Professional Documents
Culture Documents
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP 2024
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP 2024
Để hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp này ngoài sự nỗ lực của bản
thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ của các cá nhân, đơn vị,
đoàn thể. Đến nay đề tài đã hoàn thành, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới
các thầy cô giáo khoa Chăn nuôi Thú y đã tận tình giảng dạy, chỉ bảo cho tôi
trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới sự giúp đỡ trực tiếp của
ThS. Nguyễn Quốc Hiếu, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp.
Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến anh Đinh Trung Can - trưởng
trại heo Ea Súp, cùng tập thể các anh chị kỹ thuật, công nhân của trại và toàn
thể cán bộ công nhân viên Công ty Cổ phần C.P Việt Nam đã tạo điều kiện tốt
nhất và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian tôi thực tập tại trại.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã động viên giúp
đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề tài và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp. Tôi
xin chân thành cảm ơn!
Đắk Lắk, ngày 03 tháng 7 năm 2024
Sinh viên
Hiêng Thị Bi
MỤC LỤC
1
chế gây bệnh, tác động qua lại của các nguyên nhân, đặc điểm hệ tiêu hóa của
gia súc… mà việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu cũng bị ảnh hưởng. Vì
thế, hội chứng tiêu chảy ở heo cai sữa vẫn là nguyên nhân gây thiệt hại lớn
cho các cở sở chăn nuôi heo.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế trên, để giải quyết phần nào của thực tế sản
xuất, tôi thực hiện đề tài: “Khảo sát quy trình chăn nuôi và hội chứng tiêu
chảy trên heo cai sữa tại trại Ea Súp (Cty CP Chăn nuôi C.P.V.N), xã Ya
Tơ Mốt - huyện Ea Súp - tỉnh Đắk Lắk”
1.2. Mục tiêu của đề tài
- Khảo sát tình hình chăn nuôi heo cai sữa tại trại.
- Khảo sát triệu chứng lâm sàng và bệnh tích trên heo cai sữa tại trại.
- Theo dõi và ghi nhận tỉ lệ mắc Hội chứng tiêu chảy trên heo cai sữa tại trại.
- Đánh giá hiệu quả phòng và điều trị bệnh tiêu chảy tại trang trại.
- Đề xuất biện pháp phòng và điều trị bệnh hiệu quả.
2
PHẦN II
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
3
Các nghiên cứu bệnh lý tiêu chảy ở gia súc cho thấy biểu hiện bệnh lý
chủ yếu là tình trạng mất nước và chất điện giải, cuối cùng con vật trúng độc,
kiệt sức chết. Vì lẽ đó,trong điều trị tiêu chảy việc bổ sung nước và các chất
điện giải là yếu tố cần thiết.
Theo Nguyễn Lương (1963), Trịnh Văn Thịnh (1985), Lê Minh Chí
(1995), lợn bị tiêu chảy thường mất nước, mất chất điện giải và kiệt sức.
Những lợn con khỏi bệnh thường chịu hậu quả còi cọc, thiếu máu, chậm lớn
dẫn đến tỷ lệ nuôi sống thấp và tỷ lệ chết cao. Đó là nguyên nhân làm cho
hiệu quả chăn nuôi không cao.
Do điều kiện khí hậu thời tiết thay đổi phức tạp, bệnh tiêu chảy xảy ra
quanh năm ở nước ta, đặc biệt khi thời tiết thay đổi đột ngột, lạnh, độ ẩm
không khí cao.
Theo Đoàn Băng Tâm (1987), Sử An Ninh (1993), Lê Văn Tạo và cộng
sự (1993), Phan Thanh Phượng và cộng sự (1995), ở nước ta bệnh tiêu chảy
xảy ra quanh năm, đặc biệt là vào vụ đông xuân, khi thời tiết thay đổi đột ngột
và vào những giai đoạn chuyển mùa trong năm.
