều đình). Như vậy từ Sử có nghĩa là
những sự việc “đã xảy ra” được “ghi chép lại” theo trình tự thời gian.
- Theo tiếng Hi Lạp, “Lịch sử” là “Historia”, có nghĩa là kể lại, thuật lại,
ghi chép lại những điều đã xảy ra mà mình tai nghe, mắt thấy.
Như vậy từ thời cổ đại, Lịch sử được hiểu là những sự việc đã xảy ra và
được ghi chép lại, kể lại.
Trong quá khứ, khái niệm “Lịch sử” được hiểu theo các hàm nghĩa khác
nhau: lịch sử chỉ toàn bộ những gì xảy ra trong quá khứ xã hội loài người; lịch
sử chỉ việc ghi chép về các sự kiện đã xảy ra trong quá khứ (còn được gọi là “sử
ký”); lịch sử chỉ những hiểu biết của chúng ta về quá khứ loài người; Lịch sử là
một khoa học; lịch sử là một môn học trong nhà trường.
- Ngày nay, Nội hàm khái niệm Lịch sử được hiểu theo các hàm nghĩa cơ
bản: Hiện thực lịch sử, lịch sử nhận thức, Khoa học Lịch sử, Bộ môn Lịch sử.
1.1.3.1.Hiện thực lịch sử

15
Hiện thực lịch sử là những sự việc đã xảy ra trong quá khứ, không tái
hiện, lặp lại. Đây là quá trình hiện thực diễn ra khách quan, không chịu tác động
bởi ý chí của con người nhận thức. Hiện thực lịch sử trở thành đối tượng nhận
thức, phản ánh của con người.
- Con người xuất hiện từ đâu thì hiện thực lịch sử bắt đầu từ đó (lịch sử là
lịch sử của bản thân con người). Hiện thực lịch sử là toàn bộ những sự kiện,
hiện tượng, quá trình đã xảy ra trong xã hội loài người cho dù chúng ta có biết
hay không biết, có thừa nhận hay không thừa nhận.
- Hiện thực lịch sử và giới tự nhiên có nhiều điểm tương đồng và khác
biệt:
+ Những điểm tương đồng
Thứ nhất giới tự nhiên và lịch sử xã hội loài người đều tồn tại khách quan,
độc lập với ý muốn của con người và là đối tượng nhận thức, khám phá của con
người.
Thứ hai xã hội loài người là một bộ phận của thế giới khách quan, do đó
nó cũng vận động và tuân thủ theo đúng các quy luật của thế giới khách quan.
Ví như quy luật vận động, quy luật về mối quan hệ giữa lượng và chất, quy luật
về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập…
+ Những điểm khác biệt: chủ nhân của lịch sử hiện thực là bản thân con
người có khả năng sáng tạo vô giới hạn. Lịch sử là lịch sử của con người có ý
thức, đấu tranh theo đuổi những mục đích của riêng mình. Do đó con người đã
tạo ra lịch sử theo những mục đích riêng. Ngược lại sự vận động của giới tự
nhiên là hoàn toàn tự phát theo những quy luật nhất định. “Sự khác nhau giữa
lịch sử xã hội loài người và lịch sử tự nhiên là ở chỗ lịch sử loài người do chúng
ta sáng tạo nên, còn lịch sử tự nhiên không do chúng ta tạo nên…Sự khác nhau
là ở chỗ lịch sử xã hội lịch sử xã hội là quá trình phát triển của cơ thể có ý thức
tự mình”. [1]. Lịch sử xã hội loài người có những quy luật riêng mà tự nhiên
không có. Con người có vai trò đặc biệt trong giới tự nhiên: nhận thức, cải tạo
giới tự nhiên phục vụ cho cuộc sống của mình.

16
Hiện thực lịch sử mang tính cụ thể và không lặp lại, nếu có thì chỉ mang
tính tương đối, lặp lại về mặt dấu hiệu trong những điều kiện khác. Lặp lại trên
cơ sở không lặp lại. Còn trong tự nhiên, các hiện tượng lặp lại là rất rõ ràng,
thường xuyên. Do đó, trong quá trình nhận thức, con người khó có thể quan sát
trực tiếp, toàn diện đối tượng. Lịch sử xã hội loài người mang tính cụ thể. Trong
mỗi thời đại, xã hội loài người chịu sự quy định cụ thể của những điều kiện về
kinh tế (công cụ lao động, trình độ sản xuất, quan hệ sản xuất) và những hình
thái xã hội, thiết chế nhà nước nhất định và đời sống tinh thần tương ứng.
Lịch sử hiện thực trở thành đối tượng nhận thức của khoa học lịch sử. Kết
quả nhận thức khái quát thành những sự kiện, hiện tượng, khái niệm và quy luật
lịch sử.
Một trong những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu lịch sử là khả năng nhận
thức lịch sử hiện thực. Mỗi trường phái sử học lại có những quan điểm khác
nhau thậm chí đối lập nhau. Các tư tưởng duy tâm chủ quan đều có điểm chung
rằng kết quả nhận thức nói chung, nhận thức lịch sử nói riêng là sản phẩm của
trí tưởng tượng của đầu óc con người chứ không có thật. Do đặc điểm của đối
tượng nghiên cứu là cuộc sống đã qua trong xã hội loài người, mang tính không
lặp lại, không thể quan sát được nên nhiều nhà sử học tư sản đã phủ nhận khả
năng nhận thức lịch sử của con người. Họ khẳng định rằng con người không thể
nhận thức được lịch sử. Kết quả nghiên cứu chẳng qua là kết quả của trí tưởng
tượng của chúng ta về quá khứ. Không có cơ sở nào để đạt tới chân lý trong
nghiên cứu lịch sử. Các nhà sử học mácxít thì khẳng định, chúng ta hoàn toàn
có khả năng nhận thức và khôi phục lại bức tranh quá khứ. Trên cơ sở nguồn tư
liệu còn sót lại, con người hoàn toàn có thể khôi phục lại bức tranh hiện thực
đúng như nó đã diễn ra. Không những vậy, chúng ta còn có khả năng khám phá
ra những quy luận vận động và phát triển cư lịch sử hiện thực.
1.1.3.2.Lịch sử nhận thức (lịch sử chủ thể hóa)
- Là kết quả của quá trình nhận thức, phản ánh hiện thực lịch sử của con
người. Nó tồn tại trong đầu óc của con người, trong các tài liệu lịch sử, văn học

17
thành văn và truyền miệng, các hoạt động văn hóa lễ hội…Lịch sử nhận thức
chính là hiện thực lịch sử được chủ thể hóa và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi
điều kiện chủ quan của con người.
- Đặc điểm của lịch sử nhận thức:
+ Xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người và lấy hiện thực lịch sử
là đối tượng phản ánh, nhận thức.
+ Đây không phải là hiện thực mà là kết quả của quá trình phản ánh hiện
thực lịch sử vào đầu óc con người. Do đó nó chỉ phản ánh được một phần hiện
thực, có thể đúng, có thể sai thậm chí trái ngược với hiện thực. Nó chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ bởi các yếu tố chủ quan: điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội,
năng lực của người phản ánh, quan điểm giai cấp, dân tộc của người phản ánh.
+ Lịch sử chủ thể hóa được tái hiện trong ý thức của con người và lưu giữ
trong ngôn ngữ, các tài liệu hiện vật hay thành văn, các hoạt động văn hóa, lễ
hội, các tài liệu sử học.
+ Lịch sử nhận thức luôn mang tính xã hội. Do đó nó đa dạng và phức tạp
và nhiều mâu thuẫn hơn lịch sử hiện thực lịch sử nhiều. Hiện thực chỉ có một,
nhưng sự nhận thức, phản ánh về nó lại rất phong phú, liên tục thay đổi. Do đó
lịch sử nhận thức càng có giá trị khi nó phản ánh càng chính xác hiện thực lịch
sử.
1.1.3.3.Khoa học Lịch sử (Sử học)
Khoa học Lịch sử là bộ môn khoa học nghiên cứu về quá trình hình thành
và phát triển của xã hội loài người trong quá khứ nhằm khám phá ra những quy
luật vận động và phát triển của nó.
Con người xuất hiện từ đâu thì lịch sử cũng bắt đầu từ đó và quá trình nhận
thức cũng bắt đầu. Tuy nhiên khoa học lịch sử lại xuất hiện rất muộn, trong những
điều kiện nhất định.
- Về mặt thời gian, con người xuất hiện cách đây khoảng 4 triệu năm
nhưng khoa học lịch sử mới chỉ xuất hiện cách đây khoảng 3000 năm, trong
những điều kiện nhất định

18
- Thứ nhất con người phải tích lũy được một vốn kinh nghiệm, hiểu biết và
một trình độ tư duy nhất định để tổng kết, khái quát hóa những hiểu biết kinh
nghiệm đó. Điều này là kết quả của hàng triệu năm phát triển.
- Thứ hai, khi xã hội phân chia thành giai cấp, một bộ phận người đã thoát
li khỏi cuộc sống lao động, sản xuất. Họ có điều kiện đi sâu nghiên cứu, tổng kết,
khái quát hóa những hiểu biết, kinh nghiệm của con người nhằm phục vụ cho giai
cấp thống trị. Do đó lịch sử thường phản ánh ý chí của giai cấp thống trị.
Như vậy trên cấp độ khoa học, Lịch sử là sự tổng kết, khái quát hóa, trừu
tượng hóa những hiểu biết của con người về cuộc sống xã hội trong quá khứ, làm
rõ được những quy luật vận động và phát triển của nó, những quy luật chi phối sự
phát triển ấy. Do đó có thể lí giải cho những vấn đề của hiện tại, tiên đoán sự phát
triển của tương lai. Là một trong những bộ môn khoa học thuộc lĩnh vực khoa học
xã hội, Lịch sử lấy cuộc sống xã hội loài người trong quá khứ làm đối tượng
nghiên cứu. Nhiệm vụ của Sử học là khôi phục một cách chính xác bức tranh quá
khứ, làm rõ những quy luật vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người
và những quy luật chi phối sự phát triển ấy.
- Khoa học Lịch sử cũng có những đặc trưng sau:
+ Lấy cuộc sống xã hội loài người trong quá khứ (hiện thực lịch sử)làm đối
tượng nghiên cứu. Tuy nhiên nó không thể quan sát trực tiếp đối tượng mà phải
nhận thức một cách gián tiếp thông qua tư liệu (lịch sử nhận thức)
+ Cũng như lịch sử hiện thực, lịch sử nhận thức, khoa học Lịch sử ngày
càng phát triển và đạt được trình độ cao hơn.
+ Ra đời trong xã hội có giai cấp, khoa học Lịch sử mang tính giai cấp.
Khoa học Lịch sử là chủ thể hóa của lịch sử chủ thể hóa, nó bị chi phối mạnh mẽ
bởi những yếu tố chủ quan.
+ Mục tiêu của khoa học Lịch sử là tiếp cận gần nhất tới lịch sử hiện thực,
tìm ra các quy luật vận động của chúng. Càng tiếp cận tới hiện thực, sử học càng
đạt tới chân lý.
1.1.4. Lịch sử văn hóa

19
Nếu khoa học Lịch sử là bộ môn khoa học nghiên cứu về quá trình hình
thành và phát triển của xã hội loài người trong quá khứ nhằm khám phá ra
những quy luật vận động và phát triển của nó thì Lịch sử văn hóa là kết hợp các
cách tiếp cận của nhân học và lịch sử để xem xét các truyền thống văn hóa phổ
biến và các diễn giải văn hóa về các kinh nghiệm lịch sử. Nó xem xét các ghi
chép và mô tả tường thuật về các sáng tạo văn hóa của con người trong quá
khứ, bao gồm sự liên tục của các sự kiện (xảy ra liên tiếp và dẫn từ quá khứ đến
hiện tại và thậm chí đến tương lai) có liên quan đến một nền văn hóa.
[Học giả Thụy Sĩ Jacob Burckhardt (1818-1897) đã giúp đưa ra lịch sử
văn hóa như một môn nghiên cứu. Lịch sử văn hóa nghiên cứu và giải thích hồ
sơ của các xã hội loài người bằng cách biểu thị các cách sống khác biệt được
xây dựng bởi một nhóm người đang xem xét. Lịch sử văn hóa liên quan đến
tổng hợp các hoạt động văn hóa trong quá khứ, như nghi lễ, các giai cấp trong
thực tiễn và sự tương tác với các nhóm địa phương].
Trên cấp độ khoa học, Lịch sử văn hóa là sự tổng kết, khái quát hóa, trừu
tượng hóa những sáng tạo văn hóa của con người trong quá khứ, làm rõ được
những quy luật vận động và phát triển của nó, những quy luật chi phối sự phát
triển ấy. Do đó có thể lý giải cho những vấn đề về văn hóa của hiện tại, tiên
đoán sự phát triển của nền văn hóa trong tương lai.
Lịch sử văn hóa là một trong những bộ môn khoa học thuộc lĩnh vực khoa
học xã hội, lấy hoạt động sáng tạo văn hóa của xã hội loài người trong quá khứ
làm đối tượng nghiên cứu. Nhiệm vụ của lịch sử văn hóa là khôi phục một cách
khoa học, chính xác bức tranh văn hóa của một dân tộc, một tộc người, một
cộng đồng người trong quá khứ, làm rõ những quy luật vận động và phát triển,
quy luật chi phối sự phát triển của nền văn hóa ấy.
Từ những nhận thức trên về lịch sử văn hóa, có thể rút ra nhiệm vụ của
học phần Lịch sử văn hóa Việt Nam, đó là trình bày về quá trình phát sinh, phát
triển và biến đổi mô hình cấu trúc văn hóa Việt Nam trong lịch sử, những đặc
điểm trong bản sắc văn hóa của dân tộc, những bài học lịch sử trong sự nghiệp

20
xây dựng văn hóa của đất nước, về các danh nhân văn hóa trong lịch sử dân
tộc…
1.2.Điều kiện hình thành văn hóa Việt Nam
1.2.1. Điều kiện về tự nhiên
Theo GS.TS. Phạm Xuân Nam, xét về bản chất, mối quan hệ giữa môi
trường tự nhiên với cuộc sống và hoạt động sáng tạo văn hóa của con người
được thể hiện ở bốn điểm chủ yếu sau đây.
1. Môi trường tự nhiên cung cấp không chỉ những “tư liệu sinh sống trực
tiếp” mà cả “vật liệu, đối tượng, công cụ” cho con người trong hoạt
động sản xuất và tái sản xuất ra đời sống vật chất của mình (C.Mác).
2. Môi trường tự nhiên còn là đối tượng để con người khám phá ra cái
thật, khơi nguồn cảm hứng cho họ về cái đẹp và gây nên ở họ niềm tin
về cái thiêng của những điều bí ẩn trong giới tự nhiên mà họ chưa hiểu
nổi.
3. Ở phần lớn các vùng đất trên thế giới, điều kiện tự nhiên thường có
đan xen cả hai mặt thuận lợi và khó khăn, hào phóng và khắc nghiệt.
Điều này kích thích con người tìm cách vượt lên mặt khó khăn, khắc
nghiệt để khai thác, sử dụng mặt thuận lợi, hào phóng. Còn ở những
nơi mà môi trường tự nhiên quá khắc nghiệt (như ở giữa sa mạc cháy
bỏng hay các địa cực băng giá quanh năm) thì cho đến nay con người
vẫn khó sinh sôi, nói gì đến sáng tạo văn hóa từ các nguồn lợi nội
sinh. Ngược lại, ở những nơi điều kiện tự nhiên quá hào phóng thì nó
lại “dắt con người đi như dắt tay một đứa trẻ mới tập đi” (C.Mác), làm
cho quá trình hoạt động sáng tạo giá trị văn hóa của con người kém
phát triển.
4. Trong những giới hạn mà môi trường tự nhiên cho phép sự sống nảy
nở, năng lực sáng tạo của con người đóng vai trò rất quan trọng trong
quá trình thích ứng và cải biến môi trường tự nhiên vốn có thành môi
trường sinh thái – nhân văn theo “quy luật của cái đẹp” (C.Mác), vì

21
nhu cầu phát triển của chính con người. (Phạm Xuân Nam (2013), Sự
đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các nền văn hóa một góc nhìn từ
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, HN, tr.49,121)
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á. Vùng Đông
Nam châu Á này bao gồm miền chân núi Himalaya và Thiên Sơn. Các dòng
sông lớn của khu vực đều bắt nguồn từ hai dãy núi này. Hạ lưu của các dòng
sông ấy - Dương Tử, sông Hồng, Mê Kông, Chaophaya… đều là những vùng
đồng bằng màu mỡ, đầy phù sa. Đặc trưng tiêu biểu của vùng này, là sự chênh
lệch khá lớn giữa bình nguyên và núi rừng, sự chênh lệch tương đối nhỏ giữa
bình nguyên và mặt biển. Chính nét đặc trưng này cùng với điều kiện khí hậu
nóng, ẩm, mưa nhiều và có gió mùa là cơ sở thuận lợi cho việc phát sinh nghề
nông trồng lúa nước từ rất sớm với văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn.
Việt Nam “nằm giữa Đông Nam Á” (lục địa hải đảo) (Yves Lacoste) “là
ngã tư đường của các cư dân và các nền văn minh” (Olov Janse). Việt Nam –
Bán đảo Đông Dương là đầu cầu để mở vào Đông Nam Á từ hướng Ấn Độ và
Trung Quốc. Tính chất bán đảo rõ nét của Việt Nam thể hiện ở khí hậu nóng,
ẩm, mưa nhiều và có hai mùa gió rõ rệt. Địa hình Việt Nam trải dài (khoảng 15
vĩ độ); núi rừng chiếm 2/3 diện tích, sông ngòi nhiều và phân bố đều khắp.
Đồng bằng chỉ chiếm một tỉ lệ khiêm tốn (chưa đến 1/3 diện tích). Ngoài ra, bao
quanh hướng Đông và Nam là bờ biển khoảng hơn 2000 km. Tây và Bắc bị
chắn bởi núi rừng, trong đó quan trọng nhất là dãy núi Hoàng Liên Sơn và dãy
núi Trường Sơn. Cũng vì vậy mà việc phân bố hệ thống động vật cũng như tập
quán canh tác dân tộc Việt Nam là khá tiêu biểu và đặc thù. Ta có thể vạch ra
phổ tự nhiên Việt Nam (hay hằng số tự nhiên Việt Nam) như sau:
Nhiệt - Ẩm - Gió mùa
Trong đó cân bằng bức xạ ở Việt Nam quanh năm dương, độ ẩm gần như
thường xuyên 100%.
Đông Nam Á - Việt Nam được đặc trưng bởi hệ sinh thái phồn tạp (một
trong hai loại hình hệ sinh thái tự nhiên của thế giới). Trong hệ sinh thái phồn

22
tạp chỉ số đa dạng giữa số giống loài và số cá thể rất cao, thực vật phát triển hơn
so với động vật (động vật dễ bị dịch bệnh do nhiệt ẩm gió mùa). Trong thời kinh
tế thu lượm, hái lượm (phổ rộng) vượt trội hơn săn bắn (bắt) sử dụng đạm thủy
sản là chính. (Trong các di chỉ khảo cổ học chủ yếu là dấu tích quả, hạt cây và
các động vật sống dưới nước như vỏ sò, vỏ ốc, xương cá… Xương động vật
hiếm mà phần nhiều là động vật vừa và nhỏ). Thời kinh tế nông nghiệp trồng
trọt (đa canh) vượt trội hơn chăn nuôi. Trong một hệ sinh thái phồn tạp lại có
nhiều vùng sinh thái khác nhau. Theo GS. Đào Thế Tuấn, Việt Nam có 10 vùng:
Đông Bắc Việt Nam, Tây Bắc Việt Nam, trung tâm Bắc Việt Nam (châu thổ
sông Hồng), Bắc Trung Bộ Việt Nam (Thanh - Nghệ - Tĩnh), Trung Trung Bộ
Việt Nam (Bình – Trị - Thiên), Nam Trung Bộ Việt Nam (Quảng Nam - Ninh
Thuận - Bình Thuận), Bắc Tây Nguyên, Nam Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và
Tây Nam Bộ. Còn theo GS. Mai Đình Yên có 19 vùng. Ví dụ vùng đầm phá ven
biển Trung Bộ, vùng hải đảo ven bờ, xa bờ, vùng núi, vùng đồi, vùng Hà Nội,
vùng thành phố Hồ Chí Minh.
Từ góc độ địa lí - văn hóa, chúng ta có thể khái quát địa hình Việt Nam -
dài Bắc - Nam, hẹp Tây - Đông; đi từ Tây sang Đông có Núi - Đồi - Thung -
Châu thổ - Ven biển - Biển và Hải đảo. Đi từ Bắc vào Nam là các đèo cắt ngang
Tây Đông.
Sự đa dạng của môi trường sinh thái, điều kiện tự nhiên là yếu tố góp
phần tạo nên sự đa dạng văn hóa. Trong vô vàn yếu tố tác động đến cuộc sống
hàng ngày từ góc độ tự nhiên, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước hầu như
đều nêu bật hai tính trội của văn hóa Việt Nam truyền thống: sông nước và thực
vật. Văn minh Việt Nam - nền văn minh thực vật (khái niệm của học giả Pháp
P.Gourou) hay văn minh thôn dã, văn hóa lúa nước tính chất thực vật (mà cốt
lõi là cây lúa) in dấu ấn đậm nét trong đời sống hàng ngày của con người Việt
Nam như ở, đi lại; mặc và ăn. Bữa ăn (bữa cơm) được mô hình hóa Cơm - Rau -
Cá cộng với không có thói quen ăn sữa và các sản phẩm từ sữa động vật, không
có truyền thống chăn nuôi đại gia súc lấy thịt - chăn nuôi gắn với trồng trọt,

23
phục vụ trồng trọt. Tính chất thực vật còn thể hiện rõ nét trong đời sống tâm
linh mà điển hình là tục thờ cây. Môi trường sông - nước được coi là một yếu tố
đặc biệt quan trọng khi xem xét về những vấn đề văn hóa, con người Việt Nam.
Có thể nói đặc trưng nước chính là kết quả tổng thể của những đặc điểm về địa
lí, địa hình cũng như khí hậu. Yếu tố nước mang tính chất phổ quát và đặc thù
này đã tạo nên sắc thái riêng biệt trong tập quán kĩ thuật canh tác (đê, ao, kênh,
rạch…), cư trú (làng ven sông, trên sông “vạn chài, từ chợ búa, bến” tới những
đô thị ven sông, biển hay ngã ba, ngã tư sông…), ở (nhà sàn, nhà mái hình
thuyền, nhà - ao, nhà thuyền…), ăn (cá nước ngọt, nước mặn, các loại nhuyễn
thể…), tới tâm lí ứng xứ (linh hoạt, mềm mại như nước - chữ dùng của GS. Cao
Xuân Huy), sinh hoạt cộng đồng (đua thuyền, bơi chài…), tín ngưỡng, tôn giáo
(thờ cá, rắn, thủy thần…), phong tục tập quán, thành ngữ, tục ngữ, ca dao, nghệ
thuật (chèo, tuồng, rối nước, hò, lý…) và truyền thống.
Bên cạnh những ưu đãi, thiên nhiên cũng đặt ra cho con người Việt Nam,
dân tộc Việt Nam với không ít khó khăn, thách thức bằng những tai biến bất
ngờ, khí hậu thất thường, lũ lụt, bão tố, ẩm thấp gây vô vàn dịch bệnh cho
người, cho động vật, mùa màng. Cuộc đấu tranh kiên cường, chống chọi hàng
ngàn năm với những thử thách này của thiên nhiên đã hun đúc nên tính cách
kiên cường, tinh thần cố kết cộng đồng của người Việt mà điển hình là quá trình
chinh phục và khai phá châu thổ Bắc Bộ.
1.2.2. Điều kiện về chủ thể
Chủ nhân hay chủ thể của văn hóa Việt Nam là dân tộc Việt Nam. Song,
dân tộc Việt Nam lại là một cộng đồng 54 tộc người. Sự hình thành và hiện diện
của các tộc người này trên đất nước ta là cả một quá trình lâu dài, phức tạp, vốn
là kết quả của sự phân hóa, hỗn chủng và thiên di trong một thời gian dài.
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, sách báo đều chép nước ta có 64
(hoặc 60) dân tộc (tộc người).
Tháng 5 - 1968, Viện Dân tộc học thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt
Nam được thành lập, thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng đầu tiên

24
là xác minh thành phần dân tộc ở các tỉnh miền Bắc. Công việc này về cơ bản
hoàn thành vào cuối năm 1973.
Sau giải phóng miền Nam (tháng 4 - 1975), công tác xác minh thành phần
dân tộc được tiến hành ở các tỉnh phía Nam, tập trung ở các tỉnh thuộc khu vực
Tây Nguyên và hoàn thành vào cuối năm 1978.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, xác minh của Viện Dân tộc học, ngày
02 tháng 3 năm 1979, thừa ủy nhiệm của Thủ tướng Chính phủ, Tổng cục
Thống kê ra Quyết định 121/TCTK công bố “Bảng Danh mục các thành phần
dân tộc Việt Nam”. Theo đó, Việt Nam có 54 dân tộc (tộc người), với tính cách
là những cộng đồng có chung các đặc điểm về ngôn ngữ, sinh hoạt văn hóa và ý
thức tự giác về cộng đồng mình, thuộc 3 ngữ hệ: (Ngữ hệ là một nhóm các ngôn
ngữ có cùng nguồn gốc với nhau. Quan hệ đó được xác định bởi những đặc
điểm giống nhau về ngữ pháp, hệ thống từ vị cơ bản, âm vị và thanh điệu. Ngữ
hệ còn được gọi là dòng ngôn ngữ)
- Ngữ hệ Nam Á (5 nhóm ngôn ngữ, 40 tộc).
- Ngữ hệ Nam Đảo (hay Đa Đảo, hoặc Malaiô - Pôlinêxia, 5 tộc).
- Ngữ hệ Hán Tạng (2 nhóm ngôn ngữ, 9 tộc).
* Ngữ hệ Nam Á
- Nhóm Việt-Mường
1. Việt (Kinh); 2. Mường; 3. Thổ; 4. Chứt
- Nhóm Môn/ Khơ-me
5. Khơ - me; 6. Ba - na; 7. Xơ - đăng; 8. Cơ - ho; 9. Hrê; 10. Mnông ; 11.
Xtiêng;
12. Bru - Vân Kiều; 13. Khơ - mú; 14. Cơ - tu; 15. Giẻ - Triêng; 16.Tà -
ôi;
17. Mạ; 18. Co; 19. Chơ - ro; 20. Xinh -mun; 21. Kháng;
22. Mảng; 23. Rơ - măm; 24. Brâu; 25. Ơ - đu.
- Nhóm Tày-Thái

25
26. Tày; 27. Thái; 28. Nùng; 29. Sán Chay; 30. Giáy; 31. Lào; 32. Lự; 33.
Bố Y.
- Nhóm Hmông-Dao
34. Hmông; 35. Dao; 36. Pà Thẻn.
- Nhóm khác (nhóm Ka đai)
37. La Chí; 38. La Ha; 39. Cơ Lao; 40. Pu Péo.
*Ngữ hệ Nam Đảo (Đa Đảo hay Malaiô - Pôlinêxia)
41. Gia - rai; 42. Ê - đê; 43. Chăm; 44. Ra - glai; 45. Chu - ru.
*Ngữ hệ Hán Tạng
- Nhóm Hán
46. Hoa; 47. Sán Dìu; 48. Ngái.
- Nhóm Tạng-Miến
49. Hà Nhì; 50. Phù Lá; 51. La Hủ; 52. Lô Lô; 53. Cống; 54. Si La.
Ghi chú về một số quy định viết tên của các tộc:
- Các tộc thuộc ngôn ngữ Môn/ Khơ - me và Nam Đảo nếu có hai chữ thì
viết hoa chữ đầu tiên, chữ thứ hai không viết hoa và giữa hai từ có gạch ngang,
ví dụ: Khơ - mú, Xinh - mun, Ba - na, Ê - đê... (trừ trường hợp hai tộc được
ghép làm một tộc, như Giẻ -Triêng, Bru - Vân Kiều).
- Các tộc thuộc các ngôn ngữ khác, nếu tên có hai chữ thì viết hoa cả hai,
giữa hai chữ không có gạch ngang, ví dụ, Sán Dìu, Hà Nhì, Lô Lô...
- Riêng người Hmông: theo Công văn 903 CV/ HĐDT ngày 04 tháng 12
năm 2001 của Hội đồng Dân tộc Quốc hội khóa X, đọc và viết theo tiếng dân
tộc là Hmôngz, còn đọc và viết theo tiếng phổ thông là Mông. Tuy nhiên, đây
chỉ là quy định của Ủy ban Dân tộc. Trên nguyên tắc, việc đổi tên tộc người
phải thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
Với sự góp mặt của nhiều tộc người đã tạo cho đất nước Việt Nam có một
nền văn hóa đa dạng, phong phú, văn hóa các tộc người bổ sung cho nhau. Mặt
khác, việc nhiều dân tộc cùng chung sống cũng đặt ra vấn đề về đoàn kết, công
bằng, tránh xung đột, kỳ thị văn hóa.

26
Tuy là một đất nước có nền văn hóa đa dạng, phong phú được tạo nên bởi
các tộc người anh em nhưng văn hóa Việt Nam vẫn là một nền văn hóa thống
nhất (còn gọi là thống nhất trong đa dạng).
Có 3 yếu tố đảm bảo tính thống nhất của văn hóa Việt Nam, đó là:
- 54 tộc người đều có ý thức thuộc về 1 quốc gia (QG Việt Nam).
- Chịu sự điều hành của một nhà nước.
- Sử dụng một ngôn ngữ chung (tiếng Việt) tạo ra một ý thức cộng đồng.
Về nguồn gốc tộc người Việt, các tư liệu Sử học và Dân tộc học cho phép
khẳng định, tổ tiên của người Việt chính là nhóm Lạc Việt nằm trong khối Bách
Việt (nhiều tộc Việt) cư trú trên một vùng rộng lớn ở Bắc Việt Nam và Nam
Trung Quốc (nhóm Lạc Việt, Âu Việt ở Bắc Việt Nam; Mân Việt ở Phúc Kiến;
Điền Việt ở Vân Nam; Đông Việt ở Quảng Đông; Nam Việt ở Quảng Tây v.v...)
từ rất xa xưa.
Về mặt nhân chủng, người Lạc Việt là nhóm trung gian giữa hai đại
chủng Mông - gô - lô - ít và Ôxtra - lô - ít.
Tư liệu khảo cổ học cho biết thêm, trên vùng lãnh thổ Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ hiện nay, cách ngày nay khoảng 3500 đến 4000 năm, nhóm Lạc Việt
đã trực tiếp tạo ra những nền văn hóa có tính chất liên tục, từ Phùng Nguyên,
Đồng Đậu, Gò Mun và phát triển thành nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ, dựa trên
cơ sở kinh tế là nghề trồng lúa nước kết hợp các nghề thủ công, trong đó, độc
đáo nhất là nghề đúc đồng với sản phẩm mang tính đặc trưng là trống đồng.
Người Việt là tộc người bản địa, sinh sống từ rất lâu đời trên dải đất Việt
Nam.
1.2.3. Điều kiện về lịch sử - xã hội
Lịch sử - xã hội Việt Nam có bốn đặc điểm lớn sau đây:
Thứ nhất, Việt Nam phải liên tục kháng chiến, khởi nghĩa chống ngoại
xâm. Tính từ cuối kháng chiến chống Tần (thế kỷ III TCN) đến nay, số thời gian
chống ngoại xâm trong lịch sử Việt Nam cộng lại lên đến trên 12 thế kỷ, chiếm
hơn một nửa thời gian lịch sử. Trong hầu hết các cuộc đấu tranh, xét về tương

27
quan lực lượng, kẻ xâm lược mạnh hơn dân tộc ta bội phần. Vì vậy, các cuộc
chiến đấu của dân tộc ta thường diễn ra trong bối cảnh ác liệt, phức tạp, có khi
thắng lợi nhanh chóng, song nhiều khi phải qua những khúc quanh bi tráng, có
thời gian thất bại nặng nề, đau xót, tủi nhục. Chính những cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm đã tác động sâu sắc đến tính chất của văn hóa Việt Nam.
Thứ hai, đất nước Việt Nam nhiều lần bị chia cắt bởi nạn nội chiến và
bùng nổ không ít cuộc khởi nghĩa nông dân. Sau khi Ngô Quyền qua đời (năm
944) tình trạng 12 sứ quân cát cứ, đánh giết lẫn nhau kéo dài 20 năm. Cuộc
xung đột Nam Bắc triều giữa một bên là nhà Mạc, một bên là nhà Lê kéo dài từ
năm 1530 đến cuối năm 1583. Hai thế lực Trịnh Nguyễn phân tranh, chia cắt đất
nước hơn 150 năm. Sau khi nổi dậy chưa được bao lâu, các lãnh đạo của phong
trào Tây Sơn cũng cát cứ và giao tranh. Dưới thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều
bùng nổ không ít cuộc khởi nghĩa nông dân. Thậm chí có cả sư sãi cũng vùng
dậy chống triều đình. Năm 1390, nhà sư Phạm Sư Ôn khởi nghĩa, lực lượng
mạnh đến mức các vua Trần phải bỏ Thăng Long, chạy sang Bắc Giang.
Thứ ba, Việt Nam là nơi gặp gỡ của nhiều luồng văn hóa. Từ thời kỳ cổ
đại, về khu vực mà ngày nay chúng ta gọi là Đông Nam Á, các nhà hàng hải,
các thương nhân đã mô tả đó là một vùng đất cực kỳ giàu có. Việt Nam là một
bộ phận của Đông Nam Á, là nơi ngã tư đường của các dân tộc và các nền văn
hóa. Những di chỉ ở Óc Eo cho thấy thuyền bè của thương nhân nước ngoài đã
đến đây. Các thuyền buôn từ nước Trung Hoa cổ đại, từ Java (Indonesia) và Mã
Lai cũng đã tới đây từ biển Đông. Sự pha trộn các tộc người xảy ra mạnh mẽ bắt
đầu từ thế kỉ I - II sau Công nguyên khi mà các cuộc xâm lược liên tiếp và kéo
dài của phong kiến phương Bắc tạo điều kiện cho nhiều nguồn di cư từ phương
đó đến. Những người mới đến đem theo thiết chế nhà nước và chữ viết, nói
chung là nền văn hóa Trung Hoa. Ở miền Nam, cũng bắt đầu từ thế kỉ I - II sau
Công nguyên, sự xâm nhập của nền văn hóa Ấn Độ được thực hiện thông qua
hàng loạt các cuộc nhập cư của các dòng người từ phía Tây đến và của những
tộc người nguồn gốc Malayo - Polinedi mang theo kĩ thuật chế tác đá, nghề đi

28
biển và một số nghề thủ công khác. Việt Nam là một ngã tư gặp gỡ của nhiều
luồng văn hóa, trong đó quan trọng nhất là hai luồng văn hóa Trung Hoa và Ấn
Độ. Trong quá trình tiếp nhận văn hóa bên ngoài, văn hóa Việt Nam cũng có
ảnh hưởng ngược lại. Hiện trạng này xảy ra liên tục cho đến cuối thế kỉ XIX,
khi Việt Nam tiếp nhận nền văn hóa Tây Âu thông qua nền văn hóa Pháp. Thực
ra điều này xảy ra còn sớm hơn, tức là từ cuối thế kỉ XVI, đầu thế kỉ XVII với
các thương nhân Hà Lan, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp đến các thương cảng Hội An
và Phố Hiến nhưng không để lại nhiều ảnh hưởng. Chữ viết của Việt Nam bên
cạnh chữ Hán còn có chữ Nôm, về sau thêm chữ Quốc ngữ. Nhiều tư tưởng và
lối sống mới được du nhập, nhất là ở các thành thị. Vào những năm 60 của thế
kỉ XX, người Mĩ du nhập văn hóa và lối sống vào các thành thị miền Nam
nhưng ảnh hưởng không mấy sâu sắc. Sự gặp gỡ của nhiều luồng văn hóa trên
lãnh thổ Việt Nam đã mang lại nhiều ảnh hưởng tích cực và tiêu cực, mặt thứ
nhất nhiều hơn mặt thứ hai.
Thứ tư là nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vận động chậm chạp
trong bối cảnh thương nghiệp, công nghiệp không được khuyến khích phát
triển. Trong thời kỳ xây dựng nền tảng văn hóa dân tộc, cư dân Đông Sơn sinh
sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, chưa bao giờ chăn nuôi được tách ra trở
thành một ngành chính. Dưới thời Bắc thuộc, tuy sản xuất có những tiến bộ nhất
định, song người dân rất cực khổ. Họ không chỉ bị cướp ruộng đất, mà còn phải
nộp các loại thuế muối, thuế sắt, thuế sản vật,... dưới hình thức nộp cống. Trong
thời kì phát triển nền văn hóa truyền thống trong quốc gia Đại Việt, sản xuất
nông nghiệp vẫn là nghề chủ yếu. Trừ nhà Mạc, các nhà nước quân chủ khác
chủ trương trọng nông ức thương; trong các đô thị, phần đô được chú trọng, khi
một địa điểm không còn đóng vai trò kinh đô hay trung tâm hành chính của một
trấn, một tỉnh thì phần thị sẽ tiêu điều nhanh chóng. Làng xã, một loại công xã
nông thôn, tồn tại phổ biến với quyền sở hữu thực tế đại bộ phận ruộng đất. Một
mặt, làng vẫn phải nộp thuế, vẫn phải có người đi phu, đi lính theo lệnh triều
đình; mặt khác, làng lại có thể tự trị, tự quản đến mức phép vua thua lệ làng.

29
Khi thực dân Pháp đô hộ, họ không phát triển công nghiệp ở thuộc địa, nhìn
chung không áp dụng các tiến bộ của khoa học kĩ thuật vào sản xuất nông
nghiệp. Việc làm ăn này ở Việt Nam chủ yếu là sản xuất tiểu nông theo kiểu
chồng cày, vợ cấy của các hộ nông dân có ruộng và nông dân tá điền lĩnh canh
nộp tô cho địa chủ. Sau khi chiếm nhiều ruộng đất, thực dân Pháp lập đồn điền
để kinh doanh nông nghiệp. Tại những đồn điền trồng lúa, chủ đồn điền có cải
tiến các giống lúa và đẩy mạnh việc đào kênh mương dẫn nước vào ruộng. Song
họ chủ yếu vẫn phát canh cho chính người gia đình nông dân bị chiếm đoạt
ruộng đất, rồi chỉ việc ngồi chờ đến lúc thu hoạch là thu tô. Chính lối kinh
doanh ăn bám, bỏ rất ít vốn mà thu được nhiều lãi do bóc lột tàn nhẫn những
người nông dân - tá điền đã dẫn đến hậu quả năng suất lúa ở Việt Nam thấp nhất
trong khu vực. “Tính chất trì trệ và bảo thủ của lịch sử - xã hội Việt Nam được
thể hiện qua kết cấu kinh tế ba thành phần không chia tách (nông nghiệp - thủ
công nghiệp - thương nghiệp) và một kết cấu xã hội “tứ dân” phân chia theo
nghề nghiệp (sĩ - nông - công thương). Từ kết cấu kinh tế - xã hội đó đã dẫn đến
ba hằng số cơ bản của văn hóa Việt Nam, đó là: nông nghiệp - nông thôn - nông
dân. Ba hằng số này vẫn còn đang có ý nghĩa trong xã hội Việt Nam hiện nay”
[Huỳnh Công Bá (2008), giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa,
Huế, tr.44].
1.3. Phân kỳ lịch sử văn hóa Việt Nam
1.3.1. Các thuật ngữ liên quan đến phân kỳ văn hóa
Trong khi phân kỳ văn hóa, nhiều tác giả sử dụng các từ “thời kỳ”, “giai
đoạn” với nghĩa khác nhau. Ví dụ: Các tác giả Nguyễn Khánh Toàn, Lê Văn
Chưởng, Hoàng Vinh, Huỳnh Công Bá sử dụng “thời kỳ văn hóa” với nghĩa chỉ
khoảng thời gian dài hơn “giai đoạn văn hóa”, một thời kỳ có thể bao gồm nhiều
giai đoạn. Đối với tác giả Trần Ngọc Thêm, từ “giai đoạn văn hóa” lại có nghĩa
khác. Văn hóa thời chống Bắc thuộc, nếu được tác giả này gọi là một giai đoạn
thì các tác giả Đình Gia Khánh, Hoàng Vinh lại gọi là một thời kỳ. Còn trong
cách diễn đạt của các tác giả Trần Quốc Vượng, Chu Xuân Diên, “giai đoạn” lại

30
dài hơn “thời kỳ”, một giai đoạn có thể gồm nhiều thời kì. Có tác giả lại dùng từ
“kỷ nguyên”. Theo TS. Huỳnh Công Bá, danh từ này thường được dùng để chỉ
những thời kì phát triển rực rỡ, mang tính đỉnh cao, không nên sử dụng trong
việc phân kỳ văn hóa.
Giáo trình sau đại học Lịch sử văn hóa Việt Nam do GS.TS. Nguyễn
Xuân Kính chủ biên (2015) tán thành việc phân chia lịch sử văn hóa thành các
thời kỳ, trong một thời kỳ có thể có nhiều giai đoạn, trong một giai đoạn có thể
có nhiều thời đoạn.
+ Thời kỳ (khái niệm liên quan “Lớp lịch sử văn hóa”)
+ Giai đoạn
+ Thời đoạn
Thời kỳ văn hóa được dùng ở đây chỉ một cấu trúc văn hóa. Cấu trúc văn
hóa này biểu hiện cụ thể thành một diện mạo văn hóa riêng tồn tại trong một
khung thời gian nhất định. Cấu trúc văn hóa này có tính ổn định tương đối trong
suốt cả thời kỳ. Những biến đổi văn hóa trong thời kỳ không phá vỡ cấu trúc
này, không làm cho diện mạo văn hóa đổi khác về cơ bản. Khi những biến đổi
văn hóa diễn ra mạnh mẽ, phá vỡ cấu trúc và đổi khác diện mạo văn hóa của
thời kỳ, thì sẽ có sự chuyển từ thời kỳ văn hóa này sang thời kỳ văn hóa khác.
Có nhiều yếu tố tạo nên một thời kỳ văn hóa, trong đó quan trọng nhất là
cách thức mưu sinh (hái lượm, săn bắt hay trồng trọt, chăn nuôi; nông nghiệp
hay công nghiệp), chế độ chính trị và hệ tư tưởng. Khái niệm thời kỳ văn hóa
tuy có quan hệ nhưng không đồng nhất với khái niệm thời kỳ lịch sử của ngành
sử học. Khái niệm thời kỳ lịch sử được xác định dựa vào những biến cố lịch sử
và chính trị - xã hội.
Mối quan hệ giữa thời kỳ văn hóa và thời kì lịch sử được thể hiện trong
cách xác định quan hệ tương ứng giữa các thời kỳ văn hóa với các thời kỳ lịch
sử nhất định. Quan hệ tương ứng này nói lên tác động quan trọng của sự chuyển
biến lịch sử đối với sự chuyển biến văn hóa, nhưng không có nghĩa là khi một
thời kì lịch sử (với những niên đại cụ thể của nó) đi vào quá khứ thì thời kì văn

31
hóa (với những sự kiện văn hóa của nó) tương ứng với thời kì lịch sử ấy, cũng
đi vào quá khứ. Văn hóa có những hằng số của nó và sự chuyển đổi giai đoạn
văn hóa không thể ấn định được bằng các mốc niên đại cụ thể như đối với các
thời kì lịch sử.
Khái niệm thời kì văn hóa có mối quan hệ gắn bó hơn với khái niệm loại
hình xã hội (xã hội nguyên thủy, xã hội truyền thống, xã hội hiện đại,...).
Khái niệm thời kì văn hóa cũng liên quan đến khái niệm lớp lịch sử văn
hóa. Nếu thời kì văn hóa chú ý nhiều hơn đến sự tiến hóa của tiến trình văn hóa,
thì lớp lịch sử văn hóa nhấn mạnh đến sự kế thừa, sự kế tục của tiến trình ấy.
Thí dụ, trong thời kì văn hóa tiến hiện đại có những yếu tố của lớp lịch sử văn
hóa truyền thống và cả những yếu tố của lớp lịch sử văn hóa nguyên thủy - tất
nhiên đã được cải biến, đã được “hiện đại hóa” ở những mức độ nhất định.
1.3.2. Một số phương án phân kỳ lịch sử văn hóa Việt Nam
1.3.2.1. Phương án của TS. Huỳnh Công Bá
Năm 1993, TS. Huỳnh Công Bá phân chia lịch sử văn hóa Việt Nam
thành sáu thời kỳ:
1) Văn hóa Việt Nam thời kỳ nguyên thủy;
2) Văn hóa Việt Nam thời kỳ dựng nước (thời kì Văn Lang - Âu Lạc);
3) Văn hóa Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc;
4) Văn hóa thời kỳ Đại Việt (từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIX);
5) Văn hóa Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc (từ năm 1862 đến 1945);
6) Văn hóa Việt Nam thời kỳ hiện đại (từ 1945 đến nay).
Hoàn thiện phương án của mình, năm 2008, TS. Huỳnh Công Bá tuy vẫn
chia lịch sử văn hóa Việt Nam thành sáu thời kì, nhưng có thay đổi một vài mốc
thời gian và việc định danh cho từng thời kì văn hóa có nhiều chỗ khác so với
phương án phân kì mà tác giả công bố năm 1993:
1.Văn hóa Việt Nam thời kỳ nguyên thủy (từ 50 vạn năm cách ngày nay
đến 4.000 năm cách ngày nay). Đây là thời kỳ hình thành cơ tầng văn hóa bản
địa của văn hóa Việt Nam. Đó là sự ra đời của nghề nông trong lòng văn hóa

32
Hòa Bình cách ngày nay khoảng 1 vạn năm và dần dần định hình thành nền
nông nghiệp lúa nước, xác lập loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở Việt Nam.
2.Văn hóa Việt Nam thời kỳ dựng nước và hình thành các văn hóa khu
vực (từ 4.000 năm cách ngày nay đến năm 179 TrCN). Đây là thời kỳ ra đời ba
trung tâm văn hóa kim khí lớn thuộc giai đoạn đồng thau và sơ kì sắt trên đất
Việt Nam: đó là văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Óc Eo.
3.Văn hóa Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc và tiếp biến văn hóa Ấn Độ,
Trung Hoa (từ năm 179 TrCN đến năm 905 sau Công nguyên). Đây là thời kì
nghìn năm đối kháng, tiếp biến với văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa, khẳng định bản
lĩnh và sức sống của nền văn hóa Việt cổ, đồng thời xác lập bản sắc của văn hóa
Chămpa cổ và Phù Nam cổ.
4.Văn hóa Việt Nam thời kỳ hội nhập và phát triển của văn hóa truyền
thống (từ năm 905 đến năm 1862). Đây chính là thời kì hội nhập và phát triển
rực rỡ của nền văn hóa Việt Nam truyền thống. Có thể chia thời kỳ này thành
hai giai đoạn:
+ Từ đầu thế kỉ X đến hết thế kỉ XV, là giai đoạn phát triển song song và
bước đầu giao thoa giữa hai nền văn hóa Đại Việt và Chămpa.
+ Từ đầu thế kỉ XVI đến nửa sau thế kỉ XIX, là giai đoạn hội nhập giữa
văn hóa Việt, Chăm, Khơme và các dân tộc ít người khác trên đất nước ta để
chuẩn bị cho sự ra đời của nền văn hóa Đại Nam.
5.Văn hóa Việt Nam thời kì Pháp thuộc và tiếp biến văn hóa phương Tây
(từ năm 1862 đến năm 1975). Đây là thời kì thuộc địa và chống đế quốc, cũng
là thời kì giao lưu cưỡng bức và tự nguyện với văn hóa phương Tây. Có thể chia
thời kỳ này thành hai giai đoạn:
+ Giai đoạn từ khi thực dân Pháp chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam
Kỳ cho đến Cách mạng tháng Tám thành công còn gọi là giai đoạn văn hóa
Pháp thuộc, là giai đoạn chạm trán quyết liệt giữa hai nền văn hóa Đông - Tây
trên đất Việt Nam, tạo ra “một sự đứt gãy lịch sử chưa từng có” (Trần Quốc
Vượng) ở Việt Nam.

