Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 32

PHẦN MỞ ĐẦU

Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, đồng thời là chiến sĩ
xuất sắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người không chỉ là biểu
tượng sáng ngời của đại đoàn kết dân tộc, mà còn là hiện thân rực rỡ của tinh thần
đoàn kết quốc tế cao đẹp trong thời đại ngày nay. Trên thế giới, hiếm có một lãnh
tụ cách mạng nào lại bàn nhiều, tiến hành hoạt động nhiều và đạt được nhiều kết
quả tốt đẹp về đoàn kết quốc tế như lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sinh thời, Người đã từng
bôn ba khắp năm châu bốn biển, đến đâu, ở đâu, với tất cả đồng chí và bạn bè gần
xa, Người luôn thể hiện sâu sắc tình đoàn kết quốc tế cao đẹp. Từ sự chứa chan của
lòng yêu nước thương nòi và sự cảm thông vô hạn với những người cùng khổ, Hồ
Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã sớm nhận thức được muốn giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, thì giai cấp cần lao toàn
thế giới phải đoàn kết đấu tranh, đánh đổ giai cấp bóc lột tàn ác. Trong suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng của mình, tinh thần đoàn kết quốc tế luôn được Chủ tịch
Hồ Chí Minh đề cao và vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước. TS. Ngô Vương Anh, Nhà nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh cho
biết: "Có thể nói Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt quan tâm đến vấn đề đưa
cách mạng của nhân dân Việt Nam hòa cùng với cuộc cách mạng của nhân dân thế
giới. Người đặt cách mạng Việt Nam trong dòng chảy của cuộc đấu tranh giữa các
dân tộc bị áp bức với các thế lực thực dân, đế quốc. Từ rất sớm Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có những hoạt động có thể nói là đầu tiên, là người tiên phong đưa cuộc
cách mạng của nhân dân Việt Nam hòa nhập với cuộc đấu tranh chung của loài
người tiến bộ." Dựa trên tình hình thực tế và nhiệm vụ cách mạng trong mỗi thời
kỳ, Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng và củng cố khối đoàn kết quốc tế, tranh
thủ sự đồng tình, ủng hộ của các trào lưu cách mạng thời đại, góp phần thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Đi theo con đường mà Người đã
vạch ra, Đảng và Nhà nước ta đã kế thừa và phát triển tư tưởng đoàn kết quốc tế
trong sáng đó để làm kim chỉ nam cho đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ trong
thời kỳ đổi mới hiện nay.

Chính vì vậy nhóm em xin được trình bày chủ đề: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam”

I. Lý luận:
1. Sự hình thành tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh:
1.1. Đồng cảm với nhân dân lao động và các dân tộc cùng cảnh ngộ
Ra đi từ bến Nhà Rồng tháng 6-1911, 10 năm tiếp theo đó, Nguyễn Tất Thành đã
tới nhiều nước thuộc địa cũng như nhiều nước tư bản chủ nghĩa, ở cả châu Âu,
châu Phi, châu Mỹ. Qua những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm, chủ nghĩa yêu
nước ở Người có những biến chuyển mới. Sự đồng cảm với đồng bào mình đã
được nâng lên thành sự đồng cảm với nhân dân lao động, với các dân tộc cùng
cảnh ngộ bị áp bức như dân tộc mình. Người đã đưa ra kết luận quan trọng: "Dù
màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: Giống người bóc lột và
giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình
hữu ái vô sản". Kết luận trên vô cùng quan trọng, là khởi đầu của tư tưởng đoàn
kết quốc tế Hồ Chí Minh - đoàn kết với những người lao khổ, cần lao trên thế giới.

Cũng từ quá trình 10 năm trải nghiệm thực tiễn ở nhiều nước, Nguyễn Ái Quốc
cũng rút ra kết luận rằng: “Nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân
tộc phương Đông, đó là sự biệt lập... họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp
hành động và sự cổ vũ lẫn nhau”. Vì vậy, Người chỉ ra sự cần thiết của việc xây
dựng khối đoàn kết chiến đấu giữa các dân tộc bị đọa đày, đau khổ. Người kêu gọi
nhân dân các nước thuộc địa Pháp rằng: "Chúng tôi yêu cầu các bạn giúp đỡ
chúng tôi trong nhiệm vụ đó, vì các bạn và chúng tôi, chúng ta cùng chung một lợi
ích… Mối quan hệ giữa chúng tôi với các bạn sẽ là những mối quan hệ đoàn kết
và liên minh".

1.2 Sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa
Là người dân từ một nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc thấy được khả năng tiềm
tàng của sức mạnh đoàn kết của các dân tộc thuộc địa và tin tưởng vào thắng lợi
của cuộc đấu tranh của họ. Vì vậy, trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, một mặt
Người nhấn mạnh tư tưởng phải "lấy sức ta mà giải phóng cho ta", mặt khác Người
kêu gọi phải tăng cường sự đoàn kết, giúp đỡ và phối hợp nhịp nhàng cuộc đấu
tranh của vô sản ở chính quốc với vô sản ở thuộc địa, như hai cái cánh của một con
chim. Trong lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn, Người luôn luôn nhấn
mạnh mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng ở thuộc địa và cách mạng ở chính
quốc. Người viết: "Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai
cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc
địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi".

Để thực hiện sự đoàn kết giữa nhân dân lao động chính quốc và nhân dân lao động
thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc yêu cầu các Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân ở
chính quốc phải có hiểu biết đúng về thuộc địa và có sự giúp đỡ thiết thực đối với
những người anh em thuộc địa. Trên tinh thần đó, Người đã nghiêm khắc phê phán
một số Đảng Cộng sản chưa có chính sách và hành động tích cực giúp đỡ các thuộc
địa. Trong thời gian ở nước ngoài, Người đã tham gia tích cực phong trào cách
mạng của công nhân Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc... từng bước xây dựng nhiều tổ
chức quốc tế như: Hội Liên hiệp thuộc địa (1921), Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp
bức ở Á Đông (1925)... là nhà cách mạng hoạt động tích cực trong Đảng Cộng sản
Pháp, Quốc tế III, các Quốc tế Nông dân, Thanh niên, Phụ nữ... thường xuyên mở
rộng với nhiều chính khách, các nhà hoạt động xã hội... Tất cả hoạt động nói trên
của Người đều hướng vào mục tiêu tăng cường thêm bạn bè, đồng chí cho cách
mạng Việt Nam.

Qua những phân tích trên ta có thể thấy, một trong những đóng góp quan trọng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ này là quan điểm về đoàn kết quốc tế, mà
trước hết là sự cần thiết phải liên minh các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh
chung vì sự nghiệp giải phóng của chính dân tộc mình.
2. Vai trò của đoàn kết quốc tế:
2.1. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
Hồ Chí Minh đã có những nhận thức đúng đắn về sức mạnh dân tộc và sức mạnh
thời đại. Sức mạnh dân tộc là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần, song
trước hết là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đoàn kết, ý chí đấu tranh
anh dũng, bất khuất cho độc lập tự do, ý thức tự lực tự cường... Sức mạnh thời đại
là sức mạnh của giai cấp vô sản và Đảng Cộng sản; sức mạnh của lý luận khoa học
Mác-Lênin; kinh nghiệm cách mạng Tháng Mười Nga; hệ thống XHCN trên thế
giới; khoa học và công nghệ. Thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn
kết quốc tế. Đoàn kết dân tộc gắn với đoàn kết quốc tế để kết hợp sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng. Nếu đại đoàn kết
dân tộc là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam,
thì đoàn kết quốc tế cũng là một nhân tố thường xuyên và hết sức quan trọng giúp
cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn.
2.2. Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện
thắng lợi các mục tiêu cách mạng của thời đại
Thực hiện đoàn kết quốc tế không chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà còn
là sự nghiệp chung của nhân loại trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động quốc tế, từ đó xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện đoàn
kết quốc tế không những vì lợi ích của mỗi dân tộc mà còn vì sự nghiệp chung của
nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình. Muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong
cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung, phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu
hiện của chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa sôvanh và mọi chủ nghĩa cơ hội khác.
Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, phản đối chiến tranh xâm lược,
chiến tranh phi nghĩa. Người bày tỏ cho nhân dân thế giới hiểu rằng: “Dân Việt
Nam không muốn đổ máu, dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình”. Người khẳng định
rõ: nhân dân Việt Nam chiến đấu hy sinh chẳng những vì tự do, độc lập của riêng
mình, mà còn vì tự do, độc lập chung của các dân tộc và hòa bình thế giới, nhằm
đạt đến “một nền hòa bình chân chính xây trên công bình và lý tưởng dân chủ”.
Tính chất chính nghĩa và lòng yêu chuộng hòa bình của nhân dân Việt Nam đã
chinh phục trái tim của nhân loại tiến bộ. Vì vậy, trong quá trình kháng chiến
chống quân xâm lược của Việt Nam, các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế
giới đã lên tiếng bày tỏ sự ủng hộ, giúp đỡ chân tình cả về tinh thần và vật chất.
Không thể phủ nhận ảnh hưởng sức tuyên truyền của các lực lượng này có sự lan
tỏa và đem lại hiệu quả lớn như thế nào đối với thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã khẳng định
chính sách đối ngoại của Việt Nam là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và
không gây thù oán với một ai”. Trong lời tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa với thế giới, Người nhấn mạnh: “Căn cứ trên quyền lợi chung,
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính
phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia
của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới”.
Hồ Chí Minh từ rất sớm đã coi trọng đoàn kết đối với nhân dân yêu chuộng hòa
bình ở Pháp, Mỹ - hai quốc gia đi xâm lược Việt Nam. Sau khi tận mắt chứng kiến
cảnh nghèo khổ, cùng cực của nhân dân lao động ở ngay chính những nước này,
Người đã phân biệt rõ bạn - thù, vạch ra chiến lược đoàn kết có định hướng, mục
tiêu rất cụ thể, rõ ràng.
Ngay từ năm 1946, Người đã khẳng định: “Đối với Pháp, chỉ đánh bọn thực dân,
còn đối với những kiều dân không làm hại gì cho nền độc lập của ta, ta sẽ phải bảo
vệ tính mệnh và tài sản của họ”. Lòng yêu chuộng hòa bình chân chính của Hồ Chí
Minh đã chinh phục cảm tình của đông đảo nhân dân lao động Pháp, làm dấy lên
một làn sóng mạnh mẽ đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Khi đế quốc Mỹ gây chiến ở Việt Nam, Hồ Chí Minh vẫn rất thân thiện với nhân
dân Mỹ. Người trực tiếp gửi thư tới các chính giới Mỹ, kêu gọi nhân dân tiến bộ
Mỹ hãy cùng với nhân dân Việt Nam đứng lên đấu tranh đòi chấm dứt cuộc chiến
tranh phi nghĩa ở Việt Nam.
Người từng bày tỏ: “Trước đây, chúng tôi đã chú ý phân biệt thực dân Pháp và
nhân dân Pháp yêu chuộng hòa bình, thì ngày nay chúng tôi cũng chú ý phân biệt
nhân dân Mỹ vĩ đại có truyền thống tự do, với bọn can thiệp Mỹ và bọn quân phiệt
ở Hoa Thịnh Đốn...”. Tiếng nói chính nghĩa của Hồ Chí Minh đã được đông đảo
các tầng lớp nhân dân Mỹ đồng tình và chính họ đã tạo nên những làn sóng đấu
tranh liên tục chống chính quyền Mỹ, đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
Cho đến những ngày cuối cuộc đời, dù đang bệnh nặng nhưng trong Thư gửi Tổng
thống Mỹ Ních Xơn ngày 25-8-1969, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định:
“Nhân dân Việt Nam chúng tôi rất yêu chuộng hòa bình, một nền hòa bình chân
chính trong độc lập và tự do thật sự”. Như vậy, đoàn kết với các lực lượng yêu
chuộng hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới trong tư tưởng Hồ Chí Minh
không chỉ vì độc lập, tự do của dân tộc mình, mà còn thể hiện sự tôn trọng truyền
thống của các nước thực dân, đế quốc đi xâm lược. Đó cũng chính là biểu hiện của
chủ nghĩa nhân văn cao cả Hồ Chí Minh - không gây hận thù dân tộc - một bài học
cho nhiều nước trên con đường tranh đấu cho độc lập tự do.
Những quan điểm trên là những cống hiến quan trọng của Danh nhân văn hóa Hồ
Chí Minh vào kho tàng lý luận Mác - Lênin, đã trở thành tài sản tinh thần quý báu
của Đảng ta, nhân dân ta và nhân loại tiến bộ trên thế giới.
3. Lực lượng đoàn kết quốc tế và hình thức tổ chức
3.1. Các lực lượng cần đoàn kết:
Lực lượng đoàn kết quốc tế trong Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế; phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và phong
trào hòa bình, dân chủ thế giới.
● Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Hồ Chí Minh cho rằng,
sự đoàn kết giữa giai cấp công nhân quốc tế là một bảo đảm vững chắc cho
thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Chủ trương đoàn kết giai cấp công nhân
quốc tế, đoàn kết giữa các đảng cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất
phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay.
Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa tư bản là một lực lượng phản động quốc
tế, là kẻ thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Trong hoàn cảnh đó,
chỉ có sức mạnh của sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn nhau
của lao động toàn thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”
mới có thể chống lại được.

● Đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, từ rất sớm, Hồ Chí Minh
đã thấy rõ âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc. Chính vì vậy,
Người đã lưu ý Quốc tế Cộng sản về những biện pháp nhằm “làm cho các
dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và
đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai, khối
liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”. Thêm
vào đó, để tăng cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô
sản chính quốc, Hồ Chí Minh còn đề nghị Quốc tế Cộng sản, bằng mọi cách
phải “làm cho đội quân tiên phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết
với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường cho một sự hợp tác thật sự sau
này”.
● Đối với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình, dân chủ,
tự do và công lý, Hồ Chí Minh cũng tìm mọi cách để thực hiện đoàn kết.
Trong xu thế mới của thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với sự thức tỉnh
giai cấp, Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục
tiêu bảo vệ hòa bình, tự do, công lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự
ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Gắn cuộc đấu tranh vì độc lập
của dân tộc với mục tiêu hòa bình, tự do và công lý, Hồ Chí Minh đã khơi
gợi lương tri của những người tiến bộ tạo nên những tiếng nói ủng hộ mạnh
mẽ của các tổ chức quần chúng trên toàn thế giới đối với cách mạng Việt
Nam.

3.2. Hình thức tổ chức:

Có nhiều hình thức đoàn kết quốc tế từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng phù hợp với
từng lúc, từng nơi, từng đối tượng như dựa trên quan hệ về địa lý, chính trị và tính
chất chính trị - xã hội trong khu vực và trên thế giới; dựa vào tình hình và nhiệm
vụ cách mạng mỗi thời kỳ để hình thành các tầng mặt trận.
Hồ Chí Minh đã góp phần xây dựng và củng cố khối đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự
đồng tình và ủng hộ của thế giới thông qua một số tổ chức sau: Hội liên hiệp thuộc
địa, Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, Đông Dương độc lập đồng minh,
Mặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào, Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt
Nam, Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết vì thắng lợi cách mạng của Hồ Chí Minh đã định
hướng cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc, Mặt
trận đoàn kết Việt - Miên - Lào, Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt
Nam, Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
4. Nguyên tắc đoàn kết quốc tế
4.1. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích; có lý, có tình

Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình là một trong
những nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Đây là
cơ sở để xây dựng một môi trường đoàn kết chặt chẽ, tạo nên sự đoàn kết giữa các
quốc gia, giữa các dân tộc, giữa các tầng lớp trong xã hội và giữa các cá nhân trong
cộng đồng.

Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình nói lên sự cần
thiết phải có một mục tiêu chung, một mục đích rõ ràng, cụ thể và đầy đủ để hướng
đến sự phát triển của cả xã hội. Đồng thời, chúng ta cũng cần thống nhất về lợi ích
chung, bảo vệ quyền lợi của mọi thành viên trong xã hội, vận dụng nguyên tắc
đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình. Sự thống nhất này
sẽ giúp tạo ra một môi trường đoàn kết và phát triển bền vững, giúp cải thiện đời
sống của người dân, nâng cao văn hóa và giáo dục, giúp đất nước Việt Nam vượt
qua những thách thức, khó khăn và góp phần vào sự phát triển của khu vực và thế
giới.
Để thực hiện được tư tưởng này, chúng ta cần thực hiện một số công việc cụ thể
như:

Thứ nhất, phải xây dựng một môi trường đoàn kết chặt chẽ với các quốc gia khác,
tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ và độc lập của nhau. Chúng ta cần cùng nhau đưa ra
các giải pháp, thúc đẩy hợp tác về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học và công
nghệ để đem lại lợi ích chung cho các quốc gia, nhân dân và nhân loại.

Thứ hai, chúng ta cần thực hiện chính sách đối ngoại đúng đắn, đưa ra các quan
điểm rõ ràng, cụ thể và đầy đủ về các vấn đề quốc tế, nhất là những vấn đề mang
tính tranh chấp và gây căng thẳng. Đồng thời, chúng ta cần phải tôn trọng quan
điểm và lợi ích của các quốc gia khác, giữ gìn quan hệ tốt đẹp với các nước trong
khu vực và trên thế giới.

Thứ ba, chúng ta cần thực hiện đúng đắn các chính sách nội địa, tạo ra một môi
trường đoàn kết và phát triển bền vững, bảo vệ quyền lợi của mọi thành viên trong
xã hội. Các chính sách phải được đưa ra dựa trên sự thấu hiểu và đồng cảm với
nhân dân, cần phải giải quyết các vấn đề xã hội, đáp ứng nhu cầu của nhân dân và
nâng cao chất lượng đời sống của người dân.

Tổng kết lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế rất cần thiết trong bối cảnh
hiện nay, giúp chúng ta xây dựng một môi trường đoàn kết chặt chẽ, phát triển bền
vững và góp phần vào sự phát triển của khu vực và thế giới. Chúng ta cần phải
thực hiện các nguyên tắc đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý,
có tình để đưa đất nước Việt Nam vượt qua được các thách thức và khó khăn trong
tương lai, đồng thời cùng các quốc gia khác xây dựng một thế giới hòa bình, thịnh
vượng và phát triển bền vững.

4.2. Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ

Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ là một trong những nguyên tắc quan trọng của
tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Nó không chỉ đòi hỏi sự độc lập và tự
chủ trong quan hệ đối ngoại mà còn yêu cầu chúng ta phải có khả năng độc lập
trong việc xác định và thực hiện chính sách phát triển.

Việc độc lập và tự chủ trong xây dựng và phát triển đất nước là một yêu cầu cấp
bách, nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Chúng ta cần phải có sức
mạnh và khả năng tự bảo vệ, tự phát triển để không bị phụ thuộc hoặc ảnh hưởng
quá nhiều bởi những yếu tố bên ngoài.
Đồng thời, độc lập và tự chủ còn đòi hỏi chúng ta phải có khả năng quản lý và phát
triển các nguồn tài nguyên, nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao trình độ và kiến
thức của nhân dân. Chúng ta cần phải đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nghiên
cứu và áp dụng khoa học công nghệ, đổi mới phương thức quản lý và sản xuất để
phát triển bền vững và đáp ứng được yêu cầu của thế giới hiện đại.

Ngoài ra, độc lập và tự chủ còn đòi hỏi chúng ta phải có một chính sách đối ngoại
độc lập, tư nhân và kết nối mở rộng với các đối tác trong và ngoài khu vực. Chúng
ta cần phải xây dựng và phát triển các mối quan hệ đối tác với các quốc gia, các tổ
chức quốc tế trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và lợi ích chung.

Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ là một trong những nguyên tắc quan trọng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Đây là cơ sở để chúng ta có thể
tồn tại và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá và đa dạng hóa của thế giới hiện
nay. Việc thực hiện đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ không chỉ đem lại cho
chúng ta sự tự tin và khả năng tự bảo vệ, mà còn đóng góp tích cực cho sự phát
triển của cả khu vực và thế giới. Chính vì vậy, chúng ta cần phải thực hiện các
chính sách và biện pháp thích hợp để đạt được mục tiêu này.

Đầu tiên, chúng ta cần phải nâng cao năng lực sản xuất và nâng cao trình độ và
kiến thức của nhân dân. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tập trung đầu tư vào giáo
dục và đào tạo, đồng thời khuyến khích sự đổi mới và ứng dụng khoa học công
nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh của đất nước.

Thứ hai, chúng ta cần phải đẩy mạnh hợp tác kinh tế với các đối tác trong và ngoài
khu vực, đồng thời xây dựng và phát triển các mối quan hệ đối tác trên cơ sở tôn
trọng lẫn nhau và lợi ích chung. Điều này đòi hỏi chúng ta phải đưa ra các chính
sách và biện pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc thâm nhập vào các thị trường
quốc tế, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ để nâng cao năng lực
xuất khẩu của đất nước.

Cuối cùng, chúng ta cần phải xây dựng và phát triển các tổ chức quốc tế trên cơ sở
độc lập, tự chủ và có vai trò quan trọng trong việc định hướng và điều phối các
hoạt động đoàn kết quốc tế. Điều này sẽ đem lại cho chúng ta sự tham gia tích cực
vào các hoạt động đoàn kết quốc tế, đồng thời đưa ra quan điểm và giải pháp của
đất nước về các vấn đề toàn cầu.

Tóm lại, việc thực hiện đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ là một yêu cầu cấp bách
trong bối cảnh toàn cầu hoá và đa dạng hóa của thế giới hiện nay. Chúng ta cần
phải thực hiện các chính sách và biện pháp thích hợp để đạt được mục tiêu này,
đồng thời đưa ra các quan điểm và giải pháp của đất nước về các vấn đề quốc tế.
Bằng sự đoàn kết, sáng tạo và nỗ lực không ngừng, chúng ta sẽ xây dựng được một
Việt Nam độc lập, tự chủ và phát triển bền vững, đồng thời đóng góp tích cực cho
sự phát triển của cả khu vực và thế giới.