Kết quả nghiên cứu của Hoàng Văn Tuấn, Lê Văn Tạo, Trần Thị Hạnh
(1998), cho thấy bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi, sơ sinh, cai sữa và cả lợn sinh
sản, nhưng trầm trọng nhất là ở lợn sơ sinh đến cai sữa.
2.2. Đặc điểm sinh lý của heo sau cai sữa
2.2.1. Đặc điểm thần kinh và cơ quan điều nhiệt
Heo con sau cai sữa thông thường sẽ trải qua những thay đổi về dinh
dưỡng, tâm lý và môi trường liên quan đến hoạt động sản xuất bao gồm thay
đổi chế độ ăn, tách khỏi heo mẹ, ghép lẫn heo con không cùng lứa hay thay
đổi nhiệt độ và các thông số không khí. Tâm lý chung của lợn con sống độc
lập thường xảy hiện tượng nhớ mẹ, nhớ đàn và có thể cắn xé lẫn nhau để
tranh giành thứ bậc trong đàn. Những thách thức đột ngột, đồng thời này là
yếu tố gây căng thẳng không chỉ làm giảm lượng thức ăn vào tự nguyện và
tốc độ tăng trưởng sau khi cai sữa mà còn có thể có những tác động bất lợi
đáng kể đến cấu trúc và chức năng đường tiêu hóa.
4
Thân nhiệt của lợn con cai sữa khoảng 39,5 – 39,7 0 C. trong giai đoạn
cai sữa, nhiệt độ của heo con phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường có thể biến
động trên dưới 10 C. Độ ẩm cũng là một yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới khả
năng điều hòa thân nhiệt. Nếu độ ẩm cao thì lợn con dễ bị mất nhiệt và có thể
bị cảm lạnh. Độ ẩm thích hợp cho lợn con ở nước ta là 65 – 70% ( Theo
Tomer là 69,8%). Các kết quả nghiên cứu trong nước và ngoài nước cho thấy
rằng , khả năng chịu đựng và sự thích nghi của lợn con đối với môi trường
bên ngoài còn thấp, làm cho khả năng sinh trưởng phát triển của lợn con bị
hạn chế và có thể dễ nhiễm bệnh dẫn đến tỷ lệ sống thấp.
2.2.2. Đặc điểm về sự phát triển của cơ quan tiêu hóa heo con
Bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh nhưng chưa hoàn thiện về
chức năng.
Trong thời gian bú sữa khối lượng bộ máy tiêu hóa lợn con tăng lên từ 5 đến
10 lần, chiều dài ruột non tăng lên gấp 5 lần, dung tích bộ máy tiêu hóa tăng lên
40 - 50 lần, chiều dài ruột già tăng lên 40 - 50 lần. Tuyến tụy ở 30 ngày tuổi tăng
lên gấp 4 lần, khối lượng của gan gấp 3 lần so với khi sơ sinh. Lúc đầu, dạ dày chỉ
nặng 6 - 8 g và chứa được 35 - 50 g sữa, nhưng chỉ sau 3 tuần đã tăng gấp 4 lần và
60 ngày tuổi đã nặng 150 g và chứa được 700 - 1.000 g sữa.
Bảng 2.1. Sự phát triển cơ quan tiêu hóa ở lợn con
Dung Dạ dày
Trọng Ruột non Ruột già
Tuổi tích dạ ruột non
lượng
(ngày) dày
(kg) m L m l m l
(ml)
1 1 25 3,8 0,1 0,8 0,04 4,6 0,2
2 10 73 5,6 0,2 1,2 0,09 6,8 0,4
3 20 213 7,3 0,7 1,2 0,10 8,6 0,4
18 70 1.815 16,5 6,0 3,1 2,1 19,6 10,0
32 115 2.500 18,6 10,7 4,3 6,6 22,4 19,8
69 108 3.170 18,8 13,3 5,4 11,7 24,3 28,9
103 225 3.400 18,7 14,1 5,0 10,1 23,8 27,6
152 280 3.550 23,7 20,6 6,8 15,7 36,6 39,9
Ghi chú: m= mét (dài), l= lít ( dung tích)
Nguồn: Braude, 1970
5
Khả năng tiêu hóa của lợn con rất hạn chế. Theo A.V. Kavasnhixki, dịch
vị của lợn con dưới một tháng tuổi hoàn toàn không có axit HCl ở dạng tự do,
vì lượng axit này tiết ra ít và nó nhanh chóng liên kết với các niêm dịch.