33
+ Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 là 30 năm “vừa kháng chiến vừa
kiến quốc”, còn gọi là giai đoạn văn hóa kháng chiến, và nền văn hóa Việt Nam
vẫn mang đậm dấu ấn của cuộc đấu tranh chống đế quốc.
6.Văn hóa Việt Nam thời kỳ đương đại (từ năm 1975 đến nay). Đây là
thời kì đất nước độc lập, thống nhất và ra sức xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nên có thể gọi là “Thời kỳ xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Có thể chia thời kỳ này thành
hai giai đoạn:
+ Giai đoạn thứ nhất: từ 1975 đến 1985;
+ Giai đoạn thứ hai: từ 1986 đến nay.
Đây là phương án phân kỳ hoàn chỉnh. Việc định danh các thời kỳ, giai
đoạn được tiến hành nhất quán và phản ánh nội dung chủ yếu của từng thời kỳ,
giai đoạn đó. Chúng tôi chưa tán thành khi ở thời kỳ thứ ba, tác giả chọn mốc
năm 905 (không chọn mốc năm 938 hoặc 939); ở thời kì thứ tư, tác giả chọn
mốc năm 1862 (không chọn mốc năm 1883 hoặc 1884).
Đến năm 2012, TS. Huỳnh Công Bá trình bày một phương án phân kỳ
khác. Theo đó, lịch sử văn hóa Việt Nam chia thành bảy thời kỳ.
1. Thời kỳ nguyên thuỷ (thời kì tiền sử) Thời kì này có thời gian cách
ngày nay từ khoảng 50 vạn năm đến khoảng 4 nghìn năm.
2. Thời kỳ dựng nước (thời kì sơ sử) Đây là thời kì từ khi con người trên
đất Việt Nam biết đến luyện kim và chế tạo đồ đồng thau, rồi chuyển sang sơ kỳ
đồ sắt, với nền nông nghiệp lúa nước phát triển, dẫn đến sự phân hóa xã hội ra
đời nhà nước đầu tiên.
3. Thời kỳ đấu tranh chống Bắc thuộc (từ 179 TrCN đến 905 sau Công
nguyên)
4. Thời kỳ phong kiến độc lập tự chủ (từ 905 đến 1885) Thời kì này được
chia thành ba giai đoạn.
5. Thời kì đấu tranh chống Pháp thuộc (từ 1885 đến 1945) Thời kỳ này
cũng gồm ba giai đoạn.

34
6. Thời kỳ kháng chiến chống đế quốc (từ 1945 đến 1975) Thời kỳ này
được chia thành hai giai đoạn.
7. Thời kỳ độc lập và xây dựng đất nước (từ 1975 đến nay)
Thời kỳ này được chia thành hai giai đoạn.
So với phương án đề xuất năm 2008, ở đây tác giả đã tính lại mốc Pháp
thuộc là năm 1885 (không dùng mốc năm 1862, năm giặc Pháp chiếm xong ba
tỉnh miền Đông Nam Bộ); tách thời kỳ thứ năm thành hai thời kỳ: từ 1885 đến
1945 và từ 1945 đến 1975.
1.3.2.2.Phương án của GS. TSKH. Trần Ngọc Thêm
Năm 1995, trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam và các năm 1996, 1997,
2001, trong lần xuất bản và hai lần tái bản Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam,
GS.TS. Trần Ngọc Thêm đều phân tích tiến trình văn hóa Việt Nam. Theo tác
giả, tiến trình này “có thể chia thành sáu giai đoạn: văn hóa thời tiền sử, văn hóa
Văn Lang - Âu Lạc, văn hóa thời chống Bắc thuộc, văn hóa Đại Việt, văn hóa
Đại Nam và văn hóa hiện đại. Sáu giai đoạn này tạo thành ba lớp chồng lên
nhau: lớp văn hóa bản địa, lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực, lớp
giao lưu với văn hóa phương Tây. Mỗi lớp văn hóa còn ứng với một thời kỳ
phát triển khác nhau của văn tự Việt Nam”.
Khác với nhiều tác giả khác (Đinh Gia Khánh, Nguyễn Duy Hinh...), GS.
Trần Ngọc Thêm quan niệm văn hóa Đại Việt là văn hóa dưới các triều đại Ngô
- Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần - Hậu Lê - Tây Sơn. Tác giả còn quan niệm: “Giai
đoạn văn hóa Đại Nam được chuẩn bị từ thời các chúa Nguyễn và kéo dài hết
thời Pháp thuộc và chống Pháp thuộc. “Đại Nam” là quốc hiệu chủ yếu của
nước ta trong giai đoạn này, có từ thời Minh Mạng trở đi, ý nói rằng nước Việt
Nam từ nay có bờ cõi rộng lớn, được dùng để chỉ chung cho cả một giai đoạn
văn hóa dài khởi đầu từ thời các chúa Nguyễn”. Về các quan niệm của GS.
TSKH. Trần Ngọc Thêm, TS. Huỳnh Công Bá cho rằng mốc thời gian của văn
hóa Đại Nam bắt đầu từ thế kỉ XVI là “khó được chấp nhận”. “Hơn nữa, văn
hóa Đại Nam không thể tách thành một thời kì riêng, nằm ngoài khung thời gian

35
của thời kỳ chế độ phong kiến độc lập tự chủ. Ngay đối với triều Nguyễn cũng
không thể ghép chung hai giai đoạn độc lập tự chủ và Pháp thuộc lại với nhau
thành một thời kỳ. Về mốc mở đầu của giai đoạn văn hóa Văn Lang - Âu Lạc,
tác giả lấy mốc khoảng giữa thiên niên kỉ III trước Công nguyên là không phù
hợp với kết quả nghiên cứu của giới sử học hiện nay...”. Ở đây ý kiến của TS.
Huỳnh Công Bá là hợp lý.
1.3.2.3.Phương án của GS. Trần Quốc Vượng và cộng sự
Năm 1997, trong cuốn sách Cơ sở văn hóa Việt Nam, GS. Trần Quốc
Vượng phân chia diễn trình lịch sử văn hóa Việt Nam thành năm giai đoạn:
1) Văn hóa Việt Nam thời tiền sử và sơ sử;
2) Văn hóa Việt Nam thiên niên kỉ đầu Công nguyên;
3) Văn hóa Việt Nam thời tự chủ;
4) Văn hóa Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1945;
5) Văn hóa Việt Nam từ 1945 đến nay.
Ở phương án này, việc chọn mốc năm 1858 (năm giặc Pháp nổ súng xâm
lược Đà Nẵng) là thời gian kết thúc thời tự chủ của nước ta là chưa hợp lý. Bởi
vì với sự kiện thực dân Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng, nước ta vẫn là nước tự
chủ. Chỉ đến khi Pháp và triều đình nhà Nguyễn ký Hoà ước Quý Mùi (1883),
và Hòa ước Giáp Thân (1884) nước Việt Nam mới bị mất quyền tự chủ.
[* Hòa ước Quý Mùi (1883), hay còn có tên gọi là Hòa ước Harmand
(Hác-măng) vào ngày 25 tháng 8 năm 1883 tại kinh đô Huế giữa đại diện của
Pháp là François Jules Harmand - Tổng ủy (tiếng Pháp: commissaire général),
đại diện ngoại giao cho nước Cộng hoà Pháp và đại diện của triều Nguyễn là
Trần Đình Túc - Hiệp biện Đại học sĩ (Chánh sứ), Nguyễn Trọng Hợp - Lại bộ
Thượng thư (Phó sứ). Hoà ước có tất cả 27 điều khoản với nội dung chính là
xác lập quyền bảo hộ lâu dài của Pháp trên toàn bộ Việt Nam. Hiệp ước này
chính thức đánh dấu thời kỳ, 1883-1945, toàn bộ Việt Nam nằm dưới sự khống
chế của thực dân Pháp (thời Pháp thuộc)

36
Sau khi ký Hoà ước Quý Mùi 1883, trong nội bộ triều đình Huế lục đục,
các vị vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi kế tiếp nhau lên ngôi nhưng đều chỉ
cai trị được trong thời gian ngắn. Lúc này, ở Bắc Kỳ quân Pháp đang đánh nhau
với quân nhà Thanh và đã đuổi được phần lớn quân Thanh về Trung Quốc, tuy
nhiên tại một số tỉnh quân Thanh vẫn còn có mặt và đe doạ sự có mặt của người
Pháp ở Bắc Kỳ. Chính phủ Pháp đã sai François-Ernest Fournier sang Thiên
Tân ký với Lý Hồng Chương bản thỏa thuận sơ bộ được gọi là Hòa ước Thiên
Tân 1884, trong nội dung bản hoà ước sơ bộ giữa Pháp và nhà Thanh năm 1884,
đã có điều khoản nhà Thanh công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam.
Dựa vào bản thỏa thuận sơ bộ năm 1884 ở Thiên Tân, hai bên đã đi đến ký kết
bản hiệp ước chính thức, được gọi là chính thức Hòa ước Thiên Tân 1885,
Chính phủ Pháp đã sai Patenôtre - Đại diện Cộng hòa Pháp đến Huế sửa lại Hòa
ước Quý Mùi 1883 trước đó giữa Pháp và nhà Nguyễn.
* Hòa ước Giáp Thân 1884 hay còn có tên là Hòa ước Patenôtre, là hòa
ước cuối cùng nhà Nguyễn ký với thực dân Pháp vào ngày 6 tháng 6 năm 1884
tại kinh đô Huế gồm có 19 điều khoản. Đại diện nhà Nguyễn là Phạm Thận
Duật - Toàn quyền đại thần, Tôn Thất Phan - Phó Toàn quyền đại thần, Nguyễn
Văn Tường - Phụ chính đại thần và đại diện của Pháp là Jules Patenôtre - Sứ
thần Cộng hoà Pháp. Hầu hết nội dung các điều khoản trong bản hoà ước mới
này không khác nhiều so với bản hoà ước Quý Mùi (Harmand) ký năm 1883,
tuy nhiên có thêm hai điều khoản mới: Một là chia nước Việt Nam ra làm ba xứ:
Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), Nam Kỳ (Cochinchine) dưới ba chế độ
khác nhau; mỗi kỳ có một chế độ cai trị riêng như là ba nước riêng biệt. Nam
Kỳ là xứ thuộc địa Pháp; Bắc Kỳ và Trung Kỳ là xứ Pháp bảo hộ nhưng triều
đình nhà Nguyễn trên danh nghĩa vẫn được quyền kiểm soát. Hai là trả các tỉnh
Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh trước thuộc Bắc Kỳ nay thuộc về Trung Kỳ và
trả tỉnh Bình Thuận trước thuộc Nam Kỳ hoàn lại cho Trung kỳ].

37
1.3.2.4.Phương án của PGS. Chu Xuân Diên
Năm 2002, sau khi nêu quan niệm về giai đoạn văn hóa, phân biệt giai
đoạn văn hóa với giai đoạn (hay thời kỳ) lịch sử, PGS. Chu Xuân Diên phân
tiến trình văn hóa Việt Nam thành ba giai đoạn chính dưới đây:
1. Giai đoạn hình thành những nền tảng của văn hóa Việt Nam (thời kỳ
tiền sử và sơ sử);
2. Giai đoạn văn hóa truyền thống, được xác lập trên cơ sở những biến
đổi của các nền văn hóa tiền sử và sơ sử trong thời kỳ Bắc thuộc rồi dần dần
định hình trong thời kỳ Đại Việt;
3. Giai đoạn bước đầu hình thành nền văn hóa hiện đại (thời kỳ cận đại
và đương đại.
Như trên đã nói, trong khi nhiều tác giả quan niệm “thời kỳ” dài hơn
“giai đoạn”, trong một thời kỳ, có thể có nhiều giai đoạn thì PGS. Chu Xuân
Diên lại dùng các từ trên với nghĩa ngược lại. Thêm nữa cũng giống như quan
điểm của GS. Trần Quốc Vượng và cộng sự, việc tác giả chọn mốc năm 1858 là
thời gian kết thúc thời kì Đại Việt là chưa hợp lý.

CÂU HỎI
1. Trình bày khái niệm văn hóa.
2. Trình bày khái niệm lịch sử và lịch sử văn hóa.
3. Thế nào là cấu trúc văn hóa? Có mấy cách phân chia cấu trúc văn hóa?
4. Trình bày và phân tích các điều kiện hình thành văn hóa Việt Nam (điều kiện
tự nhiên, điều kiện chủ thể và điều kiện lịch sử xã hội).
5. Nêu và phân tích các phương án phân kỳ văn hóa tiêu biểu.

38
Chương 2
VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ
(Tổng số giờ 04; lý thuyết:02 , bài tập/thảo luận: 0 , thực hành: 02)

YÊU CẦU
- Người học nhớ và hiểu được phân kỳ, bối cảnh lịch sử văn hóa, đặc
trưng văn hóa Việt Nam thời tiền sử và sơ sử.
- Người học đánh giá được vai trò của văn hóa thời tiền sử và sơ sử trong
lịch sử dân tộc.
2.1.Thời tiền sử
2.1.1. Bối cảnh lịch sử
Văn hóa Việt Nam thời tiền sử tính từ khi con người bắt đầu có mặt trên
lãnh thổ Việt Nam (40 - 50 vạn năm cách ngày nay) cho tới khoảng 4000 năm
cách ngày nay.
Thời đại tiền sử là thuật ngữ thường được dùng để mô tả thời đại trước
khi lịch sử được viết. Thuật ngữ này được nhà nghiên cứu người Pháp Paul
Tournal dùng với nghĩa “trước - lịch sử” (Pré-historique) để mô tả những vật
ông tìm thấy trong các hang động của miền Nam nước Pháp. Nó đã được sử
dụng trong ngôn ngữ tiếng Pháp vào những năm 1830 để miêu tả thời gian
trước khi có chữ viết, và nó được đưa vào trong ngôn ngữ tiếng Anh bởi Daniel
Wilson vào năm 1851.
Thời đại tiền sử có thể được hiểu là thời đại được bắt đầu của vạn vật, vũ
trụ, tuy nhiên thuật ngữ này hầu hết được sử dụng để mô tả các thời kỳ có sự
sống trên Trái Đất; những con khủng long có thể được mô tả là các động vật
thời kỳ tiền sử và người cổ xưa ở trong hang được mô tả là người tiền sử.
Ý nghĩa phổ biến nhất, là Thời tiền sử loài người, còn được gọi là tiền
sử văn học, là thời kỳ từ lúc các homini (một tông người vượn cổ) sử dụng
các công cụ đá đầu tiên, cỡ 3,3 triệu năm trước đến lúc phát minh và sử dụng
hệ thống chữ viết ghi chép lại lịch sử.

39
Bởi vì không có chữ viết từ thời tiền sử, nên những thông tin mà chúng ta
biết về thời kỳ này là được biết ở ngoài thực địa của các khoa học như cổ sinh
học, sinh học, linh trưởng học, địa chất học, khảo cổ học, thiên văn học và các
khoa học tự nhiên cũng như các khoa học xã hội khác.
Ở Việt Nam, các tài liệu khảo cổ cho biết: “Người vượn tồn tại cách ngày
nay khoảng hai triệu năm đến 3 - 4 vạn năm”. Trên đất nước Việt Nam, các nhà
khảo cổ học đã tìm thấy những dấu vết của người vượn. Trong các hang Thẩm
Khuyên, Thẩm Hai (ở Lạng Sơn) đã phát hiện được một số răng người vượn
nằm trong lớp trầm tích màu đỏ, chứa xương cốt các động vật thời cánh tân.
Những chiếc răng này có đặc điểm của răng người, lại có đặc điểm của răng
người vượn, giống với răng người vượn ở Bắc Kinh (Trung Quốc) cách ngày
nay trên dưới 40 - 50 vạn năm”. [Trương Hữu Quýnh - Nguyễn Cảnh Minh
trong cuốn Lịch sử Việt Nam từ nguyên thủy đến năm 1858 (Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội, tr7]
Năm 1960, lần đầu tiên các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy hàng
vạn mảnh đá ghè, gọi là mảnh tước ở một số địa phương trên lãnh thổ Việt Nam
như Núi Đọ, Quan Yên (Thanh Hóa), Xuân Lộc (Đồng Nai), An Lộc (Sông Bé).
Những dấu tích này cho thấy cách ngày nay khoảng 40 - 50 vạn năm, thời đại đá
cũ sơ kỳ, người vượn đã có mặt trên đất nước ta.
Như vậy, thông qua các tư liệu khảo cổ ở Việt Nam được công bố hiện
nay, có thể kết luận: thời tiền sử ở Việt Nam được xác định bắt đầu từ khoảng
40 - 50 vạn năm cách ngày nay cho đến khoảng 4000 năm cách ngày nay. Đó là
thời đại nguyên thủy hay thời kỳ đồ đá (đã cũ, đá giữa, đá mới). Còn thời kỳ sơ
sử tương ứng với thời đại kim khí (đồng, sắt) . Cuốn giáo trình đại học Cơ sở văn
hóa Việt Nam do GS. Trần Quốc Vượng chủ biên (1998) gọi thời tiền sử và sơ
sử là “giai đoạn” văn hóa bản địa và cho rằng: “Giai đoạn bản địa của văn hóa
Việt Nam có thể tính từ khi con người bắt đầu có mặt trên lãnh thổ Việt Nam
cho tới khoảng thế kỉ I trước công nguyên. Đây là một giai đoạn dài và có tính
chất quyết định, là giai đoạn hình thành, phát triển và định vị của văn hóa Việt

40
Nam. Giai đoạn này có thể được chia làm hai thời kỳ. Thời tiền sử từ buổi đầu
đến cuối thời đại đá mới và thời sơ sử cách đây khoảng trên dưới 4000 năm”.
[Trần Quốc Vượng (Chủ biên), (2005), Giáo trình cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, tr.144].
2.1.2. Đặc trưng văn hóa
Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những chiếc nôi của
loài người. Cách đây khoảng 40 - 50 vạn năm và đến bây giờ khí hậu Việt Nam
mang nặng đặc trưng nhiệt đới nóng ẩm thích hợp cho sự sinh sống của con
người. Với những vết tích còn lại, chúng ta biết rằng người vượn (Homo–
Erectus) đã có mặt ở nhiều vùng từ Bắc tới Nam. Mở đầu cho giai đoạn tiền sử
là văn hóa Núi Đọ. (tên di chỉ khảo cổ học thuộc sơ kì thời đại đồ đá cũ phát
hiện được ở núi Đọ, thuộc huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Trên bề mặt Núi
Đọ, các nhà khảo cổ học thu nhặt được hàng vạn mảnh ghè (hay mảnh tước như
các nhà khảo cổ học thường gọi), có bàn tay gia công của người nguyên thủy.
Những công cụ đá này rất thô sơ, chứng tỏ “tay nghề”, ghè đẽo còn rất vụng về.
Người ta tìm thấy ở đây 8 chiếc rìu tay, loại công cụ được chế tác cẩn thận nhất
của người vượn. Sau văn hóa Núi Đọ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra di chỉ
khảo cổ thuộc hậu kì đá cũ ở Việt Nam. Đó là văn hóa Sơn Vi (xã Sơn Vi,
huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ).
Thời gian từ 20 đến 15 nghìn năm trước công nguyên, con người (người
hiện đại - Homo sapiens) đã cư trú trên một địa bàn rất rộng, họ là chủ nhân của
nền văn hóa Sơn Vi từ Lào Cai ở phía Bắc đến Bình Trị Thiên ở phía Nam, từ
Sơn La ở phía Tây đến vùng sông Lục Nam ở phía Đông. Người Sơn Vi sống
chủ yếu trên các đồi gò của vùng trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Ngoài ra,
người Sơn Vi còn sống cả trong các hang động núi đá vôi.
Đây là các bộ lạc săn bắt (bắn), hái lượm, dùng đá cuội để chế tác công
cụ. Công cụ còn rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kĩ thuật chế
tác, đã có nhiều hình loại ổn định. Tiêu biểu cho công cụ của các cư dân Sơn Vi
là những hòn đá cuội được ghè đẽo ở hai cạnh. Đa số là công cụ chặt, nạo, hay

41
cắt, có loại có cắt ngang ở một đầu, có loại có lưỡi dọc ở rìa cạnh, có loại công
cụ có lưỡi chạy xung quanh theo rìa tròn của viên cuội, hoặc có lưỡi ở hai đầu.
Dù điều kiện khí hậu thuận lợi cho đời sống con người cộng với sự đa
dạng phong phú của các loài quần động thực vật phương Nam, song vết tích cư
trú của người thời này chỉ hạn chế ở một số vùng, trên các đồi gò trong một số
hang động vì thời kì này những đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng Trung Bộ và
Nam Bộ đều đang ở giai đoạn hình thành, chưa thích hợp cho đời sống định cư
lâu dài của con người.
Dựa vào kĩ thuật chế tác công cụ của cư dân Sơn Vi, giáo sư Hà Văn Tấn
cho rằng họ đã có tư duy phân loại. Tư duy phân loại này thể hiện trong lựa
chọn nguyên liệu đá và trong sự đa dạng của các loại hình công cụ. Người
nguyên thủy đã biết dùng lửa. Họ chôn người ngay trong nơi cư trú, thức ăn chủ
yếu là nhuyễn thể, những cây, quả, hạt và một số loại động vật vừa và nhỏ.
Việc chôn người chết trong nơi cư trú nói lên niềm tin của người nguyên
thủy về một thế giới khác, mà ở đó người chết vẫn tiếp tục “sống”. Những công
cụ lao động được chôn bên cạnh người chết đã chứng tỏ niềm tin ấy.
Trong giai đoạn tiền sử, cách đây khoảng một vạn năm đã có những thay
đổi quan trọng, đánh dấu bước tiến mới trong lối sống của con người. Loài
người bước vào thời đại đá mới. Thời đại đá mới được đặc trưng bởi những tiến
bộ về phương thức sản xuất cũng như kĩ thuật sản xuất. Toàn trái đất trở nên
ấm, ẩm ướt, khí hậu môi trường có biến đổi lớn, thuận tiện cho sự tồn tại, phát
triển của con người, động và thực vật. Thời kì này con người nhận biết, tận
dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre gỗ.
Kĩ thuật chế tác đá được hoàn thiện và đạt tới đỉnh cao, loại hình công cụ nhiều.
Đặc biệt con người đã biết làm gốm, thuần dưỡng động vật và cây trồng, bắt
đầu sống định cư, dân số gia tăng. Tiêu biểu cho giai đoạn này là văn hóa Hòa
Bình. Cư dân văn hóa Hòa Bình sống chủ yếu trong các hang động núi đá vôi.
Họ thích cư trú trong các khu vực gần cửa hang, thoáng đãng, có ánh sáng. Môi
trường hoạt động của họ rất rộng bao gồm hang–thung–thềm sông, suối. Vì thế,

42
văn hóa Hòa Bình còn được gọi là nền văn hóa thung lũng. Văn hóa Hòa Bình
kéo dài trong khoảng từ 12.000 đến 7.000 năm cách ngày nay.
Người Hòa Bình sống chủ yếu bằng săn bắt (bắn) và hái lượm song do
đặc điểm của hệ sinh thái phồn tạp vùng rừng nhiệt đới, phương thức săn bắt
(bắn) và hái lượm của người tiền sử là theo phổ rộng, lượm trong rừng đủ thứ có
thể ăn và sử dụng được. Mặt khác, do môi trường không thuận lợi cho hoạt
động săn bắn nên phương thức sống của cư dân Hòa Bình chủ yếu là hái lượm.
Gần đây, người ta đã tìm thấy hạt và quả của nhiều loài cây thuộc họ rau
đậu và họ bầu bí, được coi là đã thuần dưỡng trong một số di chỉ văn hóa Hòa
Bình. Vì vậy đã có một nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong lòng văn hóa
Hòa Bình. Cuộc sống định cư tương đối là một nhân tố tạo cho sự nảy sinh nghề
trồng trọt. Tất nhiên vai trò của nó còn rất nhỏ bé so với các hoạt động truyền
thống hái lượm, và săn bắt (bắn). Có lẽ các hoạt động này vẫn là hoạt động kinh
tế cơ bản của họ.
Sự xuất hiện của nông nghiệp trồng trọt và muộn hơn một chút trong các
văn hóa thuộc trung kì và hậu kì đá mới, việc sản xuất đồ gốm đã đánh dấu một
bước chuyển biến quan trọng trong đời sống con người, từ kinh tế khai thác
sang kinh tế sản xuất. Cũng nhờ phương thức sản xuất mới mà con người đã mở
rộng không gian sinh tồn. Trong giai đoạn trung kì và hậu kì của thời đá mới,
con người đã chiếm lĩnh và chinh phục hai vùng sinh thái: núi, trước núi và ven
biển. Ở vùng sinh thái ven biển, nghề đánh cá phát triển mạnh. Thời kì này được
đặc trưng bởi các nền văn hóa Đa Bút (Thanh Hóa), Quỳnh Văn (Nghệ An), Hạ
Long… với những làng định cư lâu dài, ổn định, trong đó, bên cạnh quan hệ
dòng máu đã xuất hiện và ngày càng nhiều những quan hệ láng giềng phức tạp.
Cư dân thời đại đá mới có một tri thức phong phú về tự nhiên, những
hang động và những nơi cư trú khác của họ đều là những địa điểm thuận lợi cho
sinh hoạt và sản xuất. Điều này cho thấy con người thời bấy giờ đã biết thích
nghi một cách hài hòa với tự nhiên.

43
Thời kì này cũng để lại những dấu vết của nghệ thuật như những hiện vật
bằng xương có vết khắc hình cá, hình thú và những hình vẽ trên vách hang
Đồng Nội, những mảnh thổ hoàng… Người Hòa Bình, theo GS. Hà Văn Tấn có
lẽ đã có những biểu hiện về nhịp điệu, thể hiện bằng những nhóm vạch 3 vạch
một trên các hòn cuội tìm thấy trong hang động. Dù mới chỉ là giả thuyết về số
đếm, cách tính ngày… những di vật tìm thấy trong văn hóa Hòa Bình và Bắc
Sơn cũng cho thấy một bước phát triển tư duy của người nguyên thủy. Tư duy
về thời gian vũ trụ còn được thể hiện bằng những hoa văn, kí hiệu biểu thị mặt
trời: như hình tròn, hình chữ… vẽ trên đồ gốm. Có thể bấy giờ đã bắt đầu hình
thành một loại nông lịch sơ khai.
Những điều kiện định cư lâu dài và sự phát triển của nông nghiệp đã làm
hình thành rõ nét tính địa phương của văn hóa trong những khu vực hẹp vào
cuối thời đại đá mới (cách đây khoảng 5 nghìn năm). Thời kì này cũng xuất hiện
những tín ngưỡng nguyên thủy. Là cư dân nông nghiệp nên mưa, gió và đặc biệt
là mặt trời đã trở thành một trong những thần linh quan trọng đối với con người.
2.2. Văn hóa Việt Nam thời sơ sử
2.2.1. Bối cảnh lịch sử văn hóa
Văn hóa Việt Nam thời sơ sử tính từ khoảng 4000 năm cách đây đến năm
179 TCN.
Cách đây khoảng bốn nghìn năm, cư dân Việt Nam, từ lưu vực sông
Hồng cho đến lưu vực sông Đồng Nai, đã bước vào thời đại kim khí.
Thời kì này trên lãnh thổ Việt Nam tồn tại ba trung tâm văn hóa lớn là
Đông Sơn (miền Bắc), Sa Huỳnh (miền Trung) và Đồng Nai (miền Nam).
Văn hóa Đông Sơn (cả giai đoạn tiền Đông Sơn) được coi là cốt lõi của
người Việt cổ.
Văn hóa Sa Huỳnh (cả giai đoạn tiền Sa Huỳnh) được coi là tiền nhân tố
của người Chăm và vương quốc Chămpa.
Văn hóa Đồng Nai (cả giai đoạn đồng và sắt) lại là một trong những cội
nguồn hình thành văn hóa Óc Eo của cư dân thuộc nhóm Mã Lai - Đa Đảo sinh

44
sống vào những thế kỉ sau công nguyên ở vùng Đông và Tây Nam Bộ. Hiện
nay, văn hóa Óc Eo thường được gắn với vương quốc Phù Nam, một nhà nước
tồn tại từ thế kỉ II đến thế kỉ VII ở châu thổ sông Cửu Long.
2.2.2. Đặc trưng các nền văn hóa Việt Nam thời sơ sử
2.2.2.1. Văn hóa tiền Đông Sơn và văn hóa Đông Sơn
Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận rằng chí ít văn hóa Đông Sơn được hình
thành trực tiếp từ ba nền văn hóa ở lưu vực sông Hồng, sông Mã và sông Cả, đó
là văn hóa Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun thuộc giai đoạn đồng thau (từ
khoảng 2000 đến 700 năm trước công nguyên). Vào khoảng thế kỷ thứ VII
trước công nguyên, các nền văn hóa dần mất đi tính địa phương tiến tới chỗ hòa
chung vào một văn hóa thống nhất - văn hóa Đông Sơn. Đó là lúc các nhóm bộ
lạc liên kết lại trong một quốc gia: nước Văn Lang. Tính thống nhất của văn hóa
thời kỳ này được thể hiện rất rõ trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt -
Trung đến bờ sông Gianh (Quảng Bình). Mặc dù còn có những hình dáng địa
phương nhưng có thể khẳng định chưa có một nền văn hóa nào trước đó có
phạm vi phân bố rộng như vậy.
Văn hóa Phùng Nguyên được gọi theo tên di chỉ đầu tiên được phát hiện
năm 1959, ở xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Đây là nền văn hóa
thuộc sơ kỳ thời đại Đồ đồng. Điểm độc đáo trong văn hóa Phùng Nguyên đó là
hiện vật bằng đá rất phong phú về loại hình như: công cụ lao động, vũ khí, đồ
trang sức...cho thấy kỹ thuật chế tác đá đã đạt đến đỉnh cao. Đặc biệt, đồ trang
sức được chế tác bằng đá, đá Nephirite, đá ngọc...là phổ biến. Đồ gốm được
làm bằng bàn xoay, thường trang trí hoa văn khắc vạch, hoa văn chấm dải. Đã
phát hiện những mẩu xỉ đồng.
Văn hóa Đồng Đậu được gọi theo tên di chỉ đầu tiên được phát hiện năm
1962, ở thôn Đồng Đậu, thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Đây
là sự phát triển tiếp nối của văn hóa Phùng Nguyên. Công cụ đá có số lượng ít
và không được trau truốt. Hiện vật bằng xương cũng được phát hiện trong
nhiều di chỉ. Đồ gốm với nhiều loại hình và hoa văn phong phú như: hoa văn

45
hình sóng nước, khuông nhạc, đường tròn đồng tâm... Một số công cụ, vũ khí
bằng đồng (lưỡi câu, mũi tên, lao...) được phát hiện trong nhiều di tích, cho
thấy tính ưu việt của đồ đồng tạo nên năng suất lao động cao hơn đã được cư
dân Đồng Đậu dần sử dụng phổ biến hơn.
Văn hóa Gò Mun được gọi theo tên di chỉ đầu tiên được phát hiện năm
1961, ở xã Tứ Xã, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Văn hóa Gò Mun được
hình thành trên nền tảng văn hóa Đồng Đậu trước đó. Công cụ đá giảm dần về
số lượng và kỹ thuật chế tác. Thay vào đó, số lượng công cụ đồng dần tăng cao
như: lưỡi câu, mũi lao, giáo... cho thấy đồ đồng đã dần trở thành công cụ thiết
yếu, quan trọng trong lao động sản xuất. Đồ gốm có tiến bộ vượt bậc, hoa văn
trang trí phong phú như: hoa văn chấm cuống rạ, in chấm tròn... Với sự phát
triển đồ đồng, cư dân Gò Mun đã từng bước chế ngự thiên nhiên, làm chủ vùng
châu thổ sông Hồng, tạo nền tảng cho nền văn hoá Đông Sơn phát triển rực rỡ.
Văn hóa giai đoạn tiền Đông Sơn đến Đông Sơn đã đạt được những bước
tiến vượt bậc, đặc trưng:
- Bước tiến quan trọng về công nghệ chế tác dụng cụ lao động: Bên cạnh
việc sử dụng đá, gỗ, tre, nứa, xương, sừng để chế tạo công cụ và vũ khí con
người đã biết sử dụng đồ đồng tạo ra những tác động to lớn đối với kinh tế, xã
hội và văn hóa. Kỹ nghệ đúc đồng đạt đến kỹ xảo. (mũi tên, dao, lao, trống
đồng, muôi đồng...). Đồ gốm đã đạt độ nung cao hơn, dày hơn và cứng hơn.
Ngoài đồ đồng, đồ gốm thời kỳ này cũng đã bắt đầu hình thành nghề thủ công
mỹ nghệ (dệt).
- Cư dân Đông Sơn đã định hình và phát triển nền nông nghiệp trồng trọt
tiên tiến với cây lúa nước là cây trồng chiến lược được trồng cấy theo mùa vụ.
Họ canh tác trên nhiều loại đất khác nhau. Hình thức canh tác phổ biến là loại
ruộng chờ mưa. Các loại hình nông cụ của cư dân Đông Sơn đã khá đa dạng với
cuốc, xẻng, mai, thuổng và đặc biệt là lưỡi cày bằng kim loại đã tạo nên bước
nhảy vọt trong kỹ thuật canh tác. Bên cạnh trồng trọt là chăn nuôi, việc chăn
nuôi trâu, bò đã phát triển để đảm bảo sức kéo cho nông nghiệp. Trên trống

46
đồng, người ta thấy khắc hoa văn hình bò, trong một số di chỉ khảo cổ học còn
tìm thấy tượng đầu gà, chứng tỏ cư dân Đông Sơn đã biết thuần hóa một số gia
súc đặc thù, phát triển chăn nuôi. Họ cũng đã bắt đầu ăn gạo tẻ thay cho gạo
nếp. Ngoài gạo còn có các loại hoa màu, thủy sản.
- Đã đình hình được kiểu dáng nhà ở: nhà của cư dân Đông Sơn được tạo
ra bằng các vật liệu dễ bị phá hủy theo thời gian. Hình dáng nhà có các loại mái
cong, mái tròn và nhà sàn.
- Phương tiện đi lại của cư dân Đông Sơn chủ yếu là thuyền bè, đường
vận chuyển chủ yếu là đường sông và ven biển. Ngoài ra còn có đi bộ, gánh
gồng, mang vác trên vai, trên lưng. Thời kỳ này con người cũng đã biết thuần
dưỡng voi và dùng voi để chuyên chở.
- Cư dân Đông Sơn đã có một đời sống tinh thần phong phú. Đặc biệt họ
đã làm chủ được nghệ thuật nhịp điệu trong ca múa, biểu hiện tính đối xứng
chặt chẽ của các mô típ hoa văn trong trang trí. Họ biết tới nhiều dạng đối xứng
khác nhau. Điều này cho thấy sự phát triển nhận thức hình học và tư duy chính
xác nhờ hoạt động sản xuất nông nghiệp và kỹ thuật chế tác đá, đúc đồng. Nghệ
thuật âm nhạc đã khá phát triển với nhạc cụ tiêu biểu là trống đồng và các nhạc
cụ khác thuộc bộ gõ, bộ hơi như sênh, phách, khèn. Họ cũng hình thành một hệ
thống các phong tục, tín ngưỡng, nghi lễ rất đa dạng, phong phú: tục thờ mặt
trời, mưa dông, các nghi lễ phồn thực và những nghi lễ nông nghiệp khác như
hát đối đáp gái trai, tục đua thuyền, tục thả diều v.v...Bên cạnh đó còn có rất
nhiều các phong tục tập quán khác như tục nhuộm răng, ăn trầu, xăm mình, ăn
đất nung non, uống nước bằng mũi, gói bánh chưng, bánh dày, giã cối làm lệnh,
tục ma chay, cưới xin...Hình thành một nếp sống riêng biệt và độc đáo với các
trang phục đặc trưng: Dựa vào trang trí trên cán dao găm hình người, hoa văn
trên trống đồng và thư tịch cổ, các nhà nghiên cứu cho biết cư dân thời kỳ này
ít nhất có 4 kiểu để tóc khác nhau. Họ ăn mặc theo phương châm giản dị, gọn
gàng tới mức tối đa: nam ở trần, đóng khố, đi chân đất. Phụ nữ mặc váy thay
đóng khố và có một số loại áo, áo cánh dài tay. Áo xẻ ngực bên trong có yếm.

47
Ngoài ra còn một số trang phục lễ hội như váy lông chim hay lá kết, khố dài
thêu. Người Đông Sơn ưa thích đồ trang sức, họ đeo đồ trang sức ở tay và cả ở
chân. Đồ trang sức thường được làm bằng đồng hay thủy tinh.
- Hình thành và phát nền văn học dân gian với những huyền thoại, thần
thoại thể hiện quan niệm của người Việt cổ, phản ánh nếp sống, sinh hoạt của
cư dân, cùng với những tâm tư, tình cảm, khát vọng và ước mơ của họ.
- Hình thành tư duy lưỡng phân lưỡng hợp (dualisme). Đó là một loại tư
duy phân loại chia đôi đã tn tại khá lâu có ở nhiều vùng trên thế giới. Ở Đông
Nam Á và Việt Nam lối tư duy này tồn tại khá lâu dài tạo thành một đặc điểm
khá nổi bật. Người xưa cho rằng thế giới được chia đôi: có đàn ông ắt có đàn bà,
có đực tất có cái, có âm ắt có dương. Người Đông Sơn có có tư duy khoa học,
điều này thể hiện ở tri thức thiên văn học, khái niệm số đếm, khái niệm lịch pháp...
- Nhà nước của người Việt cổ xuất hiện: nước Văn Lang. Văn Lang là nhà nước
đầu tiên của Việt Nam trong lịch sử.
Nhà nước Văn Lang được cai trị bởi các vua Hùng. Đứng đầu nhà nước
là Hùng Vương, chia nước làm 15 bộ, vua giữ mọi quyền hành trong nước,
tướng văn là là Lạc Hầu, tướng võ là Lạc Tướng. Con trai vua là Quan Lang,
con gái vua là Mị Nương. Các vị vua cai trị nước Văn Lang có tất cả 18 đời vua
đều gọi là Hùng Vương.
Vào khoảng thế kỉ VIII-VII TCN, ở vùng đồng bằng ven các sông lớn
thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay, đã dần hình thành những bộ lạc lớn,
gần gũi nhau về tiếng nói và phương thức hoạt động kinh tế. Sản xuất phát
triển, trong các chiềng, chạ, một số người giàu lên, được bầu làm người đứng
đầu để trông coi mọi việc, một số người nghèo khổ, phải rơi vào cảnh nô tì.
Xung đột xảy ra không chỉ giữa người Lạc Việt và các tộc khác mà còn giữa các
bộ lạc Lạc Việt với nhau. Cần phải giải quyết các xung đột đó để sống yên ổn
hơn. Lúc bấy giờ, ở vùng Gia Ninh (Phú Thọ), có vị thủ lĩnh dùng tài năng (yêu
thuật) khuất phục được các bộ lạc và tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở bạch
Hạc (Phú Thọ), đặt tên nước là Văn Lang.

48
Theo truyền thuyết, Lạc Long Quân và vợ là Âu Cơ sinh được 100 người
con trai, 50 người theo mẹ lên núi cùng suy tôn người con cả lên làm vua, hiệu
là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang.
2.2.2.2. Văn hóa Sa Huỳnh
Trung tâm hay đỉnh cao của văn hóa thời đại kim khí Việt Nam ở miền
Trung (từ Đèo Ngang đến Đồng Nai) được gọi theo tên một địa điểm khảo cổ
học ven biển tỉnh Quảng Ngãi. Đó là văn hóa Sa Huỳnh.
Nền văn hóa này có quan hệ gốc gác với các nền văn hóa hậu kì đá mới,
sơ kì thời đại đồng thau ven biển như văn hóa Bàu Tró, Hoa Lộc, Hạ Long, nhất
là văn hóa Bàu Tró, có không gian phân bố cận kề với văn hóa Sa Huỳnh.
Văn hóa Sa Huỳnh tồn tại từ sơ kì thời đại đồng thau (hơn 4000 năm cách
ngày nay) cho tới sơ kì thời đại sắt sớm (những thế kỉ 7–6 trước công nguyên
tới thế kỉ 1–2 trước và sau công nguyên). Dù cho còn nhiều ý kiến về các giai
đoạn sớm, muộn của nền văn hóa này, song hầu như các nhà nghiên cứu đều
thống nhất là giữa các nhóm di tích của cả ba giai đoạn sơ, trung kì (thời đại
đồng thau) và hậu kì (sơ kì thời đại sắt) đều có những đặc trưng chung và văn
hóa Sa Huỳnh thời đại sắt hay Sa Huỳnh cổ xưa là bắt nguồn từ những di tích
của thời đại đồng thau và theo ý kiến của chúng tôi chắc chắn có sự tham gia và
ảnh hưởng của một số yếu tố văn hóa khác.
Về giới hạn dưới hay thời điểm kết thúc của văn hóa Sa Huỳnh, dựa trên
những niên đại C14 ở một số khu mộ Chum Hàng Gòn (Phú Hòa - Đồng Nai),
Quế Lộc (Quảng Nam) và những hiện vật văn hóa Hán như tiền Ngũ Thù,
Vương Mãng ở di tích Hậu Xá (Hội An–Quảng Nam), có thể chấp nhận niên đại
muộn nhất của các di tích là thế kỉ I, II sau công nguyên.
Chủ nhân Văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hóa hậu
kì đá mới, sơ kì đồng thau ven biển. Với cốt lõi là văn hóa Bàu Trò mà chủ nhân
của các văn hóa trên được các nhà nghiên cứu coi là những người tiền Mã Lai –
Pôlinêdi. Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, văn hóa Sa Huỳnh
còn có những quan hệ cội nguồn hay giao lưu với những văn hóa hậu kì đá mới

49
– sơ kì đồng thau của miền cao nguyên Lâm Đồng mà chủ nhân của những văn
hóa trên được coi là tiền Môn – Khơme hay tiền Nam Á. Ngoài ra còn có những
mối giao lưu rộng rãi với các cư dân kim khí Đông Nam Á hải đảo và lục địa.
Qua đó có thể thấy chủ nhân của nền văn hóa này nói tiếng Nam Đảo hay Manh
– Pôlinêdi với nhiều yếu tố Nam Á.
* Đặc trưng văn hóa
- Người Sa Huỳnh có hình thức mai táng bằng chum rất độc đáo và đặc
trưng. Trên địa bàn phân bố của văn hóa Sa Huỳnh từ gò đồi phía Tây cho đến
đồng bằng ven biển và hải đảo phía Đông đã phát hiện nhiều khu mộ, những bãi
mộ chum rộng lớn, nhiều tầng lớp với những loại hình vò, chum mai táng hình
cầu, hình trứng, hình trụ có kích thước lớn, nắp đậy hình nón cụt hay lồng bàn
phân bố lẻ tẻ hay thành cụm. Trong và ngoài chum có chứa nhiều đồ tùy táng
với các chất liệu đá, đá quý,thủy tinh, đồng, sắt và gốm.
- Ở giai đoạn sớm và giữa, người Sa Huỳnh đã biết dùng đồng thau để
chế tác công cụ và vũ khí. Sang tới giai đoạn cuối, đồ sắt chiếm lĩnh cả số lượng
và chất lượng. Đồ sắt được chế tạo với kỹ thuật chủ yếu là rèn. Họ cũng phát
triển các nghề se sợi, dệt vải, chế tạo gốm, làm đồ trang sức. Ngoài các chất liệu
đá, đồng, họ còn biết nấu cát làm thủy tinh và dùng thủy tinh để chế tạo đồ trang
sức (hạt cườm, hạt chuỗi vòng tay, khuyên tai ba mấu, hai đầu thú...). Từ đây đồ
trang sức lan tỏa ra cả phía Bắc và vào phương Nam.
- Ngoài kinh tế nông nghiệp (trồng lúa ở những đồng bằng ven biển cồn
bàu), người Sa Huỳnh cũng đã biết khai thác những nguồn lợi của biển, của
rừng, biết phát triển các nghề thủ công, từng bước đã mở rộng quan hệ trao đổi
với các cư dân trong khu vực Đông Nam Á lục địa, hải đảo và rộng hơn với Ấn
Độ, Trung Hoa. Đặc biệt ở giai đoạn cuối, nghề buôn bán bằng đường biển rất
phát triển.
- Nhà nước Chămpa được hình thành trên cơ sở cốt lõi của văn hóa Sa
Huỳnh, dưới ảnh hưởng của văn hóa ngoại sinh Trung Hoa và Ấn Độ.
2.2.2. 3. Văn hóa Đồng Nai

50
Khoảng hơn 4000 năm cách ngày nay, trên đất Đông Nam Bộ xuất hiện
một lớp cư dân mới, chủ nhân của nền văn hóa Đồng Nai thuộc thời đại kim khí
(đồng thau và sắt sớm) sinh sống ở các tiểu vùng sinh thái khác nhau. Qua các
di chỉ khảo cổ cho thấy văn hóa Đồng Nai đã có những thành tựu đặc trưng:
- Công nghệ chế tác đồ đá phát triển. Những công cụ bằng đá mang tính
chuyên môn hóa cao. Ngoài dụng cụ lao động, con người thời kỳ này còn làm ra
được đồ trang sức bằng đá, đàn đá. Cùng với đồ đá, đồ gốm đã xuất hiện và
nghề dệt đã hình thành.
- Nghề trồng lúa ra đời với đặc trưng là trồng lúa cạn không dùng sức
kéo; trồng các loại rau đậu, cây có quả, củ cho bột bằng phương pháp đốt đặc
thù của nông nghiệp nương rẫy, chăn nuôi, săn bắt.
- Cư dân văn hóa Đồng Nai có đời sống văn hóa tinh tín ngưỡng, tinh
thần phong phú. Tại các di chỉ khảo cổ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được
bộ sưu tập thẻ đeo bằng đá cuội mài dẹt hình gần ovan hoặc chữ nhật và bán cầu
có lỗ thủng tròn hay tạo núm ở đầu, tượng lợn, rùa bằng sa thạch, tượng chó săn
mồi bằng đồng. Về âm nhạc có thể kể đến bộ sưu tập đàn đá hơn 60 thanh.
Ngoài ra còn có sự hội nhập của không ít yếu tố văn hóa Đông Sơn và văn hóa
Sa Huỳnh (trống đồng Đông Sơn, khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu của
văn hóa Sa Huỳnh).
- Cuối giai đoạn văn hóa này đã xuất hiện nhà nước khởi thủy, nhà nước
Phù Nam, một nhà nước tồn tại từ thế kỷ II đến thế kỷ VII ở châu thổ sông Cửu
Long.
Theo nhiều thư tịch cổ Trung Quốc, thì trong thời kỳ hưng thịnh, vương
quốc này về phía Đông, đã kiểm soát cả vùng đất phía Nam Trung Bộ (Việt
Nam), về phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam (Thái Lan), về phía Nam đến
phần phía Bắc bán đảo Mã Lai. Quốc gia này tồn tại cho đến khoảng nửa thế kỷ
7 (sau năm 627) thì bị sáp nhập vào lãnh thổ của Chân Lạp. Mãi đến thế kỷ 17-
thế kỷ 18, phần lãnh thổ xưa kia được coi là trung tâm của Phù Nam, tách khỏi

51
Chân Lạp để trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam, tức Nam Bộ ngày
nay.
Yếu tố sắc tộc - ngôn ngữ của cư dân Phù Nam vẫn còn đang được tranh
luận, chưa thể đưa ra được kết luận cụ thể từ các bằng chứng hiện có. Một số
giả thuyết cho rằng đa phần dân cư Phù Nam nói các tiếng thuộc nhóm ngôn
ngữ Môn-Khmer, một số khác cho là ngữ hệ Nam Đảo, giả thuyết khác cho rằng
Phù Nam là một xã hội đa sắc tộc.
KẾT LUẬN
Thời sơ sử, trên dải đất Việt Nam ngày nay có ba nền văn hóa, hoặc ba
phức hệ văn hóa: Phức hệ văn hóa Bàu Trám - Sa Huỳnh, phức hệ văn hoá
Phùng Nguyên - Đông Sơn, phức hệ văn hóa Đồng Nai là ba đỉnh cao của văn
hóa Đông Nam Á, miền Đông bán đảo Đông Dương. Ba phức hệ văn hóa đó đã
phát sinh từ những nền tảng chung của các văn hóa thời đại đá mới ở miền này,
với những tộc người Nam Á, Nam Đảo luôn có tiếp xúc ngôn ngữ và giao lưu
văn hóa với nhau. Ba phức hệ văn hóa đó phát triển độc lập theo thế chân vạc ở
miền Đông bán đảo Đông Dương, nhưng luôn có mối quan hệ qua lại nhiều
chiều với nhau, bồi bổ cho nhau, làm phong phú cho nhau, đồng thời phát triển,
giao lưu với nhiều văn hóa khác ở khu vực. Ba phức hệ văn hóa ấy đều sẽ phát
triển thành ba nền văn minh lớn, ứng với ba quốc gia cổ: Văn Lang - Âu Lạc, Sa
Huỳnh - Chăm pa, Phù Nam. Ba phức hệ văn hóa ấy đều thu nhận nhiều yếu tố
ngoại sinh và bản địa hóa các yếu tố ấy để phát triển. Do vậy, ba nền văn minh
ấy đều phát sáng rực rỡ, lan tỏa ảnh hưởng ra toàn vùng Đông Nam Á.
CÂU HỎI