II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong giai đoạn hiện
nay ở Việt Nam

1. Quan điểm, chủ trương của Đảng về đoàn kết quốc tế trong giai đoạn hiện
nay
Có thể thấy, đoàn kết quốc tế là một trong những nội dung cơ bản mà “Đường
Cách mệnh” chỉ ra; là nền tảng và cơ sở khoa học cho đường lối quốc tế của Đảng
ta, góp phần quan trọng đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác từ những năm tháng đấu tranh giành độc lập, trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cho đến giai đoạn cả nước đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, qua hơn
35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta tiếp tục vận dụng, sáng tạo
quan điểm đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh để phù hợp với bối cảnh
quốc tế mới và tình hình của đất nước hiện nay.
Trong tiến trình đổi mới đất nước, nhờ vận dụng phù hợp, sáng tạo quan điểm đoàn
kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đưa cách mạng Việt Nam từng
bước hòa vào dòng chảy của cách mạng thế giới, gắn liền với phong trào giải
phóng dân tộc trên toàn thế giới, đồng thời đóng góp tích cực cho nền hòa bình và
tiến bộ của nhân loại.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ở
thời kỳ đổi mới, bằng việc xác định đúng các dòng chảy của thế giới trong xu thế
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực hiện
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế trên nguyên tắc bao trùm và cũng là mục tiêu xuyên suốt của cách
mạng Việt Nam là hòa bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Chính từ chủ
trương mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế, nước ta từng bước ra khỏi
tình trạng bị bao vây, cấm vận và thiết lập quan hệ chính thức với hầu hết các nước
trên thế giới, trong đó có cả các cường quốc; tham gia các tổ chức, diễn đàn khu
vực và quốc tế, như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp
tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC),
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Liên hợp quốc (UN)..., phát huy vai trò tích
cực, chủ động trong mọi hoạt động tại các thể chế song phương và đa phương.
Ngay từ giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, Đảng ta đã đề ra đường lối, chủ
trương đúng đắn về đoàn kết quốc tế, với đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa, hội nhập quốc tế trên tinh thần giữ vững độc lập, chủ quyền dân
tộc. Trong xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển của thời kỳ đổi mới, vận dụng
quan điểm đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta
luôn nhất quán thực hiện bài học kinh nghiệm lớn “kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế”. Hoạt động đối
ngoại Việt Nam đã khơi dậy và phát huy cao độ yếu tố quốc tế, yếu tố thời đại
thành sức mạnh hiện thực. Với xu thế hòa bình, hợp tác đang diễn ra mạnh mẽ,
hoạt động đối ngoại của nước ta được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần
tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế. Công tác đối ngoại đã tạo điều kiện phá vỡ mọi
rào cản và đưa Việt Nam ngày càng đến gần hơn với thế giới. Hiện nay, Việt Nam
đã trở thành “mắt xích” quan trọng trong nhiều liên kết kinh tế khu vực và toàn
cầu, tham gia nhiều thỏa thuận thương mại tự do quan trọng, như Hiệp định đối tác
toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Hiệp định thương mại tự
do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA)..., tạo ra động lực mới cho sự phát
triển chung của đất nước. Qua đó, từng bước hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới, góp phần mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, tăng cường xuất, nhập khẩu; thế
và lực của đất nước đã vững mạnh hơn nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế không ngừng được củng cố, tạo tiền đề quan trọng để đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân.
Vận dụng quan điểm đoàn kết quốc tế trong điều kiện mới, từ đánh giá đúng cục
diện và xu thế phát triển chung của thế giới, Đảng ta đã đưa ra đối sách đúng đắn,
phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là chính sách đối
ngoại của Việt Nam phải tiếp tục kiên định, nhất quán tư tưởng “thêm bạn, bớt
thù”, ra sức tranh thủ sự ủng hộ của các nước bạn bè, anh em và cộng đồng quốc
tế, với chính sách chuyển từ đối đầu sang vừa hợp tác, vừa đấu tranh cùng tồn tại
trong hòa bình, không phân biệt chế độ chính trị và trình độ phát triển; chuyển hoạt
động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang thúc đẩy quan hệ chính trị, xã
hội, mở rộng quan hệ kinh tế góp phần phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Với đối sách đúng đắn trên, Đảng ta đã chuyển từ cách tiếp cận các vấn đề quốc tế
và đường lối đối ngoại chủ yếu dựa trên ý thức hệ sang cách tiếp cận sát với thực tế
và toàn diện hơn, trên cơ sở nhận thức rõ về lợi ích quốc gia - dân tộc. Điều này
đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh quan hệ quốc tế hiện nay khi nhân tố lợi ích
quốc gia - dân tộc ngày càng nổi lên. Tuy nhiên, cần phải đặt lợi ích quốc gia - dân
tộc trong mối quan hệ và sự kết hợp hài hòa giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế, với mục tiêu cao
nhất là xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Đây cũng là cơ sở cho sự hình thành, phát triển và triển khai toàn diện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các
quan hệ đối ngoại mà Đảng ta đã và đang thực hiện.
Với chính sách đối ngoại rộng mở, Đảng và Nhà nước Việt Nam coi trọng việc
phát triển quan hệ với tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế.
Với chủ trương rộng mở quan hệ đối ngoại tại Đại hội VI của Đảng, những thành
tựu đối ngoại trong thời kỳ đổi mới đã củng cố một bước tiến vững chắc của Việt
Nam trên con đường đưa phương châm đối ngoại của Việt Nam “muốn là bạn với
tất cả các nước trong cộng đồng thế giới” của Đại hội VII (năm 1991), “sẵn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế” của Đại hội IX (năm
2001), “là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế” của Đại hội XI (năm 2011) và điều này tiếp tục được khẳng định và nhấn
mạnh trong các Văn kiện Đại hội XII và XIII của Đảng. Qua đó có thể thấy được,
quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng được phát triển theo cả bề rộng
lẫn chiều sâu, đem lại nhiều kết quả tích cực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, hợp tác, phát triển trên toàn thế giới.
Trong quan hệ đối ngoại, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên trì phương châm “vừa
hợp tác, vừa đấu tranh” trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi. Trong đó, hai mặt
hợp tác và đấu tranh luôn gắn bó và có tác động qua lại với nhau, một mặt, thúc
đẩy hợp tác; mặt khác, vẫn phải đấu tranh dưới mọi hình thức, mức độ thích hợp
đối với từng đối tượng, trên từng vấn đề, để vừa có thể ưu tiên bảo vệ lợi ích quốc
gia - dân tộc, vừa thiết lập quan hệ với các nước trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi,
cùng tồn tại hòa bình. Chính sự kết hợp đúng đắn, linh hoạt giữa vừa hợp tác, vừa
đấu tranh đã tạo điều kiện để Việt Nam tranh thủ được sự ủng hộ ngày càng nhiều
của các lực lượng tiến bộ trên thế giới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Trong bối cảnh mới, nhận thức rõ sự chuyển dịch không ngừng trong quan hệ quốc
tế, nhất là quan hệ giữa các nước lớn, Đảng ta đã luôn xử lý linh hoạt các vấn đề
tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế có liên quan trực tiếp đến nước ta. Đó là
trong quá trình đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, Đảng
tiếp tục vận dụng và phát triển đường lối đoàn kết quốc tế, nêu cao ngọn cờ chính
nghĩa làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ cơ sở lịch sử, cơ sở pháp lý về chủ quyền
biển, đảo của Việt Nam để cộng đồng quốc tế hiểu rõ quan điểm nhất quán của
nước ta về các giải pháp đối thoại hòa bình, dựa trên cơ sở Hiến chương Liên hợp
quốc và luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển
(UNCLOS) năm 1982; đồng thời, qua đó tăng cường tình đoàn kết, đồng thuận với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Hoạt động đối ngoại theo hướng trên là
phù hợp với đòi hỏi thực tiễn, thấm đượm quan điểm đoàn kết quốc tế trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, cũng là cơ sở để xác lập đường lối đối ngoại của Đảng ta từ
“rộng mở” đến “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ”, “là đối tác tin cậy và là
thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Thể hiện tinh thần
độc lập tự chủ, sáng tạo, kiên định nguyên tắc và linh hoạt sách lược, gắn kết mục
tiêu cách mạng và định hướng phát triển đất nước ta với những xu thế phát triển
của thời đại. Điều này lại càng có ý nghĩa trong thời đại hiện nay khi đa dạng hóa,
đa phương hóa quan hệ quốc tế đã trở thành nhu cầu khách quan của đời sống quốc
tế và ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Thực tế ngày nay cho thấy, quan điểm đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí
Minh đã được Đảng ta vận dụng linh hoạt và phù hợp với cục diện thế giới cùng xu
thế quốc tế hiện nay. Những quan điểm đó đã và đang được Đảng và Nhà nước ta
quán triệt, vận dụng trong đường lối và thực tiễn quan hệ đối ngoại, hướng tới mục
tiêu tiếp tục tạo lập môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực và thế giới, góp phần
vào sự phát triển chung của đất nước, vì mục tiêu cao nhất là lợi ích quốc gia - dân
tộc. Chính từ đây đã mở ra một trang mới trong lịch sử đối ngoại của nước ta. Việt
Nam hiện có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốc gia thành viên của Liên hợp
quốc. Quán triệt quan điểm đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta
đã xử lý hài hòa các mối quan hệ quốc tế đa tầng, đan chéo, biến động phức tạp
khó lường hiện nay và đang hội nhập sâu hơn, toàn diện hơn với thế giới, qua đó
góp phần xây dựng lòng tin chiến lược trong hợp tác, thúc đẩy phát triển với các
quốc gia, góp phần vào sự phát triển chung của cộng đồng quốc tế.