Ngoài sự thiếu HCl tự do còn có sự giảm axit trong dịch vị thức ăn liền với
HCl làm cho hàm lượng HCl tự do rất ít hoặc hoàn toàn không có trong dạ
dày của lợn con bú sữa. Vì thiếu HCl tự do trong dạ dày nên hệ vi sinh vật dễ
lên men gây nên hiện tượng ỉa chảy ở lợn con. Theo E.M. Fed (1983) pH
trong dạ dày lợn con thay đổi theo tuổi:
7 ngày tuổi : 2,8
10 ngày tuổi : 2,8 - 3,1
19 ngày tuổi : 2,4 - 2,7
45 ngày tuổi : 1,0 - 1,8
Cũng theo tác giả này thì khả năng tiêu hóa protein của lợn con tùy thuộc
vào lượng axit tự do ở trong dạ dày và sau 3 tuần tuổi thì lợn con có khả năng
này. Tuyến tụy bắt đầu hoạt động trong thời kỳ bào thai và bào thai càng lớn
hoạt động tuyến tụy càng tăng lên, dịch tụy cũng được phân tiết tăng lên theo
tuổi. Theo A.D. Xinhexcop, thì tuyến tụy được phân tiết tăng lên như sau:
20 - 30 ngày tiết : 50 - 350 ml
40 ngày tiết : 460 ml
> 3 tháng : > 3,5 lít
7 tháng : 10 lít
Cũng theo A.D. Xinhexcop thì lợn có tỷ lệ nạc cao trong thân thịt có
lượng enzym tiêu hóa protein càng cao lợn thấp nạc. Ông đã có thí nghiệm
trên 2 nhómlợn trắng và đen thì thấy lợn đen có các Lipaz và amilaz cao hơn
ở lợn trắng, trái lại lợn trắng có men tripxin cao hơn ở lợn đen. Trong dịch tụy
của lợn lớn có tới 15 men để tiêu hóa các chất song ở lợn con chỉ có 2 men là
kimozin và lipaza và sau một tuần tuổi lợn con có thêm một số men như
tripxin và amilaza, hoạt tính của các men cũng tăng dần theo tuổi, từ 1 - 28
ngày men Tripxin tăng gấp 20 lần, amilaza gấp 30 lần, các men như
kimotipxin, prpteinaza, amilaza, elastaza, carbuaxipolypeptidaza cũng tăng
dần theo tuổi của lợn con. Hàm lượng vật chất khô ở trong dịch tụy cũng tăng
6
dần lên theo tuổi của lợn con. Dịch ruột do 2 tuyến bruner và liberkun tiết ra
chứa đầy đủ các men tiêu hóa nhưng ở lợn con chưa có men lactoza, các men
tiêu hóa khác có hàm lượng rất thấp không đủ khả năng để tiêu hóa các thức
ăn nhân tạo. Dịch mật của lợn con trong các tuần tuổi đầu còn hạn chế, khả
năng nhũ tương hóa mỡ của lợn con cha có. Khả năng tiêu hóa các chất dinh
dưỡng của lợn con: Lợn con trong 3 tuần tuổi đầu chỉ có khả năng tiêu hóa
cazein, các đường, lipid của sữa, còn các chất khác từ các thức ăn nhân tạo thì
chưa có. Kết quả theo dõi của Pekas về khả năng tiêu hóa protein có nguồn
gốc từ các loại thức ăn nhân tạo của lợn con như sau (g/ngày):
Tuần tuổi Protein khô dầu lạc Bột sữa khử bơ
4 71 90
8 88 96
Khả năng tiêu hóa các chất tinh bột của lợn con được thể hiện qua hàm
lượng men như sau (Canninglam, 1959):
Tuổi lợn con Glucoza Maltoza Amidonaza
Sơ sinh 78 86 33
15 ngày 97 84 64
25 98 89 76
Qua nghiên cứu, chúng ta thấy khả năng tiêu hóa của lợn con ngày
càng tăng rõ rệt. Khi có khả năng hoạt động của các men trong dịch tụy mà
điều quyết định là HCl tự do hoặc hóa men pepsinogen để tiêu hóa protit.