52
Chương 3
VĂN HÓA VIỆT NAM THIÊN NIÊN KỶ ĐẦU CÔNG NGUYÊN
(Tổng số giờ 04; lý thuyết:04 , bài tập/thảo luận: 0, thực hành: 0)
YÊU CẦU
- Người học nhớ và hiểu được phân kỳ, bối cảnh lịch sử văn hóa, đặc
trưng văn hóa Việt Nam thiên niên kỷ đầu công nguyên.
- Người học đánh giá được vai trò của văn hóa thiên niên kỷ đầu công
nguyên trong lịch sử văn hóa dân tộc.
3.1. Văn hóa Việt ở châu thổ Bắc Bộ
3.1.1. Bối cảnh lịch sử văn hóa
Vào những thế kỉ cuối của thiên niên kỉ trước công nguyên, nền văn hóa
Việt cổ bắt đầu chịu những thử thách ghê gớm. Quốc gia Văn Lang, sau đó là
Âu Lạc và dân tộc hầu như vừa mới được xác lập và tồn tại chưa bao lâu đã rơi
vào tình trạng bị đô hộ. Năm 179 trước công nguyên, Triệu Đà vua nước Nam
Việt đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) xâm chiếm
nước Âu Lạc, chia Âu Lạc ra thành hai quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 111
TCN, nhà Hán chiếm được nước Nam Việt, đổi vùng đất của Âu Lạc, thành
châu Giao Chỉ, dưới đó là bảy quận, với chức quan đầu châu là thứ sử, đầu quận
là thái thú. Thời kì này kéo dài từ năm 179 trước công nguyên (tuy vậy nó được
bắt đầu thực sự sau thất bại của khởi nghĩa Hai Bà Trưng, năm 43 sau công
nguyên) tới năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyên mở đầu cho kỉ nguyên độc
lập thời tự chủ của quốc gia Đại Việt. Thời kì này thường được gọi là thời nghìn
năm Bắc thuộc, song có lẽ đúng hơn là thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, vì
người Việt chưa bao giờ chịu khuất phục. Tổ tiên ta đã “mất nước”. Bấy giờ
không còn một nước Việt cổ đại, và nếu nói theo F.Ăngghen thì bấy giờ dân
Việt cổ “không còn có một hành động độc lập trong lịch sử.” Trong diễn trình
lịch sử văn hóa bên cạnh xu hướng Hán hóa là xu hướng chống Hán hóa mạnh
mẽ, giữ gìn bản sắc của dân tộc Việt, văn hóa Việt. Cùng với việc xâm lược
lãnh thổ, nhà Hán và sau này là các triều đại tiếp theo của phong kiến phương

53
Bắc, đã tiến hành đồng hóa về mặt dân tộc và văn hóa. Nếu như quốc gia, dân
tộc và văn hóa Âu Lạc trước đó chưa hình thành hoặc chưa đạt tới trình độ phát
triển cao, chưa định vị được những bản sắc vững chắc của riêng mình thì chắc
chắn với những chính sách cưỡng chế đồng hóa trong suốt hơn 10 thế kỉ, nhà
nước Việt, dân tộc Việt, văn hóa Việt đã trở thành một phần lãnh thổ, một bộ
phận cư dân, một tiểu khu văn hóa của Trung Hoa đại lục. Song điều đó đã
không thể xẩy ra, trong thời kì này, đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt là đấu
tranh để bảo vệ bản sắc văn hóa của mình, bảo vệ dân tộc mình, chống lại chính
sách đồng hóa, đồng thời vẫn tiếp tục cố gắng phát triển, cố gắng duy trì và
nung nấu quyết tâm giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc.
Như vậy có ba đặc trưng cơ bản trong bối cảnh văn hóa – lịch sử giai
đoạn này:
1. Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt - Hán.
2. Giao lưu văn hóa tự nhiên Việt - Ấn.
3. Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa bằng
cách bảo tồn những giá trị truyền thống đã được định hình và phát triển trong
giai đoạn văn hóa Đồng Sơn và bằng cách thâu hóa yếu tố văn hóa mới, để
chống lại xu hướng đồng hóa văn hóa của vương triều Hán.
3.1.2. Đặc trưng văn hóa
3.1.2.1.Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt - Hán
Có rất nhiều nguyên nhân để văn hoá Trung Quốc có ảnh hưởng sâu sắc
đến văn hoá nước ta nhưng ta cần nhấn mạnh một số lý do chính như sau:
- Thứ nhất: Xét từ quy luật lan tỏa văn hóa từ trung tâm tới ngoại vi:
Trung Quốc là một nền văn hoá lớn trên thế giới. Đây là nền văn hoá của một
quốc gia đa dân tộc, rất rộng lớn và đông dân có nền móng là nền văn minh lúa
nước trên hai con đường lớn là Hoàng Hà và Trường Giang của nhân loại. Đây
là một nền văn hoá lớn lại mang nhiều nét đặc sắc, độc đáo nên có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến các nước khác trên thế giới. Sự ảnh hưởng văn hoá đó là một tất
yếu của lịch sử, một sự lan toả văn hoá từ trung tâm ra ngoại biên

54
- Thứ hai: Trung Quốc và Việt Nam là hai quốc gia láng giềng “núi liền
núi, sông liền sông” nên điều kiện giao lưu văn hoá rất thuận lợi. Sự giao lưu tự
nhiên đó thông qua việc đi lại, di cư - chuyển cư hay mối quan hệ trao đổi, buôn
bán hàng hoá giữa cư dân của hai quốc gia. Đặc biệt là ở vùng núi phía Bắc và
Đông Bắc - nơi giáp ranh trực tiếp với Trung Quốc thì sự ảnh hưởng đó càng
lớn.
Về mặt tiến trình văn hóa, lúc đầu, người Hán một dân tộc du mục, sống
ở thượng nguồn sông Hoàng Hà. Về sau, họ làm thêm nghề nông nghiệp lúa
khô. Dần dần, họ di chuyển từ Tây sang Đông, dọc theo sông Hoàng Hà xuống
hạ lưu, định cư và hình thành nền văn hóa sông Hoàng Hà. Thời kỳ này để lại
từ “đông tiến” như một phương hướng sinh tồn quan trọng nhất trong đời sống.
Kế tiếp, người Hán tiếp tục qua sông Hoàng, qua Trung nguyên, vượt
sông Dương Tử đi xuống phương Nam nơi có khí hậu dễ chịu với đất đai màu
mỡ hơn. Đó là cuộc Nam tiến với khái niệm “kim chỉ nam“ (nhiều dòng người
đã hợp chủng với các dân tộc Bách Việt ở phương Nam. Trong giai đoạn này,
chắc chắn người Hán đã thu nhận không ít thành tựu văn hóa phương Nam để
góp vào nền văn hóa Hán - sông Hoàng Hà.
Như vậy, ngay từ những buổi đầu hình thành văn hóa, dân tộc Việt và
Hán đã có ảnh hưởng lẫn nhau, qua lại một cách tự nhiên trong thời kì sống
chung ở phía Nam sông Dương Tử.
Văn hóa Trung Hoa là tổng hợp của văn hóa du mục Tây Bắc, văn hoá
nông nghiệp khô Trung nguyên và văn hóa lúa nước phương Nam. Văn hóa
Việt Nam = Văn hóa nam sông Dương tử + Văn hóa sông Hồng, sông Mã Văn
hóa miền Trung và văn hóa sông Mekong.
Dân cư Việt Nam có một nền văn hoá bản địa riêng và mang nhiều giá trị
truyền thống từ khi lập ra nền văn minh nguyên thuỷ đến văn minh lúa nước -
văn minh sông Hồng. Ở Trung Quốc cũng là một nền văn minh cổ đại, có từ lâu
đời - văn minh lúa nước - văn minh sông Hoàng Hà - Trường Giang. Hai nền
văn minh, văn hoá này tuy ở hai nước khác nhau nhưng chúng có nhiều nét

55
tương đồng mang đậm màu sắc phương Đông nên sự giao lưu tiếp diễn và
chuyển hoá lẫn nhau là một điều hết sức tự nhiên. Văn hoá Trung Quốc thâm
nhập vào Việt Nam qua nhiều con đường tự nhiên như:
Sự chuyển cư, di dân của các tộc người: Với nhiều lí do như chiến tranh,
thiên tai: hạn hán lũ lụt, mất mùa, thiếu đất canh tác, sự nghèo nàn về tài
nguyên…mà từ xa xưa đã có nhiều tộc người di cư từ vùng Trung Quốc xuống
phía Nam đó là Việt Nam để tìm một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Họ mang theo
cả phong tục tập quán, ngôn ngữ văn hoá của dân tộc mình xuống định cư cùng
người Việt Nam. Từ đó diễn ra sự giao thoa văn hoá giữa nền văn hoá bản địa
của người Việt và nền văn hoá của người Trung Quốc. Đây không phải là sự
tiếp nhận văn hoá một cách tức thời mà là cả một quá trình lâu dài, người Việt
tiếp nhận văn hoá Trung Quốc và dần dần biến đổi nó cho phù hợp với nền văn
hoá bản địa.
Quá trình giao lưu kinh tế, buôn bán cũng là một con đường để văn hoá
Trung Quốc thâm nhập vào Việt Nam. Việc buôn bán, thương mại càng phát
triển thì những giá trị văn hoá có ảnh hưởng ngày càng sâu rộng. Nước ta buôn
bán, trao đổi hàng hoá với Trung Quốc từ rất sớm, ban đầu là trao đổi mang tính
chất nhỏ, lẻ của các nhóm người sau là hoạt động buôn bán với quy mô lớn,
rộng và xa hơn. Có những nơi trên nước ta người Hoa đã thành lập những con
phố riêng của mình (như ở Hà Nội, Quảng Nam, Thành phố Hồ Chí Minh) ở
đây người dân Trung Hoa sinh sống cùng người Việt và trải qua một thời gian
dài, những giá trị văn hoá truyền thống của họ đã nhập vào nền văn hoá Việt
Nam, để tạo nên những giá trị mới phù hợp hơn.
Nhìn chung, thành phần cư dân người Hán có địa bàn cư trú chủ yếu ở
vùng Đông Bắc Đồng bằng Bắc Bộ. Đây là vùng đất xâm nhập của người Hán
từ thời Triệu Đà. Ngoài ra, trên châu thổ thấp ở những vùng quanh cửa sông
lớn, những bến cảng giao thương quốc tế cũng là nơi sinh sống tập trung của
người Hán nhập cư. Có thể nói vào thế kỷ II - IV sau Công Nguyên, trên lãnh
thổ Âu lạc đã hình thành nên một không gian xã hội mới ở những vùng châu thổ

56
ven sông gần biển, mà thành phần cư dân và lối sống phổ biến là người Hán và
văn hoá Hoa Hạ. Ở quanh quận, tri, huyện người Hán, người Việt cùng chung
sống. Cuộc sống chung giữa hai cộng đồng có thuận hoà, có đối địch và có sự
giao lưu, tiếp biến cũng có ảnh hưởng lẫn nhau.
+ Thứ ba: Những cuộc chiến tranh xâm lược của phong kiến Trung Quốc
và hàng ngàn năm Bắc thuộc là nguyên nhân quan trọng để văn hoá Trung Quốc
thâm nhập vào văn hoá Việt Nam.
Hàng ngàn năm trước Công Nguyên, trước sự xâm nhập của Trung Quốc
người Việt có một lối sống riêng với một nền văn minh độc đáo (văn minh
Đông Sơn) gắn bó với gia đình các dân tộc và văn hoá Đông Nam Á.
Bành trướng Trung Quốc, từ một vài thế kỷ TCN, đã từ lưu vực sông
Trường Giang tràn đến lưu vực sông Hồng Việt Nam rơi vào ách đô hộ ngàn
năm Bắc thuộc: thời kỳ này bắt đầu từ sau khi Âu Lạc bị Triệu Đà thôn tính
(179 TCN) và kết thúc vào lúc họ Khúc xây dựng nền tự chủ (906 SCN), với ba
thời đoạn lớn: thuộc Hán, thuộc Lục Triều, thuộc tuỳ Đường và cùng với ba lần
Bắc thuộc: lần thứ nhất từ năm 179 TCN kết thúc bằng cuộc khởi nghĩa của Hai
Bà Trưng. Lần thứ hai từ năm 43 kết thúc bằng cuộc khởi nghĩa của Lý Bí (Lý
Bôn) và nước Vạn Xuân ra đời (542), lần thứ ba từ năm 602 cho đến khi họ
Khúc đẩy nghiệp (906)
Ở thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất, phong kiến phương Bắc đã tích cực thi
hành Hán hoá đối với người Việt, về mặt văn hoá, lễ nghĩa giáo dục. Đặc biệt là
những biện pháp của tên thái thú Giao chỉ là Tích Quang. Phong tục Hoa Hạ
nhập vào đất Giao Chỉ từ viên thái thú này. Chữ Hán cũng bắt đầu được sử dụng
như văn tự chính thức.
Ở thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai, phong kiến Trung Quốc tăng cường đẩy
mạnh quá trình Hán hoá về mọi mặt, làm đổi thay toàn bộ nền kinh tế - xã hội
văn hoá đất nước. Sau khi dẹp được cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Mã
Viện còn lưu lại hơn 6 tháng để thi hành những chính sách Hán hoá cương
quyết, tàn bạo đập tan nhằm tiến tới xoá bỏ nền văn hoá bản địa của người Việt

57
bắt nam để tóc dài, giết đàn ông người Việt đưa đàn ông Trung Quốc xuống
sống cùng phụ nữ Việt Nam bắt ăn mặc theo kiểu Trung Quốc, các phong tục lễ
nghi đều theo người Trung Quốc… Từ đó làm cho bộ mặt văn hoá ở Giao Chỉ
phát triển khá đa dạng. Tích Quang, Nhâm Diên là những thái thú đề xướng
thực hiện việc “dựng học hiệu, dạy lễ nghĩa truyền bá tư tưởng đạo đức Hán
Nho vào xã hội Âu Lạc. Đạo giáo cũng được truyền đổi vào đất Giao Chỉ và đã
trở thành một thứ đạo thần tiên.
Ở thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba, Phật giáo ở Trung Quốc ngày càng phát
triển và ảnh hưởng mạnh đến Việt Nam. Phong kiến phía Bắc ngoài những thủ
đoạn đàn áp về chính trị, bóc lột về kinh tế, văn hoá tài nguyên. Chúng còn thi
hành nhiều chính sách man rợ về văn hoá và tìm mọi cách về văn hoá Trung
Hoa ảnh hưởng đến văn hoá Việt, trong đó có con đường tôn giáo: Phật giáo giữ
vị trí đựơc tôn trọng hình thành chính quyền, Đạo giáo cũng đã phát triển.
Do vậy, văn hoá dân gian Việt Nam và văn hoá Trung Quốc hoà nhập tạo
nên bộ mặt mới.
Có thể nói biện pháp cưỡng chế, áp đặt nền văn hoá Hán của phong kiến
Trung Quốc khi đô hộ Việt Nam đã làm biến đổi phần nhiều đời sống kinh tế
xã hội của người Việt, song chúng không thể thực hiện dã tâm đồng hoá đó.
Tóm lại: Những người dân Trung Quốc được đưa đến và sinh sống cùng
người Việt dần dần đã bị đồng hoá thành người Việt, mang bản sắc Việt. Những
giá trị văn hoá của Trung Quốc đưa vào nền văn hoá bản địa của người Việt đã
bị biến hoá và dần trở thành nền văn hoá đặc sắc, khác biệt của người Việt, làm
giàu nền văn hoá dân tộc.
Trải qua hàng nghìn năm bắc thuộc, văn hoá Trung Quốc đã có ảnh
hưởng rất lớn đến nền văn hóa Việt Nam, song nó không bao giờ có thể thay thế
cho nền văn hoá Việt Nam
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản đưa đến sự giao thoa văn hoá giữa
Trung Hoa với nước ta. Văn hóa Trung Hoa ảnh hưởng lớn đến nền văn hoá

58
nước ta song chúng không thể đồng hoá, “Hán hoá” ta mà chỉ làm cho nến văn
hoá của ta thêm phong phú.
Kết quả giao lưu với văn hóa Trung Quốc
* Văn hoá vật chất
Nói chính xác là tiếp thu các sản phẩm vật chất, các sáng tạo, sản xuất và
tiêu dùng các sản phẩm vật chất. Thời kỳ này người Việt chủ yếu tiếp thu các
sản phẩm và cách thức sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp của người
Trung Hoa. Người Hán tiến xuống phương Nam đã tiếp thu các công cụ, cách
thức sản xuất của người Bách Việt (phương thức canh tác lúa nước) và nâng cao
lên, rồi họ truyền sang nước ta.
- Người Việt đã tiếp thu được phương thức canh tác dùng sức trâu bò và
công cụ đồ sắt:
+ Các loại công cụ: cày, bừa, cuốc, thuổng bằng sắt được đưa từ phương
Bắc xuống (theo con đường di dân), buôn bán. Kỹ thuật luyện sắt (thép) được
người Trung Hoa dạy cho người Việt (Thái thú Cửu Chân là Nhâm Diên dạy
dân đúc cày bừa và chống lụt). Người Việt cũng tiếp thu các công cụ phục vụ
sản xuất của người Trung Hoa như: guồng nước đạp chân để đưa nước vào
ruộng cao, dùng quạt hòm để quạt sạch lúa.
+ Tiếp thu kỹ thuật bón phân Bắc có độ hữu cơ cao làm cho mùa màng
tốt tươi.
- Tiếp thu một số giống cây trồng phục vụ cho sản xuất lương thực và
chữa bệnh: kê, lúa mạch, đậu tương, cao lương, chuối...các loại cây thuốc như
quế, xương bồ, ý dĩ, đậu khẩu...cách trồng, chăm bón, thu hoạch và sử dụng.
- Kỹ thuật chế biến nông sản và lương thực, thực phẩm: làm đậu phụ, làm
tương từ hạt đậu tương, nấu rượu gạo (chưng cất), chế biến chè, cách uống trà
(trà Tàu) và làm các loại bánh trái, kho tàu; kỹ thuật đào giếng lấy nước sinh
hoạt và tưới vườn, ruộng.
- Kỹ thuật chế tác đồ thủ công: làm đồ gốm, sứ tráng men, dệt vải, chạm
khắc, khảm trai, khảm xà cừ, sản xuất vật liệu xây dựng như gạch, ngói. Đặc

59
biệt là kỹ thuật làm giấy được người Việt tiếp biến, dùng các nguyên liệu của
mình: rong biển, vỏ vây dó, vỏ điệp, trầm hương...làm ra các loại giấy tốt (như
giấy Bạch Điệp) xuất sang Trung Hoa.
Việc tiếp thu, tiếp biến kỹ thuật của người Trung Hoa đã làm cho nền sản
xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp của người Việt phát triển cao hơn, tăng thêm
năng suất, phong phú thêm các sản phẩm tiêu dùng.
* Văn hóa xã hội
- Việc các đế chế Trung Hoa sáp nhập nước Âu Lạc vào Trung Quốc và
chia nước ta thành quận, huyện, hương, giáp; thi hành các luật lệ, hành chính
Trung Hoa là yếu tố khách quan để người Việt tiếp thu văn hóa tổ chức xã hội
của họ. Yếu tố chủ quan là một bộ phận người Việt tham gia bộ máy thống trị
của người Hán đã học tập cách tổ chức quản lý xã hội của Trung Hoa. Mỗi khi
người Việt giành lại nền độc lập dân tộc (thời Hai Bà Trưng, Lý Bôn, Phùng
Hưng, Khúc Hạo, Ngô Quyền) đã áp dụng vào tổ chức, quản lý xã hội của mình.
- Tiếp thu cách tổ chức bộ máy nhà nước của người Trung Hoa: sau hơn
năm trăm năm bị nô dịch, năm 540 khởi nghĩa Lý Bôn thắng lợi, người Việt bắt
đầu tổ chức nhà nước theo mô hình Trung Hoa. Lý Bôn lập nhà nước có Quốc
hiệu là Vạn Xuân, xưng đế hiệu (sau Triệu Đà) Lý Nam Đế, đặt niên hiệu Đại
Đức, dựng quốc đô phường Giáp Khẩu, xây điện Vạn Thọ, xây chùa Khai
Quốc; lập triều đình có hai ban văn võ do Tinh Thiều đứng đầu ban văn và
Phạm Tu đứng đầu ban võ.
- Tiếp thu cách tổ chức đất nước theo đơn vị hành chính của người Trung
Hoa. Sau khi nắm quyền tự chủ, Khúc Hạo đã chia đất nước thành 5 đơn vị
hành chính: Lộ, Phủ, Châu, Quận, Giáp. Ông cũng lập sổ hộ khẩu, sổ thuế để
quản lý đất nước, quản lý tài chính phục vụ cho bộ máy của mình. Tuy ông vẫn
xưng danh là Tiết độ sứ (chức quân đứng đầu phủ của nhà Đường) nhưng bên
trong chính quyền của ông hoạt động như một nhà nước tự chủ.
- Tiếp nhận cách tổ chức đơn vị xã hội cơ sở của người Trung Hoa,
chuyển các chiềng, chạ thành các hương, giáp theo cách gọi của phương Bắc.

60
Các gia tộc cũng có những chuyển biến: xuất hiện các tộc danh (tên họ) ý thức
về gia tộc hình thành (chị em Hai Bà Trưng, anh em Bà Triệu, anh em Phùng
Hưng, gia đình Tô Lịch).
Trong ngàn năm Bắc thuộc, chống Bắc thuộc, văn hóa xã hội của người
Việt đã có sự biến đổi căn bản. Phương diện nhà nước được tổ chức nền nếp
hơn, quy củ hơn, tổ chức xã hội ở cơ sở cũng chặt chẽ hơn.
* Văn hóa tinh thần
- Về tri thức giáo dục: Các quan lại Trung Hoa mở trường dạy học chữ,
học vấn, tri thức phục vụ cho bộ máy cai trị tạo cho người Việt mở mang tri
thức, tiếp thu công nghệ giáo dục. Trên đất nước ta đã hình thành những trung
tâm giáo dục như Luy Lâu (Thuận Thành), Long Biên (Bắc Ninh), Đại La, Tống
Bình (Hà Nội), Nhật Nam (Thanh Nghệ). Số người theo học khá đông, chủ yếu
là con em người Việt tầng lớp trên dẫn đến sự ra đời nền giáo dục mang tính bác
học. Người Việt tôn Sĩ Nhiếp là Sĩ Vương, lập đền thờ ông, coi ông là “Nam
bang học tổ” (Thờ ông ở Luy Lâu - Thuận Thành, Bắc Ninh). Nhiều người Việt
đã đỗ đạt cao như Trương Trọng (TK I), Lý Tiến, Lý Cầm (TK II), Khương
Công Phụ, Khương Công Phục (TK III) đỗ Mậu tài, Hiếu liêm, Tiến sĩ, sang
Trung Quốc làm quan.
- Về ngôn ngữ, chữ viết: cùng với việc tiếp thu nền giáo dục là việc tiếp
thu tiếng Hán và chữ Hán. Người Việt tiếp thu tiếng Hán đọc theo âm điệu Việt,
tạo nên lớp từ Hán - Việt, nâng cao trình độ tiếng Việt, trình độ tư duy. Tiếp
nhận chữ Hán làm công cụ học tập, nâng cao tri thức, ghi chép tư tưởng, lịch sử,
chính trị, xã hội...cố định tiếng Việt. Đặc biệt là bước đầu dùng chữ Hán để
sáng tạo chữ Nôm. (Ví dụ Bố Cái đại vương)
- Về tri thức học thuật: tiếp thu lịch sử, văn chương, y học, kỹ thuật,
phương thuật, lịch pháp (nông lịch)...của Trung Hoa. Về văn chương nghệ
thuật, do tiếp xúc với nền văn chương thời Tùy, Đường và do yêu cầu của thi
cử, một số người Việt học chữ Hán đã sáng tác được 40 tác phẩm văn chương
bác học (Khương Công Phụ, Khương Công Phục). Tiếp thu âm nhạc của Trung

61
Hoa với các nhạc cụ như kèn, sáo, nhị, chuông, khánh...tiếp thu các ngày lễ, tết
của Trung Hoa (tết Nguyên đán, tết Thượng Nguyên, tết Hàn Thực, tết Đoan
Ngọ...), các phong tục tập quán, trang phục của Trung Hoa.
- Về tư tưởng tôn giáo: tiếp nhận Nho giáo, Đạo giáo. Nho giáo được
người Việt tầng lớp trên tiếp thu, phục vụ cho việc giành độc lập dân tộc, xây
dựng chế độ, mở mang giáo dục. Đạo giáo (phù thủy) được kết hợp với tín
ngưỡng bản địa để sáng tạo ra các huyền thoại, huyền tích về các anh hùng của
người Việt (Lạc Long Quân - Âu Cơ, Sơn Tinh - Thủy Tinh, Thánh Gióng, Chử
Đồng Tử).
3.1.2.2. Giao lưu văn hóa tự nguyện với Ấn Độ
Ngay từ thời Đông Sơn, người Việt cổ đã tiến hành giao lưu rộng rãi với
nhiều vùng trong khu vực trong đó có các quốc gia ở Đông Nam Á (ngày nay)
và Ấn Độ. Đến một vài thế kỷ trước công nguyên, sự giao lưu này trở nên mạnh
mẽ bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân kinh tế. Vài thế kỷ TCN,
Đại đế Alexander (Hi Lạp) tiến hành trường chinh qua vùng tiểu Á, Ba Tư sang
đến tận vùng song Hằng của Ấn Độ. Điều này đã có tác dụng đẩy mạnh quan hệ
giữa Ấn Độ với thế giới Đại Trung Hải. Sau đó, ở trên đất Ấn Độ, hình thành đế
quốc Mauria, tiếp theo là đế quốc Kanishka, ở phương Tây ra đời đế quốc
SSesleucide và đế quốc La Mã. Để đáp ứng nhu cầu của các hoàng đế đông tây,
của các tầng lớp quý tộc giàu có, việc buôn bán châu ngọc, hương liệu, đồ tơ lụa
và các hàng cao cấp khác giữa Nam Á và châu Âu ngày càng tất bật hơn. Các
lái buôn Ấn Độ đã sang tận Đông Nam Á mua gia vị, hương liệu, gỗ bạch đàn,
gỗ mun, long não,…để mang đến bán ở các vùng Tiểu á, Ba Tư và đế quốc La
Mã. Đặc biệt người Ấn Độ rất chú trọng đến việc tìm vàng, mua vàng. Trước
kia họ mua vàng ở vùng Nam Siberi (Trung Á). Sau, do chiến tranh, họ không
thể mua vàng ở đó được nữa. Vì vậy đến đầu công nguyên, người Ấn Độ phải
tìm cách mua vàng ở đế quốc La Mã. Sau một thời gian, hoàng đế La Mã
Vespasien (69 - 79) cấm bán vàng cho phương Đông. Thế là người Ấn Độ đành
chuyển sang đi tìm vàng ở Đông Nam Á, nơi mà họ gọi là bán đảo vàng. Thực

62
tế, ở Đông Nam Á không có nhiều vàng như các nơi khác, nhưng việc lái buôn
Ấn Độ đua nhau đi tìm vàng ở đây là một trong những nguyên nhân quan trọng
của sự bùng phát quan hệ giao lưu giữa Ấn Độ và Đông Nam Á, trong đó có
Giao Châu (Việt Nam ngày nay). Việc phát triển giao lưu ấy lại gặp hai điều
kiện thuận lợi mà trước đó chưa có. Điều kiện thứ nhất là người Ấn Độ đã tiếp
thu được kỹ thuật đóng tàu biển ớn của người Ba Tư, tiếp thu được việc lợi
dụng gió mùa trong việc đi biển của người Ả Rập. Điều kiện thứ hai là tinh thần
bình đẳng của Phật giáo đã giúp họ xuất dương thoải mái hơn.
Như vậy, trong giai đoạn thiên niên kỉ I sau công nguyên, bên cạnh giao
lưu với văn hóa Hán, luồng ảnh hưởng của văn hóa phương Nam mà tiêu biểu là
văn hóa Ấn Độ đã theo Phật giáo du nhập vào nước ta. Phật giáo từ Ấn Độ
truyền bá vào đất Việt và Trung Quốc - rồi lại từ Trung Quốc truyền dội sang
đất nước ta – từ rất sớm, đại để vào một hai thế kỉ đầu công nguyên.
Ở đời Hán, có ba trung tâm Phật giáo là trung tâm Lạc Dương ở Hà Nam
(kinh đô nhà Hậu Hán), trung tâm Bành Thành ở Giang Tô, thuộc hạ lưu
Trường Giang và trung tâm Luy Lâu ở đất nước ta.
Phật giáo được truyền vào Bành Thành bằng đường biển. Nếu đã do
đường biển thì đạo Phật chắc chắn đã đi qua Giao Châu trước bởi vì Giao Châu
là điểm giao tiếp quan trọng và chủ chốt giữa Trung Quốc và thế giới bên ngoài.
Trung tâm Phật giáo Luy Lâu có thể thành lập sớm hơn các trung tâm
Bành Thành và Lạc Dương.
Trung tâm Luy Lâu có thể là một căn cứ và bàn đạp cho Phật giáo đi sâu
vào miền nội địa Trung Quốc. Sư Đàm Thiên có lí khi cho rằng Giao Châu theo
đạo Phật trước miền Giang Đông của Trung Quốc.
Giao Châu ở sát ngay các nước chịu ảnh hưởng văn minh Ấn Độ và sử
dụng Phạn ngữ, lại gần gũi với văn minh Trung Hoa và ở đây đã dùng chữ Hán.
Giao Châu thuận lợi cả về mặt địa lí và ngôn ngữ văn tự cho sự truyền bá Phật
giáo từ Ấn Độ vào Trung Hoa. Như phần trên đã nói, hàng năm đều có thuyền
chở cống phẩm từ Giao Châu lên miền hạ lưu Trường Giang rồi từ đó cống

63
phẩm mới được vận chuyển tiếp về Lạc Dương. Chắc rằng các tăng sĩ Ấn Độ đã
dừng nghỉ một thời gian ở Luy Lâu, học tiếng và chữ Hán, tìm hiểu tình hình
chính trị, văn hóa Trung Hoa rồi mới theo thuyền buôn và thuyền chở cống
phẩm đi tiếp lên miền Bắc.
Vậy trung tâm Luy Lâu có thể được hình thành do sự viếng thăm của
những thương nhân và tăng sĩ Ấn Độ theo thuyền mà tới bằng đường biển và
đường sông.
Đạo Phật tại Giao Châu chắc chắn do từ Ấn Độ truyền sang trực tiếp, mãi
về sau mới lại do từ Trung Hoa tiếp tục truyền xuống.
Thương gia Ấn Độ đến Giao Châu phải ở lại đây cho đến năm tới, chờ
gió mùa đông bắc để trở về Ấn Độ. Một số tăng sĩ có thể ở lại hẳn Luỹ Lâu. Họ
sống với người Việt và Hoa kiều, và đã ảnh hưởng tới những người này bằng
tiếng nói, lối sống và đạo Phật. Người Việt đã tiếp thu nhiều thành tựu văn hóa
vật chất, ngôn ngữ và tinh thần Ấn Độ trong đó có đạo Phật.
Theo sử sách Trung Quốc, bấy giờ Giao Châu, ngoài các chùa thờ Phật,
còn nhiều đền thờ khác của tín ngưỡng dân gian Việt Nam bị gán chung là “dâm
từ”. Điều đó chứng tỏ tín ngưỡng cổ truyền của người Việt vẫn đậm đà trên đất
Giao Châu.
Các nhà sư Ấn Độ, Trung Quốc, Trung Á đến Giao Châu tu hành và
truyền bá đạo Phật như:
+ Mâu Bác (Mâu Tử - sinh khoảng năm 165 - 170, người Hán sang Giao
Châu tu hành và khai truyền đạo Phật, viết sách Phật “Lý hoặc luận” vào cuối
thế kỷ thứ II, đầu thế kỷ III.
+ Khương Tăng Hội (gốc Khang Cư, Trung Á) đến nước ta vào thế kỷ
thứ III, ông giỏi Phạn ngữ, Hán ngữ, đã viết, dịch, chú giải kinh Phật. Ông từ
Luy Lâu sang kinh đô Kiến Nghiệp (Nam Kinh) của Ngô Quyền truyền đạo
trước cả Bồ - đề - đạt - ma đến Trung Quốc, ông theo phái Đại thừa.
+ Chí - cương - lương - tiếp (Chính - vô - úy, người Nhục Chi, Trung Á)
đến Giao Châu thế kỷ thứ III, dịch kinh Pháp hoa tam muội, theo phái Đại thừa.

64
+ Ma - ha - kỳ - vực (Ma - ra - va - ha) người Ấn Độ sang Giao Châu sau
đó sang Trung Quốc, sau trở lại Giao Châu (thế kỷ thứ III)
+ Đạt - ma - đề - bà (Dha - rma - de - va) người Ấn Độ sang truyền đạo
đã dạy sự Huệ Thắng (người Việt) thế kỷ thứ IV. Huệ Thắng được Lưu Tích,
Thái thú Nam Hải mời sang chỉ dẫn Phật pháp năm 478.
Số lượng kinh Phật đã dịch và phổ biến ở Giao Châu 15 bộ gồm: Pháp
Hoa tam muội, Thập nhị liên hoa, Lý hoặc luận...với các phạm trù: Từ bi, Bố
thí, Diệt dục, Luân hồi, Nghiệp báo, Thiền định...đã ảnh hưởng đến người Việt.
Về thiết chế tôn giáo: trên đất Luy Lâu xây dựng 200 bảo tháp, tăng đoàn
độ được chừng 500 người. Luy Lâu là một trong 3 trung tâm Phật giáo của đế
chế Hán (Lạc Dương, Bành Thành - Giang Tô, Luy Lâu - Giao Châu). Chùa
Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay) được xây dựng từ thế kỷ thứ II ở Luy
Lâu.
Ngôn ngữ Phật giáo: từ Phật - Bụt dịch từ tiếng Ấn Độ (Butdha - Đấng
giác ngộ) = Bụt đà, sau rút gọn là Bụt, sau đó âm B biến thành âm Ph mà có từ
Phật; “Stupa” biến âm thành “chùa” được đưa vào nước ta.
Ngoài Phật giáo, người Việt cũng tiếp thu một số lĩnh vực văn hóa khác
của Ấn Độ:
- Văn hóa vật chất: người Việt tiếp nhận từ văn hóa Ấn Độ kỹ năng chữa
bệnh bằng nhiều loại thảo dược; tiếp nhận một số cây trồng mới như cây mít, bồ
đề, cây chè, hoa sen, hoa nhài...cách ăn mặc của những nhà tu hành Ấn Độ (áo
Cà sa).
- Văn hóa tinh thần: tiếp thu kỹ thuật xây chùa tháp, tạo dáng tượng Phật,
mô típ, họa tiết trang trí chùa, tháp (chim thần ga - ru - đa, rắn thần na - ga, lá
sen, lá đề) các vật dụng có hình trang trí mặt hổ phù thay bằng đầu voi, ấn có
vòi hình vòi voi (Đông Tác - Thanh Hóa). Ảnh hưởng của văn hóa Trung Á
cũng theo đó vào nước ta như tượng cừu ở chùa Dâu, chùa Phật tích, nhạc cụ
cầm, hồ...
3.1.2.3. Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc

65
Từ trong các xóm làng cổ, người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn và phát
huy cái vốn liếng văn hóa bản địa, nội sinh tích lũy được qua hàng nghìn năm
trước. Đành rằng trong suốt thời kì dài đằng đẵng đó, nhân dân ta phải sống
cảnh “chim lồng cá chậu” trong một cơ cấu văn minh ngoại lai. Nhưng xã hội
bao giờ cũng là xã hội của nhân dân, nhân dân vẫn, trong một môi trường sinh
thái cụ thể và quen thuộc, không ngừng đấu tranh để phát triển sản xuất và văn
hóa. Bất cứ lực lượng xã hội nào, bất cứ bạo lực chính trị nào cũng không ngăn
cản được sự phát triển kinh tế, văn hóa tự mở lấy đường đi.
Nét hằng xuyên của văn hóa Việt Nam là sự “không chối từ”, việc tiếp
thu, tiêu hóa và làm chủ những ảnh hưởng văn hóa của nước ngoài. Qua con
đường giao lưu văn hóa, trào lưu di cư của một phân số sĩ phu và bần dân Hán
tộc xuống Giao Chỉ, trên trường kì lịch sử chịu ảnh hưởng của một đế chế lớn
và tạm thời (cái tạm thời nhiều thế kỉ của lịch sử!) nằm trong phạm vi của đế
chế ấy, nhân dân ta đã vay mượn khá nhiều vốn liếng của nhân dân Trung Quốc
về văn hóa vật chất cũng như về văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần.
Trên cơ sở một vốn liếng văn hóa bản địa vững chắc, sự hấp thụ các yếu
tố văn hóa Đông Nam Á, Ấn Độ (Nam Á), Trung Á và Tây Á… có tác dụng
trung hòa những ảnh hưởng to lớn của Trung Hoa khiến cho văn hóa Việt cổ
thời Bắc thuộc vẫn mang tính chất độc đáo, đặc thù, khác và vẫn có thể phân
biệt được với văn hóa Trung Hoa và vẫn dáng duyên, mềm mại hơn trong sắc
thái hòa đồng văn hóa. Nhân dân ta đã biết biến những của cải đi vay thành tài
sản của dân tộc đặng bồi dưỡng, xây dựng và phát triển nền kinh tế và văn hóa
dân tộc.
Ngay trong khi vay mượn, nhân dân ta vẫn thể hiện được tinh thần sáng
tạo. Về văn hóa vật chất chẳng hạn, từ chỗ tiếp thu được kĩ thuật làm giấy của
Trung Quốc, nhân dân ta đã biết tìm tòi, khai thác nguyên liệu địa phương (gỗ
trầm, rêu biển) để chế tác những loại giấy tốt, chất lượng, có phần hơn giấy sản
xuất ở miền nội địa Trung Hoa. Trong khi chịu ảnh hưởng của kĩ thuật gốm sứ
Trung Quốc, ta vẫn sản xuất ra các mặt hàng độc đáo như sanh hai quai (Trung

66
Quốc chỉ có chảo), ống nhổ, bình con tiện có đầu voi, bình gốm có nạm hạt đá ở
chung quanh cổ tựa như loại “iang” của đồng bào Mơnông gần đây.
Chủ thể mang truyền thống văn hóa ngàn xưa và sáng tạo nền văn hóa
mới trong khi không ngừng hấp thu và hội nhập những yếu tố văn hóa ngoại
sinh là người Việt cổ. Đấu tranh văn hóa, trước tiên là sự đấu tranh thường
xuyên chống âm mưu đồng hóa của kẻ thù để bảo tồn nòi giống Việt.
Biểu hiện rõ rệt của sự bảo tồn giống nòi và văn hóa Việt đặng chống
đồng hóa là sự bảo tồn tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của dân tộc.
Tiếng nói là một thành tựu văn hóa, là một thành phần của văn hóa. Tiếng
Việt thuộc nhóm ngôn ngữ được xác lập từ xưa ở miền Đông Nam Á và điều đó
chứng tỏ cái gốc tích lâu đời, bản địa của dân tộc ta trên dải đất này.
Khi bị đế chế Trung Hoa chinh phục và kiểm soát chặt chẽ, tiếng Hán –
và chữ Hán – được du nhập ồ ạt vào nước ta. Song nó không thể tiêu diệt được
tiếng Việt bởi lí do rất đơn giản là chỉ một lớp người thuộc tầng lớp trên học.
Nhân dân lao động trong các xóm làng Việt cổ vẫn sống theo cách sống riêng
của mình, cho nên họ duy trì tiếng nói của tổ tiên, tiếng nói biểu hiện cuộc sống
và tâm hồn người Việt.
Cố nhiên, dưới ách thống trị lâu năm của người ngoài, trong cuộc sống đã
xảy ra những biến đổi về vật chất và tinh thần, đã nảy sinh những nhu cầu mới.
Cho nên tiếng Việt cũng phải biến đổi và phát triển. Trải nhiều thế kỉ, tiếng Việt
phát triển ngày càng xa với trạng thái ban đầu của nó. Nó đã hấp thu nhiều yếu
tố ngôn ngữ Hán. Tiếng Việt có nhiều từ gốc Hán. Người ta thấy những từ gốc
Hán ngay cả trong vốn từ vị cơ bản và trong các hư từ. Nhưng nhân dân ta đã
hấp thu ảnh hưởng Hán ngữ một cách độc đáo, sáng tạo, đã Việt hóa những từ
ngữ ấy bằng cách dùng, cách đọc, tạo thành một lớp từ mới mà sau này ta gọi là
từ Hán – Việt (Có một quá trình ngược lại, nhiều từ Việt được hội nhập vào Hán
ngữ và tạo nên một lớp từ Việt-Hán).
Trước và trong thời Bắc thuộc, tiếng Việt cũng tiếp thu nhiều ảnh hưởng
của ngôn ngữ Mã Lai, Tạng–Miến, và nhất là Ấn Độ (các từ chỉ cây trồng như

67
mít, lài…, và đặc biệt là các từ ngữ thuộc về Phật giáo như Bụt, bồ đề, bồ tát,
phù đồ, chùa, tháp, tăng già…). Điều đó khiến vốn từ tiếng Việt thêm phong
phú.
Từ thời Hùng Vương, đã có một nền phong hóa riêng của người Việt cổ
tuy còn giản dị, chất phác. Bọn đô hộ cố sức đưa vào xã hội Việt cổ nhiều thứ lễ
giáo Trung Hoa (chủ yếu là lễ giáo của đạo Nho). Điều đó, nhất định có ảnh
hưởng đến phong hóa Việt Nam. Đó là điều không tránh khỏi. Và nhân dân ta
có khả năng thích ứng vô hạn với mọi loại tình thế trong khi những truyền thống
dân tộc và dân gian của nền phong hóa Việt Nam vẫn được gìn giữ và phát
triển. Nếu một mặt lễ giáo Trung Hoa ít nhiều đã tăng cường sự áp chế trong gia
đình và củng cố chế độ phụ quyền (từ đầu công nguyên trở về trước, tính chất
phụ quyền trong gia đình Việt cổ còn mờ nhạt thì mặt khác nó không thể ngăn
cản được sự củng cố ở một mức nhất định những truyền thống tích cực của xã
hội làng xóm của ta, ví như lòng tôn kính và biết ơn đối với cha mẹ tổ tiên (có ý
kiến cho rằng sự thờ cúng tổ tiên nảy sinh ở khu vực Đông Nam Á trước khi
Nho giáo được truyền bá tới miền này).
Nét đặc biệt, là lòng tôn trọng phụ nữ của phong hóa Việt cổ. Lễ giáo
Trung Hoa có đặc trưng là sự khinh miệt phụ nữ, cố sức thắt chặt họ vào cỗ xe
“tam tòng”, “tứ đức” nhưng vẫn không ngăn cản được truyền thống dũng cảm
đánh giặc - và lãnh đạo nhân dân đánh giặc - của Hai Bà Trưng, Bà Triệu… Vai
trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội vẫn được đề cao.
Sách Nam phương thảo mộc trạng (thế kỉ III) chép rằng người Nam có
con gái lớn vài tuổi đã bắt đầu nấu lọc rượu, đựng trong bình hũ kín, đem chôn
ở bờ ao. Khi con gái sắp lấy chồng, người ta mới đào bờ ao lấy rượu lên đãi
khách, gọi là “Rượu con gái” (nữ tửu), vị rất đằm và ngon.
Theo Quảng Châu kí và nhiều sách khác, một phong tục cổ truyền của
người Việt là đúc và sử dụng trống đồng. Trống đúc xong, cả làng được mời
đến dự lễ mừng. Người được vinh dự đánh trống đồng đầu tiên là một phụ nữ
trong làng.