2. Thực trạng về đoàn kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam
2.1. Thành tựu của Việt Nam khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế.
Hiện nay, tình hình chính trị - an ninh, kinh tế - xã hội thế giới diễn biến nhanh
chóng, phức tạp và khó lường; các nước lớn gia tăng cạnh tranh chiến lược, căng
thẳng,xung đột leo thang tại nhiều khu vực; thách thức an ninh phi truyền thống,
như dịch bệnh, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, khủng bố, tội phạm có tổ
chức… tiếp tục diễn biến phức tạp, khó kiểm soát hơn trong một “thế giới phẳng”,
song hoạt động ngoại giao của Việt Nam với các nước vẫn được triển khai mạnh
mẽ, khẳng định vai trò không thể thiếu của quan hệ quốc tế đối với vận mệnh đất
nước và điều này đã gặt hái được nhiều thành tựu:
2.1.1 Thành tựu về chính trị, quốc phòng - an ninh
Việt Nam đã quản trị và thúc đẩy một cách hiệu quả, thực chất mạng lưới quan hệ
đối ngoại, đáng chú ý là quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng, khu
vực. Việt Nam duy trì và thúc đẩy được đà quan hệ tích cực đồng thời với các nước
láng giềng Lào, Campuchia, Trung Quốc, các nước ASEAN, các nước lớn như
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ,Nga, Pháp. Đối ngoại-quốc phòng-an ninh đã tạo thành
thế chân kiềng vững chắc để canh giữ và bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc. Việt Nam và Campuchia đã ký và phê chuẩn 2 văn kiện pháp lý công
nhận 84% thành quả phân giới cắm mốc. Việt Nam đã kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền ở Biển Đông, đồng thời thúc đẩy các
biện pháp căn cơ, lâu dài để xử lý vấn đề trên tinh thần thượng tôn pháp luật và hòa
bình, nhấn mạnh vai trò của Công ước Luật Biển năm 1982. Quan hệ với một loạt
đối tác đã được nâng cấp, bao gồm thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với
Australia(2018), New Zealand (2020) và thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với
Myanmar và Canada (2017), Hungary (2018), Brunei và Hà Lan (2019). Tính tới
nay, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược với 17 quốc gia và quan hệ đối tác
toàn diện với 13 quốc gia.
2.1.2 Thành tựu về lĩnh vực kinh tế
Hội nhập kinh tế quốc tế trên thực tế đã đạt được những đột phá, tạo xung lực mới
trên đà phát triển, góp phần đưa đất nước vượt lên các khó khăn và bất định của
kinh tế toàn cầu. Việt Nam ký kết các phê chuẩn các Hiệp định Đối tác Toàn diện
và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại Tự do
(EVFTA, có hiệu lực từ tháng 8/2020) và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư (EVIPA) với
Liên minh châu Âu, ký Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP).
Đặc biệt, các FTA thế hệ mới như CPTPP và EVFTA không chỉ mở ra không gian
xuất khẩu, cơ hội thu hút đầu tư mà còn giúp đổi mới thể chế kinh tế, nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Năm 2019, năng lực cạnh tranh toàn cầu của
Việt Nam theo xếp hạng của WEF đã tăng từ hạng 77 lên 67, là mức thăng hạng
mạnh mẽ nhất trong số 141 nền kinh tế. Trong những giai đoạn khó khăn của dịch
COVID-19, các ngành, các cấp đã phối hợp chặt chẽ, cấp bách và quyết liệt để tiến
hành chiến dịch bảo hộ công dân với quy mô lớn nhất từ trước tới nay với hơn 280
chuyến bay và đưa gần 80.000 công dân về nước.
Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO, từ đó nền kinh tế Việt Nam
Ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới. Việc mở cửa nền kinh tế trở
thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần không nhỏ để
duy trì tốc độ để thu hút 30.136 dự án FDI với tổng vốn đăng ký đạt 358,53 tỷ
USD. Nhiều tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới đã chọn Việt Nam làm “điểm đến”,
như: Intel, Microsoft,Samsung, LG, Nokia, Cannon, Mitsubishi, Toyota, Honda…
Việc gia nhập WTO đã nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế, tạo điều
kiện triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa
phương hóa. Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp với những mối
quan hệ đan xen về lợi ích, việc giải quyết hàng loạt thách thức đặt ra chính là chìa
khóa để Việt Nam tạo đà, tiếp tục đưa con tàu kinh tế vươn ra biển lớn. tăng trưởng
cao hàng năm của nền kinh tế Việt Nam.Tính đến tháng 10/2019, Việt Nam.

2.1.3 Thành tựu về lĩnh vực ngoại giao


Việt Nam đã thể hiện tâm thế chủ động, tự tin hơn trong tham gia các cơ chế đa
phương, sẵn sàng đảm nhận các trọng trách đa phương quan trọng. Có nhận xét
cho rằng năng lực đối ngoại đa phương đã đưa Việt Nam trở thành một trong
những thành viên có vai trò dẫn dắt tại các cơ chế ở khu vực châu Á-Ấn Độ
Dương-Thái Bình Dương trong tương lai. Việc chủ trì rất thành công Năm APEC
Việt Nam 2017, đặc biệt là Tuần lễ Cấp Cao APEC đã tạo ra nhận thức mới, niềm
tin mới hòa cùng niềm tự hào và khát vọng vươn lên của dân tộc.
Năm 2018, Chỉ thị 25-CT/TW của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại
đa phương đến năm 2030 là bước chuyển tư duy, đặt đối ngoại đa phương ở vị trí
quan trọng, xứng tầm trong tổng thể các nhiệm vụ đối ngoại. Các hướng đi mới,
sáng tạo trong hợp tác tiểu vùng đã được thúc đẩy với các Hội nghị cấp cao GMS6,
CLV10 và đặc biệt là Hội nghị WEF về ASEAN với tư cách là Hội nghị thành
công nhất trong 27 năm tổ chức.Năm 2019, Việt Nam thu hút sự chú ý của cả thế
giới với vai trò Chủ nhà của Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ-Triều lần 2 và đã được bầu
là Ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an (HĐBA) Liên Hợp Quốc
(LHQ) với số phiếu cao kỷ lục. Chuyên gia cao cấp Murray Hiebert tại Trung tâm
nghiên cứu chiến lược và quốc tế (Mỹ) cho rằng các hội nghị cấp cao như Thượng
đỉnh Mỹ-Triều giúp tăng uy tín quốc tế của Việt Nam.
Kể từ khi chính thức tham gia vào hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp
quốc(GGHB LHQ) vào năm 2014 đến nay, Việt Nam đã triển khai lực lượng tham
gia theo hai hình thức chính là cá nhân và đơn vị. Với hình thức cá nhân, đã có 55
sỹ quan của Việt Nam được cử đến các Phái bộ của Liên hợp quốc ở Cộng hòa
Trung Phi và Nam Sudan với các vị trí: Quan sát viên quân sự, Sĩ quan liên lạc, Sĩ
quan tham mưu, Sĩ quan hậu cần và các vị trí khác theo nhu cầu của Liên hợp
quốc.
Năm 2020, Việt Nam đã thúc đẩy HĐBA lần đầu tiên thông qua Tuyên bố Chủ tịch
về tuân thủ Hiến chương LHQ, tổ chức cuộc đối thoại giữa LHQ và ASEAN, thúc
đẩy thành công Nghị quyết của Đại hội đồng LHQ lấy ngày 27/12 hằng năm là
Ngày quốc tế phòng chống dịch bệnh, tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của
LHQ. Trên cương vị Chủ tịch ASEAN 2020, vai trò điều phối, dẫn dắt của Việt
Nam đã được thể hiện rõ nét. Vượt qua các khó khăn chưa có tiền lệ, Việt Nam đã
thúc đẩy ASEAN đạt được đồng thuận trên những vấn đề lớn liên quan tới an ninh,
phát triển và vị thế của khu vực. Lần đầu tiên, Hội nghị Cấp cao trực tuyến trong
lịch sử 53 năm của ASEAN đã được tổ chức rất thành công, với số lượng văn kiện
đồ sộ nhất từ trước tới nay.

Theo Chủ tịch nước, chúng ta đã mở rộng quan hệ đối ngoại chưa từng có cả về bề
rộng lẫn chiều sâu. Thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế, từ vỏn vẹn 11 nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1954 đến
nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia trên thế giới, thiết lập
quan hệ đối tác chiến lược, toàn diện với 30 nước; có quan hệ kinh tế thương mại
với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và
toàn diện với nhiều quốc gia chủ chốt trên thế giới, trong đó có 5 nước thành viên
thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
Nổi bật là mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 3 quốc gia Trung
Quốc,Nga, Ấn Độ; đối tác chiến lược với 17 quốc gia Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái
Lan, Mỹ,...;đối tác toàn diện với 13 quốc gia Nam Phi, Brazil, Chile,...
Ngoài ra, Việt Nam còn tham gia các tổ chức quốc tế như Liên Hợp
Quốc,ASEAN, APEC, WTO, ... và có nhiều đóng góp quan trọng. Năm 2010,
2020 giữ chức chủ tịch ASEAN, Tổ chức thành công diễn đàn kinh tế thế giới;
năm 2019 Việt Nam là chủ nhà Thượng đỉnh Mỹ - Triều; năm 2020, trở thành ủy
viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc,...
Việt Nam gia nhập liên hợp quốc năm 1977, vị thế và vai trò của Việt Nam tại
LHQ ngày càng được nâng cao. Việt Nam cũng đã chủ động và tích cực phối hợp
với các nước Không Liên kết và đang phát triển để đấu tranh và bảo vệ các nguyên
tắc cơ bản của Hiến chương LHQ như nguyên tắc về bình đẳng chủ quyền, không
can thiệp công việc nội bộ các nước, không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực...
đồng thời và bảo vệ lợi ích của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Liên Hợp Quốc đã viện trợ Việt Nam rất nhiều từ năm 1977 - nay: 1977- 1985 là
500 triệu USD, 1986 - 1996 là 630 triệu USD,2006 - 2011 là 400 triệu USD. Và
LHQ hỗ trợ Việt Nam về các hạng mục phát triển xã hội, tập trung trong các lĩnh
vực giáo dục, y tế, chăm sóc, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, dân số và kế hoạch hóa gia
đình, phát triển kinh tế, …
Ngày 28/7/1995, Việt Nam gia nhập ASEAN, và trong suốt 26 năm kể từ khi gia
nhập Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong hội nhập khu vực và quốc tế.
Việt Nam từng bước khẳng định là một phần không thể tách rời của ASEAN và
khu vực Đông Nam Á, gắn sự phát triển đất nước với ASEAN và mong muốn gánh
vác công việc chung của ASEAN. Việt Nam đã giữ chức chủ tịch luân phiên của
ASEAN năm 2010 ,2020 và có đóng góp quan trọng như mở rộng EAS hay thành
lập cơ chế ADMM cộng. Trong tương lai, Việt Nam vẫn không ngừng đóng góp vì
một mục tiêu chung: “Một Cộng đồng hòa bình, ổn định và tự cường với năng lực
được nâng cao để ứng phó hiệu quả với các thách thức”.

Quan hệ ngoại giao Liên minh châu Âu (EU)-Việt Nam. Phạm vi hợp tác song
phương trải rộng khắp các lĩnh vực, từ các vấn đề chính trị, các thách thức mang
tính toàn cầu tới kinh tế, thương mại đầu tư và phát triển. EU qua đó đã đóng góp
tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam. Việt Nam và EU hiện có mối quan hệ rất sâu rộng, tiêu biểu là: Hiệp
định Đối tác và Hợp tác toàn diện Việt Nam - EU (PCA), có hiệu lực từ năm 2016,
với các cơ chế hợp tác thực chất trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, thương mại,
đầu tư, phát triển bền vững, an ninh-quốc phòng, pháp quyền-quản trị; Hiệp định
Thương mại tự do (EVFTA) có hiệu lực từ ngày 01/8/2020 và sắp tới là Hiệp định
Bảo hộ đầu tư (IPA).
2.1.4. Thành tựu về xã hội
Việt Nam tham dự hội nghị COP 27, mang theo tinh thần đoàn kết để giải quyết
những thách thức do biến đổi khí hậu gây ra thông qua hành động thực tiễn để thực
hiện các cam kết và nội dung của COP26.
Bên cạnh các hoạt động theo quy định của Công ước, Nghị định thư Kyoto, Thỏa
thuận Paris, nước chủ nhà Ai Cập đưa ra chương trình nghị sự gồm 4 chủ đề chính,
bao gồm tài chính khí hậu, thích ứng với biến đổi khí hậu, tổn thất và thiệt hại,
nâng tham vọng hành động khí hậu.
Tại Hội nghị COP 26, Việt Nam đã bày tỏ sự đồng hành mạnh mẽ cùng 150 quốc
gia trên thế giới cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050. Cùng với
hơn 100 quốc gia đã tham gia Tuyên bố Glassgow của các nhà lãnh đạo về rừng và
sử dụng đất; cùng 48 quốc gia tham gia Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than
sang năng lượng sạch; cùng 150 quốc gia tham gia Liên minh hành động 2 thích
ứng an toàn.