Để nuôi lợn con thành công trong giai đoạn này là cần thiết phải cho lợn
con ăn những thức ăn dễ tiêu hóa và chia thành nhiều bữa trong ngày.
Từ chỗ lợn con sống nhờ hoàn toàn vào sữa lợn mẹ và các thức ăn bổ
sung thêm. Lúc cai sữa, lợn con phải tự độc lập sống và lấy thức ăn hoàn toàn
từ bên ngoài để đảm bảo cho nhu cầu sinh trưởng và phát triển của chúng. Do
vậy, trong giai đoạn ban đầu này lợn con thường dễ bị khủng hoảng về môi
trường sống mới hay bị các chứng rối loạn do thức ăn hoặc tiêu hóa thức ăn
không tốt.
7
2.2.3. Hệ miễn dịch ở heo con
Khả năng miễn dịch của lợn con trong giai đoạn này cũng có những biến
đổi đặc biệt. Lợn con sau cai sữa có hàm lượng ℽ- globulin giảm xuống đến 5
tháng nó tăng lên, trong 100 ml máu có 65 mg globulin. Do vậy, sức đề kháng
của lợn con cai sữa còn kém, nhạy cảm với các yếu tố của môi trường xung
quanh làm lợn con dễ bị nhiễm bệnh tật, đặc biệt là các bệnh về đường tiêu
hóa. Ngoài ra, stress ở thời điểm này còn khiến heo bị suy giảm miễn dịch, và
là nguy cơ dẫn đến các bệnh lý hô hấp ở heo sau cai sữa.
2.3. Hội chứng tiêu chảy trên heo cai sữa
Lợn là loài gia súc dạ dày đơn, đồng thời lợn là loài ăn tạp. Điều đó có
nghĩa là quá trình tiêu hóa của lợn cần thực đơn cân bằng về chất và lượng,
bởi lẽ khi sự cân bằng mất đi, không những quá trình tiêu hóa bị giảm mà còn
làm giảm quá trình hấp thu. Hậu quả của việc này là dẫn đến sự rối loạn tiêu
hóa và như vậy hội chứng tiêu chảy được thiết lập. Cần nhấn mạnh là hội
chứng tiêu chảy và hiện tượng hấp thu kém vừa là nguyên nhân vừa là hậu
quả của nhau. Mối tương quan này cũng giống như mối tương quan giữa còi
cọc và hấp thu kém. Do vậy, một khi hội chứng tiêu chảy được thiết lập thì tự
bản thân con vật rất khó lập lại trạng thái cân bằng sinh lý bình thường và
việc cữa trị hội chứng tiêu chảy cũng rất khó khăn.
Ở nước ta bệnh xảy ra quanh năm nhưng chủ yếu vào mùa đông xuân,
nhất là sau những trận mưa lớn, những ngày có độ ẩm cao và khi thời tiết thay
đổi đột ngột.
Ở các trại chăn nuôi tập trung bệnh xảy ra rất nhiều, mặc dù đã thực hiện
tốt các khâu về chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng trị bệnh cho heo con, heo mẹ
nhưng bệnh vẫn xảy ra lúc lẻ tẻ, lúc ồ ạt gây thiệt hại kinh tế.