68
Ngôi chùa được xây dựng vào loại sớm nhất trên đất Việt là chùa Pháp
Vân (Thuận Thành, Bắc Ninh); chùa mang tên Bà Dâu, trong chùa, tượng Bà
Dâu to hơn mọi tượng Phật v.v…
Cùng với phong tục dùng trống đồng, nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn
được giữ vững như tục cạo tóc hay búi tóc, xăm mình, chôn cất người chết trong
quan tài hình thuyền hay thân cây khoét rỗng, tục nhuộm răng, ăn trầu cau…
Theo Nam châu bát quận chí và Nam phương thảo mộc trạng, người Nam khi
cưới xin hoặc tiếp đãi khách khứa trước hết là dùng trầu cau; nếu khi gặp nhau
mà không mời trầu, người ta sẽ oán giận nhau. Phong tục đặc sắc đó rõ ràng là
một trong những phong tục cổ nhất và được duy trì thường xuyên suốt thời
chống Bắc thuộc.
Cố nhiên trên diễn trình lịch sử, nhiều phong tục tập quán đã thay đổi. Từ
tập quán giã gạo bằng chày tay (hình ảnh khắc trên trống đồng), từ đầu công
nguyên trở về sau, người Việt chuyển sang lối giã gạo bằng cối đạp (theo hệ
thống đòn bẩy) như loại cối giã gạo hiện nay ở nông thôn miền Bắc (mô hình
cối giã gạo kiểu đó đã tìm thấy trong mộ gạch cổ đầu công nguyên). Từ tập tục
ở nhà sàn, dần dần người Việt chuyển sang ở nhà đất bằng. Trong các mộ gạch
cổ thời kì này, đã tìm được nhiều mô hình loại nhà đất bằng và cả mô hình nhà
thuộc loại hình trung gian giữa nhà sàn và nhà đất bằng… Tàn dư nhà sàn còn
được bảo lưu trong các ngôi nhà công cộng, đền miếu…
Từ thời Hán, nền văn học nghệ thuật Trung Quốc đã đạt đến trình độ cao
và có ảnh hưởng lớn ở vùng Đông Á. Nền văn học nghệ thuật ấy cũng dần dần
được du nhập vào nước ta. Do du nhập bằng con đường nô dịch, với mục đích
nô dịch, nên mức độ truyền bá cũng chậm và mức độ tiếp thu của ta cũng hạn
chế nhiều. Nhưng dù sao nó cũng để lại một dấu ấn nào đó trên sự phát triển của
nền văn hóa Việt. Thời Văn Lang, Âu Lạc, ta chưa có một nền văn học chính
thức và thành văn tuy vẫn có một đời sống văn hóa khá cao. Nét đặc trưng của
nó là văn hóa ngôn từ (chứ không phải là chữ nghĩa sách vở) với phương thức
thông tin truyền miệng. Nền văn nghệ dân gian của chúng ta khá giàu có và tiếp

69
tục phát triển dưới dạng các huyền thoại, huyền tích hay ca dao, tục ngữ. Theo
Giao châu ký, ở xóm làng, trẻ mục đồng vẫn ngồi trên lưng trâu thổi sáo và hát
các bài đồng dao của người Việt. Cuộc sống của nông dân còn bị hạn chế trong
khuôn khổ của xóm làng, vùng địa phương, với những điều kiện còn chật hẹp
cho nên sự sáng tạo về nghệ thuật còn mang tính chất giản dị. Sự du nhập nền
văn học nghệ thuật Trung Quốc đã có một tác dụng tích cực nhất định đối với
đời sống văn hóa Việt Nam, nhất là ở một số trung tâm trấn trị và buôn bán tập
trung như Luy Lâu, Long Biên v.v…
Cho đến một hai thế kỉ sau công nguyên, văn hóa Đông Sơn và nghệ
thuật Đông Sơn vẫn tiếp tục tồn tại tuy đang trên đà suy thoái mạnh.
Dựa vào những hiện vật phát hiện được trong các mộ gạch cổ thuộc các
thế kỉ I - VI, người ta hay nói đến sự nảy sinh một nền văn hóa nghệ thuật Hán -
Việt trong thời gian này.
Trước hết cần chú ý rằng đây là những mộ lớn, xây dựng khá hào hoa,
hiện vật phong phú. Nó chứng tỏ chủ nhân những mộ này thuộc tầng lớp trên
trong xã hội. Phần lớn đó là mộ của bọn quan lại sĩ phu Hán cho nên thành phần
văn hóa Hán chiếm địa vị chủ đạo.
Một số ít những ngôi mộ đó có thể là của quan lại quý tộc người Việt và
việc một bộ phận tầng lớp trên người Việt ít nhiều bị “Hán hóa”, chịu ảnh
hưởng sâu sắc văn hóa Hán, “theo phong hóa lễ giáo Trung Hoa” cũng không có
gì là lạ. Vốn liếng văn hóa dân tộc căn bản do nhân dân lao động các xóm làng
bảo tồn và phát triển. Di tích khảo cổ thời Bắc thuộc còn tìm được quá ít. Hiểu
biết của chúng ta về văn hóa, văn nghệ Giao Châu thời này còn kém cỏi.
Vả lại, xem xét kĩ các hiện vật trong những ngôi mộ gạch nói trên, ta
cũng thấy sự tồn tại một số di tích của nền nghệ thuật dân tộc. Có mộ gạch vẫn
tìm thấy trống đồng, rìu có vai bằng đá. Nhiều trống đồng đã được cải biên: khi
úp sấp, nó là trống đồng với phong cách nghệ thuật Đông Sơn đã biến thể; lật
ngửa lại nó là chậu thau với trang trí hình cá và hình tiền đồng Hán. Trên nhiều
mâm và bình bằng đất nung, ta vẫn thấy sự có mặt của những hoa văn hình xoắn

70
ốc đôi, hình chữ S hay hoa văn đường tròn có tiếp tuyến – là những hoa văn
hình học Đông Sơn quen thuộc. Nhiều hiện vật Hán được cải biên theo phong
cách Việt. Ví dụ những bình hình con tiện đời Hán, ở hai bên thành bình thường
có “văn thao thiết” (ta thường gọi là mặt hổ phù), song một số bình tìm được ở
Bắc Ninh, Thanh Hóa thì mặt hổ phù được thay thế bằng hình đầu voi, vòi voi
được sử dụng như vòi ấm…
Một vài tượng người bằng đồng được phát hiện trong các mộ cổ Lạch
Trường, Đông Tác (Thanh Hóa) xét về mặt nhân chủng (tóc quăn, môi dầy, mắt
lồi) cũng như xét về phong cách nghệ thuật, không thuộc văn hóa Hán mà
dường như có chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ.
Về âm nhạc, bên cạnh một số nhạc cụ có chịu ảnh hưởng Trung Hoa như
khánh, chuông… chịu ảnh hưởng Ấn Độ và Trung Á như trống cơm, hồ cầm,
vẫn tồn tại những dụng cụ độc đáo của nền nhạc Việt như trống, khèn, cồng
chiêng…
Phần cốt lõi của văn hóa tinh thần, là tư tưởng mà ngày trước thường biểu
hiện chủ yếu dưới hình thức tôn giáo, tín ngưỡng…
Phong tục tập quán thời các vua Hùng dựng nước nhìn chung còn thuần
hậu, chất phác. Đó là phong hóa và tín ngưỡng của một cư dân sống trong một
khung cảnh một nền văn minh nông nghiệp lúa nước đang phát triển.
Phong hóa Giao Chỉ cho đến đầu công nguyên còn rất khác với văn minh
Hán. Với một giọng văn kì thị chủng tộc, kì thị Hoa - Di, các tác giả Tiền Hán
thư, Hậu Hán thư cũng đã thừa nhận như vậy. Thư của Hoài Nam vương Lưu
An gửi Hán Vũ Đế nói rằng: “Dân Việt là dân cạo tóc, vẽ mình, không thể lấy
pháp độ của nước đội mũ mang đai (Trung Hoa) mà trị được. Từ thời Tam Đại
(Hạ Thương Chu) thịnh trị, đất Hồ, đất Việt không theo chính sóc (lịch của
Trung Quốc)”. Tác giả Hán thư thì nói dân Giao Chỉ “không biết đạo cha – con”
(cha con cùng tắm một sông), “chỉ theo dâm hiếu, không biết đạo vợ chồng”
(hôn nhân trai gái tự do, tìm hiểu qua hội mùa), “không theo lễ giáo Trung
Quốc” v.v…

71
Đứng trên phương diện thể chế chính trị và cơ cấu xã hội hạ tầng, có thể
nói, trong thời Bắc thuộc, người Việt mất nước chứ không mất làng. Bởi vậy,
như một tác giả phương Tây đã nhận xét, qua Bắt thuộc, nước Việt như một tòa
nhà chỉ bị thay đổi “mặt tiền” (facade) mà không bị thay đổi cấu trúc bên trong.
Đó là một hạn chế rất lớn của nền Bắc thuộc và cũng là một lợi thế quan
trọng của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống đồng hóa, giành lại độc lập dân
tộc.
Nền đô hộ của phong kiến Trung Quốc trong thời Bắc thuộc chỉ có bề dài
của thời gian, chứ thiếu bề rộng trong không gian và càng thiếu hẳn bề sâu trong
lòng cấu trúc của xã hội nước ta. Nền đô hộ ấy rất bạo ngược và thâm độc, song
vẫn có phần hời hợt và chỉ có tác động trên bề mặt của xã hội Việt Nam.
Bắc thuộc và chống Bắc thuộc hai mặt đối lập và đấu tranh quyết liệt đó
chi phối toàn bộ cuộc sống Việt Nam và tiến trình lịch sử Việt Nam trong
khoảng chục thế kỉ.
Trong cuộc đấu tranh đó, nền văn hóa cổ truyền của người Việt bị đặt
trước một thử thách lớn lao. Nền văn hóa Hán được du nhập và truyền bá vào
đất Việt, có mặt ôn hòa qua một số di dân Trung Quốc, song mặt chủ yếu là
mang tính chất cưỡng bức qua bàn tay bọn đô hộ như một công cụ nô dịch và
đồng hóa. Trong sự hỗn dung văn hóa cưỡng bức theo mưu đồ Hán hóa của
chính quyền đô hộ, nền văn hóa Việt tránh sao khỏi những mất mát và ảnh
hưởng. Văn minh Đông Sơn vào khoảng những thế kỉ đầu công nguyên đã bị
suy thoái, bị giải thể cấu trúc và những mảnh vụn được bảo lưu của nó hòa tan
vào nền văn hóa dân gian.
Về khách quan, nền thống trị của bọn thống trị phương Bắc, “một công
cụ vô ý thức của lịch sử”, nói theo cách nói của C Mác, đã buộc người Việt phải
phá vỡ một số truyền thống cũ của chế độ tù trưởng bộ lạc và công xã. Cái trớ
trêu của lịch sử là chế độ đô hộ của phong kiến Trung Quốc đã đóng vai trò một
công cụ vô thức góp phần phá vỡ những tổ chức bộ lạc và thế lực cát cứ địa
phương. Xóa bỏ cơ cấu bộ lạc, giữ lại và củng cố cơ cấu xóm làng, tăng cường

72
sự cố kết dân tộc, thích ứng với cơ cấu quận huyện là một tổ chức có tính chất
hành chính – địa vực, đó là những chuyển biến lớn của xã hội Việt Nam thời
Bắc thuộc.
Mặt khác, nhân dân ta biết bảo tồn và phát huy những tinh hoa của văn
hóa cổ truyền, nhưng cũng biết hấp thu có chọn lọc những nhân tố văn hóa
ngoại lai để làm phong phú cho nền văn hóa dân tộc và tăng thêm tiềm lực cho
mọi mặt của đất nước.
Trên cơ sở văn minh nông nghiệp và xóm làng, nhân dân ta tiếp thu một
số yếu tố văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ và vùng biển phương Nam như giống cây
trồng mới (kê, cao lương, một số loại đậu), kĩ thuật nông nghiệp mới (bón phân
bắc, guồng nước…), kĩ thuật thủ công (dệt lụa gấm, làm đồ sứ, làm giấy…), và
cả một số tập quán trong ăn, mặc, ở, cách đặt tên họ…
Nền văn hóa Việt Nam không co lại để tự vệ một cách bảo thủ và cô lập.
Nó không chối từ những đóng góp của những yếu tố bên ngoài, mà còn tỏ ra có
khả năng thu nạp và dung hóa mạnh những cái hay, cái đẹp của các nền văn hóa
ngoại lai, kể cả các nước đang xâm lược và đô hộ mình. Đáng lưu ý là trong văn
hóa Trung Quốc được truyền bá xuống phương Nam có những yếu tố vốn là của
Bách Việt được người Hán hấp thu, hệ thống và nâng cao thêm, nên nó được
người Việt tiếp nhận khá dễ dàng. Qua thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, nhân
dân ta đã tìm biết một Trung Hoa cao cả và tốt đẹp của nhân dân Trung Hoa, để
đấu tranh chống lại cái Trung Hoa tàn bạo, thấp hèn của các đế chế Hán –
Đường.
Như vậy, trong diễn trình văn hóa Việt Nam thời Bắc thuộc có hai
khuynh hướng đối lập:
- Khuynh hướng Hán hóa là mưu đồ có ý thức của bọn đô hộ và tay sai,
phần nào có tác động gần như vô thức về phía dân gian.
- Khuynh hướng Việt hóa nhằm giữ lại và phát huy những tinh hoa văn
hóa cổ truyền đã được định tính và định hình từ thời đại dựng nước, hấp thu, hội

73
nhập những yếu tố văn hóa bên ngoài theo yêu cấu của cuộc sống và thời đại;
sắp xếp, cấu trúc lại trên nền tảng Việt.
Dĩ nhiên khuynh hướng thứ hai là chủ đạo và trên cơ sở đó, trong cuộc
đấu tranh chống Bắc thuộc, đất nước ta không bị diệt vong, dân tộc ta không bị
đồng hóa, mà còn lớn lên về mọi mặt để có đủ sức mạnh vật chất và tinh thần
chiến thắng chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, giành lại độc lập dân tộc.
Đối lập lại chủ nghĩa “bình thiên hạ” của kẻ thù, nhân dân ta ra sức khắc
phục tư tưởng bộ lạc, khuynh hướng tản mạn trong lòng xã hội cũ, phát huy
mạnh mẽ những tư tưởng lớn của Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc
lập tự chủ, tinh thần tự lập tự cường.
Đối lập với bộ máy Nhà nước đế chế và tổ chức chính quyền đô hộ theo
quận, huyện, nhân dân ta lo bảo tồn và củng cố cộng đồng xóm làng, biến thành
những pháo đài xanh chống đồng hóa, chống Bắc thuộc, dựa vào làng và xuất
phát từ làng mà giành lại nước.
Đối lập với sức mạnh của một đế chế lớn mạnh, đông dân, nhiều của,
đông quân, nhân dân ta đã tạo lập nên sức mạnh vô địch Việt Nam là sức mạnh
đoàn kết toàn dân. Khởi nghĩa chống Bắc thuộc là khởi nghĩa nhân dân, có tính
quần chúng rộng rãi, mau chóng phát triển thành chiến tranh nhân dân giải
phóng dân tộc. Nhờ đó, trong cuộc đấu tranh trường kì chống Bắc thuộc, lực
lượng dân tộc ta về mọi mặt tư tưởng, chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, quân
sự…, đều trưởng thành. Và cuối cùng, thế kỉ X với chính quyền tự chủ họ Khúc,
họ Dương, với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử do Ngô Quyền lãnh đạo, cuộc
đấu tranh lâu dài, bền bỉ của nhân dân ta đã giành được thắng lợi vẻ vang.
3.2. Văn hóa Chămpa
3.2.1. Bối cảnh lịch sử văn hóa
Người Chăm là một tộc người thuộc chủng Nam Á. Ngôn ngữ của họ
thuộc ngữ hệ Malai - Pôlinêdi. Cùng với người Việt ở Bắc Bộ, các nhóm dân
tộc thuộc ngữ hệ Môn - khơme và Malai -Pôlinêdi ở Nam Bộ, người Chăm là
một trong những nguồn cội của các dân tộc Việt Nam ngày nay. Trong thời cổ

74
đại và trung đại, người Chăm đã có một nền văn hóa riêng rực rỡ, không thua
kém bất cứ một nền văn hóa nào ở Đông Nam châu Á.
Vương quốc Chămpa là vương quốc (Mandala) của các tiểu vương quốc
tồn tại gần 15 thế kỉ (từ thế kỉ II đến thế kỉ XV), phân bố ở miền Trung Việt
Nam từ núi đến biển, gián cách nhau bằng các đèo, từ đèo Ngang đến đèo Cả -
Đại Lãnh… có độc lập và liên lập, có một tổng thể văn hóa chung mà cũng có
sắc thái văn hóa vùng. Đó là bốn vùng lớn ở các đồng bằng nhỏ ven biển:
Amaravati (địa phận các tỉnh Quảng Bình - Quảng Trị, Thừa Thiên và Quảng
Nam - Đà Nẵng); Vijaya (Quảng Ngãi, Bình Định); Kauthara (Nha Trang -
Khánh Hoà) và Panduranga (Phan Rang, Phan Thiết).
Vương quốc Chămpa qua những ghi chép trong thư tịch cổ, bia kí và
những di tích khảo cổ trên và trong lòng đất trùng hợp với địa bàn phân bố của
văn hóa Sa Huỳnh. Niên đại khởi đầu của vương quốc Chămpa theo thư tịch
Trung Hoa cổ là vào cuối thế kỉ II (năm 192, Khu Liên đã lập nước Lâm Ấp ở
vùng đất Quảng Nam ngày nay. Đó là nước Chămpa của người Chăm với đô
thành sư tử (Sximhapura - nay là Trà Kiệu, Duy Xuyên). Chúng tôi nghĩ rằng có
lẽ người Hán đã hiểu đô thành sư tử thành Rừng Voi (Tượng Lâm). Ngoài ra,
bia Võ Cạnh ở Nha Trang có niên đại thuộc thế kỉ II sau công nguyên, cũng đã
nói đến một quốc gia do Srimara sáng lập). Niên đại này trùng với niên đại của
khu mộ chum Gò Đình (Đại Lãnh, Đại Lộc - Quảng Nam), Hậu Xá (Hội An -
Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi).
Sự trùng hợp về không gian, thời gian, của một số loại hình hiện vật, một
số ngành nghề… cùng với suy luận lô gích đã cho thấy văn hóa Chămpa nảy
sinh từ văn hóa Sa Huỳnh, người Chăm cổ là con cháu người Sa Huỳnh cổ.
3.2.2. Đặc trưng văn hóa
Từ thập kỉ 60 trở về trước, nhiều học giả phương Tây, đặc biệt G.Coedes,
thường coi Chămpa là một quốc gia Ấn hóa. Sự thực, ảnh hưởng văn hóa - tôn
giáo của Ấn Độ đối với Chămpa là rất mạnh mẽ và không ai phủ nhận được.
Song học giả Paul Mus cũng đã nhận ra nhiều nét bản địa - tiền Ấn Độ hóa

75
trong văn hóa Chămpa. Trong quá trình tiếp thu văn hóa Ấn Độ, người Chămpa
đã kết hợp hài hòa giữa yếu tố văn hóa địa phương (nội sinh) và văn hóa bên
ngoài (ngoại sinh) trên cơ sở môi trường tự nhiên và tâm lí dân tộc để sáng tạo
ra nền văn hóa của mình có những nét chung, song có nhiều nét riêng so với
những văn hóa láng giềng khác ở Đông Nam Á cũng tiếp thu ảnh hưởng của
văn minh Ấn Độ.
Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ tới Đông Nam Á (chính xác hơn là sự trao
đổi buôn bán và bên cạnh đó là trao đổi kĩ thuật, ý tưởng giữa hai vùng đất này)
có thể nói là từ những thế kỉ trước công nguyên, qua những tư liệu khảo cổ học
của văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đông Sơn. Mối quan hệ - ảnh hưởng văn hóa
này được đẩy mạnh từ đầu thiên niên kỉ I công nguyên. Nguyên nhân chủ yếu
của việc tăng cường các ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ theo các nhà nghiên cứu
chính là thương mại. Các nguồn tư liệu khác nhau cho biết, nguồn hương liệu,
gỗ trầm, các loại dầu thơm, long não, cánh kiến trắng và đặc biệt là vàng vô
cùng phong phú ở Đông Nam Á đã thu hút các thương nhân Ấn Độ tới Đông
Nam Á nói chung và Chămpa nói riêng. Theo sau các thương nhân, thậm chí
cùng các thương nhân là các tu sĩ Bàlamôn, các nhà sư. Do thâm nhập chủ yếu
qua văn hóa mà lại bằng những phương thức hòa bình, nên những ảnh hưởng
của Ấn Độ đã để lại những dấu ấn thật sâu sắc đối với vương quốc Chămpa.
Trước hết, mô hình của Ấn Độ về tổ chức chính trị và vương quyền đã
được người Chămpa áp dụng triệt để. Vua là hiện thân của thần trên mặt đất và
cũng là người bảo vệ thần dân giữ gìn trật tự đất nước theo “luật riêng”. Các vua
chúa Chămpa do vậy, là những người nhiệt thành với các tôn giáo Ấn Độ. Về
nguyên tắc, việc truyền ngôi tiến hành theo huyết thống nhưng đôi khi không
phải như vậy mà do triều đình cử ra. Dựa vào các nguồn tư liệu, chúng ta có thể
hình dung khái quát bộ máy chính quyền và hành chính của Chămpa thời cổ.
Toàn bộ đất nước được chia làm ba (bốn) khu vực: Amaravati ở phía Bắc;
Vijaya ở giữa; Panduranga ở phía Nam và có thể Kauthara được tách thành khu
vực thứ 4. Cũng theo các nguồn sử liệu Chămpa được chia thành 38 châu lớn

76
nhỏ. Nhà vua dùng anh em làm phó vương hay thứ vương và lập quan lại cai trị
mà tên gọi các chức quan hay đơn vị hành chính đều có nguồn gốc từ các thuật
ngữ Ấn Độ. Cùng với việc tiếp nhận mô hình tổ chức chính quyền, người
Chămpa tiếp nhận cả hệ thống đẳng cấp của Ấn Độ, mặc dầu hệ thống đẳng cấp
này của người Chăm không khắt khe và nhiều trường hợp mang tính hình thức.
Bên cạnh việc tiếp nhận về mô hình tổ chức chính trị, là sự tiếp nhận về mô
hình tôn giáo. Các tôn giáo Ấn Độ đã có mặt ở các vùng đất thuộc vương quốc
Chămpa sau này ngay từ đầu công nguyên (Bia Võ Cạnh niên đại thế kỉ II mang
nội dung về tư tưởng Phật giáo; tượng Phật bằng đồng ở Đồng Dương có niên
đại thế kỉ IV…). Tiến trình lịch sử của các tôn giáo Ấn Độ ở Chămpa có những
đặc điểm (theo nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh là: “Suốt hơn 12 thế kỉ tồn tại,
Chămpa liên tục lấy những tôn giáo Ấn Độ làm tôn giáo của mình”.
Như nhiều quốc gia cổ đại khác ở Đông Nam Á, ở Chămpa không có kì
thị tôn giáo mà ngược lại, bao trùm lên toàn bộ lịch sử Chămpa là sự hỗn dung
giữa tất cả các tôn giáo và giáo phái của Ấn Độ. Người dân Chămpa tiếp nhận
tất cả: đức hiếu sinh, từ bi của Phật giáo, tình thương của Visnu giáo và cả tính
hung bạo và quyền lực của Siva giáo.
Tính chất Siva giáo là đặc trưng chủ đạo trong đời sống tôn giáo của vua
chúa Chămpa.
Tuy nhiên, nhiều trường hợp những yếu tố của tôn giáo Ấn Độ lại chỉ là
cái vỏ, cái hình thức bề ngoài của các tín ngưỡng bản địa, chủ yếu là tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên, thờ Mẹ của người Chăm.
Về phương diện ngôn ngữ, người Chăm pa đã sớm tiếp thu hệ thống văn
tự cổ Ấn Độ để sáng tạo ra chữ viết của mình. Từ chữ Phận (Sanskrit) – một thứ
chữ cổ ở Ấn Độ, người Chăm đã sáng tạo ra chữ Chăm cổ (khoảng thế kỉ IV–
V). Ngoài những tài liệu bia kí, các sử liệu Trung Quốc còn cho chúng ta biết,
ngay từ trước thế kỉ VII, người Chăm đã dùng văn tự của mình để ghi chép kinh
sách và trao đổi thư từ. Như vậy bên cạnh chữ Phạn, chữ Chăm cổ luôn được
người Chăm cải tiến và sử dụng.

77
Từ thời xưa, người Chăm đã biết dùng lịch. Có một hệ thống lịch pháp
Ấn Độ đã du nhập vào Chăm pa và người Chăm đã dùng lịch này từ đó đến nay.
Trong hệ thống lịch này, ngày âm (ngày tính theo lịch trăng) là đơn vị cơ bản.
Một tháng được chia làm hai tuần: tuần sáng và tuần tối. Một năm có 12 tháng
âm, 6 mùa. Tuần có 7 ngày, có tên gọi riêng và tương ứng với một hành tinh.
Ngoài ngày, tháng, năm lịch Ấn Độ còn có cách tính thời gian theo kỉ nguyên.
Căn cứ vào các triều đại các tiểu vương, kì nguyên được dùng thông dụng ở Ấn
Độ và có ảnh hưởng tới vùng Đông Nam Á là kỉ nguyên Saka (năm 78 sau công
nguyên). Lịch Chăm vì thế còn được gọi là lịch Saka.
Âm nhạc và múa có vai trò rất quan trọng, trong đời sống tinh thần của
người Chăm, nhất là những nghi lễ và hội lễ mang tính chất tôn giáo, tín
ngưỡng như: lễ tết Katê, lễ mở cửa thánh, lễ cầu đảo, các lễ Chà Và lớn và nhỏ,
những buổi lên đồng. Việc dùng các hình thức nhạc cụ tuỳ thuộc vào tính chất
các buổi lễ và các hình thức sinh hoạt khác nhau. Trống Branưng và trống
Kynăng là hai loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ gõ của người Chăm. Trong nhạc
cụ hơi, chiếc kèn Saranai có vị trí đặc biệt. Múa là loại hình nghệ thuật gắn bó
với người Chăm như hình với bóng rất phong phú và độc đáo. Người Chăm có
các loại múa: múa sinh hoạt, múa tôn giáo, múa tập thể và độc diễn, múa đạo cụ
và múa bóng.
Nói tới Chămpa là phải nói tới hệ thống đền tháp. Đầu thế kỉ này tháp
Chăm còn khoảng 100 chiếc, hiện nay còn khoảng 70 chiếc (với những phế tích
còn lại suốt từ Quảng Bình cho tới Tây Nguyên, các nhà nghiên cứu ước tính đã
có tới hơn nghìn tháp lớn nhỏ). Tháp Chăm được xây dựng rải rác khắp nơi và
có những quần thể kiến trúc lớn như Mỹ Sơn, Đồng Dương (Quảng Nam),
Pônaga (Khánh Hòa)… Dù được xây dựng ở nhiều thời điểm khác nhau, có
khác biệt về chi tiết kiến trúc, điêu khắc song trên cơ bản loại hình, cấu trúc hầu
như thống nhất. Chúng được xây dựng theo mẫu số chung và thể hiện biểu
trưng tôn giáo Ấn Độ. Tháp Chăm được xây dựng theo mô kình tháp Ấn Độ,
song bé nhỏ “tinh tế” và được “Chăm hóa”. Tháp (người Chăm gọi là Kalan),

78
bao quanh là những ngôi tháp nhỏ, hoặc những công trình nhà chờ, nhà
nguyện… phục vụ cho sinh hoạt tôn giáo.
Tháp thường được xây dựng trên đồi gò cao theo biểu tượng núi Meru
trong tôn giáo Ấn Độ - Biểu trưng trung tâm vũ trụ, nơi ngự của các thần linh.
Tháp Chăm có thể đồng thời mang ba chức năng: Đền thờ Thần, Đền – Mộ,
Đền – Nơi ở của các vị thần. Tháp thường có bình đồ vuông, bố cục hướng tâm,
chia thành ba phần đế, thân, mái. Bốn cạnh mở bốn cửa. Cửa chính đi vào lòng
tháp mở về hướng Đông, có kết cấu nhô dài về phía trước với vòm cuốn, trang
trí đẹp. Ba cửa còn lại chỉ là hình thức (cửa giả). Mái tháp có ba tầng thu nhỏ
dần vươn lên cao. Mỗi tầng thể hiện như mô hình của tháp thu nhỏ (có vòm cửa
giả, cửa giả thu nhỏ). Lòng tháp hình vuông cao vút, tường lòng xây thẳng
đứng, từ phần mái lòng tháp thu nhỏ dần lên đỉnh, tạo nên phần trên hình vòm
cuốn đều nhau ở trong lòng. Mặt bằng lòng tháp hình vuông không rộng lắm, đủ
để đặt một bộ linga -yoni. Quanh bệ thờ này là lối đi nhỏ dành cho người đi
hành lễ.
Xung quanh tháp chính còn có nhiều tháp phụ bên trong đặt thờ các vị
thần Ấn Độ giáo. Ở một số khu tháp mà điển hình là khu Pônaga bên cạnh
những tháp hình vuông mái nhọn, xuất hiện những tháp mái cong hình thuyền
tựa như mái nhà sàn Đông Sơn.
Tháp Chăm chủ yếu được xây bằng gạch. Đá chỉ sử dụng trong trang trí
và một số chi tiết kiến trúc như mí cửa, vòm, trụ… Người Chăm là bậc thầy
trong nghệ thuật xây gạch và hiện nay còn nhiều ý kiến, giả thuyết xung quanh
vấn đề này.
Tháp Chăm được trang trí tinh tế, cầu kì thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa
nghệ thuật điêu khắc và nghệ thuật kiến trúc. Các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước đã đưa ra những phân kì trong phong cách xây dựng tháp và phong cách
nghệ thuật Chămpa. Chủ đề chính trong điêu khắc trang trí tháp là hoa lá, hình
người, hình động vật, các thần, các con vật huyền thoại theo nội dung tôn giáo
hoặc sử thi Ấn Độ. Nền điêu khắc Chăm nổi tiếng với phù điêu và tượng tròn

79
trong đó phù điêu có nhiều hình thức, trước hết là chạm khắc trực tiếp lên gạch
tháp (nghệ thuật này của người Chăm cũng đạt tới đỉnh cao) hay tạo hình trang
trí trên gạch trước khi nung, ngoài ra còn chạm khắc trên đá (thường là đá gianh
màu xanh xám và đá silic). Nét đặc sắc của điêu khắc Champa là những hình
chạm khắc dưới dạng phù điêu đều hướng tới tượng tròn (phù điêu nổi cao).
Điêu khắc Chămpa không có sự rạo rực, sôi động như phù điêu Khơme, từng
nhân vật, từng nhóm nhân vật như tách rời nhau, độc lập và gần như biến thành
những tượng tròn riêng biệt. Từng tượng như nở tung ra, bứt ra vươn ra khỏi
giới hạn kiến trúc quy định. Do đó, tính hoành tráng, tính ấn tượng tạo ra vẻ đẹp
độc đáo của nghệ thuật điêu khắc cổ Chămpa.
Dựa vào các yếu tố trang trí mĩ thuật trên tháp, sự thay đổi của kết cấu
kiến trúc, sự xuất hiện hay mất đi của các mô típ trang trí kết hợp với những tài
liệu liên quan (bia kí, tư liệu lịch sử) người ta chia nghệ thuật trang trí tháp
thành nhiều phong cách và vạch ra quá trình phát triển của chúng tương ứng với
các thời kì lịch sử.
Người Chăm có một nền kinh tế đa thành phần mà trước hết là nghề nông
trồng lúa nước - dâu tằm - bông - hoa màu (với nhiều giống cây ngoại nhập từ
Nam Thái Bình Dương như mía, khoai), nghề rừng - khai thác lâm thổ sản gỗ
quý như quế, trầm hương, hạt tiêu; nghề biển; nghề thủ công (rèn sắt, dệt vải
lụa, làm gốm, chế tạo đồ thủy tinh, đá ngọc, khai khoáng và làm mĩ nghệ vàng
bạc…), phát triển nghề buôn bán đường biển, đường sông và đường núi. Cơ cấu
kinh tế này là sự kế thừa và phát huy cơ cấu có sẵn tuy chưa hoàn chỉnh của văn
hóa Sa Huỳnh. Người Chăm đã có những tiến bộ về nông nghiệp mà đầu tiên là
phát hiện ra giống lúa chịu hạn (sử sách gọi là lúa Chiêm Thành hay lúa Chiêm,
lúa Chăm), gieo cấy cả hai vụ từ tháng 7 đến tháng 10 trồng lúa trắng ở ruộng
bạch điền, từ tháng 12 đến tháng 4 trồng lúa đỏ ở ruộng xích điền. Để thích ứng
với vùng đất khô hạn Trung Bộ, người Chăm đã có hàng loạt các biện pháp thủy
lợi như cọn nước, giếng, hồ đập đặc biệt là hệ thống khai thác nước mạch chảy

80
ra từ những cồn cát, đồi gò mà vết tích hiện nay vẫn còn thấy ở Quảng Trị, Ninh
Thuận, Bình Thuận…
Nghề làm gốm cũng rất phát triển, đa dạng phong phú về kiểu loại, trang
trí, tiến bộ về kĩ thuật (lọc đất, bàn xoay, lửa nung khống chế đều…). Bên cạnh
việc kế thừa một số loại hình gốm gia dụng của văn hóa Sa Huỳnh, người Chăm
đã sớm tiếp thu và phát triển những kĩ thuật làm gốm ngoại nhập từ Trung Hoa,
Ấn Độ, Đông Nam Á. Những tư liệu khảo cổ học gần đây ở Quảng Trị, Quảng
Nam, Quảng Ngãi… cho thấy bên cạnh gốm thô kiểu Sa Huỳnh còn có gốm
Trung Hoa (Hán - Đường), gốm Ấn (tuy ít ỏi) và đặc biệt gốm Chăm làm theo
kiểu Hán - Lục Triều mà điển hình là các loại vò trang trí văn in ô vuông, ô trám
lồng, loại bình có quai hình đỉa tựa như loại hồ (Trung Hoa). Bên cạnh đó người
Chăm sản xuất và sử dụng rộng rãi Kendi, Cà ràng, những kiểu đồ gốm phổ
biến khắp vùng Đông Nam Á.
Bên cạnh nghề gốm, nghề kim hoàn cũng rất phát triển, ngoài việc chế tác
và sử dụng đồ trang sức bằng đá mã não và thuỷ tinh giống như người Sa
Huỳnh, cư dân Chămpa đặc biệt ưa thích những đồ trang sức, trang trí bằng
vàng như hạt chuỗi, nhẫn, khuyên tai, trang sức chạm đá quý… Bên cạnh đó họ
cũng sản xuất và sử dụng những bộ đồ lễ, đồ thờ bằng vàng, bạc, đồng thau với
kích thước lớn, trang trí tinh xảo và nhiều kiểu dáng. Thư tịch cổ Trung Hoa
còn ghi lại những đền đài Chăm bị phá, các bức tượng bị nấu thành thoi - được
100 ngàn cân vàng nguyên chất. Hiện nay, nhiều hiện vật bằng vàng, bạc, đồng
của Chămpa được lưu giữ trong kho của các dòng họ Chăm, trong các sưu tập
tư nhân.
Sự giàu có, phong phú cho thấy cư dân Chăm đã có cơ cấu kinh tế thích
hợp. Người Chăm có cái nhìn hướng biển, dù nền văn hóa của họ là nền văn hóa
đa sắc thái, song vượt trội là sắc thái biển. Cư dân Chăm cổ thường xuyên có
mặt ngoài khơi, ngoài đảo xa, đánh cá, buôn bán, thường xuyên trao đổi kinh tế
– văn hóa với thế giới hải đảo Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương. Bờ biển miền
Trung đã nổi tiếng trong lịch sử cổ trung đại với những hệ cảng thị, với nhiều

81
cảng (sông - biển) và nhiều thị (sông - biển), từng được ghi vào hải đồ của
những thương nhân Ấn Độ, Trung Hoa, Ảrập mà điển hình là cảng Hội An,
cảng Thị Nại.
3.3. Văn hóa Óc Eo
3.3.1. Bối cảnh lịch sử văn hóa
Óc Eo là tên một di tích khảo cổ học ở cánh đồng Giồng Cát - Giồng
Xoài tiếp giáp về phía Đông và Đông Nam núi Ba Thê, nay thuộc xã Vọng Thê,
huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Mùa xuân năm 1944 nhà khảo cổ học Pháp L.
Malleret đã tiến hành khai quật ở đây. Từ sau cuộc khai quật này bắt đầu xuất
hiện khái niệm văn hóa Óc Eo. Tới nay, hàng trăm di tích của nền văn hóa này
đã được phát hiện và khai quật ở hầu khắp các tỉnh Đông Nam Bộ và Tây Nam
Bộ. Việc khai quật có hệ thống trong những năm sau 1975 các di tích văn hóa
Óc Eo của các nhà khảo cổ học Việt Nam đã đem lại cho chúng ta những nhận
thức đầy đủ hơn về nền văn hóa này như nguồn gốc, niên đại, phạm vi phân bố,
loại hình di tích, di vật, đời sống văn hóa xã hội…
3.3.2. Đặc trưng văn hóa
Cư dân Óc Eo cư trú trên một địa bàn rộng lớn, ở nhiều tiểu vùng sinh
thái khác nhau và ở mỗi tiểu vùng này có những đặc trưng riêng về xây cất nhà
ở, đền tháp, cách thức làm ăn, đi lại.
Tiểu vùng tứ giác Long Xuyên. Vào những năm 1931-1936, P.Paris đã
nhận biết trên không ảnh 30 đường nước cổ, đây là nơi tập trung các di tích lớn
như Óc Eo - Ba Thê, Đá Nổi, những di tích này nằm ở vị trí giao hội của các
đường nước. Theo L.Malleret, bản thân Óc Eo là “thị cảng”. Ngoài ra, trong khu
tứ giác Long Xuyên có các di tích cư trú nhà sàn, xưởng thủ công, kiến trúc đền
thờ, đền tháp, mộ hỏa táng.
Tiểu vùng Đồng Tháp Mười: Di tích phân bố ở nhiều vị trí khác nhau. Di
tích có quy mô nhỏ. Dân cư sống ở trên nhà sàn hoặc nhà đất. Ngoài ra, còn có
kiến trúc đền tháp, mộ hoả táng, bia kí.

82
Tiểu vùng ven biển Tây Nam (vùng U Minh - Năm Căn): Di tích đều tập
trung ở vùng trũng. Ở đây có di tích nhà sàn, kiến trúc đá, mộ táng, bệ thờ,
tượng thần. Đặc biệt là 10 di cốt cá thể người. Cạnh Đền là di tích lớn nhất, có
thể là “cảng khẩu”.
Tiểu vùng rừng sác Duyên Hải: Di tích là những gò đất đắp nổi cao hơn
mặt biển từ 1-3m, rộng từ 200 - 600m2. Đó là các di tích “Giồng”. Qua di vật,
người ta thấy đây là nơi giao tiếp giữa văn hóa Óc Eo, Đồng Nai và Sa Huỳnh.
Tiểu vùng ven biển Đông – từ sông Tiền đến Minh Hải: Các di tích Óc Eo phân
bố ở đồng bằng ven biển, giáp sông Tiền và sông Hậu, ở các giồng cao và các
trũng thấp kế cận. Ở đây có các kiến trúc lớn như Lưu Cừ II, Trà Cú, Gò Thành,
di tích mộ táng, minh văn chữ Phạn, di tích cư trú.
Tiểu vùng Đông Nam Bộ: Đây là vùng chuyển tiếp từ cao nguyên xuống
đồng bằng sông Cửu Long. Di tích di vật Óc Eo phân bố rải rác, có kiến trúc
gạch đá hỗn hợp tượng thần như di tích Gò Cây Mai, Bình Tả, Gò Xoài. Các di
tích văn hóa Óc Eo ở Đông Nam Bộ, thường tập hợp thành cụm kiến trúc. Mỗi
kiến trúc nằm trên một gò đất đắp nổi. Loại di tích phổ biến là đền tháp. Theo
nghiên cứu gần đây ở đất Đông Nam Bộ đặc biệt phát triển các di tích giai đoạn
muộn từ thế kỉ VII và được gọi là văn hóa hậu Óc Eo. Trong đó vùng Biên Hòa,
Long Thành là một trung tâm phát triển ở hạ lưu sông Đồng Nai - Cận biển,
Vùng Nam Cát Tiên là một trung tâm lớn ở trung lưu - nội địa, hợp thành thế
cân bằng cho sự tồn tại và phát triển của văn hóa này!
Như vậy địa bàn sinh tụ của cư dân văn hóa Óc Eo rất rộng lớn, họ giỏi
thích ứng với những hoàn cảnh sinh thái khác nhau để tạo lập cuộc sống ổn định
và xây dựng, phát triển kinh tế - văn hóa đặc sắc của mình. Các nhà khảo cổ đã
tìm được hàng loạt di tích, di vật nói lên trình độ phát triển cao, quy mô rộng
lớn và rất đa dạng của công việc xây dựng thời Óc Eo. Người Óc Eo ở nhà đất
và nhà sàn, phổ biến là nhà sàn. Dấu tích nhà sàn (cột gỗ, sàn nhà, mái nhà (mái
lá dừa nước) đã được ghi nhận ở các di tích Óc Eo, Lung Giếng Mé, Đá Nổi
(An Giang), Nền Chùa, Cạnh Đền (Kiên Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp)… nhà

83
sàn được dựng thành cụm kéo dài hàng cây số dọc Lung Giếng (Óc Eo - Ba
Thê), hoặc thành từng vùng rộng gần 1000 m2 (Lung Giếng Mé). Cư dân Óc Eo
xây dựng nhiều công trình phục vụ tôn giáo, tang ma như đền thờ, đền tháp và
mộ hoả táng. Rất tiếc rằng, hầu như các công trình đã bị phá hủy gần hết, chỉ
còn móng, nền. Các công trình này có quy mô lớn, diện tích rộng, xây dựng
kiên cố bằng gạch, ngói, đá. Đặc biệt là các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát
hiện được loại hình mộ táng mà các học giả Pháp chưa biết đến. Những ngôi mộ
này hầu hết được ốp đá hay gạch ở mặt trên tạo thành một bề mặt khá bằng
phẳng. Huyệt mộ cũng có nhiều loại: hình vuông, hình chữ nhật và hình phễu.
Vách mộ được kè đá hay xây gạch. Đô thị đã xuất hiện nhiều, đó là các khu dân
cư lớn như Óc Eo – Ba Thê, Cạnh Đền… Ở những nơi này có đủ các dạng kiến
trúc như nhà ở của dân cư, đền tháp, xưởng thợ, mộ hỏa táng.
Người Óc Eo trồng trọt trên nhiều loại thổ nhưỡng khác nhau, chủ yếu là
trồng lúa. Lúa có nhiều loại khác nhau, có loại lúa hạt tròn, lúa bản địa, có loại
lúa hạt dài - lúa ngoại nhập, có loại lúa hoang dại. Lúa được gieo cấy ở ruộng
rẫy hay ruộng trũng. Hình thành những trang trại lớn, có vườn tược, kênh đào.
Đã tìm thấy lúa gạo trong các di tích, minh văn và thư tịch cổ cũng nói về nghề
trồng lúa của Óc Eo. Ngoài trồng lúa, cư dân Óc Eo còn trồng dừa, mía, cau và
nhiều loại cây quả khác. Hoạt động chăn nuôi thuần dưỡng khá phát triển. Ở các
di tích đã tìm thấy nhiều di cốt động vật như trâu, bò, lợn, chó…
Các nghề thủ công phát triển cao, rất đa dạng và tinh xảo. Qua các di tích,
di vật có thể thấy được sự tồn tại và phát triển của các nghề thủ công sau:
– Nghề làm đồ trang sức, nhất là trang sức bằng vàng. Đã tìm thấy nhiều di chỉ
xưởng ở các khu dân cư lớn như Óc Eo-Ba Thê (An Giang), Nền Chùa, Cạnh
Đền (Kiên Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp), Gò Hàng (Long An). Đồ trang sức
bằng vàng có rất nhiều loại, được chế tác bằng nhiều kĩ thuật khác nhau, gồm có
loại hình trang sức như nhẫn, hoa tai, hạt chuỗi… và các lá vàng rất đa dạng và
phong phú về loại hình, đề tài chạm khắc. Phần lớn là: những biểu tượng thuộc
Bàlamôn giáo và Phật giáo. Ta gặp trên các lá vàng hình người mà chủ yếu là

84
hình các thần, hình động vật như bò, voi, lừa, rắn, cá, ốc, hình hoa sen, hình
bánh xe và nhiều lá vàng có khắc chữ. Đồ sộ nhất là bộ sưu tập tại di tích Đá
Nổi (317 hiện vật). Trong ngôi mộ số 2 Đá Nổi đã phát hiện một linga bằng
vàng gắn trên bệ đồng (cao 0,104 m); linga đâm xuyên qua một lá vàng mỏng
tượng trưng cho màng trinh; một hình ảnh cụ thể sinh động về quan niệm và
nghi thức thờ linga ở thời đại đó. Ngoài đồ trang sức bằng vàng còn có nhiều
loại bằng đá quý, thủy tinh gồm các loại hạt chuỗi, cườm tấm, hạt chuỗi lưu li,
thạch anh, thủy tinh, mã não, đá màu da cam… được chế tác rất công phu; có
loại cườm đường kính chỉ 1mm. Các loại hạt chuỗi được ghép bằng nhiều chất
liệu và màu sắc khác nhau, có loại được tách và mài từ đá cứng. Nhiều viên đá
quý được tìm thấy trong tầng văn hóa và trong các ngôi mộ từ loại trong suốt
cho đến các loại màu xanh lơ, xanh nước biển, màu da cam, màu hồng, phớt
tím, hồng tím. Ngoài ra còn có những con dấu trên có khắc hình người, sư tử
hay bò, hình thuyền hoặc có chữ.
Nghề gia công kim loại màu, nhất là hợp kim thiếc cũng rất độc đáo. Dấu
tích xưởng sản xuất thấy ở Óc Eo - Ba Thê, Đá Nổi, Cạnh Đền. Đồ thiếc phong
phú đa dạng đến mức, có người coi văn hóa Óc Eo là văn hóa đồ thiếc.
Nghề chế tác đá bao gồm chế tác đồ gia dụng và điêu khắc đá cũng rất
phát triển. Đồ gia dụng có các loại hình cối, chày, bàn nghiền. Các bức tượng
Phật, Thần tìm thấy hầu hết ở các di tích.
Nghề làm gốm cũng là một nghề khá phát triển. Đồ gốm đa dạng phong
phú về hình loại, được chế tác bằng bản xoay, màu sắc đẹp, đều. Phổ biến là
loại hình cà ràng, chén bát, bình vò, bát bồng, chai gốm… Bên cạnh đó là nghề
sản xuất vật liệu xây dựng phục vụ cho việc xây dựng đền thờ, đền tháp, mộ hỏa
táng.
Ngoài các hoạt động sản xuất, hoạt động trao đổi buôn bán cũng khá phát triển
ở cư dân Óc Eo. Khảo sát các di tích, các nhà khoa học đã cho biết có nhiều
đồng tiền vàng, đồng, thiếc (có những đồng được cắt đôi, cắt tư, cắt tám để làm
tiền lẻ) đã được tìm thấy.

85
Căn cứ vào sử liệu cổ văn tự, đặc điểm trang trí, đồ gốm… và đặc biệt là
những kết quả phân tích C14 của các địa điểm cho thấy niên đại từ thế kỉ I sau
công nguyên đến thế kỉ thứ VIII sau công nguyên nói chung là phù hợp với niên
đại văn hóa Óc Eo.
Trước đây, người ta thường cho rằng chủ nhân của nền văn hóa này là tổ tiên
của người Khơ me. Nhưng những nghiên cứu và những khám phá khảo cổ học
gần đây đã chứng minh ngược lại. Trước hết, tất cả những di tích thuộc văn hóa
Óc Eo có thể dễ dàng nhận thấy là khác biệt với văn hóa Khơ me. Những di vật
Tiền Óc Eo là ở Gò Cây Tung (An Giang), Gò Cao Su (Long An), Giồng Cá Vồ
(Cần Giờ - Thành phố Hồ Chí Minh)… đặc biệt là bôn có mỏ, rìu tứ giác và
gốm văn in là đặc trưng cho vùng bán đảo Mã Lai và Giava là những nơi người
nói tiếng Nam Đảo cư trú. Hơn nữa từ sự phân tích các sọ cổ và xương người cổ
ở những di tích văn hóa Óc Eo, các nhà nghiên cứu đều thống nhất, đây là thuộc
giống người Inđônêxia. Do đó có thể nghĩ rằng cư dân chủ nhân văn hóa Óc Eo,
hay là bộ phận lớn của nó, là nói tiếng Nam Đảo.
Với những khám phá mới gần đây về các di tích, di vật của giai đoạn tiền
Óc Eo, GS. Hà Văn Tấn cho rằng có một hay những con đường tiến lên văn hóa
Óc Eo từ di chỉ thời đại kim khí, đặc biệt là các di chỉ thời đại sắt ở Nam Bộ. Có
nghĩa là có thể tìm được cội nguồn văn hóa Óc Eo từ bản địa. Nhưng đồng thời
ngay ở giai đoạn tiền Óc Eo đã thấy có ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Ảnh
hưởng của văn hóa Ấn Độ đến văn hóa Óc Eo chỉ là sự tăng cường các ảnh
hưởng đã có từ trước.
KẾT LUẬN
Thiên niên kỉ đầu công nguyên đi qua trên đất Việt Nam với ba nền văn
hóa: Văn hóa ở châu thổ Bắc Bộ, văn hóa Chămpa và văn hóa Óc Eo. Diễn trình
của văn hóa Việt Nam chính là tổng hòa diễn trình của ba nền văn hóa này.
Mặt khác, nội tại ba nền văn hóa cũng có những nét khác nhau, do đặc thù xã
hội, lịch sử từng vùng.

86
Ở châu thổ Bắc Bộ, Bắc thuộc và chống Bắc thuộc là vấn đề cơ bản của
thời đại. Bởi vậy mà sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa cũng diễn ra dưới sự chi phối
này.
Trong khi đó, văn hóa Chămpa ở Trung Bộ, văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ lại
tiếp xúc một cách tự nhiên với văn hóa Ấn Độ, khiến cho chúng có gương mặt
riêng với những đặc điểm riêng.
Dù vậy, diễn trình lịch sử của ba nền văn hóa này vẫn có nét chung của
cơ tầng văn hóa Đông Nam Á và sẽ phát triển ở giai đoạn sau.
CÂU HỎI
1. Trình bày những nét đặc trưng của văn hóa Bắc Bộ trong thiên niên kỉ đầu
công nguyên.
2. Sự truyền bá của Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo ở Việt Nam trong giai
đoạn này.
3. Trình bày những nét đặc trưng của văn hóa Chămpa, văn hóa Óc Eo ở thiên
niên kỉ đầu công nguyên.
4. Lấy ví dụ ở văn hóa giai đoạn này chứng tỏ:
-Thế nào là giao lưu văn hóa cưỡng bức?
- Thế nào là giao lưu văn hóa tự nguyện?

87
Chương 4
VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI KỲ QUỐC GIA ĐẠI VIỆT
(TỪ NĂM 939 ĐẾN NĂM 1883)
(Tổng số giờ 08; lý thuyết:04, bài tập/thảo luận: 02, thực tế: 02)
YÊU CẦU
- Người học nhớ và hiểu được phân kỳ, bối cảnh lịch sử văn hóa, đặc
trưng văn hóa Việt Nam thời kỳ quốc gia Đại Việt (từ năm 939 đến năm 1883).
- Người học đánh giá được vai trò của văn hóa thời kỳ quốc gia Đại Việt
(từ năm 939 đến năm 1883) trong lịch sử văn hóa dân tộc.
4.1. Bối cảnh, đặc điểm lịch sử văn hóa
4.1.1. Bối cảnh
Trên mảnh đất Việt Nam ngày nay, từ thế kỉ X đến năm 1858, ba nền văn
hóa ở thiên niên kỉ đầu công nguyên đã diễn ra ba sự phát triển khác nhau.
Nền văn hóa Óc Eo ở đồng bằng sông Cửu Long, sau thế kỉ thứ VIII,
dường như chỉ còn ánh hào quang, không thấy còn được nhắc nhở trong thư tịch
và tư liệu nữa.
Trên dải đất Trung Bộ, từ năm 1471, Chămpa đã chấm dứt sự tồn tại của
mình như một vương quốc. Cư dân Chămpa trở thành một tộc người trong đại
gia đình các dân tộc Việt Nam. Nền văn hóa Chămpa trở thành nền văn hóa của
một tộc người trong nền văn hóa đa tộc người ở Việt Nam.
Bởi vậy, khi nói về văn hóa từ năm 939 đến năm 1883, giáo án chỉ dừng
ở văn hóa Đại Việt / Việt Nam.
Thời tự chủ của quốc gia Đại Việt kéo dài suốt gần một thiên niên kỉ, từ
năm 938 cho đến năm 1858. Giai đoạn này có nhiều biến đổi tự thân trong nội
bộ quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng lại là thời kì có biến đổi nhiều từ ngoại
cảnh.
Sau chiến thắng Bạch Đằng, Đại Việt bước vào thời kì xây dựng quốc gia
độc lập. Mở đầu là nhà Ngô, năm 939, Ngô Quyền không xưng là Tiết độ sứ
nữa mà xưng là Ngô Vương và định đô ở Cổ Loa. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp

88
loạn tan 12 sứ quân, thu giang sơn về một mối, đặt kinh đô ở Hoa Lư, đặt tên
nước là Đại Cồ Việt, xây dựng quốc gia, củng cố chính quyền. Năm 981, Lê
Hoàn kế thừa quốc gia của nhà Đinh lập ra nhà Tiền Lê. Năm 1010, nhà Lý lên
ngôi, dời đô về Đại La, đổi tên thành này là thành Thăng Long, năm 1054, đổi
tên nước là Đại Việt. Năm 1226, nhà Trần thay nhà Lý. Năm 1400, nhà Hồ thay
thế nhà Trần để rồi đất nước Đại Việt rơi vào tay quân xâm lược nhà Minh.
Năm 1428, sau một thời gian dài kháng chiến, Lê Lợi giành lại độc lập cho đất
nước, lên ngôi vua, lập ra nhà Lê. Năm 1527, nhà Mạc giành ngôi của nhà Lê,
sau đó là thời kì Nam Bắc triều và xung đột Lê -Mạc. Từ năm 1570 đến năm
1786, Đàng Trong và Đàng Ngoài xung đột, giữa một bên là nhà Lê - Trịnh và
một bên là chúa Nguyễn. Năm 1771, anh em Tây Sơn khởi nghĩa, lập lại nền
thống nhất đất nước vào năm 1786. Năm 1802, nhà Nguyễn thắng thế, đặt nền
cai trị của mình trên toàn bộ đất nước. Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm
lược Việt Nam. Cho đến năm 1883, Pháp kí với triều Nguyễn Hiệp ước Quý
Mùi, còn gọi là Hiệp ước Hác - măng, chính thức đặt ách thống trị lên toàn cõi
Việt Nam, kết thúc thời kì tự chủ của các triều đại quân chủ Việt Nam từ năm
938 cho đến đây.
4.1.2. Đặc điểm lịch sử văn hóa
Như đã trình bày ở trên, diễn trình lịch sử của Việt Nam từ năm 938 đến
năm 1883 diễn ra với những đặc điểm sau:
- Các vương triều liên tục thay thế nhau xây dựng một quốc gia tự chủ.
Sự thay thế các vương triều không làm đứt đoạn lịch sử mà vẫn khiến cho lịch
sử là một dòng chảy liên tục.
- Đất nước được mở rộng dần về phương Nam, đến giữa thế kỉ XVIII,
việc khai phá miền Nam Bộ đã cơ bản hoàn thành. Sau năm 1786 và năm 1802,
đất nước Việt Nam đã có một lãnh thổ thống nhất từ Mục Nam Quan đến mũi Cà
Mau.