Ngay sau Hội nghị COP26, Việt Nam đã ban hành những chính sách, chiến lược
hành động để tạo cơ sở cụ thể hóa những cam kết của mình. Đến nay, Việt Nam
ban hành Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050. Chiến
lược đã đưa ra 87 biện pháp giảm phát thải kèm chi phí, tạo thuận lợi cho việc lập
kế hoạch, triển khai thực hiện và theo dõi giám sát phát thải khí nhà kính. Chiến
lược đề ra Mục tiêu tổng quát là chủ động thích ứng hiệu quả, giảm mức độ dễ bị
tổn thương, tổn thất và thiệt hại do biến đổi khí hậu; giảm phát thải khí nhà kính
theo mục tiêu phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050, đóng góp tích cực và trách
nhiệm với cộng đồng quốc tế trong bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất; tận dụng cơ
hội từ ứng phó biến đổi khí hậu để chuyển dịch mô hình tăng trưởng, nâng cao sức
chống chịu và cạnh tranh của nền kinh tế.

⇒Từ đó ta có thể thấy quan hệ ngoại giao của Việt Nam đã được mở rộng hơn
nhiều so với ngày trước. Chúng ta đã nâng cao hiệu quả và làm sâu sắc hơn quan
hệ với các đối tác quốc tế, mở rộng thêm quan hệ với nhiều đối tác quốc tế, nâng
số lượng đối tác chiến lược và đối tác toàn diện lên con số 30, gồm tất cả các nước
là Ủy viên thường trực Hội Đồng Bảo an Liên hiệp quốc, phần lớn các nước thành
viên các nhóm chính trị, kinh tế lớn trên thế giới, đặc biệt là các nước láng giềng.
Điểm lớn nữa là chúng ta đã tranh thủ tốt hội nhập quốc tế cho phát triển kinh tế xã
hội, thể hiện từ chủ trương quan hệ chính trị,hội nhập quốc tế. Đối ngoại gồm 3 trụ
cột: đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, ngoại giao Nhân dân. Đây là 3 lực
lượng phát huy tác dụng trong quá trình kháng chiến để nâng cao vị thế của đất
nước, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, kể cả tinh thần và vật chất cũng như trong
quá trình đổi mới thời gian qua.

2.2. Thách thức:


2.2.1. Vấn đề trong nước:
a) Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng và Nhà nước ta
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Đảng ta, nhân dân ta lựa chọn và khẳng định trong các văn kiện của Đảng từ mùa
xuân năm 1930 và đã được bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội của Đảng. Từ
đó đến nay, trong suốt lịch sử 91 năm cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo tài
tình và sáng suốt của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta đã giành được
những thắng lợi to lớn, đi đến vinh quang ngày hôm nay. Vậy mà, hiện nay, các thế
lực thù địch, phản động vẫn không ngừng ráo riết thực hiện các âm mưu diễn biến
hòa bình nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Một trong những âm mưu nguy hiểm ấy chính là tấn công
vào nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hiện nay, lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của Internet và các trang mạng xã hội,
các thế lực thù địch đã đưa ra những thông tin xấu, độc nhằm kích thích sự nghi
ngờ, phủ định sạch trơn những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh với những luận điệu xuyên tạc như: chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh đã lạc hậu, lỗi thời không còn phù hợp với thời đại hiện nay nữa và một
đảng lấy tư tưởng, lý luận đã “lạc hậu, lỗi thời” thì không thể có cơ sở để lãnh đạo
đất nước phát triển khi thực tế khách quan đã thay đổi. Bên cạnh đó, với mục đích
nhằm hạ thấp uy tín, kích động, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và
Nhà nước, những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trên tất cả các
lĩnh vực: từ con đường đi lên XHCN, về vai trò lãnh đạo của Đảng, về nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN hay các chính sách đối ngoại, an ninh quốc phòng…
đều bị chúng âm mưu xuyên tạc, bóp méo.
b) Công tác tuyên truyền về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về
dân tộc vẫn còn một số khó khăn, hạn chế
Hiệu quả cung cấp, phổ biến thông tin đến vùng đồng bào DTTS của cơ quan báo
chí, truyền thông hiện nay chưa cao. Các tin, bài, chương trình phát thanh, truyền
hình phản ánh về đồng bào DTTS tăng về số lượng nhưng chất lượng nội dung còn
nhiều hạn chế. Đồng thời, nội dung nặng về tuyên truyền chính sách, khô cứng, dài
dòng, ít chọn lọc, chưa biên tập lại cho phù hợp với trình độ nhận thức, nhu cầu
thông tin của từng đối tượng. Do đó gây khó khăn trong việc nhận thức và nắm bắt
quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng về đoàn kết quốc tế của người dân.
2.2.2. Vấn đề quốc tế:
a) Cạnh tranh chiến lược nước lớn:
Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhất là giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ
chuyển sang giai đoạn mới với những diễn biến khó lường hơn, xét về mức độ và
bản chất. Cạnh tranh chiến lược Mỹ - Trung Quốc có thể tạo thêm khó khăn cho
các nước nhỏ và vừa, trong đó có Việt Nam trong việc xử lý quan hệ với các nước
lớn. Vì vậy, chúng ta sẽ khó khăn hơn trong việc thực hiện phương châm “đa
phương hóa, đa dạng hóa” và “cân bằng động” giữa các nước lớn trong giai đoạn
hiện nay và thời gian tới. Những diễn biến gần đây cho thấy, sự trỗi dậy của Trung
Quốc trong và sau đại dịch Covid-19 đã rất khác. Đến thời điểm này, Trung Quốc
đã biến dịch bệnh từ thế bị động đối phó sang ưu thế trước Mỹ và phương Tây.
Điều này một mặt mang lại thêm cơ hội phát triển cho các nước, nhưng đồng thời
cũng mang lại nhiều sức ép, thu hẹp không gian an ninh - chiến lược cho các nước
xung quanh, trong đó có Việt Nam. Cùng với việc tăng cường sức mạnh, tham
vọng thiết lập và khẳng định tầm ảnh hưởng của Trung Quốc cũng ngày càng mở
rộng, đặc biệt là ở khu vực Biển Đông.Về tình hình biển Đông, thời gian qua, biển
Đông tưởng chừng như "lặng sóng" nhưng thực tế không phải như vậy. Trong lúc
dư luận đổ dồn vào xung đột Nga - Ukraine, ít quan tâm đến tình hình khu vực thì
Trung Quốc lại tạo ra những "cơn sóng ngầm", những bước leo thang mới gây
phức tạp thêm tình hình biển Đông.
Quan hệ nước lớn đan xen giữa cạnh tranh ở những lĩnh vực chiến lược và hợp tác
ở một số lĩnh vực cụ thể có chia sẻ lợi ích. Trong những năm gần đây, mặt cạnh
tranh, đối đầu có phần nổi trội hơn. Cạnh tranh trải rộng trên nhiều lĩnh vực, từ
chính trị - an ninh, ngoại giao, kinh tế, khoa học - công nghệ, văn hóa, nguồn nhân
lực, tiền tệ...
Cạnh tranh Mỹ - Trung Quốc là nhân tố quyết định đến cục diện thế giới và quan
hệ nước lớn thời gian qua và trong giai đoạn tới đây (2). Sự cạnh tranh này sẽ tạo
nên những thay đổi căn bản, xáo trộn lớn ở tất cả các phương diện của đời sống thế
giới, kể cả trong trường hợp hai nước Mỹ, Trung Quốc “ngồi lại” với nhau cũng
không thể kết thúc được sự xung đột, mâu thuẫn về chiến lược. Bởi Mỹ muốn duy
trì vị trí số một thế giới, thiết lập trật tự “một cực” do Mỹ dẫn dắt, còn Trung Quốc
là nhân tố thách thức vị trí hiện nay của Mỹ.
Bên cạnh đó, nhiều cặp quan hệ nước lớn khác cũng xuất hiện hoặc gia tăng căng
thẳng, rạn nứt, như quan hệ Mỹ - Nga, NATO - Nga, Ôxtrâylia - Trung Quốc,
Trung Quốc - Ấn Độ, Trung Quốc - EU…
Cùng với toàn cầu hóa, luật pháp quốc tế cũng phải đối mặt với nhiều thách thức
khi luật chơi và các thiết chế luật pháp quốc tế đã định hình từ trước bị một số
nước xem nhẹ, bỏ qua. Lợi ích quốc gia (có thể là lợi ích chính đáng hoặc không
chính đáng) là động cơ thôi thúc một số nước thúc đẩy chính trị cường quyền, chủ
nghĩa bá quyền trong quan hệ với các chủ thể khác. Một số nước có vị thế sẵn sàng
vi phạm luật pháp quốc tế, đẩy các khu vực, quốc gia đến nguy cơ xung đột, mâu
thuẫn.
Toàn cầu hóa đẩy mạnh hội nhập và liên kết quốc tế, nhưng mặt khác, toàn cầu hóa
cũng tạo ra tình thế “kẻ thắng, người thua”, tạo điều kiện cho chủ nghĩa dân tộc
cực đoan và chủ nghĩa thực dụng phát triển. Đồng thời, một trong những xu thế
không thuận trong giai đoạn hiện nay đã được Đại hội XIII của Đảng chỉ ra, đó là
chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng
trong quan hệ quốc tế gia tăng. Năng lực quản trị kém hiệu quả ở cả cấp độ quốc
gia và toàn cầu đã dẫn đến mâu thuẫn, khủng hoảng xã hội và sự nổi dậy của một
số phong trào cực đoan.
Cạnh tranh nước lớn gia tăng gây sức ép trực tiếp lên các chủ thể yếu hơn, các
nước nhỏ sẽ đứng trước sức ép trở nên phụ thuộc vào một nước lớn hoặc bị kẹt
giữa nhiều nước lớn hoặc “buộc phải chọn bên”.
Như thế, cạnh tranh giữa các nước lớn tiếp tục trở thành yếu tố bao trùm lên môi
trường quan hệ quốc tế trong thời gian tới, sẽ tạo ra những biến đổi sâu sắc chưa
từng có tiền lệ, tiềm ẩn nguy cơ xung đột cục bộ hoặc xung đột lĩnh vực rất cao.
b) Vấn đề biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu đã và đang đặt ra những thách thức to lớn đối với tất cả các quốc
gia trên thế giới. Với tốc độ gia tăng nhanh chóng, biến đổi khí hậu không những
ngày càng tác động sâu rộng đến kinh tế, chính trị và mọi khía cạnh của đời sống
xã hội, mà còn trở thành mối đe dọa cấp số nhân, làm trầm trọng thêm các nhân tố
có thể ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh quốc tế.
Thực tế cho thấy, biến đổi khí hậu đã và đang có những tác động tiêu cực đến hòa
bình, an ninh thế giới.

Thứ nhất, biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn tài nguyên sẵn có, đến
khả năng tiếp cận tài nguyên và là nguyên nhân góp phần tạo ra sự tranh giành tài
nguyên tại nhiều khu vực trên thế giới. Việc tranh giành tài nguyên gia tăng khi
nguồn cung không đáp ứng cầu, dẫn đến bất ổn và thậm chí là xung đột tại những
khu vực không có sự quản lý thích hợp hoặc không có cơ chế giải quyết xung đột.
Đơn cử như, cuộc đảo chính ở Ni-giê-ri-a năm 1974, các cuộc xung đột dân sự ở
châu Phi từ năm 1990 - 2009...