2.3.1. Một số nguyên nhân gây tiêu chảy heo cai sữa
Hội chứng tiêu chảy là một hiện tượng bệnh lý ở đường tiêu hóa, có liên
quan đến nhiều yếu tố, có yếu tố là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố là
nguyên nhân thứ phát. Song cho dù bất cứ nguyên nhân nào đều dẫn đến tiêu
8
chảy thì hậu quả của nó cũng gây ra viêm nhiễm, tổn thương thực thể đường
tiêu hóa. Qua nhiều nghiên cứu cho thấy, hội chứng tiêu chảy ở gia súc xảy ra
do các nguyên nhân sau đây:
a) Nguyên nhân không truyền nhiễm
Do điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng
Vấn đề chăm sóc nuôi dưỡng có vai trò hết sức quan trọng trong chăn
nuôi. Việc thực hiện đúng quy trình kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng trong chăn
nuôi sẽ đem lại sức khỏe và tăng trưởng cho lợn. Khi thức ăn chăn nuôi không
đảm bảo, chuồng trại không hợp lý, kỹ thuật chăm sóc không phù hợp, là
nguyên nhân làm cho sức đề kháng của lợn giảm, tăng nguy cơ mắc bệnh.
Thức ăn bị nhiễm độc tố nấm mốc cũng là nguyên nhân gây bệnh tiêu
chảy. Trong tất cả các loại độc tố nấm mốc thì Aflatoxin là loại độc tố được
quan tâm nhất hiện nay. Hàm lượng Aflatoxin trong các mẫu thức ăn chăn
nuôi ở các tỉnh phía bắc biến động từ 10 đến 2800 µg/1kg thức ăn. Có đến
10% các loại thức ăn hiện dùng là không ăn toàn cho gia súc, gia cầm ( Trần
Thế Thông, Lã Văn Kinh (1996)). Độc tố nấm mốc với hàm lượng cao có thể
gây chết hàng loạt gia súc với biểu hiện nhiễm độc đường tiêu hóa và gây tiêu
chảy dữ dội.
Thức ăn thiếu đạm, tỷ lệ protit và axit amin không cân đối dẫn đến quá
trình hấp thu dinh dưỡng không tốt. Cơ thể lợn thiếu dinh dưỡng, hàm lượng
Albumin huyết thanh giảm và kéo theo hàm lượng Oglobulin huyết thanh
cũng giảm. Hệ quả là khả năng miễn dịch của cơ thể giảm rõ rệt, tạo điều kiện
cho các vi khuẩn gây bệnh.
Nếu khẩu phần ăn thiếu khoáng và vitamin cũng là nguyên nhân làm lợn
con dễ mắc bệnh. Chất khoáng góp phần tạo tế bào, điều hòa thức ăn đạm và
chất béo. Lợn con thiếu khoáng dễ còi xương, cơ thể suy nhược, sức đề kháng
giảm tạo điều kiện cho vi khuẩn đường ruột tăng độc lực và gây bệnh.
Do điều kiện ngoại cảnh
Ngoại cảnh là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sức đề kháng của cơ thể
gia súc. Khi điều kiện thời tiết khí hậu thay đổi đột ngột, quá nóng, quá lạnh,
mưa gió, ẩm độ, vệ sinh chuồng trại, đều là các yếu tố stress có hại, tác động
9
đến tình trạng sức khỏe của lợn, đặc biệt là lợn con theo mẹ.
Ở lợn con theo mẹ, do cấu tạo và chức năng sinh lý của các hệ cơ quan
chưa ổn định, hệ thống tiêu hóa, miễn dịch, khả năng phòng vệ và hệ thống
thần kinh đều chưa hoàn thiện. Vì vậy lợn con là đối tượng chịu tác động của
điều kiện ngoại cảnh mạnh nhất, bởi các phản ứng thích nghi và bảo vệ của cơ
thể còn rất yếu.