89
Mặt khác, thời kì này cũng có khá nhiều biến đổi từ ngoại cảnh, chủ yếu
là các cuộc xâm lược liên tiếp của phong kiến phương Bắc và những cuộc chiến
tranh bảo vệ đất nước của cư dân Việt.
Bắt đầu từ năm 981, nhà Tiền Lê đã phải đương đầu với sự xâm lược của
nhà Tống. Từ năm 1075 đến năm 1077, nhà Lý lại phải chiến đấu chống quân
xâm lược Tống. Năm 1258, quân dân nhà Trần bước vào kháng chiến chống
quân Nguyên lần thứ nhất. Năm 1285, cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
nhà Nguyên lần thứ hai lại nổ ra và kết thúc với những chiến thắng vẻ vang.
Năm 1288, lần thứ ba giặc Nguyên Mông lại xâm lược Đại Việt để rồi chịu thất
bại trước lòng yêu nước vô bờ của quân dân nhà Trần. Năm 1406, giặc Minh
xâm lược và đô hộ Đại Việt. Nghĩa quân Lam Sơn sau mười năm “nếm mật
nằm gai”, “căm giặc nước thề không cùng sống” đã làm nên chiến thắng, quét
sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước ta vào năm 1428. Năm 1784, quân Xiêm
tràn vào xâm lược vùng Nam Bộ, với tài thao lược của Nguyễn Huệ và lòng yêu
nước vô bờ bến của người dân, dân tộc ta lại chiến thắng vẻ vang. Năm 1788,
giặc Thanh ào ạt xâm lược Bắc Bộ, một lần nữa, người anh hùng áo vải Tây
Sơn, với sự can trường quả cảm của trăm họ lại lập nên kì tích vào năm 1789.
Như thế, liên tục chống xâm lược là một nét đặc biệt của lịch sử Việt
Nam thời tự chủ. Người dân cũng như các vương triều đều phải tiến hành cuộc
chiến đấu tự bảo vệ mình và cộng đồng. Đó là thời kì lịch sử biến động dữ dội,
đầy bão táp. Bọn xâm lược, dù được màu áo của vương triều nào, dù đến từ
chân trời nào đều có chung một ý tưởng: hủy hoại nền văn hóa của cộng đồng
cư dân bị chúng xâm lược. Thế nhưng, người dân Việt mỗi lần bị xâm lăng là
một lần trỗi dậy, chứng tỏ lòng yêu nước bất khuất của mình. Văn hóa Việt lại
trỗi dậy, vươn lên, đạt đến những đỉnh cao. Do đó, khi nhìn nhận văn hóa Việt
Nam thời tự chủ, các nhà nghiên cứu thường khẳng định rằng có ba lần phục
hưng văn hóa dân tộc:
- Lần thứ nhất vào thời Lý–Trần. Sự phục hưng này diễn ra sau khi đất
nước được giải phóng khỏi ách Bắc thuộc.

90
- Lần thứ hai vào thế kỉ XV, sau khi giặc ngoại xâm bị quét sạch ra khỏi
bờ cõi, thì văn hóa dân tộc bước vào thời kì phục hưng từ đời Lê Thái Tổ đến
đời Lê Thánh Tông.
- Lần thứ ba vào cuối thế kỉ XVIII, một lần nữa văn hóa dân tộc lại có sự
phục hưng mãnh liệt. Mỗi lần phục hưng văn hóa dân tộc như thế, văn hóa Việt
Nam lại có những thay đổi cả về lượng lẫn về chất, mà chúng ta chỉ có thể nhìn
rõ khi xem xét từng giai đoạn văn hóa.
4.2. Đặc trưng văn hóa thời kỳ từ năm 939 đến năm 1883
4.2.1. Văn hóa vật chất
4.2.1.1. Sản xuất nông nghiệp
* Nghề trồng lúa nước
Nếu ruộng lúa nước là cơ sở tự nhiên thì tổ chức làng Việt là cơ sở xã hội
của văn minh lúa nước. Các tổ chức làng xóm chỉ phổ biến khi việc trồng lúa
nước đã phát triển khá. Để khai khẩn một cánh đồng lúa nước, phải làm nhiều
việc: chặt cây, đắp bờ, khai mương, đào ngòi, đắp đập, giữ nước, chông lụt,
chống hạn,... Những việc làm này đòi hỏi sức lao động của nhiều người, nhiều
nhà, phải có sự chỉ huy thống nhất. Làng càng đông dân, việc khẩn hoang, khai
thác ruộng nước càng phát triển; và nghề trồng lúa phát triển, lương thực ngày
càng có nhiều hơn thì làng lại phát triển thêm, dân số đông hơn, cuộc sống được
tổ chức tốt hơn. Trong thời Đại Việt, nước ở trên làng, nhưng làng có tính tự trị
và độc lập tương đối. Nhiều lần trong thời Đại Việt, nhà nước phong kiến mất,
bị , đổ nhưng làng không bao giờ mất, không bị xáo trộn lớn. Khi đất nước có
giặc ngoại xâm, làng cung cấp quân lính, sức người, sức của cho cuộc kháng
chiến. Nhà nước quân chủ cũng có ảnh hưởng đáng kể đến làng. Thời Lê Thánh
Tông, triều đình đã ra lệnh thể chế hóa hương ước. Nhà nước quân chủ đã tác
động tích cực đến sản xuất nông nghiệp nói chung, nghề trồng lúa nước nói
riêng. Nhà Đinh tổ chức khai khẩn vùng đồng bằng ven biển. Vua Lê Đại Hành
đích thân đi cày ruộng tịch điền ở Đọi Sơn, Bản Hải (thuộc vùng Duy Tiên, tỉnh
Hà Nam ngày nay). Nhà vua đã cho đào sông ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An

91
nhằm phục vụ giao thông và lấy nước tưới cho đồng ruộng. Dưới triều Lý, nam
giới được chia thành ba loại dân đinh: tiểu hoàng nam, hoàng nam và đại hoàng
nam. Tiểu hoàng nam được rèn luyện làm ruộng từ năm 17 tuổi. Quân lính hằng
tháng được thay phiên nhau về quê sản xuất nông nghiệp. Trâu bò là sức kéo
quan trọng, được pháp luật bảo vệ. Những kẻ ăn trộm trâu bò bị xử phạt nặng.
Việc giết mổ trâu bò để ăn thịt bị hạn chế. Những kẻ trộm cắp thóc lúa bị
nghiêm trị. Dưới thời Trần, triều đình chú trọng đến việc đắp đê phòng lụt, đặt
ra chức Hà đê chánh sứ và phó sứ để trông coi đê điều, đôn đốc dân chúng đắp
đê, sửa đê, trông coi đê. Vua nhà Trần đã có lần tự mình trông nom việc đắp đê,
Đến đời Trần, hệ thống đê dọc các sông lớn về cơ bản đã được xây dựng và
hằng năm được bồi trúc thêm. Nhà Lê thực hiện chế độ quân điền (ban hành
năm 1429), chính sách khẩn hoang, rất coi trọng việc tu bổ đê điều, đào xóm chỉ
phổ biến khi việc trồng lúa nước đã phát triển khá. Để khai khẩn một cánh đồng
lúa nước, phải làm nhiều việc: chặt cây, đắp bờ, khai mương, đào ngòi, đắp đập,
giữ nước, chông lụt, chống hạn,... Những việc làm này đòi hỏi sức lao động của
nhiều người, nhiều nhà, phải có sự chỉ huy thống nhất. Làng càng đông dân,
việc khẩn hoang, khai thác ruộng nước càng phát triển; và nghề trồng lúa phát
triển, lương thực ngày càng có nhiều hơn thì làng lại phát triển thêm, dân số
đông hơn, cuộc sống được tổ chức tốt hơn. Trong thời Đại Việt, nước ở trên
làng, nhưng làng có tính tự trị và độc lập tương đối. Nhiều lần trong thời Đại
Việt, nhà nước phong mất, bị , đổ nhưng làng không bao giờ mất, không bị xáo
trộn lớn. Khi đất nước có giặc ngoại xâm, làng cung cấp quân lính, sức người,
sức của cho cuộc kháng chiến. Nhà nước quân chủ cũng có ảnh hưởng đáng kể
đến làng. Thời Lê Thánh Tông, triều đình đã ra lệnh thể chế hóa hương ước.
Nhà nước quân chủ đã tác động tích cực đến sản xuất nông nghiệp nói chung,
nghề trồng lúa nước nói riêng. Nhà Đinh tổ chức khai khẩn vùng đồng bằng ven
biển. Vua Lê Đại Hành đích thân đi cày ruộng tịch điền ở Đọi Sơn, Bản Hải
(thuộc vùng Duy Tiên, tỉnh Hà Nam ngày nay). Nhà vua đã cho đào sông ở
vùng Thanh Hóa, Nghệ An nhằm phục vụ giao thông và lấy nước tưới cho đồng

92
ruộng. Dưới triều Lý, nam giới được chia thành ba loại dân đinh: tiểu hoàng
nam, hoàng nam và đại hoàng nam. Tiểu hoàng nam được rèn luyện làm ruộng
từ năm 17 tuổi. Quân lính hằng tháng được thay phiên nhau về quê sản xuất
nông nghiệp. Trâu bò là sức kéo quan trọng, được pháp luật bảo vệ. Những kẻ
ăn trộm trâu bò bị xử phạt nặng. Việc giết mổ trâu bò để ăn thịt bị hạn chế.
Những kẻ trộm cắp thóc lúa bị nghiêm trị. Dưới thời Trần, triều đình chú trọng
đến việc đắp đê phòng lụt, đặt ra chức Hà đê chánh sứ và phó sứ để trông coi đê
điều, đôn đốc dân chúng đắp đê, sửa đê, trông coi đê. Vua nhà Trần đã có lần tự
mình trông nom việc đắp đê, Đến đời Trần, hệ thống đê dọc các sông lớn về cơ
bản đã được xây dựng và hằng năm được bồi trúc thêm. Nhà Lê thực hiện chế
độ quân điền (ban hành năm 1429), chính sách khẩn hoang, rất coi trọng việc tu
bổ đê điều, đào .
+Từ thế kỉ XI, ở châu thổ sông Hồng, nông dân hai làng Búng và La Vân
thuộc tỉnh Thái Bình đã gây bèo hoa dâu bón ruộng.
+ Qua Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn, chúng ta biết rằng, đến thế kỉ
XVIII, nông dân Đại Việt đã sử dụng gần 200 giống lúa các loại.
+ Ngoài yếu tố nước, phân cần giống, nghề làm ruộng còn đòi hỏi việc
trồng cấy phải hợp thời vụ. Thời vụ nông nghiệp do giống lúa, đặc điểm thổ
nhưỡng và khí hậu của từng địa phương quy định. Đại Nam nhất thống chí là bộ
sách được biên soạn dưới triều Tự Đức là bộ địa chỉ đầy đủ nhất trong thời quân
chủ. Nó là kết quả của sự tập hợp tài liệu địa phương chỉ và sự điều tra sưu tầm
công phu của những người được triều đình giao trách nhiệm biên soạn. Bộ sách
này đã ghi lại thời vụ làm ruộng ở từng tỉnh.
Thành tựu của văn minh lúa nước thời Đại Việt đã có ảnh hưởng tốt đến
Trung Quốc. Việc trồng lúa nước có từ lâu ở Hoa Nam, nhưng chỉ đặc biệt phát
triển nhanh trong đời nhà Tống (960 - 1206) sau khi nhập giống lúa thắng hạn
của Đại Việt. Giống lúa này thắng được nạn hạn hán và có chu kì sinh trưởng
ngắn ngày. Vì vậy, nó nhanh chóng được phổ biến ở đồng ruộng Trung Quốc và
khiến cho năng suất lúa tăng gấp bội.

93
* Bên cạnh nghề trồng lúa, cư dân Đại Việt còn trồng màu như ngô,
khoai, đỗ.
Cây ngô vốn có nguồn gốc từ châu Mĩ rồi sau đó được trồng ở Trung
Quốc. Khoảng đầu đời Khang Hy (1662 - 1723), Trần Thế Vinh, người huyện
Tiên Phong (hạt Sơn Tây), nay thuộc Hà Nội di sứ nhà Thanh lấy được giống,
đem về nước. Suốt hạt Sơn Tây, nhờ có ngô thay cơm gạo mà không bị đói.
Cây khoai lang vốn xuất xứ ở châu Mĩ, được truyền sang vùng Đông
Nam Á vào thế kỉ XVI. Khoảng niên hiệu Vạn Lịch (1573 - 1620) đời Minh,
ông Trần Ích, người Quảng Đông đem giống cây khoai lang từ Việt Nam tới và
ông Trần Trấn Long, người Phúc Kiến đem giống khoai lang từ Philippin về,
sau đó cây khoai lang được trồng rộng rãi ở vùng Quảng Đông, Phúc Kiến.
Ngoài cây lương thực, người Đại Việt còn trồng các loại cây khác. Cây
thuốc lá vốn xuất xứ ở châu Mĩ. Năm 1492, nhà hàng hải Colombo phát hiện
cây thuốc lá, từ đó cây thuốc lá được truyền đi khắp nơi trên thế giới. Lúc đầu
cây thuốc lá được truyền qua con đường Philippin sang Trung Quốc vào khoảng
niên hiệu Vạn Lịch đời Minh. Đến niên hiệu Thiền Khởi (1621 - 1627) đời
Minh cây thuốc lá lại được truyền từ Việt Nam sang vùng Quảng Đông (Trung
Quốc). Cuốn Cao Yếu huyện chỉ ở Quảng Đông chép rằng: “Thuốc lá xuất xứ ở
Giao Chỉ nay nơi nào cũng có”.
Cây chè có nguồn gốc từ nam Trung Hoa và bắc Đông Dương. Lê Quý
Đôn cho biết, sách Trà kinh của Trung Hoa đã viết về trà là một loại cây quý ở
phương Nam, cây như cây qua lô, lá như lá chỉ tử (dành dành), hoa như hoa
tường vi trắng, vị rất hàn. Trà kinh của Lục Ngũ đời Đường viết: “Qua lô ở
phương Nam... Người ta pha lấy nước uống thì suốt đêm không ngủ được. Giao
Châu và Quảng Châu thì rất quý trà ấy, mỗi khi có khách đến chơi thì pha mời”.
Các tỉnh vùng núi phía Bắc nước ta là quê hương của chè. Đến cuối đời Đường,
tục uống chè mới phổ biến ở Bắc Trung Hoa; đến thế kỉ VIII - XI mới truyền
sang Triều Tiên, Nhật Bản; thế kỉ XVI thương nhân Hà Lan mới đưa về châu
Âu. Còn Ấn Độ, Srilanka mới phổ biến trồng chè từ thế kỉ XIX 2.

94
Theo các nhà khoa học, cây bông ở Trung Quốc được nhập từ nước ngoài
qua ba con đường. Một trong ba con đường đó là từ Việt Nam qua đường biển
truyền sang đảo Hải Nam, Phúc Kiến và Quảng Tây,... Thứ vải được dệt bằng
loại bông đó được gọi là Việt bố (vải Việt). “Kĩ thuật trồng bông dệt vải từ
phương Nam du nhập sang Trung Hoa vào thế kỉ X, đến thế kỉ XI, vải bông trở
thành mốt đến nỗi người đương thời kêu là vải bông mặc kín cả thiên hạ”.
Lúa nước cấy ở ruộng còn cây chè, cây ăn quả trồng ở vườn. Cây mít có
nguồn gốc ở Ấn Độ. Theo nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền, chùa Bối Khê
(huyện Thanh Oai, Hà Nội ngày nay) có nhiều cột và hai chiếc bẫy đăng trước
làm bằng gỗ mít. Bối Khê là một trong ba ngôi chùa có niên đại Trần (1225 -
1400) còn lại đến ngày nay. Sách Ô châu cận lục (thế kỉ XVI) của Dương Văn
An đã nói đến mít ở nước ta. Năm 1621, nhà truyền giáo người Ý Cristophoro
Bori đến Đàng Trong, hết lời ca ngợi cái ngon của mít. Ông bảo Ấn Độ cũng có
mít nhưng mít ở đó không ngon băng mít Đàng Trong'. Còn nhà sư Trung Quốc
Thích Đại Sản đến Thuận Hóa năm 1695 lại không thích mít vì nó quá ngọt.
Quảng Nam và Nam Bộ có cây sầu riêng nổi tiếng. Năm 1621. C. Bori
đánh giá sầu riêng “là một trong những trái cây ngon nhất hoàn cầu”. Tác giả
cũng ca ngợi cam và dứa ở Đàng Trong
Cuối thế kỉ XVII, Thích Đại Sán đến Thuận Hóa, ông xác nhận quả vải
nước ta không ngon bằng quả vải Quảng Đông còn xoài của nước ta thì ngon
hơn xoài Quảng Đông.
4.2.1.2. Nghề thủ công và buôn bán
- Nghề thủ công: Dưới thời Đại Việt có rất nhiều nghề thủ công: nghề
chạm khắc và chế tác đá, nghề kim hoàn, nghề chạm vàng bạc, chạm khắc gỗ,
nghề khảm trai, nghề chằm nón, chằm áo tơi lá, nhà cửa), nghề mộc gia dụng
(đóng giường, tủ, bàn, ghế), nghề nghề làm nón, nghề dệt chiếu, nghề đan cỏ
bàng, nghề mộc (làm đóng thuyền, nghề làm chõng tre, nghề đan rổ rá, nghề thợ
nề, nghề đồng cối xay, nghề đúc đồng, gò đông, nghề rèn sắt, luyện sắt, nghề
gốm, nghề y, nghề khảm trai, nghề làm hương trầm, nghe cây mía nấu đường,

95
nghề chế biến nước mắm, nghề làm kẹo mạch nha, nghề làm gạch ngói, nghề
nung vôi, nghề đúc lưỡi cày, nghề làm lược, nghề thuộc da, nghề làm trống,
nghề làm giấy, nghề đặt vải, nghề đạt lụa, nghề thêu, nghề nhuộm,... Dưới thời
Đại Việt có thể nêu ra những làng nghề sau: làng Ngũ Xã đúc đồng (nay thuộc
Hà Nội), làng Vó đúc đồng, làng gỗ đồng Đại Bái (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh),
làng Nho Lâm luyện sắt và rèn đồ sắt (Nghệ An), làng Đa Sĩ rèn dao kéo, làng
nghề kim hoàn Định Công (nay thuộc Hà Nội), làng chạm bạc Đồng Xâm (nay
thuộc Thái Bình), làng gốm Bát Tràng (nay thuộc Hà Nội), làng gốm sành men
Phù Lãng (Bắc Ninh), làng gốm Trù Ú (Nghệ An), làng mộc Chàng Sơn (nay
thuộc Hà Nội), làng sơn quang Cát Đằng (Nam Định), làng dệt La Khê, làng dệt
Vạn Phúc (nay thuộc Hà Nội), làng dệt Quỳnh Đôi (Nghệ An), thôn Phú Diễn
chằm nón, chằm áo tơi (Phú Yên), thôn Văn Trai dệt chiếu (Nghệ An), vùng
Bưởi làm giấy dó (nay thuộc Hà Nội).
- Nghề đi buôn: Trong xã hội Đại Việt, trong dân chúng có các nhà nho
bình dân (không thành đạt, không tham chính), nông dân, thợ thủ công và người
buôn bán. Đến thời Trần những người bình dân giàu có đã có vị thế quan trọng,
thương gia lắm tiền chẳng cần đỗ trạng cũng được làm phò mã, tiền bạc đã
chứng tỏ sức hấp dẫn và sức mạnh của nó. Thế kỉ XVI, tại châu Ô (từ Quảng
Bình đến Quảng Nam ngày nay) đã có nhóm thương nhân đem hơn 20 con trâu
đi bán, sách Ô châu cận lục nhiều lần nhắc đến lái buôn, nghề buôn. Không chỉ
có người Việt, các dân tộc thiểu số như người Hoa, người Tày, người Thái cũng
biết buôn bán. Tại các đô thị Lạng Sơn, Phố Hiến, Hội An có nhiều người Hoa
buôn bán. Ở thế kỉ XV, Dư địa chỉ (của Nguyễn Trãi) đã nói đến sự có mặt của
các thương nhân người Hoa ở Thăng Long. Ở Hội An, từ cuối thế kỉ XVI đến
quá nửa đầu thế kỉ XVII, thương nhân người Hoa đóng vai trò quan trọng.
Cuối thế kỉ XVII, Lê Quý Đôn ghi nhận hoạt động buôn bán giữa người Việt
và các dân tộc thiểu số ở Đàng Trong.
Đến cuối thế kỉ XVIII, ở Bắc Bộ có làng buôn Đa Ngưu (Hưng Yên)
chuyên buôn bán thuốc Bắc, làng buôn Báo Đáp (Nam Định) buôn bán vải,

96
nhuộm vải thuê, làng buôn Phù Lưu (Bắc Ninh) buôn bán the lụa, làng buôn
Đan Loan (tỉnh Hải Dương) buôn bán vải và nhuộm vải. Ở các làng buôn này
bình quân đầu người ruộng đất rất ít, việc làm ruộng không tận dụng hết thời
gian và khả năng lao động của người dân. Nếu chỉ sản xuất nông nghiệp họ
không đủ ăn. Đến đầu thế kỉ XIX, tuyệt đại đa số ruộng đất ở các làng buôn
đã là ruộng tư. Làng buôn ra đời vừa là yêu cầu của xã hội vừa là hậu quả,
vừa là một giải pháp giải quyết tình trạng bế tắc của kinh tế tiểu nông trong
thời kì suy yếu của chế độ quân chủ Việt Nam. Tại các làng buôn vừa nêu, số
người buôn bán chiếm tuyệt đại đa số. Thành phần kinh tế nông nghiệp tuy bị
thu hẹp nhưng không bị loại trừ và luôn gắn chặt với nông nghiệp. Những
người buôn bán dù không còn trực tiếp làm ruộng nữa nhưng họ vẫn cố giữ
ruộng, thậm chí còn mua thêm ruộng.
4.2.1.3. Trang phục và nhà cửa
* Trang phục
- Trang phục trong triều đình
Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền lên ngôi vua và đã quy
định sắc màu, phẩm phục cho quan lại các cấp.. Nhìn chung các vua Ngô –
Đinh – Tiền Lê (ngoại trừ vua Lê Ngọa Triều cho đổi phẩm phục các quan văn
võ và tăng đạo theo đúng như nhà Tống) bên cạnh sự kế thừa đều ít nhiều có
những sáng tạo về loại hình, kiểu cách, màu sắc của trang phục so với phương
Bắc.
Đến thời Lý, năm 1029, vua Lý Thái Tông cho chế ra mũ bát quan văn võ. Năm
1040, triều đình chủ trương dùng gấm vóc trong nước để may lễ phục mà không
dùng gấm vóc của nhà Tống nữa. “Vua mặc áo màu vàng, quần tía, búi tóc, cài
trâm vàng. Quan lại, sĩ phu mặc áo dài thâm bốn vạt, cô cài khít, quần thâm, búi
tóc, cải trâm sắt, đâu quân khăn sa đen, đội nón chóp, đi dép da, tay cầm quạt
lông hạc”. Binh phục cũng khá là quy củ với mũ đâu mâu, áo giáp, dây lưng da,
đôi hia cao đến gần đầu gối. Thời Lý vẫn giữ tục xăm mình. Từ vua đến lính ai
cũng xăm mình. Trang phục trong iều Trần, triều Hồ về cơ bản kế thừa nhà Lý,

97
ngoại trừ ba đợt cải cách trang phục thường triều cho bá quan văn võ, lần đầu
năm 1254, lần hai vào năm 1301 và lần ba vào năm 1396.
Trang phục triều đình thời Lê sơ ban đầu tuân theo chế độ mũ áo nhà
Trần - Hồ. Sau, vào năm 1437, vua Lê Thái Tông đã chuẩn tấu cho du nhập một
phần chế độ phẩm phục của nhà Minh, mở đường cho việc triều đình tiếp tục du
nhập chế độ phẩm phục Bổ tử (năm 1471) và chế độ Ô sa (năm 1486). “Chế độ
Ô sa - Bổ phục là chế độ áo mũ có thể khu biệt khá kĩ chức tước, phẩm trật của
các quan, vậy nên nhà Thanh, nhà Triều Tiên, Lưu Cầu (nay là tỉnh Okinawa,
Nhật Bản) và nhà Nguyễn sau này đều tham chước mô phỏng”2. Thời Lê Trung
hưng, bá quan bên cạnh trang phục vào chầu vua còn có thêm trang phục vào
vương phủ hầu chúa. Chế độ phẩm phục hết sức hỗn loạn do tác động của
những rối ren về chính sự và sự cồng kềnh của bộ máy quan liêu. Với ý thức
khẳng định sự độc lập với triều đình phương Bắc và Đàng Ngoài, các chúa
Nguyễn và sau đó các vua nhà Nguyễn bên cạnh việc kế thừa chế độ áo mũ nhà
Lê, đã “tạo nên một cõi y quan văn hiến khác hẳn với các triều đại trước” thể
hiện qua sự phục sức uy nghi, lộng lẫy chưa từng thấy với những chiếc vương
miện, mũ Phốc đầu, Hồ đầu của bá quan được dát vàng bạc lấp lánh và những
tấm long bào ngập tràn hoa văn rồng mây, sóng nước.
- Trang phục của dân chúng
Văn hóa mặc truyền thống của người Việt trước hết phản ánh đặc điểm
của môi trường sống và sinh hoạt của cư dân nông nghiệp lúa nước. “Những đặc
điểm của cách mặc đó thể hiện rõ trong trang phục “cởi trần đóng khố” (nam
giới) và “váy vận yếm mang” (nữ giới) về sau trở thành một quan niệm về cái
đẹp: “Đàn ông đóng khố đuôi lươn, đàn bà yếm trắng hở lườn mới xinh”2.
Chiếc khổ có mặt từ thời vua Hùng. Cho đến thời kì Đại Việt, cả vua, quan, dân
đều còn đóng khố. Bộ sách Gia Định thành thông chỉ của Trịnh Hoài Đức (1765
- 1825) cho biết, ở Gia Định (tức Nam Bộ ngày nay), khi mới khai thác, có lưu
dân người Việt, người Hoa, người Khơme,... Các dân tộc khác mặc theo kiểu
của họ. “Duy có người Việt ta theo tục cũ Giao Chỉ: người quan chức thì đầu

98
đội khăn cao sơn (khăn đóng), mặc áo phi phong (áo dài), mang giày bì đà;
hạng sĩ thứ thì bới tóc, đi chân đất, trai gái đều mặc áo ngắn tay bâu cổ thẳng,
may kín hai nách, không có quần dài, quần ngắn, trai thì dùng một tâm vải buộc
từ lưng thẳng đến dưới háng vòng đến rún (rốn), gọi là cái khô, gái thì mặc váy
không gấp nếp, đội nón lá lớn”.
Từ thời kì văn hóa Đông Sơn, phụ nữ đã mặc váy và lỗi mặc được bảo lưu cho
tới nhiều thế kỉ sau này. Trong thể đối sánh với , kiến Trung Hoa thì rõ ràng
chiếc váy xứng đáng là một trong phong , biểu hiện của bản sắc dân tộc Việt:
“Cái thúng mà thủng hai đầu; bên ta thời có bên Tàu thời không”. Chẳng thế
mà, để thực những hiện âm mưu động hóa nham hiểm, lũ xâm lược phương Bắc
đã nhiều phen nhăm nhe đưa chiếc quần vào thay thế cho chiếc váy của ta.
Trong thời thuộc Minh, chiếc quần có lẽ đã phổ biến ở một bộ phận nữ giới, chủ
yếu thuộc tầng lớp thị dân nhưng vào năm 1665, khi nước nhà độc lập, vua Lê
Huyền Tông đã ra chiếu chỉ cấm phụ nữ không được mặc quần để bảo tồn quốc
tục. Vào thế kỉ XVIII, do mục đích chính trị (để cố tình tạo nên sự đối lập với
Đàng Ngoài), chúa Nguyễn đã hạ lệnh cho trai gái Đàng Trong “dùng quần Bắc
quốc để tỏ sự biến đổi”. Nhưng bất chấp tất cả, chiếc váy đã trở thành “một yếu
tố văn hóa đặc thù lâu đời của người Việt”?. Chiếu chỉ của vua Minh Mạng
(1828) về việc cấm dân mặc váy cùng với sự phản ứng quyết liệt của dân chúng
trước lệnh cấm đó, càng thêm chứng tỏ sức sống mạnh mẽ của chiếc váy cổ
truyền. “Kết duyên với chiếc váy là cái yếm. Cùng với chiếc váy, cái yếm đã trở
thành “đặc sản” thuần túy Việt Nam khi mà người Trung Quốc không có yếm
và không bao giờ mặc yếm. Trong lao động và sinh hoạt thường ngày, người
Việt cả nam lẫn nữ thường mặc một loại áo ngắn có hai túi phía trước, hai bên
hông có thể xẻ tà hoặc bít tà, ngoài Bắc gọi là áo cánh, trong Nam gọi là áo bà
ba.
Trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, quen trồng lúa nước, giỏi dùng
thuyền, người Việt thường để chân trần. Vua Lê Đại Hành (cuối thế kỉ X) có lúc
còn cởi trần, đóng khố, đi chân đất (bị sứ giả nhà Tống chế là quê mùa). Đến

99
đời Trần, dân chúng đều đi chân không, da chân rất dày nên trèo núi nhanh nhẹn
và không sợ chồng gai. Theo Cristophoro Borri, “người Đàng Trong không đi
dép cũng không đi giây, cùng lắm thì họ chỉ mang một miếng da buộc mây dây
lụa và khuy trên mu bàn chân như kiêu săn đan của ta (tức của người châu Âu -
V.H.H) để cho bàn chân không bị đâm Trịnh Hoài Đức cho biết, ngày trước,
người Hoa gọi dân Gia Định là dân xích cước (dân đi chân không) vì lúc đó chỉ
có quan quyền người giàu có phong lưu ở phố chợ mới đi giày mang tất. Đến
khi Trịnh Hoài Đức viết Gia Định thành thông chỉ (vào giữa các năm 1820 và
1822), tác giả đã thấy dân thường kể cả người làm thuê lẫn bọn tì nữ mang guốc
quai da, giày vải, do chịu ảnh hưởng của người Hoa. Tóm lại, người Việt cả
Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài đều để chân trần. Ở thành thị hoặc khi có dịp hội
hè đình đám quen thì người dân mới đi dép (dép da, dép dừa, dép cói...), đi guốc
(làm bằng gỗ), đi hài (đối với phụ nữ), đi giày (đối với nam giới).
* Nhà cửa
Nhà của đại đa số người Việt (là nông dân) phản ánh cách thích ứng với
môi trường tự nhiên của cư dân nông nghiệp trồng lúa.
Nhà ở dưới thời Lý - Trần (thế kỉ XI - XIV) là nhà nền đất bằng, mái
thấp, lợp tranh, nhà lợp ngói của dân hầu như không có. Đến những thế kỉ XV -
XVIII thời Lê - Nguyễn, người dân vẫn ở nhà nền đất bằng. Đến cuối thế kỉ
XVIII, trong sách Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn cho biết: huyện đường, phủ
đường đều làm bằng gỗ, lợp lá, lợp tranh theo quy định của nhà nước. Như vậy,
trong khoảng mười thế kỉ của thời kì này, nhà ở của người Việt chủ yếu là nhà
nền đất. Dù ở nhà nền đất, người Việt vẫn thích nhà cao cửa rộng. Đây là biện
pháp quan trọng để thích nghi với kiểu khí hậu nóng âm, nước ngập vào mùa
mưa rất điển hình của Việt Nam.
[Năm 1688, một viên sĩ quan người Anh tên là W, Dampier có dịp đến
Đàng Ngoài. Quan sát nhà ở của nông dân nơi đây, ông nhận xét: “Nhà thì nhỏ
và thấp, tường chỉ làm bằng bùn trát hoặc một tấm liếp gỗ, bên ngoài trát bùn,
mái lợp bằng rơm rất tồi tàn, nhất là ở nông thôn. Nhà thấp quá nên không có

100
gác, tuy vậy họ ngăn ra thành nhiều gian sát mặt đất với những tấm phên đan
bằng tre hay cọc được dùng vào nhiều việc khác nhau. Mỗi gian có một cửa sổ
để lấy ánh sáng. Những cửa sô này cũng chẳng là gì hơn là những lỗ đục vuông
xấu xí, ban đêm thì họ che bịt lại bằng một mảnh ván. Đồ đạc trong những gian
buồng ấy khá sơ sài”]
Trên phương diện quan hệ xã hội, tính chất xã hội, nếu như quy mô nhà
ở miền Bắc, miền Trung phản ánh chức tước, vị thế xã hội của gia chủ, thậm chí
việc xây dựng những dinh cơ gần như là một biệt lệ của tầng lớp quan chức
phong kiến thì quy mô nhà ở miền Nam lại chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế của mỗi gia đình”. Ở miền Bắc và miền Trung, luật lệ quy định nhà
thường dân không được làm kiểu chữ môn, chữ công, không được phép chạm
trổ hoặc xây cất to, cao hơn nhà quan trong khi ở Nam Bộ cũng vào thời đó vẫn
có những thường dân làm nhà kiểu này. Thời Tự Đức, ở đồng bằng sông Cửu
Long, có không ít nhà dân làm bằng gỗ quý, cột, vách đều được chạm trổ, cẩn
xà cừ... Nhìn chung, nếu như người nông dân miền Bắc, miền Trung khá quan
tâm đến nơi ăn chốn ở thì người miền Nam ít chăm chút nhà cửa hơn.
4.2.1.4. Đi lại và vận chuyển
* Hệ thống cầu đường
- Cho đến cuối thế kỉ X, ở miền Bắc nước ta đã hình thành một hệ thống
đường bộ gồm nhiều tuyến đường: tuyến đường bộ dọc theo sông Hồng từ Mê
Linh (thuộc Hà Nội ngày nay) lên đến vùng Côn Minh, Vân Nam (Trung Quốc)
và sang tận Mianma; tuyến đường bộ ven theo miền biển tỉnh Quảng Ninh ngày
nay tới Phả Lại - Lục Đầu rồi quặt vào miền châu thổ Bắc Bộ (chính là con
đường số 18 hiện nay); tuyến đường bộ từ châu thổ Bắc Bộ vào miền châu thổ
Bắc Trung Bộ, xuyên qua Tam Điệp (Ninh Bình) vào Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh; tuyến đường bộ từ Thăng Long qua Gối (tức đường số 6 ngày nay), về
sau, mở qua miền núi Thanh Hóa và Nghệ An; tuyến đường bộ từ núi Vụ Ôn
(Hương Sơn, Hà Tĩnh) vượt qua Trường Sơn sang tới Viên Chăn (thủ đô của
nước Lào ngày nay). “Nhìn chung, hệ thống tuyến giao thông vận tải đường bố

101
ở nước ta cho đến thế kỉ XIX có thể chia ra làm ba loại đường đường quốc lộ
(hay đường cái quan) là loại rộng nhất, dài nhất và là loại đường giao thông vận
tải chính của đất nước; đường hàng tỉnh Bà loại hạng vừa, nối liền các trấn, tỉnh
trong nước; đường hàng xã là loại hạng nhỏ, nối liền các thôn, xã, làng, bản lại
với nhau. Tình trạng này gần giống như ba loại đường sá ở nước Pháp giữa thế
kỉ thứ XIX đã được Mác, Ăngghen nhắc đến.
- Nhà nước quân chủ thường huy động sức dân vào việc bảo vệ và gia cố
đường bộ. Các sông ngòi chăng chịt đã chia cắt các mạng đường bộ. Để khắc
phục trở ngại này, người Đại Việt đã xây dựng nhiều cây cầu lớn, nhỏ. Sách Đại
Nam nhất thống chí đã ghi rõ số lượng cầu ở từng tỉnh. Bằng văn bia, người Đại
Việt ghi nhận công lao của những người đã bỏ tiền của hoặc tổ chức dân xây
dựng, sửa chữa cầu. Để ghi nhớ và trao truyền cho nhau những hiểu biết về
những quãng đường, về những cây cầu cùng những đặc điểm địa phương mà
khách bộ hành đã qua, dân chúng đã sáng tác nhật trình đường bộ (hoặc về
đường bộ).
* Các phương tiện giao thông đường bộ
Các phương tiện giao thông vận tải đường bộ ở thời Đại Việt gồm có các
loại võng, kiệu, cáng, quang gánh và xe cộ. Các súc vật như ngựa, voi, trâu và
cả sức người cũng được sử dụng trực tiếp như là những phương tiện vận tải.
Cáng, võng, kiệu đều là phương tiện giao thông vận tải trên bộ, dùng sức người
để chở vua, quan hoặc người giàu có. Còn chiếc quang (đồ dùng tết bằng những
sợi mây hoặc tre để đặt vật gánh) và chiếc đòn gánh là công cụ vận tải thô sơ
nhưng cơ động, phổ biến ở khắp Đại Việt. Qua tài liệu của một người Ý, chúng
ta biết ở nửa đầu thế kỉ XVII, voi ở Đàng Trong to gấp đôi voi ở Ấn Độ. Và khả
năng cùng cách chở người của voi thật là kì diệu: “Voi thường chở tới mười ba
hay mười bốn người, theo cách thức sau đây. Cũng như chúng ta thắng yên trên
lưng ngựa, người ta cũng đặt trên lưng với một bành lớn như cỗ kiệu trong đó
có bốn chỗ ngồi và người ta buộc bằng chão sắt luồn dưới bụng voi như yên và
đai ngựa. Bành có cửa mở hai bên và có thể chứa được sáu người, ngồi làm hai

102
hàng, mỗi hàng ba người, một người ngồi ở để điều khiển và chỉ huy gọi là quản
tượng. Không phải tôi chỉ đi đường bộ theo kiểu trên đây, nhưng đã có mấy lần
tôi theo đường thủy, qua một nhánh biển xa đất liền chừng hơn nửa dặm. Thật là
kì diệu đối với người chưa bao giờ thấy, đó là chứng kiến một khối thịt rất lớn,
rất to, chở một trọng lượng lớn như thế, lội trong nước như một chiếc thuyền có
chèo đun đẩy. Thực ra nó cũng cực lâm, phần vì phải mang một khối lớn phần
vì khó thở đến nỗi để cho bớt nhọc và được mát mẻ, nó dùng vòi lấy nước và
tung lên rất cao làm cho người ta có cảm tưởng là một con cá voi trong lòng
biển cả”. Không chỉ chở người, voi còn được dùng để kéo xe và vật nặng như
súng pháo, hỏa hổ (thời Tây Sơn) hoặc hàng hoá, kéo gỗ, chuyển gỗ.
Ngựa dùng để cưỡi, để kéo xe. Các tỉnh Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên
nuôi nhiều ngựa. Việt sử lược và Đại Việt sử kí toàn thư nhiều lần ghi lại những
sự việc trong thời Đại Việt liên quan đến ngựa.
Xe có từ thế kỉ X, lúc đầu chỉ là phương tiện dành cho vua, quan. Năm
1045, dưới triều vua Lý Thái Tông, đã chế tạo kiểu xe thái bình, dùng voi kéo.
Năm 1427, trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, hai ông Vũ Cự Luyện và Đoàn Lộ
chế tạo xe phần ôn và xe phi mã. Xe phần ôn có thể chở được mười chiến binh,
có bốn bánh xe, quanh xe chắn bằng da trâu thuộc để tránh đạn. Thời chúa
Nguyễn, tại vùng Thuận Quảng (Thuận Hóa và Quảng Nam) đã có những đội
vận tải bằng xe do trâu kéo.
Nhìn chung, cho đến thế kỉ XVIII - XIX, kĩ thuật chế tạo các phương tiện
giao thông vận tải đường bộ còn ở trình độ thô sơ, dùng sức người hoặc sức súc
vật là chính. Các xe cộ đều chưa có ổ trục, vòng bi nên độ ma sát lớn, làm giảm
tốc độ và khả năng chuyển tải.
* Đường sông, đường biển và các phương tiện giao thông trên sông, biển
- Ngoài các tuyến đường bộ, Đại Việt còn có một hệ thống giao thông
vận tải đường thuỷ dày đặc. Các dòng chảy tự nhiên của các sông lớn như sông
Hồng, sông Đà, sông Cầu, sông Thương, sông Thái Bình (ở Bắc Bộ), sông Mã
(Thanh Hóa), sông Cả (Nghệ An), 7 Gianh, sông Nhật Lệ (Quảng Bình), sông

103
Hàn (Đà Nẵng) và nhiều dòng sông nhỏ được dùng làm các tuyến giao thông
vận tải sông đường sông. Ở Nam Bộ, người Việt đã lợi dụng triệt để dòng nước
của các sông Tiền Giang, Hậu Giang và nhiều kênh mương nhân tạo để phục vụ
cho việc giao thông. Đối với các tuyến đường sông nội địa, người Đại Việt cũng
đã đặt các trạm đường thủy để tiếp sức trong chuyển vận. Mỗi trạm đường thuỷ
đều được cấp thuyền, bè và tay chèo. Thí dụ, năm 1672 ở Đàng Trong, chúa
Nguyễn đã đặt các trạm, mỗi trạm được cấp bốn chiếc thuyền và sáu người lái
chèo. Toàn bộ đường thuỷ ở Đàng Trong có 16 độ đi, mỗi độ ứng với một trạm.
- Các phương tiện giao thông trên song, biển phổ biến là: thuyền , ghe
bầu. Theo các nhà nghiên cứu, “ghe” là từ địa phương được sử dụng phổ biến từ
Nam đèo Hải Vân trở vào để chỉ các loại ghế thuyền nói chung; ở các vùng phía
Bắc, người dân không dùng từ “ghe”, mà dùng từ “thuyền”, một từ Hán Việt.
Có rất nhiều loại thuyền: thuyền bồng, thuyền chài, thuyền đinh, thuyền mành,
thuyền thoi, thuyền thúng… Dưới thời nhà Hồ, Hồ Hán Thương chỉ huy đóng
được nhiều loại thuyền dùng trong quân sự.
Dưới thời Đại Việt, từ miền Trung trở vào, do điều kiện tự nhiên, khí hậu
không cho phép phát triển nghề trồng lúa nước, nuôi cá nước ngọt ở đất liền,
tiếp thu văn hóa Chăm, người Việt giỏi đóng thuyền và có nhiều kinh nghiệm đi
biển hơn người Việt ở Bắc Bộ.
4.2.2. Văn hóa xã hội
4.2.2.1. Gia đình và dòng họ
- Trong xã hội Đại Việt, gia đình người Việt là gia đình phụ hệ, ở chồng,
người cha là chủ gia đình. Trong tiểu gia đình phụ đó người hệ chỉ có hai thế hệ
là chồng, vợ và các con. Đại gia đình phụ hệ có từ ba thế hệ trở lên. Gia đình có
ba thế hệ (ông bà, cha mẹ và các con) gọi là tam đại đồng đường. Gia đình có
bốn thế hệ (các cụ, ông bà, cha mẹ, các con) gọi là tứ đại đồng đường. Gia đình
có năm thế hệ (ngũ đại đồng đường) hầu như không có bởi vì tuổi thọ của người
Đại Việt không cao.

104
- Gia đình của người Việt chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo: nam tôn
nữ tỉ (đàn ông là cao quý, đàn bà là thấp hèn), trọng nam khinh nữ (trọng đàn
ông mà khinh đàn bà), đề ra thuyết tam cương ngũ thường bắt người phụ nữ
phải tuỳ thuộc vào người đàn ông. Nếu bỏ chồng ra đi, người vợ can tội bội phu
(phản bội chồng), bị luật pháp trừng phạt. Giáo lí Khổng Manh quan niệm
người chồng có quyền đánh vợ, bán vợ, được bổ vợ khi vợ mắc vào một trong
bảy điều (thất xuất) sau: không có con, dâm dật, không thờ cha mẹ chồng, lắm
điều, trộm cắp, ghen tung, có ác tật. Giáo lí Khổng Mạnh là như vậy; nhưng luật
pháp và phong tục Đại Việt lại có những điều khác với Trung Hoa. Khi ban
hành luật pháp, nhà nước Đại Việt đã dung hòa giữa giáo lí của đạo Nho và
truyền thống bản địa, phong tục làng quê. Bộ luật nhà Lê cho thấy người phụ nữ
Việt có nhiều quyền hơn phụ nữ Trung Quốc. Điều 308 của chương Hộ hôn quy
định: “Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (vợ được trình với quan
sở tại và xã quan làm chứng) thì mất vợ. Nếu vợ đã có con, thì cho hạn một
năm. Vì việc quan mà phải đi xa thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ mà lại
ngăn cản người khác lấy vợ cũ thì phải tội biếm”. Điều 322 quy định: “Con gái
hứa gả chồng mà chưa thành hôn, nếungười con trai bị ác tật hay phạm tội hoặc
phá tán gia sản thì cho phép người con gái được kêu quan mà trả đồ lễ. Nếu
người con gái bị ác tật hay phạm tội thì không phải trả đồ lễ; trái luật thì xử phạt
80 trượng” .Từ năm 1767 (năm thứ 28 đời Cảnh Hưng) đã có các văn tự bán tài
sản mà ở đó có chữ kí (hoặc điểm chỉ) của cả chồng lẫn vợ. Còn ở Trung Quốc,
ngay dù người vợ là một đồng sở hữu của tài sản gia đình, uy quyền của người
chồng vẫn cho phép anh ta được định đoạt về tài sản mà không cần có sự thỏa
thuận của vợ. Theo bộ luật thời Nguyễn, dưới triều Gia Long, “người đàn ông
vẫn có quyền thất xuất, nhưng lại có ba trường hợp khiến người chồng không
thể bỏ vợ được, trừ khi vợ có tội ngoại tình, là: nếu vợ đã để tang cha mẹ chồng;
nếu vợ đã làm nên giàu có; nếu ngoài nhà chồng ra, vợ không còn chỗ nào
nương tựa nữa. Nếu người chồng vô cớ mà bỏ vợ, hay nếu ở trong ba trường
hợp ấy mà bỏ vợ, thì pháp luật trừng phạt”. Luật pháp và phong tục quy định

105
khi ông bà, cha mẹ tuổi già, sức yếu, thì vợ chồng con cháu phải nuôi dưỡng
chu đáo. Về tài sản, của cải của chồng là của vợ (“Của chồng công vợ”, ngược
lại, của vợ cũng là của chồng; nợ của chồng, vợ phải gánh, nợ của vợ, chồng
cũng phải mang).
- Về đẳng cấp, theo Trần Đình Hượu, có bốn loại gia đình: gia đình vua
chúa, gia đình thị dân công thương, gia đình nhà quan, gia đình nhà dân. Vua,
chúa thuộc loại đặc biệt. Vì vậy, các thành viên trong gia đình có tên gọi riêng:
Mẹ vua là thái hậu, cha vua là thượng hoàng (đời Trần, Hồ), vợ vua là hoàng
hậu, các con trai của vua là hoàng tử, người nào sẽ được kế vị thì là thái tử, vợ
của thái tử là thái tử phi, con gái vua là công chúa, con rể vua là phò mã, con
dâu vua là hoàng tức, bố vợ vua là quốc trượng, chú vua là hoàng thúc; con gái
chúa là quận chúa, con trai sẽ kế vị chúa là thế tử,... Về số lượng, hai loại gia
đình nhà quan và nhà dân chiếm đại đa số. Gia đình nhà dân (Trần Đình Hượu
gọi là dân hộ) là gia đình của những người thuộc phận vị thấp, sống theo các
nghề khác nhau. Gia đình nhà dân bao gồm gia đình nông dân và gia đình nhà
nho. Đối với dân hộ, đặc biệt là ở gia đình nông dân, loại tiểu gia đình phụ hệ
(tức loại gia đình chỉ có hai thế hệ là cha mẹ và các con chưa đến tuổi trưởng
thành) chiếm đa số". Truyền thống Trung Quốc không cho phép con cái ra ở
riêng. Nho giáo luôn luôn ca ngợi các hình mẫu “tam đại đồng đường”, “tứ đại
đồng đường”, “huynh đệ đồng cư” (anh em trai cùng ở chung với nhau). Ở Đại
Việt, một đạo luật được ban hành dưới thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) quy
định rõ việc trừng phạt đối với người chủ gia đình (ông hay cha) nếu người đó
hải ăn hoa quả trong đất của con cháu mà không được con cháu cho phép Theo
luật nhà Lê, kể từ tuổi 15, con cái được phép tách rời tài sản của họ và gây dựng
hộ gia đình riêng”. Nếu hai vợ chồng có ba người con trai, khi các con đến tuổi
trưởng thành, lập gia đình riêng thì thường cha mẹ ở chung với vợ chồng người
con trưởng. Cũng có trường hợp họ ở chung với vợ chồng người con trai út.
Trong trường hợp nào thì loại gia đình hai thế hệ vẫn chiếm đa số. Qua thời

106
gian, từ một gia đình hai thế hệ, đã có ba gia đình, trong đó có một gia đình ba
thế hệ (ông bà, con, cháu).
- Ở xã hội Đại Việt, việc thay đổi tên họ thường xảy ra, do nhiều nguyên
nhân: a/ để tránh bị bức hại sau khi dòng họ đối địch thăng thế trên chính
trường; b/ được ban quốc tính; c/ nhận con nuôi, Sự trả thù, truy sát khiến nhiều
người họ Mạc đã đổi sang các họ sau: Bế, Bùi, Bùi Đăng, Bùi Thái, Bùi Trần,
Cát, Đặng, Đoàn, Đỗ, Hoàng, Hoàng Đăm, Hoàng Đỉnh, Hoàng Văn, Huỳnh,
Hồ Đăng, Lê, Lê Đảng, Lều, Lều Vũ, Nông, Nguyễn, Nguyễn Công, Nguyễn
Phương, Nguyễn Trọng, Phạm, Phạm Bá, Phạm Văn, Phạm Đàng Phan Viết,
Thái, Thái Doãn, Thái Khắc, Thái Văn, Trần, Vũ Như Vũ Tiến, Vũ Trọng,... Tổ
tiên Hồ Quý Ly ở bên Trung Quốc, sang định cư ở Quỳnh Lưu vào thế kỉ X.
Đến đời Hồ Liêm (cụ của Hồ Quý Ly) làm con nuôi Lê Huấn, đổi sang họ Lê.
Đến năm 1400, Quý Ly trở lại họ Hồ. Lý Thường Kiệt vốn tên là Ngô Tuấn,
được ban quốc tính nên mang họ Lý. Huỳnh Đức (hổ tướng của vua Gia Long)
được ban quốc tính thành Nguyễn Huỳnh Đức.
Như vậy, những người mang cùng một tên họ (như họ Nguyễn chẳng
hạn) chưa hẳn đã thuộc một dòng họ (đồng tông) và ngược lại, có rất nhiều
người mang họ khác nhau nhưng thực chất lại thuộc dòng họ Mạc.
- Theo Phan Đại Doãn, chế độ kế thừa gia sản chính là điều kiện để tồn
tại và duy trì thể chế dòng họ; ở đây cũng thể hiện cái riêng của văn hóa Việt,
văn hóa Nhật Bản và văn hóa Hán, tuy cả Đại Việt và Nhật Bản chịu ảnh hưởng
của văn hóa Hán. Nhật Bản thực hiện việc kế thừa gia sản theo đơn tử (tức là
theo một con), gia sản kế thừa thuộc về con trai trưởng, nếu không có con trai
thì con rể hoặc con nuôi cũng được kế thừa. Do hiện tượng này mà các quan hệ
dòng họ, anh em, chú bác bị suy giảm bởi những người con trong gia đình
không được quyền thừa kế tài sản, tự nhiên cũng không mặn mà với việc thờ
cúng tổ tiên và do đó cũng không có thể chế dòng họ phức tạp như ở người
Việt, người Hán. Ở Trung Quốc, theo luật pháp thời Tống, thời Minh, quyền
thừa kế tài sản thuộc về tất cả các con trai. Sự kế thừa này tạo ra sự phân tán tài

107
sản. Ở Đại Việt, luật nhà Lê quy định, con gái cũng được chia tài sản. “Cha mẹ
mất cả, có ruộng đất, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em chị em tự chia nhau,
thì lấy một phần hai mươi số ruộng đất làm phần hương hoả, giao cho người
con trai trưởng giữ, còn thì chia nhau. Phần con của vợ lẽ, nàng hầu thì phải
kém. Nếu đã có lệnh của cha mẹ và chúc thư, thì phải theo đúng, trái thì phải
mất phần mình” (Lệnh năm thứ hai (1461) niên hiệu Quang Thuận). Nếu gia
đình không có con trai thì con gái cũng được hưởng ruộng hương hoả: “Người
giữ hương hoả có con trai trưởng thì dùng con trai trưởng, không có con trai
trưởng thì dùng con gái trưởng, ruộng đất hương hoả thì cho lấy một phần hai
mươi (Lệnh năm thứ hai (1517) niên hiệu Quang Thiệu). Sang thời Nguyễn, luật
Gia Long không quy định phụ nữ có quyền kế thừa ruộng đất, nhưng trong dân
chúng vẫn theo lệ cũ, giữ cách phân chia của luật nhà Lê cho mãi đến giữa thế
kỉ XX.
Thể chế dòng họ được ghi lại trong cuốn sách Thọ Mai gia lễ của TS. Hồ
Sĩ Tân (1690 - 1760), một người ở Quỳnh Đôi, Nghệ An. Nhiều quy định trong
sách này đã “tham khảo” và mô phỏng thể chế tông pháp thời Tống, Minh bên
Trung Quốc. Những quy định trong thể chế dòng họ ngày càng sâu rộng, phức
tạp, thời Nguyễn sâu đậm hơn thời Lê. Những quy định đó thể hiện ở các mặt
sau: lễ trưởng thành của con trai, tục lệ hôn nhân của con trai và con gái, tục lệ
tang ma, nghi thức thờ cúng tổ tiên, lập từ đường, lập gia phả, lập ruộng hương
hoả, ruộng hậu và quỹ họ Không phải dòng họ nào cũng thực hiện đầy đủ các
quy định trên. Không phải dòng họ nào cũng có từ đường, gia phả. Còn việc thờ
cúng tổ tiên thì gia đình nào, dòng họ nào cũng thực hiện nghiêm túc. Ở người
Hán, chế độ gia trưởng phụ quyền rất quy củ. Gia phả dòng họ có từ lâu đời và
hầu như dòng họ nào cũng có từ đường. Ở Đại Việt đến thời Lê thấy có bia, có
từ đường (theo Phan Đại Doãn).
4.2.2.2. Tổ chức làng xã
Một thời gian dài sau khi nước ta giành được độc lập, hình thức công xã
nông thôn vẫn tồn tại phổ biến và giữ vai trò hạ tầng cơ sở bền vững của xã hội.