Thứ hai, biến đổi khí hậu làm đảo lộn sinh kế; gia tăng dòng người tị nạn môi
trường do bị mất nơi cư trú, mất phương thức sống truyền thống gắn với thiên
nhiên, phải chuyển đổi nghề nghiệp; gia tăng sức ép và xung đột giữa các quốc gia,
khu vực trên thế giới. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB), nếu không có
hành động kịp thời, đến năm 2050 sẽ có khoảng hơn 140 triệu người ở khu vực tiểu
Xa-ha-ra (châu Phi), Mỹ La-tinh và Nam Á buộc phải di cư do hạn hán, bất ổn
chính trị và bạo lực.

Thứ ba, biến đổi khí hậu gây ra nhiều thảm họa thiên nhiên đe dọa nghiêm trọng
đến các yếu tố an ninh phi truyền thống, như an ninh con người, an ninh lương
thực, an ninh nguồn nước, năng lượng, y tế... Biến đổi khí hậu khiến những nhóm
người dễ bị tổn thương dễ trở thành nạn nhân, làm thay đổi cấu trúc gien của các
vi-rút bệnh truyền nhiễm và tác động đến vấn đề an ninh lương thực, nước sạch,
không khí trong lành. Đại dịch COVID-19 và những biến thể của vi-rút corona mới
đây càng củng cố thêm những cảnh báo từ lâu về nguy cơ vi-rút bệnh truyền nhiễm
do tác động của biến đổi khí hậu, đe dọa đến hòa bình và an ninh trên toàn thế giới.
Các chuyên gia cảnh báo, nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm 30C, số người đói nghèo
sẽ tăng từ 250 - 550 triệu người do mất an ninh lương thực. Điều này có thể làm
gia tăng sự xáo trộn, kéo theo sự sụp đổ của các hệ thống xã hội và sự bùng nổ các
xung đột tại những quốc gia yếu kém trong quản lý.

Thứ tư, hiện tượng nước biển dâng và sự xói mòn, xuống cấp của đất ở các vùng
duyên hải gây ra nguy cơ mất nhà cửa; lãnh thổ quốc gia bị mất đi trong tương lai,
từ đó tạo ra những thách thức trong xử lý tranh chấp lãnh thổ. Theo báo cáo của
WMO năm 2019, gần 2/3 các thành phố trên thế giới với dân số hơn 5 triệu người
đang phải đối mặt với nguy cơ nước biển dâng do hiện tượng băng ở hai cực Trái
đất tan nhanh. Nếu không có những hành động, toàn bộ khu vực trung tâm của các
thành phố Niu Oóc (Mỹ), Thượng Hải (Trung Quốc), A-bu Đa-bi (Các Tiểu vương
quốc A-rập Thống nhất), Ô-xa-ca (Nhật Bản), Ri-ô Đơ Gia-nê-rô (Bra-xin) và
nhiều thành phố khác được dự báo sẽ bị nhấn chìm dưới nước, khiến hàng triệu
người mất nhà cửa. Nước biển dâng khiến nhiều quốc đảo nhỏ có nguy cơ biến mất
hay làm dịch chuyển đường cơ sở các nước ven biển, tạo ra những thách thức trong
áp dụng các quy tắc của luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hiệp quốc về
Luật Biển (UNCLOS) đối với việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và biên giới
quốc gia.

Như thế, khó có thể phủ nhận biến đổi khí hậu đang len lỏi đến khắp mọi nơi, kéo
theo nhiều mối đe dọa đối với hòa bình, an ninh thế giới hơn bất kỳ mối đe dọa
nào. Chính vì vậy, theo giới chuyên gia, những thách thức đến từ biến đổi khí hậu
nên được đặt trong các mối quan tâm về an ninh trong một thế giới đang thay đổi
nhanh chóng. Và chỉ có hợp tác quốc tế hiệu quả giữa các quốc gia, các khu vực
mới có thể từng bước ngăn chặn, đẩy lùi được biến đổi khí hậu và những tác động
mang tính hủy diệt của nó.
2.3. Giải pháp tiếp tục thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
trong giai đoạn hiện nay
a. Đối với Đảng, Nhà nước
● Nhận thức đúng đắn việc vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết quốc tế trong giai đoạn hiện nay
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh là quá trình có chọn lọc và sáng tạo. Chúng
ta cần chọn lọc những nội dung phù hợp với yêu cầu thực tiễn hiện nay để
thực hành, áp dụng. Mỗi thời điểm lại có một yêu cầu, thực tiễn khác nhau;
cần phải dựa trên thực tiễn từng giai đoạn để thực hành một cách sáng tạo
trên cơ sử các nguyên tắc được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra. Có như vậy
mới mang lại hiệu quả thiết thực, tránh rơi vào vận dụng hình thức, rập
khuôn, kém hiệu quả.
Mặt khác, việc vận dụng phải đi đôi với phát triển để phù hợp với thời đại.
Yêu cầu đảm bảo tính sáng tạo trong quá trình vận dụng sẽ dẫn đến sự bổ
sung, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế.
● Tiếp tục công tác tuyên truyền nội dung, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết quốc tế.
Để vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, đòi hỏi mọi người cần
hiểu rõ về nội dung cốt lõi của tư tưởng, những giá trị mà tư tưởng đem lại.
Từ đó có thể hiểu rõ, vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào thực tiễn hiện nay.
Cập nhập thêm nội dung mới, bổ sung,năng tầm nội dung của tư tưởng Hồ
Chí Minh về quan hệ quốc tế nhưng cần đảm bảo tính kế thừa, đúng hướng
góp phần nâng cao giá trị của tư tưởng, lý luận.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về nội dung, giá trị của tư tưởng Hồ Chí
Minh về quan hệ quốc tế. Cần đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, làm
phong phú các nội dung truyền tải nhằm mang lại hiệu quả lớn hơn. Trong
quá trình tuyên truyền cần chú ý đến hiệu quả, tránh chạy theo số lượng,
hình thức; việc tuyên truyền cần phù hợp với từng đối tượng trong xã hội,
trong đó đặc biệt chú ý đến thế hệ trẻ như học sinh, sinh viên, thanh thiếu
niên – lực lượng nòng cốt của xã hội.
● Vận dụng các quan điểm, bài học rút ra trong thực tiễn
Bằng việc tiếp thu, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết quốc tế, trong công cuộc hội nhập quốc tế của Việt Nam từ khi đổi mới
đến nay, Đảng ta đã rút ra một số bài học quan trọng. Trong đó xác định rõ
quan hệ quốc tế là một xu thế khách quan, là tiền đề quan trọng cho thành
công của công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do đó vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế vào
điều kiện cụ thể của đất nước hiện nay là giải pháp quan trọng để hội nhập
với quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế.
● Nắm chắc và thực hiện linh hoạt phương thức vận dụng, phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế
Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế là hoạt
động đòi hỏi cách làm khoa học. Tuy nhiên, việc học tập và vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh còn mang tính hình thức, chưa đi vào thực chất. Có
nhiều nguyên nhân, trong đó chưa có cách vận dụng, phát triển đúng đắn và
phù hợp. Cách thức vận dụng và phát triển khác nhau tùy thuộc vào điều
kiện cụ thể của chủ thể thực hiện nhưng phải đảm bảo về nguyên tắc để làm
đúng cách và đạt hiệu quả. Do đó, cần xác định tư tưởng Hồ Chí Minh về
quan hệ quốc tế là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc, mang giá trị
lý luận và thực tiễn to lớn, rất cần thiết hiện nay.
- cần chung tay, hợp lực giải quyết các vấn đề toán cầu vì một thế giới
hòa bình và thịnh vượng.

b, Đối với học sinh sinh viên, thế hệ trẻ


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Người ta thường nói: Thanh niên là người chủ
tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần
lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn là người chủ tương lai cho xứng đáng
thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra sức làm
việc để chuẩn bị cho cái tương lai đó”.
Là lực lượng nòng cốt của đất nước, thế hệ trẻ ngày nay cần tiếp tục học tập, trau
dồi kiến thức, kỹ năng, tìm hiểu kỹ-sâu-rộng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế, ra sức học tập, rèn luyện, phấn đấu vươn lên, không ngừng khám phá,
sáng tạo.
Không chỉ dừng lại ở việc học tập mà cần biết vận dụng vào thực tế xã hội, giao
lưu với các nước trên thế giới, tiếp thu văn hóa nhân loại bên cạnh việc giữ gìn bản
sắc văn hóa truyền thống dân tộc, góp phần phát triển đất nước theo kịp thời đại,
hội nhập với xu thế phát triển chung của thế giới thông qua các cuộc thi quốc tế,
qua việc trao đổi du học sinh, các diễn đàn trẻ, …
Trong những năm gần đây, đặc biệt là sau đại dịch Covid 19, nước ta có rất nhiều
những chính sách thúc đẩy việc giao lưu học tập tại nước bạn đến với Sinh viên
Việt Nam. Sinh viên có cơ hội được sinh sống, học tập tại một đất nước khác trong
một khoảng thời gian để có thể hiểu hơn được văn hóa nước bạn cũng như làm gia
tăng tính đoàn kết giữa Việt Nam với các nước liên kết.
Ngoài ra, Sinh viên Việt Nam cũng rất nhiệt tình tham gia những sự kiện phi lợi
nhuận để gắn kết các nước trong khu vực. Đặc biệt, vào 7/5/2022, tại Quảng
trường Đông Kinh Nghĩa Thục tại phố đi bộ Hà Nội, Sự kiện khai mạc Festival
thanh niên Đông Nam Á chào mừng Sea Game 31 đã diễn ra với sự có mặt của
sinh viên 12 đất nước: Việt Nam, Thái Lan, Philippines, Malaysia, Indonesia,
Singapore, Myanmar, Lào, Campuchia, Đông Timor, Brunei. Tại đây, sinh viên
được tham quan các gian hàng truyền thống của từng đất nước, được thử mặc trang
phục truyền thống và cùng diễu hành xung quanh hồ Gươm,...Sau sự kiện này, các
bạn sinh viên trong đó có cả sinh viên Học viện Ngân hàng đã có thêm cho mình
những kiến thức về văn hóa của các nước bạn và hiểu hơn về những truyền thống
quý báu đó. Đây là một sự kiện tiêu biểu đã đánh dấu sự hòa bình, hữu nghị của
đất nước ta đối với các nước trong khu vực và thông qua sự kiện này, sinh viên
Việt Nam cũng có được những kỷ niệm rất vui với các bạn sinh viên của các đất
nước Đông Nam Á khác. Thế nên, sinh viên cần sớm nhận thức được vai trò to lớn
của Đoàn kết quốc tế trong thời điểm hiện nay, lấy mình là một bộ phận của xã hội,
luôn phát huy tối đa khả năng của mình để gắn chặt vòng tay lớn sự đoàn kết quốc
tế.