b) Nguyên nhân truyền nhiễm
Do vi khuẩn
Trong đường ruột của gia súc nói chung và lợn nói riêng, có rất nhiều
loài vi sinh vật sinh sống. Vi sinh vật trong đường ruột tồn tại dưới dạng một
hệ sinh thái. Hệ sinh thái vi sinh vật đường ruột ở trạng thái cân bằng động
theo hướng có lợi cho cơ thể vật chủ. Hoạt động sinh lý của lợn chỉ diễn ra
bình thường khi mà hệ sinh thái đương ruột luôn ở trạng thái cân bằng. Sự cân
bằng này biểu hiện ở sự ổn định của môi trường đường tiêu hóa của con vật
và quan hệ cân bằng giữa các nhóm vi sinh vật với nhau trong hệ vi sinh vật
đường ruột. Dưới tác động của các yếu tố gây bệnh, trạng thái cân bằng này bị
phá vỡ dẫn đến loạn khuẩn và hậu quả lợn bị tiêu chảy.
Bình thường vi khuẩn E.coli cư trú ở ruột già và phần cuối ruột non,
nhưng khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ nhân lên với số lượng lớn ở lớp sâu tế
bào thành ruột, đi vào máu đến các nội tạng. Trong máu, nhờ cấu trúc kháng
nguyên O và khả năng dung huyết, vi khuẩn chống lại các yếu tố phòng vệ
không đặc hiệu, khả năng thực bào. Ở các cơ quan nội tạng, vi khuẩn này tiếp
tục phát triển và sự cư trú của chúng làm cho con vật rơi vào trạng thái bệnh
lý.
Do virus
Đã có nhiều nghiên cứu chứng tỏ rằng virus cũng là nguyên nhân gây
tiêu chảy ở lợn. Nhiều tác giả đã nghiên cứu và kết luận một số vi rút như
Rota- virus, TGE, Enterovirus, Parvovirus, Adenovirus có vai trò nhất định
gây hội chứng tiêu chảy ở lợn. Sự xuất hiện của virus đã làm tổn thương niêm
mạc đường tiêu hóa, suy giảm sức đề kháng của cơ thể và gây ỉa chảy ở thể
10
cấp tính.
Virus TGE (Transmissible gastroenteritis) được chú ý nhiều trong hội chứng
tiêu chảy ở lợn. TGE gây bệnh viêm dạ dày ruột truyền nhiễm ở lợn, là một bệnh
có tính chất truyền nhiễm cao, biểu hiện đặc trưng là nôn mửa và tiêu chảy
nghiêm trọng. Bệnh thường xảy ra ở các cơ sở chăn nuôi tập trung khi thời tiết rét
lạnh. Virus chỉ gây bệnh cho lợn, lợn con 2 đến 3 ngày tuổi hay mắc nhất và có tỷ
lệ chết cao. Ở lợn, virus nhân lên mạnh nhất trong niêm mạc của không tràng và tá
tràng rồi đến hồi tràng, chúng không sinh sản ở dạ dày và kết tràng.
Rotavirus thường gây tiêu chảy cho lợn, bò và người. Lợn con từ 1 đến 6
tuần tuổi hay mắc với các biểu hiện lâm sàng như kém ăn hay bỏ ăn, tiêu chảy
nhiều lân trong ngày, gầy sút nhanh chóng do mất nước, nằm bẹp một chỗ.
Giai đoạn cuối, con bệnh biểu hiện thiếu máu, trụy tim mạch và chết trong
vòng 2 đến 3 ngày.
Do ký sinh trùng
Ký sinh trùng trong đường tiêu hóa là một trong những nguyên nhân gây
hội chứng tiêu chảy. Khi ký sinh trong đường tiêu hóa ngoài việc chúng cướp
đoạt chất dinh dưỡng của vật chủ, tiết độc tố đầu độc cơ thể vật chủ, chúng
còn gây tác động cơ giới làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa và là cơ
hội khởi đầu cho một quá trình nhiễm trùng. Có rất nhiều loại ký sinh trùng
đường ruột tác động tác động gây ra hội chứng tiêu chảy như sán lá ruột lợn
( Fasciolopis busky), giun đũa lợn ( Ascaris suum)…
2.3.2. Triệu chứng và bệnh tích
a) Triệu chứng
Heo con bị tiêu chảy, phân nhiều nước, có bọt, màu trắng hoặc vàng, có
mùi hôi, tanh khó chịu.