108
Tổ chức chính quyền các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê đã chấp nhận việc lấy
làng truyền thống của mình làm đơn vị hành chính cơ sở.
Sang thời Lý, đây là giai đoạn được coi là bước mở đầu cho quá trình
chuyển biến lâu dài từ công xã nông thôn sang làng phong kiến. Theo các sách
Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư, thời Lý lần đầu tiên xuất hiện các tên
thôn với tư cách những đơn vị tụ cư dưới hương ấp mà theo nhiều nhà ngiên
cứu đó chính là làng hay tương đương với làng, thường có quy mô nhỏ và chưa
phải là một đơn vị kinh tế độc lập.
- Vào đầu thời Trần, năm 1442, Trần Thái Tông lại phân ra các xã nhỏ và
đặt chức đại tư xã và tiểu tư xã. Nhà Trần đã đưa việc quản lý làng xã, quản lý
dân đinh đưa vào quy củ hơn thông qua việc đặt ra các chức xã quan. Các xã
quan đời nhà Trần đã góp phần quan trọng trong việc quản lý làng xã, huy động
sức người sức của phục vụ cho nhà Trần ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông.
- Chiếm được nước ta, nhà Minh muốn áp đặt trọn vẹn nông thôn TQ vào
nông thôn VN. Chúng tiến hành chia dân ta ra từng lý, mỗi lý gồm 110 gia đình,
và đứng đầu là lý trưởng.
- Ngay sau khi chiến thắng giặc Minh, tháng 11 năm 1828 vua Lê Thái
Tổ đã tiến hành tổ chức lại làng xã và phân ra thành ba loại theo số đinh: loại
nhỏ từ 10 – 49 đinh, loại trung bình từ 50 – 99 đinh, loại lớn từ 100 dân đinh trở
lên. Trên cơ sở như vậy, ông đặt ra các xã quan tùy theo từng loại.
- Năm 1490, vua Lê Thánh Tông ban hành thể lệ tách xã cũ lập xã mới.
Đặt ra thể lệ lập tiểu xã, trung xã và đại xã. Trên phạm vi cả nước có 6851 xã.
Lê Thánh Tông đã đánh giá đúng vị trí của làng xã trong công cuộc phục hung
đất nước, cải tổ lại làng xã và xây dựng bộ máy hành chính chặt chẽ, thống nhất
và có hiệu quả.
- Vào các thế kỷ XVI, XVII, VVIII, nhà nước trung ương tập quyền suy
yếu, đất nước bị chia cắt, nội chiến liên mien, nông thôn Việt Nam thực sự tuột
khỏi tay chính quyền phong kiến Lê – Trịnh – Nguyễn. Theo Việt sử thông
giám cương mục, vào năm 174, chỉ riêng khu vực đồng bằng song Hồng “tính

109
theo số xã thì dân phiêu tán nhiều có đến 1730 làng, phiêu tán nhiều có đến
1691 làng” (Việt sử thông giám cương mục, Nxb Sử học, HN, 1963, tập 2,
tr.162).
- Vốn từ thủ lĩnh phong trào nông dân trở thành hoàng đế, vua Quang
Trung khi lên ngôi đã cương quyết đưa dân phiêu tán trở về quê sản xuất và
thanh toán tình trạng ruộng đất bỏ hoang, tái lập làng xã trên quy mô lớn. Tiếc
thay chủ trương này vừa mới được triển khai thì Quang Trung qua đời và người
kế nghiệp ông không có đủ tài năng và bản lĩnh để thực hiện chủ trương đó nên
tình hình không những không được cải thiện mà thậm chí ngày một xấu đi.
- Nhà Nguyễn ngay từ buổi đầu thành lập cho đến khi để rơi đất nước vào
tay thực dân Pháp lúc nào cũng ý thức được tầm quan trọng đặc biệt của làng
xã. Vua Gia Long từng nói: “Nước là hợp của các làng mà thành. Từ làng mà
đến nước”, vì thế ông đã bằng mọi cách khuyến khích khẩn hoang và tái lập
làng trên quy mô toàn quốc. Làng xã của người Việt được mở rộng từ Bắc chí
Nam, từ đồng bằng cho đến miền núi, trung du và hải đảo. Tổ chức bộ máy
làng/xã ở Bắc Bộ dưới triều Nguyễn cho tới năm 1921 về cơ bản gồm có 2 thiết
chế:
+ Hội đồng kỳ mục: gồm các thành viên là quan lại, sĩ quan quân đội đã
về hưu, các chánh phó tổng mãn nhiệm và đương chức, các cựu lý phó trưởng.
Một số làng, các quan lại đương chức, nhất là quan triều đình (triều quan) vẫn
nắm quyền điều hành làng xã (làng Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội). Đứng
đầu hội đồng là Tiên chỉ và 1 thứ chỉ là những người có phẩm hàm, hoặc chức
tước hoặc học vị cao nhất ở từng thời điểm. Hội đồng kỳ mục là cơ quan có toàn
quyền với các công việc trong làng : chia và đấu thầu ruộng đất công, bán ngôi
thứ, sửa chữa tu bổ đình chùa, mở hội, đối ngoại (giao hiếu) …
+ Bộ máy chức dịch: là đại diện của Nhà nước phong kiến ở xã, có trách
nhiệm giữ gìn an ninh, thu thuế, điều động binh dịch. Như đã trình bày, đứng
đầu bộ máy này thời Trần là các xã quan (quan lại Nhà nước cử về), đến 1466,
bỏ xã quan, cử xã trưởng (3- 5 người, do làng bầu từ người trong làng, song

110
không được là người có quan hệ anh em ruột, cha con, chú cháu, bác cháu ruột,
người có quan hệ thông gia), năm 1828 chỉ còn 1 người gọi là lý trưởng và 1 - 2
phó lý tuỳ theo số suất đinh nam và tùy số thôn hợp thành. Ngoài ra, còn có các
tay chân giúp việc như : hộ lại (phụ trách giấy tờ hộ tịch, hộ khẩu), chưởng bạ
(phụ trách giấy tờ về ruộng đất), thủ quỹ, trương tuần (khán thủ, hương trưởng).
4.2.2.3. Tổ chức đô thị
Đô thị thời Đại Việt là nơi tập trung dân cư không chủ yếu sản xuất nông
nghiệp, thường có vai trò của một trung tâm hành chính – chính trị của một
vùng hay cả nước.
Trong thời kỳ Đại Việt, từ năm 938 đến 994, Cổ Loa (nay thuộc huyện
Đông Anh, Hà Nội) trở thành quốc đô của triều Ngô. Nhưng đó chỉ là “đô” mà
chưa bao giờ là “thị” mọt cách rõ ràng. Trong thời kỳ này, có thể kể đến 9 đô
thị: Hoa Lư (nay thuộc Ninh Bình), Vân Đồn (nay thuộc Quảng Ninh), Lạng
Sơn, Phố Hiến (nay thuộc Hưng Yên), Hội An (nay thuộc Quảng Nam), Hưng
Hóa (nay thuộc Phú Thọ), Huế, Sài Gòn và Thăng Long – Hà Nội.
+ Từ năm 1635, trước khi người Hà Lan đến đặt thương điếm, phố Hiến
đã có 10 phường. Do sự ra đi của thương nhân nước ngoài, sự thay đổi của điều
kiện địa lý tự nhiên và dòng chảy của sông Hồng, do sự nổi lên của cảng Hải
Phòng, vào các thế kỷ XVIII – XIX, phố Hiến mất dần vai trò đô thị thương
nghiệp và cửa sông phát đạt.
+ Từ thế kỷ XVII, Hội An trở thành thương cảng sầm uất và thịnh vượng,
được đánh gia là hơn hết tất cả các cảng khác ở Đông Nam Á.
+ Địa danh Sài Gòn được nhắc đến sớm nhất vào năm 1776, trong Phủ
biên tạp lục của Lê Quý Đôn. Sang thế kỷ thứ XIX, sau khi đô thị Huế được
chọn làm kinh đô của nhà Nguyễn, Sài Gòn đảm nhiệm vai trò là thủ phủ của
vùng đất Nam Bộ, khi đó mang tên Gia Định Thành. Đến năm 1835, Sài Gòn
chỉ còn là thủ phủ của một tỉnh. Năm 1859, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ
sung bắn phá Sài Gòn, phá hủy nhiều thứ của đô thị này và cũng thừa hưởng
của đô thị này nhiều thứ. Sài Gòn lúc này có số dân đông đúc từ 10 đến 15 vạn

111
người, số dân không chỉ sống bằng nghề nông mà chủ yếu sống bằng nghề thủ
công. Sài Gòn là một đô thị thương nghiệp với rất nhiều chợ bến lớn nhỏ. Đây
còn là một cảng song biển phồn thịnh.
Nhìn chung đô thị Đại Việt không phát triển do ba nguyên nhân chủ yếu
sau:
+ Thứ nhất là sự chi phối của “đô” đối với “thị” với chức năng hành
chính là chủ yếu.
+ Thứ hai là ảnh hưởng của nông thôn, của các làng công thương và
mạng lưới chợ quê.
+ Thứ ba là sự kìm hãm của nhà nước quân chủ đối với sự phát triển của
đô thị ngoại thương.
4.2.2.4. Tổ chức nhà nước
Đối với các triều vua đầu tiên như nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Tiền Lê, đều
đã có một triều đình gồm bá quan văn võ. Cho đến trước năm 1006, triều đình
độc lập, không theo đúng thể chế nhà Tống. Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở
Cổ Loa, “đặt trăm quan, che định triều nghi phẩm phục”. Dưới thời nhà Đinh,
bộ máy trung ương gồm ba bộ phận chính: văn, võ, đạo (tôn giáo). Các chức
quan văn, võ dùng theo chế độ nhà Chu, không phải chế độ Hán - Đường. Về
quân sự, tổ chức theo hệ thống: đạo, quân, lữ, tốt, ngữ. Theo nhà sử học Nguyễn
Duy Hinh, chức Thập đạo tướng quân của Lê Hoàn có lẽ là danh hiệu mượn của
nhà Đường, để chỉ “toàn quốc” hơn là để chỉ toàn bộ quân đội có mười đạo. Xét
về tổ chức quân đội thì từ triều Đinh, nước ta có quân đội chính quy, có hệ
thống tổ chức thống nhất, chặt chẽ, không còn là bộ khúc hay gia binh rời rạc,
phân tán, quy mô nhỏ của từng lạc tướng hay từng sử quân nữa. Về tăng đạo, có
hai chức quan quản lí Phật giáo và Đạo giáo là Tăng lục và Sùng chân uy nghi.
Nhà Đinh chủ trương thống nhất, không chấp nhận cát cứ. Nhà Tiền Lê đặt chức
Tổng quản tri quân dân sự, coi việc quân và việc dân, là một chức quan đầu
triều tương đương chức thủ tướng ngày nay. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Duy
Hinh, chưa thấy chức quan này trong quan chế Trung Quốc trung cổ. Bộ máy

112
trung ương mang tính chất quân quản. Đây là một giải pháp tình thế rất thích
hợp với tình hình nhà nước độc lập vừa hình thành, thù trong giặc ngoài là mối
quan tâm số một. Nhà vua phong cho các con trấn giữ các địa phương cũng là
một cơ cấu quân dân sự kết hợp. Nhà Tiền Lê thực hiện chính sách mở rộng và
ổn định lãnh thổ: tiến đánh Chămpa sau khi hoạt động ngoại giao thất bại. Thái
độ ngoại giao vừa mềm vừa cứng đối với nhà Tống. Ở trong nước, Lê Hoàn
thân chỉnh đánh dẹp thu phục các địa phương chưa quy thuận (đa số thuộc khu
vực các dân tộc thiểu số). Con Lê Hoàn là Lê Long Đĩnh đã thực hiện hai việc
lớn. Một là, năm 1006, đổi lại quan chế và triều phục của các quan văn võ và
tăng đạo đúng như nhà Tống. Theo Nguyễn Duy Hinh, điều này chứng tỏ bộ
máy cai trị đã hoàn chỉnh như một vương triều Trung Quốc. Hai là, năm 1007,
sai người dâng tê ngưu trắng cho nhà Tống và xin kinh Đại Tạng, đến năm 1009
thì mang về nước. Đây là việc làm góp vào sự phát triển của Phật giáo.
Triều Lý kéo dài 216 năm với chín đời vua. Bộ máy quản lí đã hoàn
thiện và linh hoạt, không giáo điều rập khuôn thể chế Đường Tống. Đó là một
bước tiến về tư tưởng tổ chức chính quyền của người Đại Việt thời Lý.
Trong thời gian 174 năm, trải qua 12 đời vua, triều Trần đã xây dựng
một bộ máy cai trị thống nhất suốt từ trung ương đến tận xã. Triều đình nhà
Trần có ba đặc điểm khác triều đình Lý. Đặc điểm thứ nhất là chế độ hai vua.
Đây là bí quyết sức mạnh tổ chức của triều Trần, là một sáng tạo vô tiền khoáng
hậu. Một khi không còn điều kiện thực thi chế độ hai vua nữa thì họ Trần mất
chính quyền. Đó là kể từ khi Dụ Tông chết trận ở Chămpa về sau. Đặc điểm thứ
hai là chế độ bình chương sự có quy chế chặt chẽ hơn thời Lý. Muốn được
phong những chức vụ lớn, người tôn thất phải có tài năng, phải có học vấn.
Năm 1246, triều đình quy định chức tể tướng phải chọn người tôn thất, hiền
năng, tinh thông lục nghệ thi thư, tức là trình độ Nho học cao. “Vương tộc nhà
Trần từ một gia tộc đánh cá đã nhận thức được tâm quan trọng của văn hóa
trong trị quốc, khẩn trương tự học trở thành hoàng tộc trí thức. Từ Trần Thủ Độ
“mù chữ, nghĩa là không tinh thông lục nghệ thi thư đến Trần Thái Tông với

113
“Khóa hư lục”, Trần Nhân Tông với “Cư trần lạc đạo phứ”, Trân Hưng Đạo với
“Hịch tướng sĩ và “Binh thư yếu lược”, nhà Trần đạt tới đỉnh cao của văn hóa
tam giáo đương thời chỉ cần vẻn vẹn qua hai thế hệ”. Đặc điểm thứ ba là nhà
Trần đào tạo, thi tuyển người có Nho học để bổ dụng làm quan. Việc này ít
được thực hiện dưới thời nhà Lý. Nhà Trần ngay từ đầu đã trọng dụng Nho
giáo. Quý tộc nhà Trần đã được Nho giáo hóa sâu sắc mặc dù vẫn là trí thức tam
giáo. Với ba sáng tạo nêu trên, nhà Trần đã lãnh đạo quân dân Đại Việt chiến
thắng quân Nguyên thiện chiến cỡ thế giới.
Triều Hậu Lê kéo dài 360 năm (1428 - 1788), với 28 đời vua. Nhà Lê
lấy Nho giáo làm quốc giáo. Tính bền vững của triều Lê chúng minh tính ưu
việt của Nho giáo trong việc tổ chức chính quyền, điều hành quốc gia.
Nhà sử học Nguyễn Duy Hinh nhận xét: Nhìn khái quát lịch sử hình
thành bộ máy quản lí quốc gia độc lập dân tộc Đại Việt, có thể nhận thấy người
Đại Việt tiếp thu tinh hoa văn hóa Hán một cách sáng tạo vào thực tế. Không
phải các triều đại Đường, Tổng có churc quyền Đại Việt không phải mô hình
thu nhỏ của bộ máy Đường, quan gì thì Lý, Trần, Lê có chức quan đó. Bộ máy
chính Tống Trung Hoa.
Bộ máy chính quyền Đại Việt đáp ứng nhu cầu từng thời điểm lịch
sử. Lý, Trần đứng trước nhiệm vụ quân sự cực kì gay gắt: bên trong phải thống
nhất các địa phương, các dân tộc anh em; bên ngoài phải chống thế lực xâm
lược phương Bắc không bao giờ nguôi lòng tái thiết “đô hộ” ngàn năm. Nhà Lê
đứng trước nhiệm vụ phát triển toàn diện kinh tế, văn hóa khi nền độc lập thông
nhất dân tộc Đại Việt đã cơ bản hoàn thành và ôn định. Chính phủ Lý, Trần
nặng về quân sự ngay trong cơ cấu. Chính phủ Lê thiên về văn hóa và kinh tế.
Chính quyền Nguyễn chỉ là vĩ thanh của một chính quyền Đại Việt đã hoàn
thiện.
4.2.3. Văn hóa tinh thần
4.2.3.1. Tư tưởng
* Tư tưởng thời Lý

114
Thời Lý có một hệ tư tưởng khá phức tạp. Các vua nhà Lý là những
người sùng đạo Phật nhưng không phải hệ tư tưởng thời này chỉ là tư tưởng
Phật giáo. Thiên mệnh là cơ sở lí luận của chính sách đối nội và đối ngoại của
nhà Lý. Việc truyền ngôi về cơ bản theo đúng chế độ trưởng nam như Nho giáo
chủ trương. Các tên thụy và miếu hiệu đều phản ánh những tư tưởng và đạo đức
trị nước theo chuẩn mực Nho giáo. Trong các tôn hiệu cũng như niên hiệu thời
Lý, thỉnh thoảng chen vào một vài yếu tố thể hiện tư tưởng Phật giáo. Thí dụ,
vua Lý Thánh Tông vừa có tôn hiệu “Hoàng đế”, vừa có tôn hiệu “Bồ tát”.
Quan hệ vua tôi và việc đào tạo tuyển lựa nhân tài đều thể hiện tư tưởng Nho
giáo.
Những hiện tượng pháp thuật như việc đầu thai của các nhà sư, việc hóa
hổ của Lê Văn Thịnh chứng minh tư tưởng Mật tông (một phái của Phật giáo)
đóng vai trò nhất định trong thời Lý và can thiệp vào đời sống chính trị xã hội.
Theo PGS. Nguyễn Duy thời Lý không chỉ có Mật tông mà còn có dòng tín
ngưỡng riêng Bà la môn giáo, dù rằng nó đã thông qua Phật giáo theo con
đường Hinh, Trung Quốc. Dòng tư tưởng Bà la môn giáo này, đặc biệt là việc
thờ Đế Thích, khác Phật giáo ở chỗ không xuất thế mà lại có ý về nghĩa phồn
thực nhất định. Trong tư tưởng Phật giáo, còn có dòng thiền Thảo Đường của
Lý Thánh Tông và dòng thiền Vô Ngôn Thông Thời Lý có tư tưởng Đạo giáo,
tuy không sâu đậm. Dưới thời Lý Thái Tông, lần đầu tiên các đạo sĩ được đăng
kí chính thức hành đạo.
Để quản lí đất nước, các vua nhà Lý đều sử dụng tư tưởng Nho giáo và vị
trí của tư tưởng này càng ngày càng có vai trò quan trọng. Trong đường lối của
vua Lý, có những yếu tố tư tưởng Nho giáo và Phật giáo như theo lí thuyết thiên
mệnh, dùng đức từ bị độ lượng của Phật giáo, kết hợp với nhau, một rắn một
mềm khiến cho nước nhà yên ổn thịnh vượng thắng được giặc ngoài. Những
yếu tố đó được dung hòa biến thành linh hoạt để đạt mục đích nước giàu dân
mạnh, không áp dụng máy móc theo một mẫu mực hay kinh nghiệm sẵn có của
nước ngoài..

115
Hệ tư tưởng thời Lý là sự tổng hợp nhiều dòng tư tưởng khác nhau nhằm
vào một mục đích: Nhất định bảo vệ được nền độc lập dân tộc, không dẫn đến
những đụng độ ý thức hệ làm tan vỡ khối đoàn kết dân tộc.
*Tư tưởng thời Trần
Vốn xuất thân là cư dân đánh cá ở ven biển, bằng lực lượng quân sự của
mình, họ Trần đã vào chốn đế đô trở thành bậc vương giả, nắm toàn bộ vận
mệnh đất nước. Theo sử gia Nguyễn Duy Hinh, chế độ Thượng hoàng và vua là
điều đặc biệt trong triều đại này. Sau một thời gian làm vua, các vua Trần
nhường ngôi cho con, trở thành Thượng hoàng, Thể chế hai vua đảm bảo hoạt
động tập thể ở ngôi tối cao của chính quyền. Thượng hoàng là người kèm cặp,
giám sát vua. Nhưng không chỉ có vậy, khi cần thiết, Thượng hoàng còn là
người cùng xử lí việc nước với vua. Các vua Trần nhường ngôi cho con không
phải vì họ già yếu. Họ nhường ngôi thường vào tuổi 40 là tuổi đã chín nhưng
chưa già. Sự hưng thịnh của nhà Trần gắn liền với sự hưng thịnh của thể chế
Thượng hoàng + vua. Nhà Trân suy vong gắn liền một phần với sự suy thoái
của thể chế này. Thế chế này đã đem lại sức mạnh lịch sử cho nhà Trần và
không có ở bất kì nước nào trên thế giới trong thời trung cổ, Xuất phát từ tư
tưởng tập thể tông tộc, nhà Trần đã hình thành một tổ chức thượng tầng hai
tuyến. Một tuyến là bộ máy quan liêu hình thành thông qua tuyển lựa bằng thi
cử lấy người trong thiên hạ làm quan. Một tuyến là hệ thống các vương hậu với
thái ập riêng, quân đội riêng, kinh tế riêng.
Họ Trần không coi quan hệ nam nữ là một tiêu chuẩn đạo đức khắc
nghiệt như quan niệm Khổng giáo. Trong quan hệ hôn nhân của giới quý tộc,
không có hôn nhân nội tộc mà chỉ có thể nhiều lắm là hiện tượng những người
họ Trần kết hôn với nhau không bị dòng máu ràng buộc. Theo PGS. Nguyễn
Duy Hinh, trong 12 mé vua Trần, có hai người không xác định được họ, còn lại
chỉ có ba người họ Trần, bảy người thuộc họ Lê và Lý.
Như vậy, thể chế Thượng hoàng + vua, tổ chức bộ máy hai hệ thống
quan liêu và vương hầu, quan hệ hôn nhân nói riêng, quan hệ nam nữ nói chung

116
của họ Trần là thừa hưởng tư tưởng công xã nông thôn mang đậm ảnh hưởng
huyết tộc và nghề nghiệp, khác hẳn với tư tưởng Khổng giáo của Trung Hoa cổ
đại. Sau khi trở thành quý tộc, họ Trần không thể không có tri thức. Thành quả
họ đạt được thật rực rỡ và nhanh chóng, từ một Trần Thủ Độ giỏi võ dốt chữ
đến các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, đến Đại vương Trần Hưng
Đạo,... văn chương nức tiếng, sức học uyên thâm, họ Trần chỉ cần trải qua một
chặng đường ba thế hệ, trên dưới 60 năm.
Nhà Trần đã sáng tạo ra Thiền phái Trúc Lâm, nhưng trong cái bể tri thức
mà họ đạt được sau mây chục năm học tập là nhận thức về tính quy luật của vạn
vật, tuân thủ quy luật đó trong cuộc sống chứ không phải là sự mê muội, cuồng
tín vào một või Niết bàn nào cả. Bởi vậy, tư tưởng Phật giáo không cản trở
những hoạt động chính trị của họ. Họ vẫn cầm quân đánh giặc, xăm hai chữ
“Sát Thát” trên cánh tay. Phật giáo trong tay các vua Trần chỉ là hướng chung là
xa dần Phật giáo để đi đến Nho giáo. Đạo giáo trước sau chỉ đóng vai trò mờ
nhạt. Đường lối chính trị của họ Trần thể hiện tư tưởng thực dụng, thu hút những
chỗ mạnh của các giá trị tinh thần, dùng vào việc trị nước, giữ nước, không giáo
điều, sùng ngoại.
*Tư tưởng thời Lê
Nhà Lê kéo dài 360 năm (1428 - 1788) với 28 vị vua. Về tư tưởng Nho
giáo thời này, theo PGS. Nguyễn Duy Hinh, đó là tư tưởng của Mạnh Tử với lí
luận về nhân nghĩa và pháp trị, về dân; không phải chủ yếu là tư tưởng của
Khổng Tử về lễ, về nhạc, về chính danh. Nho giáo thời Lê không giáo điều,
không thực thi toàn bộ mẫu mực các tín điều cơ bản của Nho giáo, dù là Khổng
hay Mạnh. Tư tưởng chủ đạo vẫn là tư tưởng yêu nước, bảo vệ độc lập quốc gia.
Đề thi các khoa chủ yếu bàn về cách trị nước. Nhà nho nào đi chệch quỹ đạo
yêu nước thì dù uyên bác đến mấy cũng bị phê phán.
Tư tưởng cá nhân thoát li khỏi sự chi phối của cộng đồng tông tộc đã xuất
hiện. Nho gia thời Lê đã thoát khỏi tư tưởng tông pháp rất chặt chẽ của Khổng
giáo, không hoàn toàn bị quan hệ quân - sư - phụ buộc thắt. Họ có suy nghĩ cá

117
nhân, tính toán quyền lợi cá nhân, bất chấp những lời giảng dạy của kinh sử. Họ
lựa chọn minh chủ, thời cơ, địa vị. Khi Mạc thịnh, họ làm quan nhà Mạc, lúc
Mạc suy, họ về với Trịnh. Việc thi cử đã mở con đường hoạn lộ cho tùng cá
nhân. PGS. Nguyễn Duy Hinh nhận xét: “Chính giai tầng trí thức rộng lớn hoạt
động một cách tương đối độc lập như vậy đã là người phò tá cho sự hợp phân
diễn ra trong bốn thế kỉ dai dẳng và phức tạp. Và chính vì vậy mà nhà Lê kéo
dài lê thể cơn hấp hối, không sụp ý ngay. Và cũng chính vì vậy mà lịch sử thời
Lê đẫm đổ máu, đẫm máu vua, đẫm máu quan và đẫm máu dân.
Mỗi huyện, mỗi tỉnh có chức quan chuyên trách về 1 học. Nói chung ai
có khả năng đều có thể đi học được, không nhất việc thiết phải là con cháu tầng
lớp trên. Con cháu tầng lớp trên thì đã có một tổ chức riêng là Quốc tử giám để
đào tạo. Mỗi huyện được cử người học giỏi vào Quốc tử giám. Các vua Nguyễn,
đặc biệt là Minh Mệnh, chú trọng đến chữ hiếu, trung, tiết. Với họ, dường như
học thuyết của Mạnh Tử là học thuyết về chữ hiếu chứ không phải là về nhân
chính. Các vua Nguyễn chí hiếu như để làm gương cho cả nước. Họ rất mực đề
cao, cung phụng các bà hoàng thái hậu Còn chữ trung được nhấn mạnh đến mức
triều đình bày ra đặc ân cho quần thần được ôm đầu gối vua. Sau khi các công
hầu, khanh tướng dẹp yên bạo loạn ở vùng các dân tộc thiểu số trở về, họ được
vua Minh Mệnh cho hưởng niềm vinh dự thật đặc biệt. Họ được vua cho làm lễ
ôm đầu gối (bão tất lễ) để tỏ ra là vua coi họ như lũ hoàng tử mua vui ở dưới
gối. Kể về tình, là rất thân ái: tình cảm giữa vua và tôi không gì hơn được nữa.
Nếu ở thời quân chủ, người ta xem sự việc trên là biệt lệ, là trang trọng, thì dưới
cái nhìn của một tác giả trẻ hiện nay, đó lại là sự việc thật “khôi hài”. Về chữ
tiết, việc khen thưởng những người phụ nữ tiết hạnh được tiến hành thường
xuyên hơn thời Lê. Đó chính là tam cương được đề cao với những biện pháp
chặt chẽ, chi tiết và thường xuyên được nhắc nhờ. Tam cương là ba sợi dây trói
chặt vợ với chồng, con với cha, quận với vua. Còn ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín) thì không mấy khi được nhắc đến bởi nó không thiết thân với ngai vàng,
theo như nhận thức của những người đứng đầu nhà Nguyễn, chứ không phải

118
như Nho giáo quan niệm. Như vậy, vua quan nhà Nguyễn chỉ khai thác những
gì trong Nho giáo có lợi cho lợi ích trực tiếp của họ chứ không tuân thủ một
cách hệ thống nội dung học thuật của Nho giáo. Nhà Nguyễn đã phát triển mạnh
mẽ và chi tiết hóa những hình thức nghi lễ quy định các môi quan hệ vua tôi.
Nho giáo nhà Nguyễn là một thứ Nho giáo cực đoan.
Đối với Phật giáo, nhà Nguyễn chủ trương hạn chế. Họ không dùng bạo
lực trong đấu tranh ý thức hệ, không tranh biện bằng lí luận, chỉ hạn chế chứ
không triệt bỏ tổ chức Phật giáo. Theo Nguyễn Duy Hinh, đây là cách làm sáng
suốt về mặt chính trị; đồng thời cách làm này phản ánh hai thực tế. Thực tế thứ
nhất là Phật giáo đã ăn sâu trong văn hóa dân tộc, trong tâm thức nhân dân.
Thực tế thứ hai là các vua Nguyễn có hiểu biết về Phật giáo; nhưng họ xuyên
tạc, hoặc họ không nắm bắt được cốt lõi của Phật giáo. 1 Nguyễn không bài bác
triệt để Phật giáo, thậm chí với nhà vua, Phật giáo vẫn tồn tại ngay trong nhà họ.
Năm 1812, chính Gia Long đã đặt đàn chay lớn ở chùa Thiên Mụ, rước thầy
tăng từ Gia Định ra Huế để làm ma cho hoàng thái hậu. Năm 1820, vua tôi
Minh Mệnh cùng nhau lên chùa để làm chay cho cha mẹ. Các vua Nguyễn
giống nhau ở chỗ đề cao Nho giáo nhưng không quên lợi dụng Phật giáo, bởi vì
họ không phải là thủ lĩnh tôn giáo, càng không phải là triết gia, họ chỉ là những
nhà chính trị, xem xét mọi hiện tượng tư tưởng dưới lăng kính lợi ích cá nhân
hay tập đoàn của họ. Trong dân gian, tư tưởng Phật giáo phổ biến là từ bi bác ái.
Đầu thế kỉ XVII đã có nhiều giáo sĩ Thiên chúa giáo theo thuyền buôn
vào nước ta truyền đạo. Về mặt ý thức hệ, lúc này Thiên chúa giáo không còn là
tư tưởng tích cực trong xã hội phương Tây. Nó đã trở thành công cụ của các thế
lực bành trướng của phương Tây. Vì thế, giáo hội cũng hình thành những tập
đoàn tranh giành ảnh hưởng cho người chủ cụ thể của mình, trong khi vẫn thờ
chung một ông Giêsu, vẫn thần phục chung một ông giáo hoàng ở La Mã. Sau
khi tòa thánh Vatican phân chia khu vực cho các đoàn truyền giáo, các giáo sĩ
Bồ Đào Nha được vào khu vực nước ta. Đến năm 1688, nước Pháp thành lập
Hội Truyền giáo nước ngoài của Pháp và bắt đầu tranh giành Đông Dương,

119
Người Bồ Đào các quyển từ điển Bồ - Việt, Việt - Bồ. Người Pháp đã đạt được
Nha phải ra đi. Dấu vết mà họ để lại là việc c cấu mục đích trong Hiệp ước
Vécxây (1787), theo đó, nước Pháp có rất nhiều quyền lợi. Đem lại quyền lợi
cho nước Pháp chính là giám tạo chữ quốc ngữ, mục Pignenau de Béhaine (tức
Bá Đa Lộc). Việc truyền giáo của đạo Thiên chúa vào nước ta hoàn toàn khác
với việc Hồi giáo dụ nhập vào Ấn Độ hay Phật giáo du nhập vào Việt Nam. Sự
truyền bá Hồi giáo cũng như Phật giáo vừa nêu mang tính chất giao lưu văn hóa
thuần túy. Còn việc truyền bá Thiên chúa giáo ở thời điểm đang bàn lại thuần
túy phục vụ chính trị, mục đích xâm lược được ngụy trang băng tôn giáo. Xuất
phát từ lợi ích ích kỉ của ngai vàng, của dòng tộc, vua quan nhà Nguyễn nhận
dạng Thiên chúa giáo kẻ thù. Những người khác như Nguyễn Trường Tộ thì lại
nhận thức Thiên chúa giáo dưới góc độ triết lí. Nhưng Nguyễn Trường Tộ đã
mù quáng. Ông không nhận thức được, hay cố tình tỏ ra không biết mưu đồ
chính trị của phương Tây. Lí luận của ông có lợi cho bọn xâm lược.
Theo Nguyễn Duy Hinh, thời Nguyễn là “thời kì đấu tranh gay gắt của ba
dòng tư tưởng: yêu nước/ bán nước, thống nhất/ cát cứ, phản vương quyền
vương quyền”.
4.2.3.2. Ngôn ngữ và chữ viết
Trong thời Đại Việt, theo kết quả nghiên cứu của GS. TS. Nguyễn Tài
Cẩn, ngôn ngữ, chữ viết của người Việt lần lượt trải qua ba giai đoạn: giai đoạn
tiếng Việt tiền cổ, tiếng Việt cổ và tiếng Việt trung đại.
1. Ngôn ngữ, chữ viết giai đoạn tiếng Việt tiền cổ
Giai đoạn tiếng Việt tiền cổ có hai ngôn ngữ là tiếng Việt (khẩu ngữ của
lãnh đạo) và văn ngôn Hán, được sử dụng vào khoảng các thế kỉ X - XII; có một
văn tự là chữ Hán. Ở giai đoạn tiếng Việt tiền cổ, có các điểm sau:
+ Bắt đầu không tuân theo các diễn biến xảy ra ở Trung Quốc. Thí dụ,
năm 907, vua nhà Lương hạ lệnh kỵ húy chữ “Mậu” phải đọc thành chữ “Vũ”,
toàn Trung Quốc tuân theo, nhưng ở Việt không tuân theo vì năm trước đó, họ
Khúc đã tự chủ.

120
+ Có sự hình thành cách đọc chữ Hán của riêng người Việt theo áp lực của
tiếng Việt: rút gọn số lượng thanh mẫu từ 36 xuống khoảng 20, số lượng vận bộ
từ 61 xuống khoảng 30. Do chính sách của nhà Lý coi Trung Quốc là mẫu mực,
coi văn ngôn và chữ Hán là ngôn từ chính thức của Đại Việt nên số lượng từ
ngữ Hán Việt tăng lên rất nhiều, làm cho tiếng Việt vốn đã xa cách tiếng
Mường về ngữ âm nay lại càng xa cách thêm về từ vựng.
2. Ngôn ngữ, chữ viết giai đoạn tiếng Việt cổ
Giai đoạn này có hai ngôn ngữ: tiếng Việt và văn ngôn Hán, được sử
dụng vào khoảng các thế kỉ XIII - XVI; có hai văn tự là chữ Hán và chữ Nôm
Ở giai đoạn này, tiếng Việt có hai điểm mới. Thứ nhất, nó trở thành
ngôn ngữ có văn học và văn tự. Từ thế kỉ XIII, trong giới thiền sư, nho sĩ, có
một trào lưu thích sáng tác văn thơ Nôm, có lẽ vì tinh thần dân tộc, vì cả cảm
xúc bằng tiếng mẹ đẻ. Chữ Nôm trưởng thành do chức năng văn học của ngôn
ngữ, các thế kỉ trước chữ Nôm chủ yếu được dùng để ghi tên đất, tên người
trong bi kí. Sự xuất hiện, nhờ có chữ Nôm, của những văn bản song ngữ với
một lối văn xuôi có nhiều hiện tượng giao thoa về mặt ngữ pháp, từ vựng (văn
xuôi tôn giáo như bản dịch Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, văn xuôi
văn học như bản Truyền kì mạn lục giải âm) là một trong những đặc điểm đáng
chú ý. Thứ hai, nó trở thành ngôn ngữ không thuần nhất. Đã có hai vùng
phương ngữ, một vùng tương ứng với địa phận Hà Nội (trước năm 2008), một
vùng tương ứng với khu IV (tên gọi sau này).
3. Ngôn ngữ, chữ viết giai đoạn tiếng Việt trung đại
Giai đoạn này có hai ngôn ngữ là tiếng Việt và văn ngôn Hán; được sử
dụng vào khoảng các thế kỉ XVII - XVIII và nửa đầu thế kỉ Ngôn ngữ, chữ viết
giai đoạn tiếng Việt trung đại XIX; có ba văn tự là chữ Hán, chữ Nôm và chữ
quốc ngữ.
Chữ quốc ngữ là một thứ văn tự mới. Từ thế kỉ XVI, XVII, khi quan hệ
trao đổi buôn bán của nước ta với các nước phương Tây dần dần mở rộng, các
giáo sĩ phương Tây vào nước ta truyền bá đạo Thiên chúa đã học tiếng Việt và

121
dùng chữ cái latinh ghi âm tiếng Việt để soạn sách giáo lí và giảng đạo. Từ đó,
chữ quốc ngữ bắt đầu phôi thai rồi từng bước hình thành, phát triển, hoàn thiện.
Theo Lý Toàn Thắng, có thể chia quãng thời gian từ lúc phôi thai cho đến khi
hoàn tất dài hơn hai thế kỉ thành bốn chặng chính như sau: 1. Chặng sơ khởi,
phôi thai của chữ quốc ngữ từ năm 1620 - 1631, 2. Chặng hình thành chữ quốc
ngữ từ năm 1631 - 1648, 3 Chặng phát triển chữ quốc ngữ từ năm 1651 - 1659,
4. Chặng hoàn tất chữ quốc ngữ từ năm 1772 - 1838. Cùng với sự truyền giáo
và sự có mặt của chữ quốc ngữ (được các tín đồ hưởng ứng), đã có sự xuất hiện
từ điển Việt - Bồ - La, sự xuất hiện những văn bản văn xuôi thực sự như của Văn
Tín, Bento Thiện, Philiphe Bỉnh. Lối văn xuôi này có cả mặt thành công và mặt
chưa thành công.
Từ đầu thế kỉ XVII, song song với việc tiếp xúc với các nhà buôn và giáo
sĩ phương Tây là việc chúa Nguyễn hình thành nhà nước riêng rồi Nam tiến
không ngừng. Kết quả đem lại là địa bàn tiếng Việt vào đến Cà Mau, có những
sự tiếp xúc mới, ví dụ với ngôn ngữ Chăm, Khơme, Hoa.
Ngôn ngữ văn học trong giai đoạn ngôn ngữ Việt trung đại có nét mới.
Để đáp ứng thị hiếu của đông đảo quần chúng, có nhiều lại kích thích sự xuất
hiện của các tác phẩm cổ điển viết không theo thể thơ Trung Quốc, thí dụ Cung
oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm viết theo thể song thất lục bát, Truyện Kiều
viết theo thể lục bát, ca trù của Nguyễn Công Trứ viết theo thể hát nói.
4.2.3.3. Học tập, khoa cử
* Việc học tập, khoa cử thời Lý
Thời kỳ Lý - Trần, Nho giáo chưa chiếm vị trí và vai trò quan trọng
nhưng bắt đầu được quan tâm. Năm 1070 nhà Lý dựng Văn Miếu đúc tượng
Chu Công, Khổng Tử và Tứ Phối, vẽ tranh thất thập nhị hiền (72 học trò của
Khổng Tử). Năm 1075, triều đình mở khoa thi đầu tiên (gọi là khoa Minh Kinh
bác học) để chọn nhân tài. Năm 1076 mở trường Quốc Tử Giám, chọn quan
viên văn chức, người nào biết chữ cho vào đây học. Từ đây Nho giáo bắt đầu có
địa vị trong xã hội.

122
Trong khoảng 216 năm, nhà Lý tổ chức bảy khoa thi; tính trung bình trên
30 năm mới tổ chức được một khoa, tất cả các khoa thi đều thuộc hệ thống chế
khoa, tức là các khoa thi tổ chức không định kỳ, theo chiếu chỉ của nhà vua.
Đáng lưu ý, năm 1077, lần đầu tiên toán học được đưa vào chương trình thi cử;
khoa thứ thứ bảy (tổ chức năm1195) là khoa thi tam giáo, chọn người giỏi Nho
giáo, Phật giáo và Đạo giáo.
[Từ khoa thi Ất Mão (1075) triều vua Lý Nhân Tông đến khoa thi Kỷ
Mùi (1919) đời vua Khải Định, tổng cộng là 844 năm, các triều đại phong kiến
Việt Nam đã tổ chức được 185 kỳ đại khoa, lấy đỗ 2.898 vị tiến sĩ, trong đó có
47 vị trạng nguyên, 48 bảng nhãn, 75 vị thám hoa, 597 tiến sĩ hoàng giáp, 1.799
vị tam giáp tiến sĩ, 266 vị phó bảng, hàng ngàn hương cống (cử nhân), hàng vạn
sinh đồ (tú tài) và không biết bao nhiêu người đỗ nhất, nhị trường làm cho nền
văn hiến nước nhà càng thịnh vượng].
* Việc học tập, khoa cử thời Trần
Thời Trần ngoài việc quan tâm đến việc mở Quốc tử viện cho con em quý
tộc, quan lại, nho sĩ vào học, triều đình còn đặt thêm chức Học quan để trông
coi việc học, lập ra các trường học xóm làng, quy định thể lệ thi cử, học vị. Năm
1247 nhà Trần đặt danh hiệu Tam khôi (ba học vị trạng nguyên, bảng nhãn,
thám hoa) dành cho 3 người thi đỗ xuất sắc trong các kỳ thi Đình; đặt danh hiệu
thái học sinh dành cho người đỗ tương đương như tiến sĩ sau này. Năm 1304
(dưới triều vua Trần Anh Tông), thể thức của một kỳ thi đại khoa đã hoàn
chỉnh. Tại khoa này, các thí sinh phải trải qua phép thi tứ trường. Trường 1: thi
kinh nghi (những chỗ còn nghi ngờ trong ngũ kinh), kinh nghĩa (nghĩa của
kinh). Trường 2 thi thơ, phú. Trường 3 thi 3 bài chế, chiếu, biểu. Trường 4 thi
một bài văn sách. Trước khi vào trường thi, mỗi thí sinh còn phải viết chính tả
để loại bớt người kém. Khoa này có 44 người đỗ Tiến sĩ, trong đó có Trạng
nguyên Mạc Đĩnh Chi.