3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế vào thực hiện đoàn
kết, hợp tác quốc tế trong phòng, chống dịch Covid-19 ở Việt Nam
Trong bài phát biểu tại Phiên thảo luận mở cấp cao trực tuyến của Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc với chủ đề "Ðại dịch và các thách thức đối với hòa bình bền vững",
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh nhấn mạnh vai trò quan
trọng của các tổ chức khu vực cũng như vai trò trung tâm của Liên hợp quốc và Tổ
chức Y tế Thế giới (WHO) trong cuộc chiến chống COVID-19; các cam kết của
Việt Nam và kêu gọi tăng cường hợp tác, đoàn kết quốc tế cùng ứng phó thành
công đại dịch.
Thứ nhất, tăng cường đoàn kết quốc tế, hợp tác đa phương

Thực tế cho thấy, ngay từ những ngày đầu tiên cũng như giai đoạn căng thẳng nhất
khi đại dịch bùng phát trên toàn cầu (cuối năm 2019-đầu năm 2020), Việt Nam đã
chủ động, trách nhiệm, chia sẻ khó khăn và đóng góp thiết thực vào nỗ lực chống
lại đại dịch. Trong khả năng của mình, Việt Nam đã và đang sẵn sàng cung cấp các
vật tư, thiết bị y tế "Made in Viet Nam".

Với tinh thần quốc tế cao cả được kế thừa từ truyền thống lịch sử, Chính phủ và
nhân dân Việt Nam mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng đã có nhiều hoạt động hỗ
trợ, hợp tác, chia sẻ với 20 quốc gia, tổ chức quốc tế. Thực hiện phương châm
"Giúp bạn là tự giúp mình", Việt Nam đã tặng "hai nước Lào, Campuchia các trang
thiết bị y tế gồm quần áo bảo hộ, khẩu trang y tế, khẩu trang kháng khuẩn, hệ
thống xét nghiệm cùng bộ xét nghiệm virus SARS-CoV-2, trị giá hơn 7 tỷ đồng
cho mỗi nước"; tặng Indonesia 500 dụng cụ xét nghiệm, Myanmar 50.000 USD để
chung sức phòng, chống COVID-19; dành tặng Đảng, Nhà nước và nhân dân Cuba
5.000 tấn gạo.

Ngay khi dịch COVID-19 diễn biến phức tạp tại Trung Quốc, Việt Nam đã tặng
Trung Quốc vật tư, trang thiết bị y tế gồm máy thở, quần áo sát khuẩn, găng tay,
khẩu trang y tế với tổng trị giá 500.000 USD. Hội Chữ thập đỏ Việt Nam vận động
các tổ chức, cá nhân quyên góp hỗ trợ nhân dân Trung Quốc số vật tư y tế trị giá
100.000 USD để phòng, chống dịch.

Đối với các đối tác chiến lược, bạn bè truyền thống, Việt Nam đã dành một phần
nguồn lực của mình giúp đỡ Chính phủ các nước Nhật Bản, Nga, Pháp, Đức, Italy,
Tây Ban Nha và Anh, Hoa Kỳ, Thụy Điển… phòng, chống dịch COVID-19. Số
hàng hỗ trợ gồm khẩu trang, vải kháng khuẩn chống giọt bắn, quần áo bảo hộ
DuPont do Việt Nam tự sản xuất, giúp các nước có thêm phương tiện bảo vệ sức
khỏe cho người dân. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tặng Văn phòng Tổng thống
Liên bang Nga, Văn phòng Nội các Nhật Bản, Văn phòng Nhà Trắng (Hoa Kỳ)
mỗi nơi 50.000 khẩu trang y tế.

"Tôi muốn bày tỏ lòng cảm ơn chân thành vì sự ủng hộ của Chính phủ và nhân dân
Việt Nam trong cuộc chiến chống lại sự lây lan của dịch COVID-19 ở Italy. Trong
thời điểm nhiều thách thức này, tinh thần đoàn kết rộng mở đã được thể hiện ở
nhiều cấp độ bởi Chính phủ và các tổ chức xã hội và là minh chứng cho mối quan
hệ sâu sắc giữa hai nước chúng ta", Ngoại trưởng Italy Luigi Di Maio viết trong
thư cảm ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã hỗ trợ nước này trong cuộc chiến
chống COVID-19. Ngoại trưởng Italy nhấn mạnh: "Người dân Italy sẽ luôn ghi
nhớ sự nghĩa hiệp và tinh thần đoàn kết mà Việt Nam đã thể hiện trong lúc cần
thiết. Cùng đoàn kết, chúng ta sát cánh bên nhau. Cùng đoàn kết, chúng ta sẽ thành
công".

Bên cạnh hoạt động trao tặng, viện trợ vật tư y tế, các nhà Lãnh đạo Việt Nam
cũng liên tục có các động thái, phát biểu hối thúc cộng đồng quốc tế, khu vực cùng
chung tay chống lại "kẻ thù chung". Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân gửi
thư tới các nghị viện thành viên Hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA) kêu gọi
chung tay chống dịch COVID-19. Với cương vị Chủ tịch ASEAN 2020, Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ra Tuyên bố Chủ tịch ASEAN, khẳng định quyết
tâm và cam kết chính trị ở mức cao của ASEAN để kiểm soát và ngăn chặn dịch
bệnh; chủ trì Hội đồng điều phối ASEAN để trao đổi về các biện pháp phối hợp và
hợp tác trong ASEAN cũng như với các đối tác để ứng phó dịch bệnh; tổ chức Hội
nghị trực tuyến cấp Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN-Hoa Kỳ với chủ đề hợp tác
quốc tế phòng, chống dịch COVID-19; khởi động cơ chế ứng phó dịch bệnh khẩn
cấp của khu vực ASEAN và với các đối tác Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc
(ASEAN+3); tham gia Hội nghị Thượng đỉnh G20, Hội nghị cấp cao trực tuyến
phong trào không liên kết về phòng, chống dịch bệnh…

Thứ hai, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm chống dịch


Trong cuộc chiến chống lại đại dịch toàn cầu, Việt Nam xác định không thể "tự đốt
đuốc, dò đường" đi một mình mà cần phải có sự chia sẻ, phối hợp, cập nhật thông
tin, kinh nghiệm chống dịch, kết quả nghiên cứu vaccine với các nước trên thế
giới.

Trên tinh thần đó, Việt Nam đã cùng các nước như Hoa Kỳ, Nga, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Pháp, Ấn Độ, Australia, New Zealand… tiến hành nhiều cuộc điện đàm ở
các cấp khác nhau, với số lượng kỷ lục chưa từng có trong hoạt động ngoại giao
của nước ta. Trong đó, Việt Nam cùng các nước tập trung cập nhật tình hình dịch
bệnh trong nước, tại khu vực và trên thế giới; chia sẻ kinh nghiệm và biện pháp
phòng, chống dịch bệnh cũng như các hình thức hợp tác hiệu quả trong công tác
bảo hộ công dân, cung ứng trang thiết bị y tế, phối hợp trong các hình thức viện trợ
nhân đạo, duy trì giao thông và giao thương cũng như việc tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho mở cửa và hồi phục nền kinh tế hậu COVID-19.

Tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao, Người Phát ngôn Lê Thị Thu
Hằng cho biết, bên cạnh công tác phòng, chống dịch bệnh, Chính phủ Việt Nam
hết sức quan tâm và luôn chỉ đạo các cơ quan chức năng liên quan khẩn trương
thực hiện các nghiên cứu để sản xuất vaccine trong nước, đồng thời đẩy mạnh phối
hợp với các công ty, các đối tác sản xuất và cung cấp vaccine có uy tín trên thế giới
nhằm có vaccine COVID-19 trong thời gian sớm nhất. Hiện nay, Việt Nam vẫn
thường xuyên trao đổi, cập nhật tình hình với các đối tác, mong muốn sớm có
vaccine, thuốc và phác đồ điều trị, tiến tới kiểm soát và đẩy lùi dịch bệnh nguy
hiểm này.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng xây dựng các chính sách và quy định để hỗ trợ việc
tiếp nhận, vận chuyển, bảo quản, phân phối và sử dụng vaccine được thực hiện một
cách nhanh chóng ngay khi có vaccine COVID-19.

Trước đó, vào tháng 4, trong cuộc cuộc điện đàm lần thứ 3 với lãnh đạo ngoại giao
các nước Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand về tình
hình dịch COVID-19, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn
đã đề nghị Chính phủ các nước tiếp tục có các cam kết chính trị để bảo đảm rằng
các nước được tiếp cận và đáp ứng nhu cầu sử dụng vaccine và thuốc chữa trị
COVID-19 nếu nghiên cứu thành công.

Trong vai trò là nước Chủ tịch ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng
Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam đã đề xuất nhiều ý tưởng, sáng kiến trong khuôn
khổ Liên hợp quốc và tích cực phối hợp với các quốc gia thành viên khác thảo
luận, thông qua nhiều Nghị quyết, văn kiện nhằm tăng cường hợp tác quốc tế trong
ứng phó với COVID-19; kêu gọi chấm dứt các hành vi cường quyền, đơn phương
trái với luật pháp quốc tế; ủng hộ lời kêu gọi của Tổng Thư ký Liên hợp quốc về
ngừng bắn trên toàn cầu và gỡ bỏ các biện pháp trừng phạt làm suy yếu khả năng
ứng phó với đại dịch của các quốc gia.

Đặc biệt, ngày 7/12/2020, tại phiên họp toàn thể ở New York (Hoa Kỳ), Đại hội
đồng Liên hợp quốc khóa 75 đã thông qua bằng đồng thuận Nghị quyết do Việt
Nam chủ trì đề xuất, thương lượng và thúc đẩy thông qua, lấy ngày 27/12 hàng
năm là "Ngày Quốc tế sẵn sàng chống dịch bệnh". Đề xuất của Việt Nam đã được
5 nước tham gia đồng tác giả (Canada, Niger, Saint Vincent & Grenadines,
Senegal, Tây Ban Nha) và 107 nước đồng bảo trợ.

Theo Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Hoài Trung, việc Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua Nghị quyết này có ý nghĩa rất quan trọng khi đây là lần đầu tiên Việt
Nam chủ trì đề xuất thương lượng và thúc đẩy thông qua thành công một nghị
quyết tại Đại hội đồng Liên hợp quốc, thể hiện vai trò, vị thế của Việt Nam trong
việc tham gia có trách nhiệm vào công việc chung của Liên hợp quốc và thúc đẩy
các vấn đề mà cộng đồng quốc tế quan tâm.

Đây cũng là Nghị quyết đầu tiên của Đại hội đồng về chủ đề này trong bối cảnh đại
dịch COVID-19 đang tiếp tục diễn biến phức tạp, tác động sâu rộng tới mọi mặt
của đời sống chính trị-an ninh, kinh tế-xã hội của tất cả các quốc gia, đồng thời sẽ
góp phần nâng cao nhận thức của tất cả các quốc gia, người dân và cộng đồng quốc
tế cũng như tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng chống, ứng phó với các loại
dịch bệnh, trong đó có đại dịch COVID-19.

Thứ ba, nâng cao sức kháng chịu, thích ứng của nền kinh tế

Đại dịch COVID-19 với tốc độ lây lan rất nhanh, diễn biến khó lường và mức độ
nguy hiểm chưa từng có trong lịch sử đã tác động mạnh mẽ, toàn diện và sâu rộng
đến mọi mặt của đời sống kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Ví dụ rõ ràng
nhất là sụt giảm đột ngột tăng trưởng GDP của Việt Nam từ 7% năm 2019, xuống
còn ước đạt trên 2%.