Heo có thể nôn, bụng thóp lại, mắt lõm sâu, da tím tái.
Heo mất nước, lông xù, kém ăn, suy kiệt trầm trọng, có thể chết.
Nhóm E.coli gây phù đầu thường gặp trên heo con sau cai sữa 1-2 tuần
và những con lớn trội trong đàn là những con nhiễm đầu tiên.
Heo giảm ăn, đi đứng xiêu vẹo hay nằm liệt, co giật, hôn mê.
11
Sưng phù ở mí mắt, hầu, họng.
b) Bệnh tích
Xác heo chết gầy, hóp bụng.
Chất chứa trong đường ruột lỏng, có màu vàng.
Ruột non bị viêm Cata kèm theo xuất huyết, mạch máu màng treo ruột
sưng, mềm, đỏ tấy do sung huyết. Niêm mạc ruột non và dạ dày sưng, phủ
một lớp nhầy, có nhiều dạng xuất huyết khác nhau.
Gan bị thoái hóa, màu đất sét, sưng, túi mật căng.
Lách không sưng, bóc lớp vỏ thấy xuất huyết, lách mềm.
Tim to, cơ tim mềm.
2.3.3. Những hiểu biết về biện pháp phòng trị bệnh tiêu chảy
a) Phòng bệnh
Trong chăn nuôi, ngoài giống và thức ăn thì công tác thú y luôn được trú
trọng. Đây là điều kiện không thể thiếu để công tác chăn nuôi luôn bền vững
và hiệu quả. Công tác thú y gồm phòng bệnh và trị bệnh cho vật nuôi, nếu
phòng bệnh tốt thì có thể hạṇ chế hoặc ngăn chặn được bệnh xảy ra. Các biện
pháp phòng bệnh tổng hợp được đưa lên hàng đầu, xoay quanh các yếu tố môi
trường, mầm bệnh, vật chủ. Do vậy, việc phòng bệnh cũng như trị bệnh phải
kết hợp nhiều biện pháp khác nhau.
Phòng bệnh bằng vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt:
Theo Nguyễn Ngọc Phụng 2006, bệnh xuất hiện trong một đàn heo
thường do nguyên nhân phức tạp. Có rất nhiều biện pháp đã được đưa ra áp
dụng nhằm kiểm soát các khả năng xảy ra bệnh tật trên đàn heo. Phần lớn các
biện pháp này đều nhằm làm giảm khả năng lan truyền các tác nhân gây bệnh
và nâng cao sức đề kháng của đàn heo.
Vệ sinh chuồng trại và thiết bị chăn nuôi:
Chuồng trại phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng vật nuôi, thoáng
mát mùa Hè, ấm áp mùa Đông, đảm bảo cách ly với môi trường xung quanh.
Tẩy chuồng trại sau mỗi lứa nuôi bằng phương pháp: Rửa sạch, để khô sau đó
phun sát trùng bằng các loại thuốc sát trùng và để trống chuồng ít nhất 15
12
ngày với vật nuôi thương phẩm, 30 ngày đối với vật nuôi sinh sản. Cần phun
sát trùng 1-2 lần/tuần trong suốt thời gian trống chuồng, ít nhất trong 30 ngày.
Các thiết bị, dụng cụ chăn nuôi cần rửa sạch, phơi khô, sát trùng và đưa vào
kho bảo quản. Vệ sinh và phun sát trùng xung quanh chuồng nuôi.