123
Kể từ khoa thi đầu tiên được tổ chức vào năm 1227 (triều vua Trần Thái
Tông) đến khoa thi cuối cùng năm 1396 đời cua Trần Thuận Tông, nhà Trần đã
mở được 19 khoa thi, gồm 18 khoa thi thái học sinh và một khoa thi tam giáo.
* Việc học và chế độ khoa cử thời Hồ
Sau khi nắm quyền (1400), triều Hồ khuyến khích Nho học, trường học
được mở xuống tận châu huyện, số trường học tăng lên nhiều. Nhà Hồ bỏ khoa
thi tam giáo, chỉ thi thái học sinh, sách học tập trung vào kinh truyện Nho giáo,
phép thi cũng thay đổi, không theo phép thi của nhà Nguyên, chia làm bốn kì,
lại thêm một kì viết chữ và làm tính, tổng cộng là năm kỳ. Cứ ba năm mở một
khoa thi; năm trước thi hương, người nào trúng tuyển thì được miễn lao dịch;
năm sau thi ở bộ Lễ, người nào trúng tuyển thì được bổ dụng. Hai năm sau nữa
thi hội, người nào trúng tuyển thì được cấp học vị Thái học sinh.
Hồ Quý Ly đã đưa chữ Nôm vào sử dụng trong đời sống và bước đầu
trong việc học tập. Nối tiếp các triều trước, ông cũng tổ chức kỳ thi làm toán và
viết chữ để tuyển lại viên. Dưới thời Hồ, toán học không những là môn thi bắt
buộc mà nó còn được áp dụng rộng rãi vào đời sống kinh tế sản xuất (như dùng
toán học đo đạc lại tổng số ruộng đất toàn quốc, lập thành sổ sách ruộng đất
từng lộ, phủ, châu, huyện, đánh số đinh theo số lũy tiến).
Triều đại nhà Hồ quá ngắn ngủi. Cuộc xâm lược của nhà Minh đã cắt
ngang bước chuyển mình của dân tộc với những cải cách, trong đó có cải cách
học tập và thi cử mà nhà Hồ đang vận hành.
* Việc học và chế độ khoa cử thời Lê sơ
Bước sang thời Lê sơ, chế độ đào tạo Nho sĩ được xây dựng theo một xu
hướng rất chính quy. Tại Kinh thành có Quốc Tử Giám hay còn gọi là Thái học
viện. Tại các đạo bên cạnh các trường do nhà nước quản lý còn có các trường
học tư. Nội dung học tập của học trò tại các trường này là khuôn vàng thước
ngọc trong các sách kinh điển của Nho giáo và lịch sử các vương triều phương
Bắc. Đối tượng học thời kỳ này được mở rộng hơn so với các thời trước. Không
những con em tầng lớp quan lại, quý tộc được đi học đi thi mà con em tầng lớp

124
bình dân cũng được đi học, đi thi. Nhà Lê đặt ra lệ “Bảo kết hương thí” quy
định rất rõ làng xã cần phải chịu trách nhiệm về người dự thi; lệ “Cung khai tam
đại” bắt người đi thi phải trình báo rõ lý lịch ba đời. Cả hai lệ này đều không
cho con nhà xướng ca, hoặc gia đình mà thân nhân có tội với triều đình được đi
học, đi thi. Từ năm 1422 trở đi, cứ 3 năm mở một kỳ thi Hương ở các địa
phương và thi Hội, thi Đình ở kinh thành để chọn hiền tài. Triều đình đặt ra lễ
xướng danh, lễ vinh quy và lễ khắc tên mỗi người thi đỗ Tiến sĩ vào bia đá dựng
ở Văn miếu gọi là bia Tiến sĩ. Câu nói nổi tiếng của Thân Nhân Trung “Hiền tài
là nguyên khí quốc gia” ra đời trong thời kỳ này. Hệ thống quan lại của nhà Lê
hầu hết đều được tuyển lựa qua thi cử,chỉ có số ít là quý tộc, tôn thất.
* Việc học và chế độ khoa cử thời Mạc
Năm 1527, Mạc Đăng Dung giành ngôi nhà Lê. Vương triều Mạc tồn tại
65 năm (1527 - 1592) nhưng chỉ có một số năm đầu là yên ổn còn từ năm 1533
trở đi, các thế lực phong kiến tiến hành nhiều cuộc chiến nhằm giành lại ngôi
báu cho nhà Lê. Từ khoa thi đầu tiên (1529) đến khoa thi cuối cùng (1592), nhà
Mạc tổ chức đều đặn ba năm một kì thi, bất chấp tình trạng chiến tranh, kể cả
lúc phải rời bỏ kinh thành Thăng Long; tuyển chọn được nhiều tiến sĩ và trạng
nguyên. Dưới thời Mạc, trường tư thục tiếp tục phát triển, ví dụ như trường của
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các để thi nhằm hướng đến chọn được người thực học,
thực tài.
* Việc học và chế độ khoa cử dưới thời chúa Nguyễn ở Đàng trong
Sau khi vào trấn thủ Thuận Quảng, Nguyễn Hoàng dần dần xây dựng
một giang sơn riêng . Vùng lãnh thổ do các chúa Nguyễn cai quản được gọi là
Đàng Trong, đối lập với Đàng Ngoài mà ở đây thực quyền quản lí thuộc về chúa
Trịnh, vua Lê chỉ là bù nhìn. Ở vùng đất mới khai phá, việc dạy và học còn hạn
chế. Nho giáo chưa có vị thế cao. Việc chúa Nguyễn tạo điều kiện cho thương
nghiệp phát triển có phần rất xa lạ với Nho giáo cổ điển. Khoa cử ở Đàng Trong
trọng thơ là một nét đáng chú ý. Năm 1646, chúa Nguyễn Phúc Lan mở các
khoa thi đầu tiên ở Đàng Trong gọi là thi chính đồ và thi hoa văn. Các chúa

125
Nguyễn sau tổ chức việc thi hoàn bị hơn. Khoa thi chính đồ chia làm ba kì: kì 1:
thi văn tứ lục, kì 2: thi thơ và phú, kì 3: thi văn sách. Những người trúng tuyển
chia làm hai hạng: giám sinh và sinh đồ; giám sinh được bổ làm tri phủ, tri
huyện; sinh đồ được bổ làm lễ sinh hoặc nhiêu học. Khoa thi hoa văn tiến hành
trong ba ngày, mỗi ngày chỉ làm một bài thơ. Những người thi đỗ chia làm ba
hạng. Khoa thi chính đồ và khoa thi hoa văn được tổ chức ở dinh Phú Xuân, cứ
chín năm một lần, còn ở các dinh khác thì cứ năm năm mở một khoa. Ngoài hai
khoa thi trên, chúa Nguyễn còn tổ chức thêm một số kì thi đặc biệt khác. Những
khoa thi này nhằm mục đích thăm dò ý kiến của sĩ tử về tình hình ở Đàng
Ngoài, khảo hạch quan lại tại chức.
Dưới thời các chúa Nguyễn, việc thi cử có nhiều khác biệt so với định chế
khoa cử ở Trung Quốc hay dưới thời các vương triều quân chủ Việt Nam trước
đó. Điều này phản ánh tình hình và trình triều độ Nho học còn hạn chế ở Đàng
Trong, tính thực tiễn của các chúa Nguyễn và cũng do hoàn cảnh thực tế của
Đàng Trong.
Ngoài việc tiến hành khoa cử, các chúa Nguyễn còn áp dụng chế độ tiến
cử dẫn đến việc mua quan bán tước thịnh hành.
*Việc học và khoa cử dưới thời Lê Trung hưng ở Đàng Ngoài.
Đặt căn cứ ở vùng núi Thanh Hóa, nhà Lê Trung hưng với vai trò đắc lực
của họ Trịnh đã mạnh dần lên và đến năm 1592 thì chiến thắng nhà Mạc. Việc
tổ chức khoa cử thu hút nhân tài ở thời gian đầu chỉ mới có chế khoa, tiếp sau
đó mở khoa thi tiến sĩ. Các khoa này tổ chức ở Thanh Hóa.
Từ năm 1595, các khoa thi Tiến sĩ lại được tiếp tục tổ chức ở Thăng
Long. Năm 1787 là khoa thi cuối cùng được tổ chức dưới triều Lê.
Dưới thời Lê Trung hưng, số tiến sĩ lấy đỗ mỗi khoa không nhiều. Những
năm chiến tranh đã tàn phá nặng nề đất nước, ảnh hưởng xấu đến cả những định
chế và nội dung khoa cử. Năm 1730, triều đình quy định, trong các kỳ thi
hương, ai nộp ba quan tiền thì được miễn khảo hạch, coi như đã đỗ sinh đồ.
Người đương thời mỉa mai gọi những người mua bằng cấp là “sinh đồ ba quan”.

126
* Việc học và chế độ khoa cử thời Tây Sơn
Vương triều Tây Sơn chỉ tồn tại 14 năm. Trong khoảng thời gian đó, nhà
Tây Sơn quyết tâm xây dựng một nền giáo dục khoa cử độc lập, chủ trương đưa
giáo dục về tới làng xã, thúc đẩy đào tạo nhân tài, đề cao và khuyến khích học
chữ Nôm.
Do nhà Tây Sơn tồn tại quá ngắn ngủi, chỉ mới tổ chức được thi hương,
chưa mở được thi hội.
* Việc học và chế độ khoa cử dưới triều Nguyễn
Các vua nhà Nguyễn từ Gia Long tới Minh Mệnh, Thiệu Trị,Tự Đức đều
tôn sùng Nho giáo, chăm lo tổ chức Nho học, việc học và khoa cử. Chỉ một năm
sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã cho dựng nhà học ở Quốc tử giám (tại Huế).
Năm 1821, Minh Mệnh phát triển cơ sở học tập ở Quốc tử giám. Năm 1822, nhà
vua đặt nhà học ở phủ huyện, hướng dẫn các địa phương cách thức thi hành.
Thời Nguyễn việc thi hương được tiến hành ở địa phương, thi hội ở kinh kì.
Khoa thi hương đầu tiên được tổ chức vào năm 1807 dưới triều vua Gia Long,
Khoa thi tiến sĩ đầu tiên được tiến hành vào năm 1822 dưới triều vua Minh
Mệnh. Năm 1825, vua Minh Mệnh định phép thi hương, thi hội. Theo đó, cứ ba
năm có một khoa thi, thi hương được tiến hành vào các năm Tí, Mão, Ngọ, Dậu,
thi hội diễn ra vào các năm Sửu, Thìn, Mùi, Tuất. Năm 1828, Minh Mệnh đổi
hương cống thành cử nhân, sinh đồ thành tú tài và mở khoa thi hương ở Thừa
Thiên, Gia Định và Nghệ An, lấy đỗ cử nhân 52 người. Đến đời Thiệu Trị, việc
bồi dưỡng nhân tài tiếp tục được chú trọng. Vua Tự Đức cũng mở nhiều khoa
thi. Đây là một vị vua hiếm có trong lịch sử, tự tay ra nhiều đề thi, trực tiếp
chấm đối sách thi đình. Nhà vua còn buộc các hoàng thân và đình thần hàng
tháng tập hợp lại cùng vua nghe giảng sách kinh điển. Các đời vua Kiến Phúc,
Thành Thái, Duy Tân, Khải Định tiếp tục mở các khoa thi.
Trong khoa cử, triều Nguyễn vẫn theo những thể chế thời Lê, tổ chức các
khoa thi tiến sĩ là chủ yếu, cũng thực hiện ân điển, lễ xướng danh, lễ vinh quy,
khắc bia đá đề danh tiến sĩ. Để phục vụ cho học tập và khoa cử, nhà Nguyễn

127
cho in và phát hành nhiều sách giáo khoa, nhiều loại văn mẫu dùng trong thi cử.
Họ đầu tư khá nhiều công sức vào việc tóm lược Bắc sử (sử Trung Quốc). Tuy
nhiên, cả vua Minh Mệnh và Tự Đức đều nhận thấy sự hạn chế của việc quá
thiên về sách vở và sử nước ngoài. Vì thế, vua Minh mệnh cho lập Quốc sử
quán để biên soạn lịch sử nước nhà.
Trong việc giáo dục và khoa cử, nhà Nguyễn lúng túng giữa một bên là
các chuẩn mực theo Nho giáo chính thống và một bên là yêu cầu trả lời những
vấn đề thực tế của đất nước. Nhà nho Trương Quốc Dụng đã có những kiến
nghị nhằm thay đổi việc học tập và yêu khoa cử. Vua Tự Đức cũng than thở
trước tình trạng sa sút của học trò . Triều Nguyễn đã nhiều lần đổi phép thi
nhưng không đạt được kết quả như ý muốn. Chỉ có Nguyễn Trường Tộ là người
duy nhất đề xuất một hệ thống cải cách tương đối nhất quán, kịch liệt phê phán
lối học và lối dạy đương thời. Những đề xuất của Nguyễn Trường Tộ không
được chấp nhận. Ngày nay, dưới ánh sáng của những tư liệu mới, có người đặt
vấn đề đánh giá lại động cơ và những việc làm của Nguyễn Trường Tộ. Theo
họ, thực chất Nguyễn Trường Tộ có tội nhiều hơn công, thậm chí công hầu như
không có.
***
Dưới thời quân chủ, Nho giáo là một công cụ hữu ích để những người
đứng đầu cai quản và điều hành đất nước. Trong nội dung của Nho giáo có
nhiều điều đến bây giờ vẫn có giá trị tích cực. Việc học tập Nho học và chế độ
khoa cử thời Đại Việt đã đào tạo được không ít nhân tài. Và thời nào cũng vậy,
bên cạnh những người thực tài, thực học vẫn có những người gặp may, những
người do mánh lới, thậm chí do dùng tiền bạc mà đạt được những học vị -
Nhưng tất cả những điều đó không làm lu mờ giá trị của nền giáo dục và khoa
cử thời trước. Qua việc tìm hiểu việc học và chế độ khoa cử, chúng ta thấy cha
ông một mặt tiếp thu văn hóa Trung Hoa, mặt khác đã có những điều chỉnh,
thậm chí có những cải cách táo bạo. Khi thời thế đã thay đổi, khi cách mạng tư
sản Pháp đã bùng nổ ở phương Tây, những người đứng đầu đất nước vẫn hướng

128
tới một thời Nghiêu Thuấn vàng son thì các vũ khí “nhân nghĩa”, “chính danh”
của họ sẽ thất bại trước hạm thuyền và đại bác của kể xâm lược. Đất nước bị đô
hộ, việc học tập và thi cử theo Nho học cũng lụi tàn dần nhưng đã để lại nhiều
bài học quý giá cho hậu thế.
4.2.3.4. Khoa học kỹ thuật
*Khoa học tự nhiên
- Một sự kiện lịch sử quan trọng thể hiện sự hiểu biết sâu sắc và sự vận
dụng khôn khéo quy luật của thuỷ triều là trận đánh Bạch Đẳng của quân dân
thời Trần năm 1288. “Trên thế giới, những trường hợp như vậy cũng rất hãn
hữu, và nếu có xảy ra thì cũng là mãi về sau, khi trình độ hiểu biết về tự nhiên
đã đạt tới mức khá cao. Nhưng ở nước ta, chuyện đó đã xảy ra từ thế kỉ XIII, và
thậm chí còn trước nữa, vào thế kỉ thứ X, trong trận Ngô Quyền thắng quân
Nam Hán (năm 938)”.
- Thiên văn và lịch pháp ra đời ở nước ta vào thời Trần với hai đại diện là
Đặng Lộ - người phát minh ra loại kính quan sát thiên văn đơn giản đầu tiên và
Trần Nguyên Đán - tác giả của Bách thế thông khảo, công trình giới thiệu một
cách có hệ thống về lịch của nước ta từ những thế kỉ đầu Công nguyên cho đến
cuối thế kỉ XIV.
- Về địa lí , quá trình nhận thứ trên lĩnh vực này của người Đại Việt được
phản ánh từ việc cắt đặt các đơn vị hành chính của triều đình , qua sự xuất hiện
của những bản đồ hành chính cho tới những cuốn sách nghiên cứu công phu .
Một trong những người đầu tiên vẽ bản đồ cả nước là Đàm Văn Lễ (1452 -
1505) với An Nam bình thăng toàn đồ. Bên cạnh đó là Hồng Đức bản đồ - tập
bản đồ nước Đại Việt, hoàn thành vào năm Hồng Đức thứ 21 (1490), triều Lê
Thánh Tông. Được xem như ông tổ của ngành địa lí học là Nguyễn Trãi (1380 -
1442), tác giả của Dư địa chỉ. Có những đóng góp đáng kể cho khí tượng học,
nhất là trong việc tổ chức hệ thống trạm khí tượng là Hải Thượng Lãn Ông Lê
Hữu Trác (1720 - 1791). Cùng thời với Hải Thượng Lãn Ông, Lê Quý Đôn

129
(1726 - 1784), cũng là một nhà địa lí, khí tượng và thiên văn học uyên bác với
các quan điểm khoa học về vũ trụ được thể hiện qua bộ Vân đài loại ngữ.
- Từ thời Lý (năm 1077), toán học lần đầu tiên được đưa vào chương
trình thi cử. Cho đến thời Hồ, nó không những là môn thi bắt buộc mà còn được
áp dụng rộng rãi vào đời sống kinh tế sản xuất (như dùng toán học đo lại tổng số
ruộng đất toàn quốc, lập thành sổ sách ruộng đất từng lộ, phủ, châu, huyện,
đánh số đinh theo số ruộng luỹ tiến). Thế kỉ XIII - XVI chứng kiến sự xuất hiện
của nhiều nhân tài toán học. Nguyễn An (1381 - 1453), một nhà toán học tài
năng, người bị quân Minh bắt đưa sang Trung Quốc, đã chỉ đạo thiết kế và xây
dựng nhiều công trình kiến trúc tại Bắc Kinh, tiêu biểu hơn cả là Tử cấm thành.
Trong số các nhà toán học của nước ta thời đó, Lương Thế Vinh và Vũ Hữu là
hai tên tuổi nổi bật, được đương thời tôn làm “thần toán”. Lương Thế Vinh
(1441 - 1496) đã chế ra thước đo ruộng, bàn tính gảy và là tác giả của Đại thành
toán pháp. Còn Vũ Hữu (1437 - 1530) được nhắc nhớ với tác phâm Lập thành
toán pháp, với các phép đo đạc ruộng đất vànhững cách tính toán trong xây
dựng nhà cửa, thành luỹ.
- Về y học, khoảng trước năm 1282, nhà Trần đã lập ra sáu viện chuyên
trách trong đó có Thái y viện với nhiệm vụ chủ yếu là chăm lo sức khoẻ cho
vua, hoàng tộc và triều đình. Đây là nơi làm việc của các bậc danh y như Phạm
Bân (thời Trần), Phan Phu Tiên, Nguyễn Trực (thời Lê sơ). Tuy nhiên, đỉnh cao
của y học thời Đại Việt được kết tinh, hội tụ ở hai tài năng y học xuất chúng:
Tuệ Tĩnh với hai tác phẩm Nam được thần hiệu, Hồng Nghĩa giác tư y thư và
Hải Thượng Lãn Ông với Lãn Ông tâm lĩnh.
* Khoa học kĩ thuật (chế tạo máy, chế tạo vũ khí, đóng tàu - thuyền)
Văn bia ở chùa Sùng Thiện Diên Linh ở núi Đợi (huyện Duy Tiên, tỉnh
Hà Nam), dựng vào năm 1121, dưới thời trị vì của vua Lý Thánh Tông cho biết
nhà Lý đã chế ra được máy “kim ngao” - một loại máy điều khiển đồ chơi đơn
giản. Cũng ở thời Lý, lực đòn bẩy đã được ứng dụng rộng rãi, nhất là trong việc
chế tạo máy bắn đá.

130
Do luôn bị ngoại xâm nhòm ngó nên triều đình Đại Việt rất quan tâm đến
việc chế tạo vũ khí. Dưới thời Trần, kĩ thuật chế thuốc súng và kĩ thuật đúc súng
đã khá thông dụng. Trong Bình thư yếu lược, Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra khá rõ
tỉ lệ các hợp chất dùng cho việc chế tạo thuốc súng. Nhờ có loại “hoả pháo” này
mà năm 1390, đô tướng Trần Khát Chân đã giết được vua Chiêm Thành là Chế
Bồng Nga và đánh tan quân đội Chiêm Thành khi chúng tràn ra đánh phá Đại
Việt. Tuy nhiên, người đưa kĩ thuật đúc súng đạt đến trình độ cao nhất, đồng
thời, đánh dấu việc súng trở thành vũ khí chủ lực thay cho máy bắn đá, cung tên
và ống phun lửa là Hồ Nguyên Trừng (1374 - 1446) - con trai cả của Hồ Quý
Ly. Sau thất bại trong cuộc chiến chống quân Minh, Hồ Nguyên Trừng cùng
cha và toàn bộ gia tộc bị bắt đem về Trung Quốc (năm 1407). Hồ Quý Ly bị đầy
làm lính ở Quảng Tây, còn Hồ Nguyên Trừng nhờ có tài chế súng nên được
trọng dụng và được làm quan đến chức Binh bộ mang thượng thư. Ông đã kết
hợp thành công kĩ thuật sử dụng chất cháy nổ bí truyền từ Ba Tư (được thuỷ tổ
nhà Minh 1 Quốc) với kĩ thuật hỏa khí của Việt Nam để làm nên “thân cơ sang
pháo". Minh sử chép: “Năm Vĩnh Lạc (1403 - 1424), vua Minh thân chinh Mạc
Bắc. Khi giặc kéo òa đến, bèn đem thân sang của nước An Nam ra đánh, giặc
mới rút lui”. Thời Minh, ở Trung Quốc có phong tục tế binh khí, và cứ mỗi lần
tế súng, quân Tầu lại tế Hồ Nguyên Trừng”.
- Sang thời Lê đã xuất hiện nhiều loại súng: súng hoả mai, súng kịp, súng
mã trường. Đến thời Tây Sơn, “trong trận đánh Ngọc Hồi, súng “hoả hổ”, một
loại súng phun lửa đã phát huy tác dụng rất 13. Đến thời Nguyễn, khi nói đến
phương diện chế tạo vũ khí thì không thể không nói đến quá trình tiếp thu tri
thức và áp dụng kĩ thuật phương Tây trong việc làm súng, đạn và thuốc súng.
Sách Đại Nam thực lục cho biết, các nhà chế tạo thời Nguyễn đã cố gắng làm
được một số vũ khí theo mẫu của nước ngoài, như súng “phục ba tướng quân”
của nhà Thanh (1879), súng máy của Pháp (1859), súng máy của Hoa Kì, của
Đức (1883) và súng trường kiểu năm 1874 của Pháp. Về chế tạo đạn, tháng 1
năm 1856, “địa chấn lôi” được chế lần đầu tiên và đem thí nghiệm ở trường bắn

131
có kết quả, để sau này, có mặt trong kế hoạch củng cố hệ thống phòng thủ của
nhà Nguyễn trước sự tấn công của quân Pháp. Ngoài ra cũng phải nhắc đến
những kết quả đáng ghi nhận về hoạt động đóng tàu, thuyền, chế tác máy nghiền
thuộc súng vận hành nhờ thác nước và xe cứu hoả….
* Khoa học xã hội
- Ngữ văn học: Nói đến hoạt động ngữ văn học là nói đến công việc sưu tầm
bảo quản, nghiên cứu, chỉnh lí các di sản văn học. Công việc này được tiến hành
thường xuyên liên tục, do công sức của cá nhân hoặc của một nhóm vài ba người
“cùng thanh khí hoặc có khi được tiến hành dưới sự tổ chức, chỉ đạo của triều
đình.
Giai đoạn Lý - Trần có Ngoại sử kí của Đỗ Thiện, Việt điện , linh (Lý Tế Xuyên
khởi thảo) và Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế Pháp khởi thảo). Sang đầu thời
Lê, hoạt động ngữ văn học hướng tới mục đích phục hồi những di sản văn học
thành văn đã bị giặc Minh ra sức huỷ diệt, thể hiện qua một số công trình tiêu
biểu như: Việt âm thi tập do Phan Phu Tiên và Chu Xa sưu tầm, chỉnh lí, hoàn
thành vào năm 1443, Tình tuyển chư gia luật thi do Dương Đức Nhan biên soạn
và hoàn thành khoảng 1459 - 1463, Trích diễm thị tập - tuyển tập thơ do Hoàng
Đức Lương sưu tầm từ đời Trần đến đầu đời Lê. Giai đoạn cuối Lê - đầu
Nguyễn đánh dấu việc chữ Nôm được sử dụng khá rộng rãi, được đề cao lên
hàng “quốc gia văn tự”, với những văn bản Nôm do chính tay vua Quang Trung
viết, và chủ trương thành lập “Sùng chính viện” để dịch các sách kinh điển từ
chữ Hán ra chữ Nôm. Một số tác phẩm thơ của các bậc danh gia đã được sưu
tập, chỉnh lí, chú giải đề công bố, như Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi do
Dương Bá Cung sưu tập, chinh lí tổ chức khắc in vào năm 1868; Truyên kỳ tân
phả của Đoàn Thị Điểm do Lạc Thiện đường in (1811). Truyện Kiều cũng như
hàng loạt truyện thơ Nôm khác nhau như Tổng Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc
Hoa v.v... cũng đã được xuất bản ở giai đoạn này, “góp phần tích cực vào việc
bảo tồn và phổ biến các văn bản Nôm trước đây vốn chi được lưu truyền qua
phương thức truyền miệng”.

132
- Sử học: Không tính đến những huyền thoại, truyền thuyết, những dòng
chữ khắc trên các hiện vật như chuông, khánh, trụ đá, bia, kệ - vốn được xem
như là những trang sử không chính thức đầu tiên thì nền sử học nước ta thực sự
được khai sinh vào thời Trần với cột mốc là sự ra đời của Quốc sử viện vào năm
1292. Người được tôn làm “cha đẻ” của nền sử học còn non trẻ này là Lê Văn
Hưu (1230 - 1322) với Đại Việt sử kí - bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam - ghi
lại những sự kiện quan trọng trong suốt chiều dài lịch sử gần 15 thế kị từ Triệu
Vũ đế - tức Triệu Đà - cho tới Lý Chiêu Hoàng
Sang thời Lê sơ, số tác giả và tác phẩm xuất sắc ngày một nhiều. Theo
tuần tự trước sau, chúng ta có thể kể đến “những cây đại sử bút” như Nguyễn
Trãi với Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Lam Sơn thực lục, Phan
Phu Tiên với Đại Việt sử kí tục biên, Ngô Sĩ Liên với Đại Việt sử kí toàn thư.
Thời vua Lê - chúa Trịnh và Tây Sơn, hai “đại gia” của nền sử học nước nhà
được đương thời và hậu thế đánh giá cao là Lê Quý Đôn với trước tác đồ sội
Đại Việt thông sử, Phủ biên tạp lục, Kiến văn tiểu lục, Lê triều công thần liệt
truyện, Bắc sứ thông lục và Ngô Thì Sĩ với Việt sử tiêu ản, Đại Việt sử kí tiền
biên...
Nói đến nền sử học thời Nguyễn, sẽ là một thiếu sót rất lớn nếu không
nhắc đến những đóng góp quan trọng của Quốc sử quán. Đây là cơ quan biên
soạn lịch sử chính thức duy nhất ở Việt Nam Trong suốt 125 năm từ năm 1821
đến năm 1945. Về biên soạn quốc sử, tác phẩm lớn nhất, có giá trị nhất là bộ
Khâm định Việt sử thông giảm cương mục được soạn thảo trong khoảng thời
gian từ năm 1856 đến 1881. Về lịch sử Việt Nam thời Nguyễn thì đồ sộ nhất là -
bộ Đại Nam thực lục.
4.2.3.5. Tín ngưỡng tôn giáo
* Tín ngưỡng
1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
2. Tín ngưỡng thờ thành hoàng làng
3. Tín ngưỡng thờ Mẫu

133
4. Tín ngưỡng thờ thổ công
* Tôn giáo
Trong thời kì Đại Việt, nước ta có ba tôn giáo chính là Phật giáo, Đạo
giáo và Thiên chúa giáo.
1. Phật giáo
Trong thời Đại Việt, năm 1007, vua Lê Ngọa Triều sai người sang nhà
Tổng xin kinh Đại tạng và đến năm 1009 thì đem về nước. Ngoài ra, kinh này
còn được nhập vào nước ta trong các năm 1020, 1034, 1081, 1098, góp phần
nâng cao trình độ Phật học nước nhà Theo PGS. Nguyễn Duy Hinh, so với Phật
giáo tiền Đại Việt,Phật giáo Đại Việt có ba điểm khác dưới đây.
Thứ nhất, Phật giáo Đại Việt chia thành hai giai đoạn rõ rệt là toàn
thịnh và suy thoái. Trong thời Lý - Trần, Phật giáo toàn thịnh. Trong thời Lê -
Nguyễn, Phật giáo bị gạt ra khỏi cung đình, phải trở về với dân gian.
Thứ hai, trình độ về Phật học thời Lý - Trần cao hơn so với Phật học
thời tiền Đại Việt. Có nhiều Phật tử thông tuệ như thiền sư Viên Chiếu, Trần
Cảnh, Tuệ Trung, Trần Khâm, Pháp Loa. Đã ra đời sách Khóa hư lục, một cuốn
sách diễn giải giáo lý nhà Phật theo tư tưởng và ngôn ngữ Đại Việt. Đã xuất
hiện phải thiền Trúc Lâm, một thiền phái Phật giáo Đại Việt.
Thứ ba, Phật giáo Đại Việt không những đã sáng tạo ra một thiền phái riêng mà
còn sáng tạo ra một nền văn minh Phật giáo bao gồm cả giá trị tinh thần và giá
trị nghệ thuật. Về giá trị nghệ thuật, được chú ý là kiến trúc chùa tháp (tiêu biểu
là chùa Một Cột, hệ thống chùa Yên Tử, tháp Báo Thiên, tháp Phổ Minh...), phù
điêu (thường trên gỗ hay trên đá), tượng (thí dụ, tượng A Di Đà ở chùa Phật
Tích, tỉnh Bắc Ninh; bốn pho tượng Kim Cương ở chùa Long Đọi, tỉnh Hà
Nam; 18 vị La Hán ở chùa Tây Phương, nay thuộc Hà Nội; tượng thiên thủ
thiên nhãn ở chùa Ninh Phúc, tỉnh Bắc Ninh...).
2. Đạo giáo
Dưới thời Tiền Đại Việt, Đạo giáo tồn tại trong dân gian. Dưới các triều
vua Đinh, Tiền Lê, Lý, Đạo giáo đã có mặt trong cung đình. Đạo giáo thời Lý -

134
Trần là đạo giáo sĩ tộc, tồn tại bên cạnh Phật giáo và Nho giáo ngay trong triều
đình và tham gia đóng góp việc nước trong hệ tư tưởng tam giáo. Đạo giáo thời
Lê - Nguyên bị bài xích phải trốn vào Nho giáo, Phật giáo để tồn tại. Đã hình
thành cục diện chỉ còn “nhị giáo” trong hệ tư tưởng chính là Nho giáo và Đạo
giáo. Đạo giáo trong thời gian này chủ yếu là Đạo giáo dân gian. Đạo giáo dân
gian li khai và chống lại triều đình, nhưng tiên đao vẫn là mơ ước của mọi tầng
lớp xã hội, từ vua chúa qua trí thức nho học đến người thường dân. Theo nhà
nghiên cứu Nguyễn Duy Hinh, trên đây là hai bước đi cơ bản của Đạo giáo thời
Đại Việt. Bước thứ hai, về mặt văn hóa mà nói lại đậm tính dân tộc và tính dân
gian hơn bước thứ nhất. Vì vậy, không thể nói đạo giáo Lê - Nguyễn là hoàn
toàn tiêu cực.
3. Thiên chúa giáo
Từ thế kỉ XVII, đạo Thiên chúa trở thành một tôn giáo mới tồn tại ở Việt
Nam. Đến đầu thế kỉ XIX, theo Senhô (Chaigneau) ở Bắc Kì có 300.000 con
chiên, các vùng khác có 60.000 con chiến. Thiên chúa giáo đưa vào cuộc sống
tâm linh của người Việt vũ trụ, về lòng từ thiện, về sự cứu khổ v.v... nhưng lại
có nhiều một 'quan niệm mới về sự tôn thờ, về quan hệ giữa con người và điểm
trái ngược với đạo lí của người Việt đương thời, đặc biệt là Nho giáo”. Ngoài ra,
“trên bước đường hình thành và phát triển của chủ nghĩa thực dân phương Tây,
Thiên chúa giáo hầu như là người bạn đồng hành”.
Khi đất nước bị chia cắt, nhìn chung cả chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và
chúa Nguyễn ở Đàng Trong thường không khuyên khích mà làm ngơ, thậm chí
có lúc, có nơi Thiên chúa giáo bị đàn áp. Bên cạnh đó, nội bộ các nhóm giáo sĩ
mâu thuẫn, đã có lúc công kích nhau quyết liệt. Đến những năm cuối của triều
đại mình, Nguyễn Quang Toản chủ trương câm đạo gắt gao. Về thái độ của nhà
Nguyễn đối với đạo này, lúc đầu (triều đình Gia Long), họ dè dặt còn sau đó thì
lạnh nhạt; từ thời Minh Mạng (1820 - 1840) trở đi. đối với Thiên chúa giáo
không phải chỉ có thái độ dè dặt và lạnh nhạt, nhà vua và các quan nhiều lần
công khai phê phán hoặc chính thức ban hành lệnh ngăn cản và cấm đoán'. Hai

135
triều vua tiếp theo là Thiệu Trị (1841 - 1847) và Tự Đức (1848 - 1883) đều cấm
đạo.
Về vai trò của đạo Thiên chúa đối với văn hóa Việt Nam, chúng tôi tán
thành quan niệm của nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Xuyên. Một mặt, tôn giáo
này còn “nhiều yếu tố ngoại lai, xa dân tộc, lìa cội nguồn”. Mặt khác, dần dần
nó cũng có sự hòa nhập vào đời sống văn hóa Việt Nam, đã có những đóng góp
tích cực đối với âm nhạc, kiến trúc, nghệ thuật tạo hình, chữ viết. Những đóng
góp này thể hiện rõ hơn, nhiều hơn ở thời kì văn hóa sau.
4.2.3.6. Văn học, nghệ thuật
* Văn học
Theo PGS. Nguyễn Văn Lộc, có thể chia văn học viết thời kỳ Đại Việt thành
bốn giai đoạn:
- Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ thế kỷ X đến nửa đầu thể kỷ thú XV với
đặc trưng cơ bản là khẳng định dân tộc. Lực lượng sáng tác là các thiền sư, vưa
quan và nho sĩ. Chữ viết được sử dụng là chữ Hán và chữ Nôm. Các tác giả tiêu
biểu là: Đỗ Pháp Thuận, Mã Giác, Dương Không Lộ,Trần Quốc Tuấn, Trần
Nhân Tông, Trần Nguyên Đán, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Nguyễn
Trãi,..
- Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ XV đến nửa đầu thể kỷ
XVIII với đặc trưng cơ bản là khẳng định nhà nước quân chủ. Chữ viết được sử
dụng là chữ Hán, chữ Nôm. Đặc biệt chữ Nôm phát triển.
- Giai đoạn thứ ba bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ thứ XVIII đến nửa đầu thế
kỷ thứ XIX, với đặc trưng cơ bản là khẳng định những giá trị chân chính của
con người. Tác giả tiêu biểu: Nguyễn Gia Thiều, Lê Hữu Trác, Nguyễn Huy Tự,
Nguyễn Thiếp, Phạm Nguyễn Du, Lê Quý Đôn, Lê Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm,
Phan Huy Ích, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu,
Nguyễn Công Trứ, Bà Huyện Thanh Quan, Phạm Đình Hổ, Đinh Nhật Thận…

136
- Giai đoạn thứ tư bắt đầu từ năm 1858 đến năm 1884, với đặc trưng cơ
bản là khẳng định dân tộc trước nạn ngoại xâm. Tác giả tiêu biểu: Nguyễn Đình
Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn Xuân Ôn, Nguyễn Quang Bích…
* Nghệ thuật sân khấu
- Chèo
- Tuồng
- Rối nước
* Âm nhạc (Âm nhạc Đại Việt – Bát Âm)
(Ba mô hình âm nhạc: Âm nhạc Đông Sơn, Âm Nhạc Đại Việt và Âm
nhạc phương Tây)
* Hội họa
* KIến trúc
*Điêu khắc
KẾT LUẬN
Văn hóa truyền thống của Đại Việt là nền văn hóa đa dân tộc, trong đó
người Việt đóng vai trò chủ đạo. Người Việt đã phát triển nghề trồng lúa nước
lên đến đỉnh cao của khu vực. Bên cạnh chữ Hán, người Việt đã sáng tạo ra chữ
Nôm và cũng đã chứng kiến sự ra đời của chữ quốc ngữ. Nếu theo cách phân
loại xã hội của Giăng Poariê, thì văn hóa Đại Việt được xếp vào loại xã hội
truyền thống chủ nghĩa, (có chữ viết), một bước phát triển cao hơn xã hội truyền
thống sản xuất (có nông nghiệp và chăn nuôi). P. Mus, một học giả của Viễn
Đông bác cổ Pháp đã nhận xét: “người Việt Nam gắn chặt với đất đai mà họ làm
ruộng lúa. Sự hòa hợp chặt đến mức là bất cứ ở đâu khi có đủ điều kiện ấy, thì
không một dân tộc nào có thể chống lại sự phát triển của người Việt và cũng
không một sức mạnh nào có thể làm họ bật ra khỏi ruộng lúa mà họ đã xây
dựng” [Bùi Huy Đáp, Nguyễn Điền (1996), Nông nghiệp Việt Nam từ cội nguồn
đến đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, H, tr.82 - 83]. A. Toynbee, một học giả
người Anh, trong cuốn Một công trình nghiên cứu về sử học xuất bản năm 1972

137
tại London, đã điểm được 34 nền văn minh có bản sắc riêng trên thế giới, và
trong số 18 nền văn minh đang tồn tại, có văn minh Việt Nam.
Trong tiêu chí của nền văn hóa truyền thống, văn hóa Đại Việt đã phát
triển đến đỉnh cao rực rỡ. Song nếu so với văn hóa công nghiệp thì nền văn hóa
này có những giới hạn nhất định. Giá như các vua nhà Nguyễn thức thời, không
bế quan tỏa cảng, không trọng nông ức thương, không tôn sugf Nho giáo, sớm
có biện pháp canh tân đất nước như người đứng đầu nước Nhật thì có lẽ những
trang sử tiếp theo sẽ được viết khác đi. Nhưng lịch sử không có chuyện giá như.
Thực tế, năm 1858, thực dân Pháp nổ sung vào Đà Nẵng, sau đó lần lượt chiếm
ba tỉnh miền Đông, miền Tây Nam Kỳ, và đến năm 1884, đặt ách thống trị lên
toàn cõi Việt Nam.
CÂU HỎI
1. Điểm chung nhất của tư tưởng Đại Việt là gì?
2. Anh (chị) hãy so sánh việc học và khoa cử thời Lê sơ với những thời
khác?
3. Anh (chị) hãy trình bày những thành tựu chủ yếu về khoa học kỹ thuật
thời kỳ văn hóa truyền thống trong quốc gia Đại Việt?
4. Những đặc sắc trong văn học nghệ thuật thời kỳ Đại Việt là gì?

138
Chương 5
VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘC
(1884 - 1945)
(Tổng số giờ 04; lý thuyết:04 , bài tập/thảo luận: 0, thực hành: 0)
YÊU CẦU
- Người học nhớ và hiểu được phân kỳ, bối cảnh lịch sử văn hóa, đặc
trưng văn hóa Việt Nam thời Pháp thuộc.
- Người học đánh giá được vai trò của văn hóa Việt Nam thời Pháp thuộc
trong lịch sử văn hóa dân tộc.
5.1. Bối cảnh lịch sử
Giao lưu với văn hóa phương Tây hình thành vào thế khoảng thế kỷ 16,
17 với sự xuất hiện của các giáo sĩ phương Tây ở Việt Nam nhằm mục đích
truyền đạo Gia Tô. Tuy nhiên sự ảnh hưởng văn hóa phương Tây đến văn hóa
Việt Nam chỉ thực sự diễn ra mạnh mẽ trong thời kỳ Pháp thuộc.
Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi: “Năm Nguyên Hòa thứ I
(1533) đời vua Lê Trang Tông có một người Tây dương tên là Inêkhu theo
đường biển lẻn vào giảng đạo Giatô ở các làng Ninh Cường, Quần Anh, Trà Lũ
nay thuộc tỉnh Nam Định. Từ đó các giáo sĩ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha tìm đến
ngày càng đông để truyền giáo.
Sự xuất hiện của các giáo sĩ phương Tây đã đem đến cho xã hội Việt
Nam một luồng tư tư tưởng mới - nền văn hóa mới, đó là đạo Cơ đốc giáo, hoặc
Kitô giáo. Hoạt động của các nhà truyền đạo cũng đã làm xuất hiện 1 loại văn tự
mới ghi âm tiếng Việt, đó là chữ Quốc ngữ. Đây là công trình do nhiều giáo sĩ
phương Tây sáng tạo ra trong đó có phần đóng góp không nhỏ của nhiều người
Việt Nam.
Theo Trần Ngọc Thêm: Những người phương Tây đầu tiên đã tới Việt
Nam và Đông Nam Á sớm hơn nhiều, vào khoảng đầu Công nguyên. Họ đem
đến các đồ trang sức, pha lê, áo giáp, vũ khí ...để đổi lấy những thứ hàng quý
hiếm của Đông Nam Á như trầm hương, kỳ nam, vàng, đá quý, yến sào, đồi

139
mồi, ngà voi, tê giác...và đặc biệt là hồ tiêu, các loại gia vị dùng để bảo quản
thịt. Không phải ngẫu nhiên mà giới nghiên cứu đã gọi tuyến đường biển từ Địa
trung hải tới VN và Đông Nam Á thời đó là Đường hồ tiêu. Tuy nhiên phải sau
thời kỳ trung cổ nặng nề khiến cho sự giao lưu bị gián đoạn, cho đến thế kỷ 16
cuộc giao lưu giữa phương Tây với VN mới tái diễn trở lại và phát triển lên một
bước ngoặt mới.
Năm 1958 thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam với lý do triều đình
Huế ngược đãi các giáo sĩ và cự tuyệt không nhận quốc thư của Pháp đòi tự do
buôn bán. Sau khi lần lượt bình định được Việt Nam, người Pháp đã ép buộc
triều Nguyễn ký Hòa ước Quý Mùi (1883), chính thức xác lập quyền bảo hộ lâu
dài của Pháp trên toàn bộ Việt Nam. Hiệp ước này chính thức đánh dấu thời kỳ
1883-1945, toàn bộ Việt Nam nằm dưới sự khống chế của thực dân Pháp (thời
Pháp thuộc). Tuy nhiên sự có mặt của người Pháp ở Việt Nam đã tạo điều kiện
giao lưu văn hóa ở thời kỳ rực rỡ, đó là sự giao lưu giữa hai nền văn hóa Đông -
Tây. Sự giao lưu này với tính chất ban đầu là cưỡng bức, sau đó có yếu tố tự
nguyện đan xen.
5.2. Đặc trưng văn hóa
Giai đoạn này có hai đặc trưng văn hóa lớn:
- Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt - Pháp
- Giao lưu văn hóa tự nhiên Việt Nam với thế giới Đông Tây.
Sự thất bại của những cuộc kháng chiến trong ba mươi năm ấy đã làm
thay đổi nhận thức của tầng lớp sĩ phu, đưa đến một sự chuyển đổi cơ bản trong
tính chất nền văn hoá Việt Nam giai đoạn tiếp theo.
Trong tầng lớp sĩ phu lúc bấy giờ theo chúng tôi có ba đường lối ứng xử:
1. Hoặc chống lại sự giao tiếp văn hóa Đông – Tây, hay còn gọi là cưỡng
chống giao thoa. Thái độ này tàn lụi dần cùng nền văn hóa giáo dục cũ.
2. Hoặc đầu hàng thực dân về chính trị, cố học lấy một ít chữ Pháp, chữ
Quốc ngữ Latinh và văn hóa Pháp rồi ra làm quan cho chính quyền thực dân.
Đây là sự chấp nhận bị đồng hóa một cách tiêu cực.

140
3. Xu hướng của những nhà nho cải cách. Xu hướng của những sĩ phu
nhận thức được rằng muốn tiến hành công cuộc kháng chiến để giải phóng dân
tộc, bắt buộc phải tiến hành đấu tranh văn hóa, và điều cơ bản trong cuộc đấu
tranh này là hình thức thâu hóa, muốn giao thoa văn hóa Đông - Tây tự nguyện.
Xu hướng muốn giao thoa văn hóa Đông - Tây tự nguyện này ở ngoài
quỹ đạo chính sách văn hóa thực dân, xu hướng này cũng bị thực dân Pháp bóp
chết một cách tàn bạo thẳng thừng.
Giai đoạn khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp tại Đông Dương sau
Chiến tranh thế giới thứ nhất. Thời kì này ảnh hưởng của văn hóa tư sản phương
Tây đã cùng với công cuộc khai thác thuộc địa ấy mà ngày càng tác động mạnh
mẽ vào đời sống xã hội và văn hóa. Quá trình thâu hóa được tiếp tục với mục
đích cuối cùng là giải phóng. Bằng quá trình tự thân vận động, bằng thâu hóa,
dòng văn hóa Việt dần dần bước vào quỹ đạo hội nhập từng phần với dòng văn
hóa hiện đại để dần dần trở thành hiện đại.
Theo GS. Trần Quốc Vượng và cộng sự, nền văn hóa Việt Nam trong 100 năm
tiếp xúc giao lưu với văn hóa phương Tây diễn biến quanh cái tương quan tam
giác tính Cổ truyền - Giao thoa - Đổi mới.

Cổ truyền

Giao thoa Đổi mới

5.2.1. Văn hóa vật chất


5.2.1.1. Sản xuất nông nghiệp và nghề thủ công
- Sản xuất nông nghiệp:
+ Nghề trồng lúa nước dưới thời Pháp thuộc chủ yếu là sản xuất tiểu nông theo
kiểu chồng cày, vợ cấy của các hộ nông dân có ruộng và nông dân tá điền lĩnh
canh, nộp tô.

141
+ Xuất hiện ngày càng nhiều các đồn điền sản xuất nông sản xuất khẩu của thực
dân Pháp.
+ Công cụ sản xuất nông nghiệp được bổ sung một số kiểu loại của phương
Tây, như: cuốc và xẻng kiểu tây, cuốc chim, xà beng, bình tưới vòi hoa sen…
+ Người Pháp mang sang Việt Nam các giống cam, quýt nhập từ Địa Trung
Hải, Bắc Phi, giống lúa chịu hạn CO Ấn Độ, giống khoai tây của Pháp, nhiều
giống rau ôn đới như su hào, bắp cải, súp lơ, cà rốt, tỏi tây, hành tây, các giống
hoa layơn, loa kèn, phượng vĩ, cây canh kin na (để chiết xuất kí ninh chống sốt
rét), các giống cây công nghiệp như cao su, cà phê…
- Nghề thủ công phát triển hơn thời quân chủ. Sự hình thành và phát triển các đô
thị, các trung tâm hành chính, kinh tế, giao thông, văn hóa …đã đẩy nhanh sự
tăng trưởng số lượng thợ thủ công, nối liền các làng nghề với các đô thị, mở
thêm nhiều ngành nghề kinh doanh mới lạ (như nghề làm đăng ten), cải tiến kỹ
thuật, đưa thủ công nghiệp tiến tới tiểu công nghiệp, phát triển quan hệ sản xuất
tiểu chủ, khiến cho sự phân công lao động giữa thủ công và nông nghiệp được
đẩy mạnh thêm một bước.
+ Nghề thêu truyền thống có thêm nguyên vật liệu mới như sa tanh, chỉ “xoa”,
kim khâu do người Pháp đem đến. Nghề dệt cổ truyền được tách thành hai nghề
độc lập với nhau là nghề làm sợi và nghề dệt vải.
+ Xuất hiện các nghề thủ công mới như may mặc (Âu phục), nghề làm giày da,

5.2.1.2. Ẩm thực, trang phục, nhà ở và đi lại
* Ẩm thực
- Xuất hiện các món ẩm thực mới do ảnh hưởng của Pháp: bánh mỳ, phở, bơ,
sữa, thịt bò hầm khoai tây, thịt bò bít tết, thịt bò kho, sốt vang, súp.
- Đố uống có các loại rượu do người Pháp mang sang VN như sữa bò tươi, rượu
sâm panh, boóc đô, uýt ky, bia, cà phê.
- Dụng cụ làm bếp và dụng cụ ăn uống của Pháp cũng được du nhập như xoong,
tách, nĩa, dĩa, cùi dìa, phóng xiết,…

142
* Trang phục:
Trang phục cá nhân chủ yếu ở thành thị đã có biến đổi: nam giới con nhà giàu,
quan chức cao cấp mặc Âu phục (Comple, sơ mi quần Tây) đi giày da, đội mũ
phớt, dùng khăn mùi xoa. Nữ giới mặc váy đầm, thay yếm bằng áo nịt ngực,
dùng túi xách tay, để tóc phi dê, môi son, má phấn, dùng nước hoa. Ở nông thôn
phụ nữ cũng bắt đầu thay áo tứ thân bằng áo cài khuy bấm, dùng khăn quàng
thay cho khăn mỏ quạ.
* Nhà ở:
Ban đầu, người Pháp mang vào VN những kiểu mẫu kiến trúc châu Âu
hoàn toàn xa lạ với truyền thống người Việt, thể hiện cả trong quy hoạch đô thị
và xây dựng công trình kiến trúc. Về sau, những công trình kiến trúc (cả nhà ở
và các công sở, trường học, nhà thờ, bệnh viện…) đã có sự thay đổi dần, và chú
ý hơn đến yếu tố địa lý, khí hậu và văn hóa bản địa. ( ví dụ: Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội, Viện Viễn Đông Bác Cổ, Bộ Ngoại Giao, Phủ Toàn quyền,
Thư viện Quốc Gia, Nhà thờ đá Phát Diệm v.v...). Nhà ở tại các đô thị (nhất là
Hà Nội) rất đa dạng, phong phú về số lượng, phong cách hay kiểu thức kiến trúc
(tân cổ điển, art deco, gô - tích, vô - băng, địa phương Pháp…).
Về kỹ thuật xây dựng, lần đầu tiên kỹ thuật xây dựng công trình Việt
Nam được kết hợp với kỹ thuật tính toán khoa học thông qua các bản vẽ phương
Tây. Kết cấu kết hợp kỹ thuật xây dựng mới của Pháp (bê tông, cốt thép…) với
kỹ thuật cổ truyền của người Việt tỏ ra có hiệu quả trong điều kiện môi trường
VN đặc thù tạo độ bền vững và tuổi thọ cao cho công trình.
* Đi lại:
- Xuất hiện các phương tiện giao thông mới, hiện đại: xe tay, xe ngựa, xe
đạp, xe máy, ô tô, tàu thủy, xe lửa, tàu điện, máy bay,..
- Người Pháp tiến hành xây dựng hệ thống đường giao thông rộng khắp
(cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không) tạo điều kiện cho
giao lưu văn hóa trên lãnh thổ VN được dễ dàng hơn. Cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất của Pháp đã tạo ra những con đường liên tỉnh dài tới 20 ngàn km.