Trong bối cảnh đó, ngoại giao Việt Nam xác định thực hiện "mục tiêu kép" vừa
quyết liệt phòng, chống dịch bệnh, vừa duy trì và phát triển các hoạt động ngoại
giao nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, nhất là ngoại giao kinh tế, trọng tâm là phối
hợp chính sách và biện pháp để kích thích tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu
tư, ổn định thị trường tài chính và khôi phục niềm tin của doanh nghiệp và người
dân.

"Mặc dù dịch COVID-19 bùng phát, diễn biến phức tạp ở nhiều nước trên thế giới
và khu vực, nhưng với việc thực hiện quyết liệt các biện pháp hiệu quả trong
phòng, chống dịch, đến nay Việt Nam cơ bản đã kiểm soát và đẩy lùi dịch bệnh.
Đây là một cơ sở rất quan trọng để củng cố niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp,
nhà đầu tư trong và ngoài nước đối với Việt Nam", Người Phát ngôn Bộ Ngoại
giao Lê Thị Thu Hằng cho biết trong cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao,
tháng 5/2020.

Bên cạnh phòng chống dịch hiệu quả, Chính phủ nhất quán chủ trương đẩy mạnh
phát triển kinh tế-xã hội để củng cố nền tảng, nâng cao sức kháng chịu và thích
ứng của nền kinh tế.

Với chủ trương này, Việt Nam đã và đang triển khai đồng bộ nhiều chính sách,
biện pháp, phối hợp quốc tế nhằm phục hồi kinh tế trong và sau khủng hoảng
COVID-19 như: bảo đảm duy trì chuỗi cung ứng, giao thương hàng hóa, dịch vụ
trong nước cũng như giữa Việt Nam với bên ngoài; tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh, cắt giảm thủ tục, chi phí cho doanh nghiệp, phát triển cơ
sở hạ tầng, logistics…; tích cực triển khai các hiệp định thương mại tự do (FTA)
với các đối tác; hỗ trợ các doanh nghiệp, nhà đầu tư tháo gỡ khó khăn do dịch
COVID-19 gây ra để tiếp tục triển khai các dự án đầu tư tại Việt Nam, trong đó tạo
điều kiện cho chuyên gia, lao động trình độ cao vào Việt Nam làm việc nhưng vẫn
bảo đảm phòng chống dịch.

Trên cương vị Chủ tịch ASEAN 2020, Việt Nam đã cùng các nước thành viên nhất
trí nhiều sáng kiến và hợp tác ứng phó COVID-19 như: Quỹ ASEAN ứng phó
COVID-19; kho dự phòng vật tư y tế khẩn cấp khu vực; khung chiến lược ứng phó
các tình huống y tế khẩn cấp của ASEAN và trung tâm y tế ASEAN ứng phó với
các tình huống y tế công cộng khẩn cấp và dịch bệnh mới nổi; Khung phục hồi
tổng thể ASEAN và Kế hoạch triển khai đồng bộ trên cả 3 trụ cột của Cộng đồng
nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp sớm khắc phục hậu quả dịch bệnh, ổn định
đời sống.

Bên cạnh đó, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 37 và các hội nghị cấp cao liên
quan, Lễ ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) giữa 15 nền
kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, góp phần hỗ trợ quá trình phục hồi kinh tế sau
đại dịch COVID-19 và đem lại thịnh vượng chung cho người dân, doanh nghiệp
của tất cả các nước thành viên.

Với những nỗ lực và thành quả đã đạt được trên mặt trận ngoại giao, hợp tác quốc
tế phòng, chống đại dịch COVID-19, Việt Nam tin tưởng, trước thách thức nghiêm
trọng nhất kể từ khi thành lập Liên hợp quốc, cộng đồng quốc tế sẽ phát huy ý chí
và sức mạnh của mỗi dân tộc, cũng như tinh thần đoàn kết, hợp tác quốc tế mạnh
mẽ để cùng nhau vượt qua đại dịch COVID-19 và xây dựng một tương lai tốt đẹp
hơn cho mỗi quốc gia và mọi người dân.

4. Lan tỏa tinh thần đoàn kết, tham gia thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, cứu nạn
sau vụ động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ.

Những ngày qua, thông tin về việc Việt Nam cử lực lượng tham gia thực hiện
nhiệm vụ tìm kiếm, cứu nạn trong vụ động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ đã thu hút sự quan
tâm đặc biệt của dư luận. Cụ thể, Việt Nam đã cử 24 cán bộ, chiến sĩ của Bộ Công
an và 76 cán bộ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp của Bộ Quốc phòng đến Thổ
Nhĩ Kỳ để thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, cứu nạn. Đây không phải là lần đầu chúng
ta cử lực lượng tham gia thực hiện các nhiệm vụ quốc tế, song lại là lần đầu tiên
Việt Nam triển khai lực lượng tham gia hoạt động tìm kiếm, cứu nạn đối với thảm
họa thiên tai xảy ra tại một quốc gia ở xa lãnh thổ Việt Nam, phối hợp cùng nhiều
quốc gia khác trên thế giới trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Theo đồng chí Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ
trưởng Bộ Quốc phòng, việc cử lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam tham gia
hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa tại Thổ Nhĩ Kỳ thể hiện chính sách đối ngoại ưu
việt, trách nhiệm cao trước cộng đồng quốc tế của Đảng, Nhà nước, Nhân dân Việt
Nam; đồng thời, khẳng định uy tín, tinh thần trách nhiệm và năng lực của Quân đội
Nhân dân Việt Nam trong hội nhập, quan hệ, hợp tác quốc tế.
Thực tế, quá trình tham gia thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm, cứu nạn sau vụ động đất
tại Thổ Nhĩ Kỳ của lực lượng Công an, Quân đội nước ta đã và sẽ gặp phải không
ít khó khăn, nhất là áp lực “chạy đua” với thời gian để cứu các nạn nhân còn sống
sót và nguy cơ dịch bệnh bùng phát sau động đất. Bên cạnh đó là những trở ngại
liên quan đến điều kiện thời tiết rất khắc nghiệt so, nhất là về đêm do nhiệt độ
xuống tới - 6 đến - 7 độ C, trong khi các cán bộ, chiến sỹ phải ngủ trong lán trại
dựng ngoài trời. Bất đồng ngôn ngữ cũng là một yếu tố gây khó khăn cho việc hiểu
và thống nhất những phương án đưa ra của các lực lượng phối hợp với nhau.

Song với quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ, ngay trong những ngày đầu tiên các
lực lượng tìm kiếm, cứu nạn của Việt Nam đã được phía Thổ Nhĩ Kỳ cũng như các
đoàn quốc tế tham gia công tác cứu nạn cứu hộ đánh giá rất cao sự nhiệt tình và
tính chuyên nghiệp. Các lực lượng tìm kiếm, cứu nạn của chúng ta đã sử dụng hiệu
quả những thiết bị chuyên dụng, hiện đại để thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm cứu nạn;
đặc biệt là sự chuyên nghiệp trong sử dụng các thiết bị banh, cắt thủy lực, tìm kiếm
bằng camera hình ảnh và âm thanh, sử dụng các thiết bị liên quan đến kích, nâng
và tách những khối bê tông để phục vụ cho việc cứu nạn cứu hộ.

Có thể thấy, với tinh thần trách nhiệm, với vai trò đại diện cho đất nước và nhân
dân Việt Nam, tin tưởng những cán bộ, chiến sĩ của Bộ Công an và cán bộ sĩ quan,
quân nhân chuyên nghiệp của Quân đội nhân dân Việt Nam đã nêu cao tinh thần tự
giác, ý thức tổ chức kỷ luật, đoàn kết, chủ động khắc phục khó khăn, sẵn sàng triển
khai và thực hiện tốt nhiệm vụ tìm kiếm, cứu nạn ngay trong những giờ đầu, ngày
đầu có mặt tại nước bạn. Những nghĩa cử cao đẹp đó đã tạo ấn tượng tốt đẹp với
bạn bè quốc tế và chính quyền, nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ; đồng thời, lan tỏa mạnh mẽ
tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.

PHẦN KẾT LUẬN

Trong bối cảnh thế giới, khu vực và đất nước có nhiều biến đổi, cơ hội và thách
thức đan xen lẫn nhau, những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc
tế vẫn còn nguyên tính thời sự, tính khoa học và thực tiễn; là sự đúc kết, trải
nghiệm từ chính cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Tư tưởng đoàn kết của
Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong cả tư duy lý luận và hoạt động thực
tiễn; không chỉ trong nội bộ Đảng, trong bộ máy chính quyền, trong phạm vi một
dân tộc, mà còn được thể hiện trên bình diện rộng lớn hơn, đó là đoàn kết quốc tế.
Gần 60 năm hoạt động cách mạng, trong đó 30 năm hoạt động ở nước ngoài, liên
tục tham gia phong trào cách mạng và đóng góp cho sự nghiệp chung của cách
mạng thế giới, thông điệp về tình hữu nghị, đoàn kết quốc tế luôn được Chủ tịch
Hồ Chí Minh thể hiện một cách rõ ràng và vững chắc. Đảng Cộng Sản, nhân dân
Việt Nam luôn phát huy cao nhất tinh thần đoàn kết quốc tế cao cả của chủ tịch Hồ
Chí Minh để Người không còn day dứt trước lúc đi xa: “...tôi càng tự hào với sự
lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau
lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các Đảng anh em” và cũng thực hiện sự
mong muốn của Người là: “Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc
khôi phục lại đoàn kết giữa các Đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin
và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”. Hơn lúc nào hết, thưc tiễn đất nước
đòi hỏi chúng ta phải ghi nhớ và thực hành lời chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
“Không đoàn kết thì suy và mất. Có đoàn kết thì thịnh và còn. Chúng ta phải lấy
đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà”. Đặc biệt,
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, chúng ta càng
phải đề cao tinh thần đoàn kết quốc tế để cùng nhau phát triển đất nước văn minh,
đưa Việt Nam đến hành trình sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới.

TLTK
https://baodantoc.vn/viet-nam-doan-ket-voi-quoc-te-ung-pho-voi-dai-dich-
covid-19-1608271597358.htm

https://binhdinh.dcs.vn/chinh-tri/-/view-content/178260/tiep-tuc-day-manh-
cong-tac-tuyen-truyen-chu-truong-duong-loi-cua-dang-ve-van-de-dan-toc

https://truongleduan.quangtri.gov.vn/vi/hoat-dong-khoa-hoc/bao-ve-nen-tang-
tu-tuong-cua-dang/nhan-dien-nhung-am-muu-thu-doan-cua-cac-the-luc-thu-
dich-nham-chong-pha-nen-tang-tu-tuong-cua-dang-ta-hien-nay-324.html

http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-te/item/4482-canh-tranh-chien-
luoc-nuoc-lon-va-doi-sach-cua-viet-nam.html

https://nld.com.vn/bien-dao/trung-quoc-lam-phuc-tap-tinh-hinh-bien-dong-
20230218200213241.htm

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-
ngoai1/-/2018/817160/tac-dong-cua-bien-doi-khi-hau-den-hoa-binh%2C-an-
ninh-quoc-te-hien-nay-va-de-xuat-doi-voi-viet-nam.aspx

https://tuyenquang.dcs.vn/DetailView/104274/37/Quan-diem-ve-doan-ket-
quoc-te-trong-tac-pham-%E2%80%9CDuong-Cach-menh%E2%80%9D-va-
su-van-dung-cua-Dang-ta-trong-thoi-ky-doi-moi.html

You might also like