143
Đường thủy, nhất là ở Nam Bộ cho tới năm 1914 được khai thông với độ dài
1745km. Đường sắt tới năm 1912 đã hình thành với 2059km. Tuyến đường sắt
Hà Nội - Sài Gòn được hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 1936. Về đường
hàng không, theo tác giả Thạch Phương, Lê Trung Hoa, chiếc máy bay đầu tiên
xuất hiện trên bầu trời Sài Gòn vào năm 1910. Năm 1917, Sở Hàng không Đông
Dương được thành lập. Năm 1928, hình thành đường bay Hà Nội – Sài Gòn, sau
đó là Viên Chăn - Đà Nẵng - Huế - Vinh. Nếu trước kia, từ Pháp sang Đông
Dương bằng tàu biển mất một tháng thì từ năm 1931, với đường bay nối liền
Đông Dương với Pháp, một chuyến đi còn có bảy ngày. Có thể nói chính hệ
thống đường sá hiện đại do người Pháp xây dựng đã tạo cho diện mạo văn hóa
vật chất giai đoạn này có những khác biệt so với các giai đoạn trước.
5.2.2. Văn hóa xã hội
5.2.2.1. Gia đình, họ hàng
5.2.2.2. Nông thôn và đô thị
5.2.2.3. Chính quyền thuộc địa và chính quyền Nam triều
5.2.3. Văn hóa tinh thần
5.2.3.1. Tư tưởng
Trước khi người Pháp vào Việt Nam, Nho giáo tồn tại như một hệ tư
tưởng có vị thế đặc biệt. Tuy nhiên cho đến giai đoạn này Nho giáo không còn
chiếm vị trí độc tôn như trước. Giai đoạn này, văn hóa Việt Nam đã từng bước
tiếp nhận các hệ tư tưởng, luồng tư tưởng mới ở phương Tây truyền sang. Đó là
các thuyết về nhân đạo, dân quyền của các nhà tư tưởng Pháp như Rut xô,
Môngtexkiơ, Vonte; những giá trị của nền dân chủ tư sản như tự do, bình đẳng,
bác ái của Cách mạng Tư sản Pháp. Luồng tư tưởng này tác động sâu sắc lên
tầng lớp trí thức người Việt, nhiều nhà nho đã tự cảnh tỉnh để đổi mới, họ từ
biệt hệ tư tưởng cũ để đến với tư tưởng dân chủ. Tiêu biểu như trường hợp của
Phan Bội Châu. Ở Hà Nội, các nhà nho như Lương Văn Can, Nguyễn Quyền đã
sáng lập ra phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, tiếp nhận tư tưởng văn hóa
phương Tây, từ bỏ sự lạc hậu, đến với sự cách tân, đổi mới.

144
Một điểm nhấn văn hóa quan trọng trong giai đoạn này không thể không
nhắc tới là sự ra đời của Đảng cộng sản VN ngày 3 - 2 - 1930. Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời do kết hợp nhuần nhuyễn giữa 3 yếu tố: Chủ nghĩa Mác - Lê
nin (thông qua những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc) kết hợp với phong trào
yêu nước và phong trào công nhân ở trong nước. Đây là một bước ngoặt vô
cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng nước ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô
sản đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, đồng thời nó cũng khẳng
định sự hiện diện của một hệ tư tưởng mới ở Việt Nam.
5.2.3.2. Giáo dục
- Khi đã tiến hành bình định và cai trị nước ta, mới đầu người Pháp chủ
trương duy trì nền Nho học cũ để đào tạo ra đội ngũ quan lại tay sai nhằm duy
trì trật tự xã hội, mặt khác thông qua đội ngũ này cai trị và bóc lột nhân dân ta.
Sau đó họ mới mở trường dạy tiếng Pháp nhằm đào tạo ra một đội ngũ công
chức cho phục vụ bộ máy thuộc địa trong việc khai thác tài nguyên, nhân công,
thị trường. Năm 1897, Pháp mở trường Hậu bổ ở Hà Nội, cải tổ trường Quốc
Tử Giám ở Huế, mở trường sư phạm sơ cấp ở Hà Nội. Đồng thời nhằm đối phó
với các phong trào yêu nước (như Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, Duy Tân),
người Pháp cùng với Nam triều thành lập Bộ Học, sửa đổi quy chế thi Hương
và thi Hội. Mục đích giáo dục của chính quyền thuộc địa không hoàn toàn là vì
nâng cao dân trí cho người Việt mà chủ yếu nhằm đào tạo ra một đội ngũ công
chức để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa của họ. Tuy vậy chính sách
này cũng tạo ra một tầng lớp trí thức mới thay thế địa vị của tầng lớp nho sĩ cũ
trong xã hội, trên văn đàn. Về phía người Việt Nam, giai đoạn này cũng như ở
thời Bắc thuộc, không chối từ nền giáo dục tiên tiến từ bên ngoài vào mà đã tích
cực tham gia học tập, học cách tổ chức và vận dụng vào hoàn cảnh thực tế của
mình.
- Với phong trào Duy Tân, người Việt Nam đã tổ chức mạng lưới trường
dân lập rộng khắp từ Hà Nội, Hà Đông, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình đến
Nghệ An, Quản Nam, Quảng Ngãi, Bình Thuận. Nội dung giáo dục đổi mới,

145
đặc biệt là việc kết hợp giáo dục tri thức khoa học với kinh doanh thực nghiệp
và vận động canh tân đất nước.
- Mở rộng cuộc vận động Đông Du sang Nhật Bản, nhiều gia đình cho
con em du học sang châu Âu (Pháp, Bỉ) và một số cán bộ sang Nga (Liên Xô)
học chính trị.
- Người Việt đã nhanh chóng mở các trường cho phụ nữ (nữ sinh) như
trường Hoài Đức của bà Huỳnh Tâm, trường Đồng Khánh ở Huế, trường Nữ
sinh Sài Gòn. Lần đầu tiên phụ nữ được đi học như nam giới, đây là bước phát
triển mới của giáo dục Việt Nam.
- Các trường của người Pháp mở ra, con em người Việt (tầng lớp trên) đã
tham gia, số lượng và trình độ ngày càng tăng lên. Chẳng hạn năm 1930, trường
Anbe - Xarô có 841 học sinh, con em người Việt là 434 người, tiểu học 340.780
người, cao đẳng tiểu học 6.350 người, trung học 1.329 người và khoảng 1000
sinh viên cao đẳng, đại học (tổng số gần 1 triệu người) với 12.000 giáo viên.

Bảng so sánh GD Việt Nam/phương Đông và GD Pháp/ phương Tây


GD Việt Nam/Phương Đông GD Pháp/Phương Tây
- Học không theo thứ bậc, học ở đâu - Học có thứ bậc (tiểu học, thành
cũng được chung, tú tài...)
- ND học tập được nhận diện thông - Học khoa học, chữ Quốc ngữ, chữ
qua các tài liệu bắt buộc (tứ thư, ngũ Pháp
kinh...)
-Trình độ được định vị thông qua việc - Trình độ được định vị theo cấp học
vượt các kì thi (Hương, Hội, Đình)
- Mục đích GD: Đào tạo người quân - Đào tạo ra những người thầy, người
tử, người làm quan, làm thầy đồ. có trình độ cho xã hội, đào tạo nghề

146
(bác sĩ, kĩ sư...)

5.2.3.3. Khoa học


Để cai trị, khai thác thuộc địa, người Pháp đã đưa nền khoa học, kỹ thuật
phương Tây và Pháp vào nước ta. Họ xây dựng các viện, cơ quan nghiên cứu về
nhiều lĩnh vực: Viện Thú y (1897), Nha khí tượng (1898), Viện địa chất (1898),
Viện vi trùng học ở Sài Gòn (năm 1891), Nha Trang (năm 1896), Hà Nội
(1900), trường Viễn Đông Bác Cổ (1898) v.v...đồng thời Pháp cũng đưa các nhà
khoa học sang làm việc với mục đích: nghiên cứu, khai thác tài nguyên, xây
dựng nhà máy, hầm mỏ, đường xá, cầu cống, nghiên cứu văn hóa, lịch sử bản
xứ để hoạch định chính sách.
Người Việt Nam tiếp thu bằng cách vào học tại các trường đại học trong
nước và ra nước ngoài học tập để về nước tham gia hoạt động khoa học, như
Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước...
Những cơ sở nghiên cứu, những nhà khoa học Việt Nam được Pháp đào tạo là
nền tảng cho nền khoa học Việt Nam sau này và đã có những đóng góp đáng kể
cho các ngành khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội nước ta.
5.2.3.4. Báo chí, xuất bản
Sự ra đời và phát triển của báo chí có vai trò quan trọng trong việc nâng
cao dân trí, làm cho đời sống của con người linh hoạt hơn, hiểu biết hơn.
Tờ báo đầu tiên người Pháp xuất bản ở nước ta là tờ Công báo bằng tiếng Pháp
năm 1862 của Bộ Viễn chinh ở Nam Kỳ để công bố các mệnh lệnh và tin tức.
Sau đó 3 năm, người Pháp cho Trương Vĩnh Ký ra đời tờ báo chữ quốc ngữ của
người Việt là Gia Định báo (15/4/1865). Mục đích của tờ báo là phổ biến trong
nhân dân những biện pháp để cải biến nông nghiệp và tiến bộ trong nông thôn.
Năm 1868, tờ báo thứ 2 của người Việt xuất bản với tên Phan Yêu báo (Phan
Yêu là tên của Sài Gòn). Sau đó báo chí phát triển nhanh chóng bằng các thứ
tiếng Việt, Pháp, Hoa của nhiều tổ chức xã hội và các cá nhân: Gia Định báo

147
(1897), Nhật trình Nam Kỳ (1897), Nam Kỳ địa phận (Báo Công giáo), Nông
cổ mín đàm (1897 - 1924).
Ở Hà Nội, báo chí ra đời chậm hơn nhưng phát triển nhanh hơn: năm
1889 tờ Người thực dân của Pháp xuất bản, năm 1893 tờ Đồng Văn nhật báo
xuất bản, năm 1905 tờ Đại Việt tân báo và tờ Đăng cổ tùng báo (Chữ Quốc ngữ
và chữ Hán).
Những năm đầu thế kỷ XX, báo chí xuất hiện sôi nổi. Năm 1913 có tờ
Trung Bắc tân văn và Đông Dương tạp chí do Nguyễn Văn Vĩnh chủ bút, năm
1917 có tờ Nam Phong tạp chí do Phạm Quỳnh là chủ bút. Tiếp đến là các tờ
Hữu Thanh (1921), tờ Phụ nữ thời đàm (1928), An Nam tạp chí (1928), Phụ nữ
tân văn (1929), Phong hóa (1932), Hồn cách mạng (Quốc dân đảng), Thanh
Nghị, Tri tân (1924)...
Báo chí Cộng sản xuất hiện gắn liền với tên tuổi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Tờ Thanh niên ra đời năm 1925 ở Quảng Châu (Trung Quốc); sau đó là các tờ
Cờ đỏ, Búa liềm, Tiến lên, Cộng sản, Vô sản, Việt Nam độc lập, Cờ giải
phóng... Báo chí chuyên về văn chương có Tiểu thuyết thứ bảy, ra đời năm
1935, Tiểu thuyết thứ sáu (1935 - 1937), Tứ dân văn tuyển (1937).
Về xuất bản và in ấn: người Pháp đưa máy in vào nước ta từ năm 1862,
đến năm 1876 xuất hiện tập bút ký Chuyến đi thăm Bắc Kỳ của Trương Vĩnh
Ký và năm 1887 đã xuất hiện tác phẩm Thầy Lzarô phiền của Nguyễn Trọng
Quản. Sau đó nhiều nhà xuất bản và nhà in được thành lập ở các đô thị như:
Minh Tân, Minh Sinh, Thuận Hóa, Lá Bối, Quan Hải Tùng Thư v.v...
Tóm lại, việc tiếp thu báo chí, xuất bản của phương Tây và Pháp ở nước
ta đã đem lại cho xã hội một phương tiện thông tin mới mẻ, một phương tiện
truyền bá văn hóa, sinh hoạt văn hóa và đấu tranh tư tưởng hết sức quan trọng.
5.2.3.5. Tôn giáo
* Sự canh tân Phật giáo:
- Nhiều nơi ra đời các tổ chức Phật giáo và các tạp chí Phật học. Ở Nam Bộ,
năm 1920, thành lập Hội Lục Hòa (Lục Hòa liên xã). Phật giáo bắt đầu chính

148
thức được giảng bằng chữ quốc ngữ. Năm 1931, Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật
học ra đời. Ở Huế, năm 1932 thành lập Hội An Nam Phật học. Ở Trung Bộ, hầu
hết các tỉnh đều nghiên cứu Phật học. Năm 1934 ra đời Hội Bắc Kỳ Phật học.
Tại Nam Bộ có các tạp chí Phật học như Pháp ân (1929), Từ bi âm (1932); Ở
Trung Bộ có tờ Viên âm (1934); Ở Bắc Kỳ có các tờ Đuốc Tuệ (1935), Tiếng
chuông sớm (1935), Tam bảo (1936), Pháp âm (1937), Tiến hóa (1938)…Trong
số các tạp chí này, nổi tiếng nhất có Từ bi âm, Viên Âm và Đuốc Tuệ. Đương
thời cả nước đâu đâu cũng có trường Phật học.
- Kinh điển của Phật giáo được in ấn, xuất bản vô cùng đồ sộ. Sự canh tân Phật
giáo những năm đầu thế kỷ XX còn thể hiện ở chỗ quay về Phật giáo dân gian
vốn đậm tư tưởng Tịnh Độ nhưng nâng cao về mặt lý luận.
* Đóng góp của Đạo Công giáo về văn hóa:
- Sáng tạo ra chữ Quốc ngữ.
- Xây dựng các công trình kiến trúc nhà thờ, trường học, bệnh viện…
- Tiếp nhận âm nhạc, mỹ thuật phương Tây qua con đường nhà thờ
- Dạy chữ quốc ngữ, tiếp Pháp và các khoa học tự nhiên cho giáo dân
- Về phong hóa, Công giáo cấm tín đồ tham gia lên đồng, bói toán, chọn ngày,
chọn chôn đất tang, đốt vàng mã,…Không cho phép đa thê, đa phu, đề cao hôn
nhân tự do và chung thủy một vợ, một chồng; khuyến khích thủ tục cưới xin
đơn giản và đỡ tốn kém…
* Sự ra đời của đạo Cao Đài (1926) và Phật giáo Hòa Hảo (1939)
5.2.3.6. Văn học, nghệ thuật
* Văn học
Người Việt tiếp xúc với nền văn chương bác học của phương Tây và Pháp
thông qua nhiều kênh khác nhau. Bước đầu là đọc, dịch, giới thiệu văn chương
phương Tây vào Việt Nam:
- Văn học dịch với hai cây bút tên tuổi và có nhiều đóng góp nhất là Nguyễn
Văn Vĩnh (1882 - 1936) và Phạm Quỳnh (1892 - 1945).

149
- Cuối thế kỷ XIX, Người Việt đã phỏng theo văn chương phương Tây để sáng
tác như: Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản (1887), Huỳnh
Tịnh Của với Chuyện giải buồn (1889). Đầu thế kỷ XX, xu hướng sáng tác mới
được khẳng định, tiêu biểu như: Trần Chánh Chiếu với Hoàng Tố Oanh hàm
oan (1910), Lê Hoàng Mưu với truyện Oan hồng quần (1914), Phạm Duy Tốn
với Sống chết mặc bay (1918), Chúa tàu Kim Quy, Cay đắng mùi đời, Tỉnh
mộng, Nhơn tình ấm lạnh của Hồ Biểu Chánh. Quả dưa đỏ (1925) của Nguyễn
Trọng Thuật, Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách.
- Vào thập niên ba mươi, bốn mươi của thế kỷ XX, văn xuôi bằng chữ
Quốc ngữ đã có một tiến bộ vượt bậc. Nhóm Tự lực văn đoàn với các tác giả
tiêu biểu như: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam…đã cho ra mắt
bạn đọc một loạt tác phẩm như Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Đời mưa gió,
Bướm trắng…Bên cạnh nhóm Tự lực văn đoàn là các nhà văn hiện thực phê
phán như Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nam Cao với Chí Phèo, Vũ Trọng Phụng với
Giông tố, Số đỏ… Sự trong sáng của tiếng Việt trong các tác phẩm này là bước
tiến của văn xuôi bằng chữ Quốc ngữ.
- Cùng với kí, tiểu thuyết là thơ. Phong trào Thơ mới xuất hiện với một
loạt tên tuổi như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử…
tiêu biểu cho dòng thơ lãng mạn. Dòng thơ cách mạng cũng xuất hiện với các
tác giả tiêu biểu như Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Thủy, Bùi
Công Tường.
- Thành tựu của sự tiếp biến văn chương phương Tây giai đoạn này là vô
cùng lớn. Đến những năm 40 của thế kỷ XX, Vũ Ngọc Phan trong cuốn sách
khảo cứu Nhà văn hiện đại đã tổng kết có 70 tác giả, Hoài Thanh, Hoài Chân đã
giới thiệu 40 tác giả thơ mới trong cuốn Thi nhân Việt Nam. Những dấu hiệu
này đã khẳng định sự chuyển mình của văn học Việt Nam theo hướng hiện đại
hoá, sự thay thế vẻ vang của văn học bằng chữ Quốc ngữ trong đời sống văn
hoá.
*Hội họa

150
- Quá trình du nhập: Trước khi người Pháp thành lập trường Cao đẳng
Mỹ thuật Đông Dương (1925), người Việt Nam đã tiếp xúc với nền hội họa
phương Tây. Học tập bằng nhiều con đường: du học Lê Văn Miến, Huỳnh Đình
Tựu, tự học trong nhà thờ Trần Phình...Đến năm 1925 người Pháp thành lập
trường Mỹ học Đông Dương, nhằm đào tạo những thợ chép tranh bản xứ.
Người Việt Nam với tài năng nghệ thuật của mình đã học tập kỹ thuật, phương
pháp sáng tạo hội họa phương Tây tạo nên các thể loại tranh vừa truyến thống
vừa hiện đại: tranh sơn nhựa nhiều màu, tranh sơn dầu và đặc biệt là tranh lụa.
Những danh họa nổi tiếng như bộ tứ: Nhất trí (Nguyễn Gia Trí), Nhì Lân
(Nguyễn Tường Lân), tam Vân (Tô Ngọc Vân) tứ Cẩn (Trần Văn Cẩn) hay như:
Nguyễn Phan Chánh, Bùi Xuân Phái...
- Kết quả tiếp biến:
+ Lần đầu tiên trong lịch sử, nền hội họa bác học xuất hiện với một đội ngũ họa
sĩ chuyên nghiệp.
+ Tiếp thu phương pháp sáng tác hội họa của phương Tây như luật viễn cận, tỉ
lệ, chất liệu (sơn nhựa nhiều màu, sơn dầu, sơn mài, khắc gỗ, lụa..) và sáng tác
tranh theo 3 xu hướng: hiện thực, lãng mạn và “tân kỳ”, “lập thể”.
+ Đề tài phản ánh là thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam, gần với cuộc
sống hiện thực. Có thể khẳng định rằng các tác phẩm hội họa thời kỳ này, rất
Việt Nam, không chỉ ở các nhân vật và cảnh vật, mà hơn thế, ở sự chứa đựng
tâm tư, tình cảm của người Việt Nam khi ghi nhận và truyền tải cảm xúc.
*Âm nhạc
- Tiếp thu được phương pháp sáng tác nhạc bác học của phương Tây, đó là hệ
thống nhạc thang âm 7 nốt hay còn gọi là bình quân luật: (L. temperatio: tương
quan đúng), sự sắp xếp cân bằng những tương quan về quãng giữa các bậc của
hệ thống âm thanh trong âm nhạc. Trong hệ thống bình quân, quãng 8 được
phân chia thành 12 bán cung bằng nhau. Nhờ vậy, việc chế tạo các nhạc cụ có
hàng âm ấn định trở nên thuận lợi hơn, việc lên dây đàn và điều chỉnh âm thanh
dễ dàng hơn. Khả năng vô tận của các chuyển điệu và dịch giọng tạo điều kiện

151
cho hệ thống BQL được phổ cập rộng rãi. Nhạc truyền thống Việt Nam: Nhạc
ngũ cung, Ngũ Cung là 5 thang âm chính của âm nhạc châu Á nói chung và âm
nhạc truyền thống Việt Nam nói riêng: 5 thang âm là: Cung, Thương, Giốc,
Chủy, Vũ (Tiếng Nôm: Hò, Sự, Sang, Xê, Cống) tính chất truyền khẩu, diễn
xướng tòng bản. Nhạc phương Tây chơi theo bản phổ, có tác giả, tính chất bác
học. Nhạc truyền thống VN không có tác giả, tính chất dân gian.
- Tiếp thu được các nhạc cụ mới của phương Tây kèn tây, Tây Ban cầm (guitar),
dương cầm (violon), phong cầm (ac - cooc - đê - ông)...
- Tiếp biến âm nhạc phương Tây, xã hội Việt Nam cũng đã xuất hiện những
nhạc sĩ mới. Nhiều tác giả cho ra đời những ca khúc vừa mang sắc thái của
phương Tây hiện đại vừa âm hưởng của truyền thống văn hóa dân tộc, từng
bước hình thành nền Tân nhạc Việt Nam, hay còn gọi là nhạc Tiền chiến với
những nhạc sĩ tiêu biểu như: Hoàng Quý, Dương Thiệu Tước, Đoàn Chuẩn, Văn
Cao, Nguyễn Văn Thương, Đặng Thế Phong, Nguyễn Xuân Khoát, Lê Yên,
Doãn Mẫn, Lưu Hữu Phước v.v... Cho đến những năm 40 của thế kỷ XX, Việt
Nam đã có một nền âm nhạc bác học ra đời và phát triển với ba dòng nhạc: ca
khúc lãng mạn, ca khúc yêu nước và ca khúc cách mạng mà trước đó xã hội
Việt Nam chưa hề có.
* Sự du nhập và xuất hiện một số loại hình nghệ thuật mới (Nhiếp ảnh, điện
ảnh, kịch nói, kịch hát Ô - pê - ra, múa Ba - lê, xiếc,…)
5.2.3.7. Nếp sống, lối sống
- Sinh hoạt tinh thần: hình thành nhu cầu và nếp sinh hoạt mới như xem
phim, xem kịch, xem xiếc trong các nhà hát, rạp chiếu phim. Một bộ phận giới
thượng lưu còn tham gia các câu lạc bộ: nhảy đầm, đánh bài Tây, thuyết trình
các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội. Tầng lớp công chức, thanh niên, học sinh,
sinh viên tham gia các hoạt động nghệ thuật, thể thao, đọc tiểu thuyết, thơ ca,
nghe âm nhạc. Một số người thích nói tiếng Pháp để tỏ ra thức thời và sang
trọng. Người Việt bỏ nhuộm răng đen, để răng trắng, cắt tóc ngắn (húi cua)…

152
- Trang trí nhà ở: treo tranh của phương Tây, đồng hồ Tây (đồng hồ quả
lắc)...
- Ứng xử: xưng hô trong các quan hệ cũng có sự thay đổi (gọi cha mẹ là
cậu, mợ; bạn bè gọi là “toa”, “moa”, bề trên gọi là “ngài” thay cho “tiên sinh” ).
Hôn nhân, tình yêu lứa đôi (nam nữ bắt đầu tự do yêu đương, ra đường khoác
tay nhau, hôn nhau, bắt tay, vợ chồng xưng hô bằng “anh”, “em” thay cho “thầy
nó”, “u nó”. Cưới xin được tổ chức tại nhà thờ, gái Việt lấy chồng Tây, vào làng
Tây, đặt tên Tây...
KẾT LUẬN
- Sự giao lưu - tiếp biến văn hóa giữa Việt Nam với phương Tây thông
qua văn hóa Pháp diễn ra trước và sau khi người Pháp thống trị Việt Nam gần
bốn thế kỷ, tập trung nhất là giai đoạn đầu thế kỷ XX. Có thể nói chỉ trong vòng
3, 4 thập kỷ đã làm cho văn hóa Việt Nam biến đổi toàn diện: văn hóa vật chất,
văn hóa xã hội và đặc biệt là văn hóa tinh thần.
- Giai đoạn văn hóa Pháp thuộc là bước ngoặt hết sức lớn lao trên tiến
trình phát triển của nền văn hóa Việt Nam, nó là thử thách hết sức khắc nghiệt
đối với bản lĩnh của nền văn hóa Việt Nam. Và thực tế đã chứng minh chúng ta
đã thành công một cách tuyệt vời. Một lần nữa đã chứng minh cho bản lĩnh và
sức sống kỳ diệu, cùng với khả năng “Không chối từ” của nền văn hóa Việt
Nam. Giao lưu văn hóa với phương Tây thông qua văn hóa Pháp đã đưa văn hóa
Việt Nam từ một nền văn hóa mang tính khu vực sang một nền văn hóa mang
tính quốc tế.
CÂU HỎI
1. Đặc trưng văn hóa Việt Nam giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1945 ở
một số thành tố văn hóa.
2. Phân tích vai trò, tương quan của các nhân tố ngoại sinh, nội sinh trong
văn hóa giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1945.

153
Chương 6
VĂN HÓA VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
(Tổng số giờ 06; lý thuyết:04 , bài tập/thảo luận: 02 , thực hành: 0)
YÊU CẦU
- Người học nhớ và hiểu được bối cảnh lịch sử văn hóa, đặc trưng văn
hóa Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
- Người học phân tích, đánh giá và so sánh văn hóa Việt Nam từ năm
1945 đến nay với các giai đoạn trước.
6.1. Bối cảnh
6.1.1. Lịch sử 30 năm chống xâm lược
Đặc điểm lớn nhất của lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến nay là nhân
dân ta tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, bảo vệ độc lập dân tộc,
thống nhất đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi năng
lực vật chất, tinh thần của đất nước đều dồn cho tiền tuyến. Vì vậy văn hóa thời
kỳ này chịu ảnh hưởng và bị chi phối sâu sắc bởi bối cảnh lịch sử xã hội, hình
thành phát triển một nền văn hóa cách mạng.
Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam.
Từ đây, toàn dân Việt Nam bước sang một cuộc đời mới, lịch sử Việt Nam bước
sang một trang mới. Ngày 2–9–1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn
độc lập ở Ba Đình lịch sử, chấm dứt chế độ thực dân nửa phong kiến ở nước ta.
Thế nhưng chỉ hai chục ngày sau đó, ngày 23–9–1945, thực dân Pháp núp dưới
bóng quân Anh, trong vai trò lực lượng Đồng Minh sang giải giáp phát xít Nhật
ở Đông Dương, gây hấn ở Nam Bộ. Ngày 19–12–1946, nghe theo lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc bước vào cuộc
trường chinh kháng chiến ba ngàn ngày không nghỉ để bảo vệ quyền độc lập
dân tộc mới giành lại được. Trong cuộc chiến đấu không cân sức này, dân tộc
Việt Nam, ngoài một chủ nghĩa yêu nước truyền thống còn có một hệ tư tưởng
chủ nghĩa Mác – Lênin soi đường. Ngày 21–7–1954, Hiệp định Giơnevơ được
kí kết. Nước ta tạm thời chia thành hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau,

154
quân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng ở hai miền cùng tiến hành hai nhiệm vụ
chính trị khác nhau. Miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp
tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp
sâu hơn vào miền Nam, từ chỗ viện trợ đến chỗ đưa quân lính vào, gây chiến
tranh với lực lượng cách mạng của ta. Ngày 5–8–1964, Mỹ lại leo thang, dùng
máy bay đánh phá miền Bắc. Phạm vi của cuộc chiến đấu bảo vệ độc lập dân
tộc không còn giới hạn ở miền Nam nữa, nói như Tố Hữu, cả nước là chiến
trường, “Ba mốt triệu nhân dân, tất cả hành quân, tất cả thành chiến sĩ”. Năm
1968, chính quyền Mỹ phải chấp nhận thất bại không ném bom ở Bắc Việt Nam
nữa, nhưng đến năm 1972, chúng lại đưa máy bay ném bom phá hoại miền Bắc
với quy mô lớn hơn. Ở miền Nam, cuộc chiến tranh càng ngày càng mở rộng về
quy mô và khốc liệt về tính chất. Việt Nam trở thành nơi đối đầu của hai trào
lưu tư tưởng trên thế giới. Với chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, công cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta toàn thắng, giành lại toàn vẹn
non sông.
Như thế, nét riêng của lịch sử Việt Nam 50 năm qua là cả dân tộc phải
tiến hành cuộc kháng chiến kéo dài 30 năm. Nhìn ở phương diện văn hóa học,
chiến tranh là “giai điệu″ không bình thường của cuộc sống. Tính chất không
bình thường này sẽ chi phối mọi phương diện trong đời sống văn hóa dân tộc từ
nội dung đến thể loại, loại hình.
6.1.2. Sự thay đổi toàn diện của xã hội Việt Nam
Tác động lớn nhất của cuộc Cách mạng tháng Tám đối với văn hóa là tạo
ra một xã hội của những người chủ, mà nguồn gốc xuất thân của họ là nông dân,
công nhân. Từ thân phận bị áp bức, nô lệ, họ vụt đứng lên làm chủ cuộc đời
mình và xây dựng một xã hội của mình. Sự vận động xã hội thực sự có những
thay đổi về chất trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội và cá nhân, kinh tế,
chính trị đến văn hóa.
Ở nông thôn, việc tổ chức đời sống sản xuất vào thời chiến tranh được
làm theo mô hình hợp tác xã, nông trường quốc doanh, đã khiến cho diện mạo

155
làng xã ở nông thôn Bắc Bộ có một thời hơi khác so với xã hội nông thôn Việt
Nam cổ truyền. Nếu nhìn ở phương diện kinh tế, chính trị, mô hình ấy đã góp
phần đắc lực vào thắng lợi của công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thì ở
phương diện văn hóa, thực ra, nó chưa đủ sức để làm biến đổi hẳn làng xã cổ
truyền, nhất là ở Bắc Bộ. Từ sau năm 1985, chủ trương khoán hộ được thực
hiện đại trà. Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, lãnh
đạo đã đem đến cho nông thôn Việt Nam một sinh khí mới.
Trong khi đó, từ năm 1945 đến nay, nền công nghiệp của Việt Nam có
nhiều bước tiến nổi bật, dần vượt lên hẳn những gì chính phủ thực dân đã làm
trước năm 1945. Các khu công nghiệp Thái Nguyên, Việt Trì, Vinh, Hải
Phòng…, xuất hiện, làm cho bộ mặt xã hội Việt Nam thay đổi hẳn. Sau năm
1975, chúng ta lại có điều kiện xây dựng xã hội trong thời bình. Từ năm 1975
đến năm 1985, nền công nghiệp có phát triển, đạt được những thành tựu, nhưng
không phải không mắc những sai lầm. Công cuộc đổi mới sau năm 1986 khiến
cho nhịp độ phát triển công nghiệp nói riêng, kinh tế nói chung nhanh hơn rất
nhiều.
Về giáo dục, “Một thành tựu xuất sắc của Cách mạng tháng Tám là đặt
nâng cao dân trí thành nhiệm vụ thường xuyên của chính quyền nhân dân – sản
phẩm của cách mạng, thức tỉnh mọi tầng lớp nhân dân có ý thức về quyền lợi và
trách nhiệm học tập″. Thời đại mới này là thời đại truyền thống hiếu học của
dân tộc Việt Nam được phát triển rực rỡ nhất.
Lần đầu tiên, nước Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám đã từng bước
xây dựng được một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh, đáp ứng được yêu cầu nâng
cao dân trí của nhân dân, nhất là của thế hệ trẻ, phục vụ đắc lực các cuộc kháng
chiến cứu nước, giành và bảo vệ độc lập dân tộc, hòa bình, thống nhất đất nước,
cũng như xây dựng và phát triển đất nước với một xã hội công bằng, văn minh,
đem lại hạnh phúc cho toàn thể dân tộc cho từng người và từng gia đình.” Theo
điều tra dân số năm 1989, tỉ lệ người biết chữ ở Việt Nam là 88%. Số học sinh
các cấp học tăng lên theo từng năm, chẳng hạn, năm 1989–1990, con số nay là

156
14.649.455, thì năm 1992–1993, con số đó là 15.215.897 và đến năm 1993–
1994, nó đã là 16.012.702. Một đội ngũ cán bộ khoa học kĩ thuật đã xuất hiện
với 450 tiến sĩ, 3000 phó tiến sĩ, 600 giáo sư, 2800 phó giáo sư và hơn một triệu
người có trình độ từ công nhân kĩ thuật đến đại học, tính đến thời điểm năm
1995.
Như thế, những thay đổi cơ bản từ kinh tế đến giáo dục khiến cho xã hội
Việt Nam có những thay đổi căn bản. Nhìn ở phương diện văn hóa học, ít nhất
cũng còn ghi nhận các khía cạnh sau:
- Người dân, với tư cách công dân, được khẳng định, cùng với điều này ý
thức về cá nhân được tô đậm.
- Dân trí ngày càng được nâng cao, tầng lớp trí thức càng ngày càng đông
đảo. Như vậy, chủ/khách thể của văn hóa Việt Nam thay đổi so với giai đoạn
trước cả về chất lượng lẫn số lượng.
6.1.3. Sự lãnh đạo của Đảng trên phương diện văn hóa
Khác với các giai cấp từng giữ vai trò lãnh đạo xã hội Việt Nam, giai cấp
vô sản rất chú trọng lãnh đạo các phương diện của văn hóa. Quán triệt và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác–Lênin, Đảng ta đã có một quan điểm đúng đắn về
văn hóa, đồng thời có một phương pháp lãnh đạo đúng đắn đối với văn hóa.
Quan điểm ấy là sự kết hợp những nguyên tắc cách mạng với những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc.
Ngay từ những năm chưa giành được chính quyền, Đảng Cộng sản Đông
Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đã chú trọng đến văn hóa. Năm 1943,
Đề cương văn hóa Việt Nam của Đảng được công bố. Bản đề cương nhấn mạnh
ba nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hóa là: dân tộc hóa, đại chúng
hóa và khoa học hóa. Đó là định hướng quan trọng cho sự ra đời của nền văn
hóa mới ở giai đoạn sau năm 1945. Ngày 24–11–1946, Hội nghị văn hóa toàn
quốc lần thứ nhất được triệu tập ở Hà Nội. Năm 1948, Hội nghị văn hóa toàn
quốc lần thứ hai họp tại chiến khu Việt Bắc. Đồng chí Trường Chinh, lúc ấy là
Tổng bí thư của Đảng đã trình bày bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn

157
hóa Việt Nam. Có thể nói đây là vặn kiện lí luận đầu tiên mà Đảng ta đã vận
dụng chủ nghĩa Mác–Lênin để giải quyết một số vấn đề của văn hóa Việt Nam.
Các đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 (1957), lần thứ 3 (1962), lần thứ 4
(1968) do Đảng ta trực tiếp chỉ đạo đều đã đánh giá đúng đắn những thành tựu
đã qua và đề ra phương hướng cho chặng đường tới.
Đại hội đại biểu lần thứ 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên tinh thần
nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật, đã khẳng định vị
trí, vai trò của văn hóa văn nghệ. Nối tiếp tinh thần này, nghị quyết V của Bộ
chính trị đã khẳng định văn hóa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của
xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại, là lĩnh
vực sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị văn hóa, những công trình nghệ thuật
được lưu truyền từ đời này qua đời khác, làm giàu đẹp thêm cuộc sống con
người. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã tiếp tục phát triển
những luận điểm cơ bản của Đại hội VI, cũng như nghị quyết V của Bộ chính trị
Ban chấp hành Trung ương khóa VII. Triển khai nghị quyết này, hội nghị lần
thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương khóa VII đã ra nghị quyết về công tác văn
hóa văn nghệ. Nghị quyết đã khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự
kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, với xã
hội và với thiên nhiên: Văn hóa vừa là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế
xã hội vừa là một mục tiêu của chúng ta. Tháng 7 năm 1998, nghị quyết hội
nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII lại tiếp tục khẳng định
quan niệm ấy và chỉ ra phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc.
Như vậy, từ Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 đến nghị quyết hội
nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, quan điểm của Đảng
về văn hóa càng ngày càng tiếp cận tính chất khoa học của đối tượng. Đồng thời
sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đã sâu sát, kịp thời. Chính quan điểm, sự lãnh

158
đạo chỉ đạo này đã khiến văn hóa Việt Nam từ 1945 đến nay có bước phát triển
vượt bậc.
6.2. Đặc điểm văn hóa từ Việt Nam từ 1945 đến nay

Tiến trình 50 năm qua của văn hóa Việt Nam, thực ra rất ngắn ngủi so với
toàn bộ diễn trình văn hóa Việt Nam, nhưng lại là một giai đoạn văn hóa Việt
Nam phát triển cả về lượng, lẫn về chất. Tuy vậy, nó lại là một giai đoạn còn
đang chịu sự thử thách khắc nghiệt của thời gian. Sự khái quát các đặc điểm của
tiến trình văn hóa Việt Nam từ năm 1945 đến nay còn ở mức ban đầu.

6.2.1. Sự phát triển của văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp

Điều dễ nhận thấy của văn hóa Việt Nam từ năm 1945 đến nay là sự phát
triển của văn hóa chuyên nghiệp, chuyên nghiệp hóa hoạt động văn hóa. Sự phát
triển này ngày càng khẳng định rõ hơn bản sắc văn hóa dân tộc, cũng khẳng
định sự tiếp cận với xu thế hiện đại của thời đại. Chín năm kháng chiến chống
Pháp ác liệt, hoạt động báo chí, in ấn, vẫn được chú trọng. Năm 1947, Đảng ta
chủ trương xây dựng lại các nhà xuất bản sách và các báo. Hoạt động văn học
nghệ thuật, phát triển mạnh mẽ trong thời kháng chiến chống Pháp, chỉ tính
riêng chín năm từ năm 1945 – 1954, ta đã xuất bản được 8.579.415 bản sách,
sản xuất được 35 bộ phim thời sự tài liệu.

Ngay sau khi hòa bình lập lại, lực lượng hoạt động văn hóa nghệ thuật
chuyên nghiệp được tổ chức lại. Các đoàn nghệ thuật như kịch nói Hà Nội, kịch
nói Quân đội, kịch nói Nam Bộ, Đoàn Ca múa nhạc Trung ương, Đoàn văn
công Tổng cục Chính trị, Đoàn cải lương Nam Bộ, Đoàn dân ca khu V, Đoàn ca
kịch Trị – Thiên; các thể loại như nhạc, kịch hát, thơ múa, kịch múa, các thể
loại âm nhạc thính phòng tiếp thu từ tinh hoa văn hóa bác học thế giới là những
thể loại đòi hỏi phải có kiến thức phong phú, trình độ kĩ thuật nghiệp vụ cao (cả
về sáng tác lẫn biểu diễn), đã phát triển. Chính vì thế, có thể nói rằng, đây là
thời kì nghệ thuật ca múa và sân khấu, đặc biệt là kịch nói rất phát triển. Nghệ
thuật điện ảnh qua thời kì phôi thai trước năm 1945, sau chín năm kháng chiến

159
và từ 1954 đến nay là bước phát triển đột biến. Đã có những phim Việt Nam
như Cánh đồng hoang và một số phim khác đoạt giải thưởng quốc tế.

Cùng với điện ảnh là nghệ thuật sân khấu, tạo hình, tất cả đều rất phát
triển.

Đáng kể hơn cả là sự phát triển của văn học. Trong lịch sử văn học dân
tộc, chưa bao giờ đội ngũ sáng tác văn học lại đông đảo như hiện tại, và có
nhiều tác phẩm như thời gian từ 1945 đến nay. Sự trong sáng về ngôn ngữ, sự
đa dạng về chủ đề, sự phong phú về sáng tác, thể loại đã khiến cho nền văn học
hiện đại xứng đáng với đánh giá của Đại hội đại biểu lần thứ tư của Đảng Cộng
sản Việt Nam: đứng vào hàng tiên phong của văn học các dân tộc bị áp bức, đấu
tranh giải phóng dân tộc.

Có được những thành tựu ấy chính là nhờ sự phát triển cả về chất lượng
và số lượng của đội ngũ hoạt động văn hóa chuyên nghiệp. Trình độ dân trí
được nâng cao, khiến cho chủ/khách thể của văn hóa Việt Nam thay đổi. Nhiều
nhà hoạt động văn hóa sinh ra và trưởng thành từ đội ngũ những người lao
động. Xin đơn cử nhà văn Võ Huy Tâm, Nguyễn Khải v.v.., cả hai vốn là công
nhân, bộ đội, hoặc Trần Đăng Khoa, nhà thơ thiếu nhi được nhiều bạn đọc nước
ngoài biết đến, vốn là con em của một gia đình nông dân, nhờ được học tập
dưới mái trường xã hội chủ nghĩa mà thành nhà thơ.

Mặt khác, chính hai cuộc kháng chiến oai hùng của dân tộc đã đào luyện
một đội ngũ những nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp. Hàng loạt
các tác giả ở mọi lĩnh vực như văn học, với Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận,
Xuân Diệu, Tế Hanh, Nguyễn Khải, Tô Hoài, Nguyễn Thi, Lê Anh Xuân, Phan
Tứ, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Quang Sáng, Hữu Thỉnh
v.v…, sân khấu như Đào Hồng Cẩm, Ngô Y Linh, Lưu Quang Vũ, Tào Mạt
v.v…, điện ảnh như Phạm Văn Khoa, Bùi Đình Hạc, Trà Giang, Nguyễn Hải
Ninh, Nguyễn Hồng Sến, Khải Hưng v.v…, được tôi luyện qua hai cuộc kháng

160
chiến, trở thành những tác giả, những nhà hoạt động văn hóa chuyên nghiệp
trong thời gian qua.

Hơn nữa, sự thay đổi trong chủ/khách thể của văn hóa Việt Nam cần phải
được nhìn nhận từ phía phong trào văn hóa quần chúng. Chưa bao giờ trong
diễn trình văn hóa Việt Nam lại có một phong trào văn hóa quần chúng như
năm mươi năm qua. Nếu trong chống Pháp có phong trào kháng chiến hóa văn
hóa, văn hóa hóa kháng chiến thì kháng chiến chống Mĩ lại có phong trào tiếng
hát át tiếng bom, tiếng loa hòa tiếng súng, tất cả những phong trào này đều là
phong trào văn hóa nghệ thuật quần chúng.

Sự phát triển ấy, ít nhất phải được ghi nhận từ hai phương diện: chứng tỏ
sự thay đổi chủ/khách thể của văn hóa Việt Nam và tạo môi trường, tạo nguồn
cho văn hóa chuyên nghiệp phát triển.

6.2.2. Kế thừa và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống

Từ quan điểm về văn hóa, những năm qua, Đảng, Nhà nước ta rất chú
trọng khai thác các giá trị văn hóa truyền thống. Chưa bao giờ trong diễn trình
lịch sử của văn hóa Việt Nam, văn hóa truyền thống lại được chú trọng kế thừa,
phát huy một cách sâu sắc như vậy. Ngay từ năm 1946, Hồ Chí Minh đã phát
biểu trong Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất: “phải biết tiếp thu những
kinh nghiệm quý báu của nền văn hóa xưa và nay để xây dựng nền văn hóa mới
Việt Nam với ba tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng″. Cho nên, năm mươi
năm qua, công tác kế thừa, phát triển văn hóa truyền thống đạt được nhiều thành
tựu đáng kể. Chẳng hạn với nghệ thuật truyền thống như chèo, tuồng, mĩ thuật
dân gian, việc kế thừa được thực thi ở cả hai phương diện khôi phục, bảo tồn và
chỉnh lí, cải biên. Công tác sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân gian đã đạt được
những thành tựu vượt bậc. Nếu như “Trước Cách mạng tháng Tám, ở nước ta
chưa có ngành nghiên cứu văn học dân gian và khoa nghiên cứu văn hóa dân
gian” thì hiện nay khoa nghiên cứu văn hóa dân gian đã phát triển, trở thành
một ngành khoa học có vị thế quan trọng trong các ngành nghiên cứu khoa học

161
xã hội ở Việt Nam. Các lĩnh vực của văn hóa dân gian được khai thác, lĩnh vực
nào cũng có những công trình đáng kể như văn học dân gian với Tục ngữ ca dao
dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của
Nguyễn Đổng Chi, v.v… như lễ hội với Lễ hội cổ truyền của người Việt ở Bắc
Bộ Việt Nam do Lê Trung Vũ chủ biên, Lễ hội truyền thống trong đời sống xã
hội hiện dại do Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng đồng chủ biên v.v…, như mĩ
thuật dân gian với các công trình Mĩ thuật thời Lý, Trần, Lê sơ, Mạc, Mĩ thuật
Huế của Viện mĩ thuật (nay thuộc trường Đại học Mĩ thuật Hà Nội) v.v…

Với văn hóa bác học, công việc nghiên cứu đã đạt được những thành tựu
đáng kể, nhiều tác giả của văn học cổ được nghiên cứu, đánh giá, khẳng định
như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Đình
Chiểu v. v… Hầu hết tác phẩm, tác giả của văn học dân tộc đã được giới thiệu,
nghiên cứu có lẽ chỉ dưới ánh sáng của thời đại mới, văn học truyền thống mới
được chỉ ra một cách đầy đủ các giá trị của nó.

Sau nghị quyết V của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương khóa VI,
đặc biệt là sau nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương
khóa VII về văn hóa văn nghệ, việc khai thác di sản văn hóa dân tộc ngày càng
được chú trọng. Vấn đề gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc được Đảng, Nhà nước
đặt ở tầm vĩ mô để giải quyết các công việc nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc. Vì thế, việc kế thừa phát huy các giá trị văn hóa mới và kết quả của công
việc không chỉ là bảo lưu, gìn giữ văn hóa dân gian, truyền thống, mà còn góp
phần không nhỏ vào sự phát triển của văn hóa chuyên nghiệp, đồng thời chứng
tỏ sự thống nhất của văn hóa các dân tộc ở Việt Nam.

6.2.3. Giao lưu văn hóa ngày càng mở rộng

Nét khác biệt căn bản giữa văn hóa từ 1945 đến nay và các giai đoạn
trước là ở mức độ của sự giao lưu văn hóa. Giai đoạn từ 1945 đến nay, sự giao
lưu này diễn ra trong sự tự nhiên và tự giác. Điểm xuất phát của vấn đề là quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nước

162
ngoài để xây dựng nền văn hóa mới là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng ta đối với công tác văn hóa. Việc trao đổi văn hóa với nước
ngoài được chú ý ngay từ sau hòa bình lập lại, ở tất cả các bộ môn văn hóa: sân
khấu, âm nhạc, ca múa, giao hưởng, điện ảnh, thư viện, bảo tàng, văn hóa quần
chúng, ba lê v.v… Nhiều hiệp định văn hóa được kí giữa nước ta và các nước
bạn. Sự trao đổi văn hóa giữa nước ta và các nước bạn cũng đã diễn ra.

Mặt khác, từ năm 1951, nhất là sau năm 1954, khi Việt Nam là thành viên
của phe xã hội chủ nghĩa, nên sự giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các nước
xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và các nước Đông Âu (trước đây), cũng như
Trung Quốc đã được đẩy mạnh.

Trong khi đó, ở miền Nam, từ năm 1954 đến năm 1975, giao lưu giữa văn
hóa Việt Nam và văn hóa Mỹ, không phải là giao lưu tự nhiên, mà là sự giao
lưu cưỡng bức.

Từ sau năm 1975, hai miền thống nhất, việc giao lưu văn hóa giữa nước
ta và thế giới càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Và cuối cùng, không thể không thừa
nhận sự tiến bộ về khoa học kĩ thuật, nhất là khoa học thông tin hiện đại, đã
khiến cho việc giao lưu văn hóa ở thời hiện đại diễn ra mạnh mẽ hơn nhiều so
với trước đây.

Tóm lại, giai đoạn từ năm 1945 đến nay thực ra là ngắn ngủi so với diễn
trình lịch sử của văn hóa Việt Nam. Thêm vào đó trong đoạn này văn hóa Việt
Nam lại phát triển trong điều kiện của cuộc chiến tranh giữ nước kéo dài 30
năm, trong điều kiện lịch sử đầy biến động phức tạp, trong điều kiện khoa học
công nghệ thông tin phát triển như vũ bão khắp toàn cầu, nhưng nó vẫn đạt
được những thành tựu rất đỗi tự hào, tiếp nối mạch phát triển của văn hóa dân
tộc.

CÂU HỎI

1. Đặc điểm lịch sử, xã hội của Việt Nam từ năm 1945 đến nay.

163
2. Đặc điểm của văn hóa Việt Nam từ năm 1945 đến nay.

164

You might also like