Phòng bệnh bằng vắc xin:
Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012), vắc xin là một chế
phẩm sinh học mà trong đó chứa chính mầm bệnh cần phòng cho một bệnh
truyền nhiễm nào đó (mầm bệnh này có thể là vi khuẩn, virus, độc tố hay vật
liệu di truyền như ARN, ADN…) đã được làm giảm độc lực hay vô độc bằng
các tác nhân vật lý, hóa học, sinh học hay phương pháp sinh học phân tử (vắc
xin thế hệ mới – vắc xin công nghệ gen). Lúc đó chúng không còn khả năng
gây bệnh cho đối tượng sử dụng, nhưng khi đưa vào cơ thể động vật nó sẽ gây
ra đáp ứng miễm dịch làm cho động vật có miễn dịch chống lại sự xâm nhiễm
gây bệnh của mầm bệnh tương ứng.
Khi đưa vắc xin vào cơ thể vật nuôi, chưa có kháng thể chống bệnh ngay
mà phải sau 7 - 21 ngày (tuỳ theo từng loại vắc xin) mới có miễn dịch.
b) Điều trị
Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012), nguyên tắc để điều
trị bệnh là: Toàn diện, nghĩa là phải phối hợp nhiều biện pháp như hộ lý, dinh
dưỡng, dùng thuốc. Điều trị sớm trên cơ sở chẩn đoán đúng bệnh để dễ lành
bệnh và hạn chế lây lan. Tiêu diệt mầm bệnh phải đi đôi với tăng cường sức
đề kháng của cơ thể, làm cho cơ thể tự nó chống lại mầm bệnh thì bệnh mới
chóng khỏi, ít bị tái phát và biến chứng, miễn dịch mới lâu bền. Phải có quan
điểm khi chữa bệnh, chỉ nên chữa những vật nuôi có thể chữa lành mà không
giảm sức sống và sản phẩm. Nếu chữa kéo dài, tốn kém vượt quá giá trị vật
nuôi thì không nên chữa. Những bệnh rất nguy hiểm lây lan nhanh và lây cho
người mà không có thuốc chữa thì không nên chữa.
Theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2012), các biện pháp chữa
bệnh truyền nhiễm là:
13
Hộ lý: Cho gia súc ốm nghỉ ngơi, nhốt riêng ở chuồng có điều kiện vệ
sinh tốt (thoáng mát, sạch sẽ, yên tĩnh). Theo dõi thân nhiệt, nhịp tim, hô hấp,
phân, nước tiểu. Phát hiện sớm những biến chuyển của bệnh để kịp thời đối
phó. Cho gia súc ăn uống thức ăn tốt và thích hợp với tính chất của bệnh.
Dùng kháng huyết thanh: Chủ yếu dùng chữa bệnh đặc hiệu vì vậy
thường được dùng trong ổ dịch, chữa cho gia súc đã mắc bệnh. Chữa bệnh
bằng kháng huyết thanh là đưa vào cơ thể những kháng thể chuẩn bị sẵn, có
tác dụng trung hòa mầm bệnh hoặc độc tố của chúng (huyết thanh kháng độc
tố).
Dùng hóa dược: Phần lớn hóa dược được dùng để chữa triệu chứng, một
số hóa dược dùng chữa nguyên nhân vì có tác dụng đặc hiệu đến mầm bệnh.
Dùng hóa dược chữa bệnh phải tác động mạnh và sớm, vì nhiều loài vi khuẩn
có thể thích ứng với liều lượng nhỏ. Chúng có thể chống lại thuốc và tính chất
quen thuộc được truyền cho những thế hệ sau. Khi cần, có thể phối hợp nhiều
loại hóa dược để tăng hiệu quả điều trị vì nếu một loại thuốc chưa có tác dụng
đến mầm bệnh thì có loại thuốc khác tác dụng tốt hơn.
Dùng kháng sinh: Kháng sinh là những thuốc đặc hiệu có tác dụng ngăn
cản sự sinh sản của vi khuẩn hoặc tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên sử dụng
kháng sinh có thể gây nhiều tai biến do thuốc có tính độc, do phản ứng dị
ứng, do một lúc tiêu diệt nhiều vi khuẩn làm giải phóng một lượng lớn độc tố,
làm giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể. Việc dùng kháng sinh bừa bãi còn
gây nên hiện tượng kháng thuốc, làm giảm thấp tác dụng chữa bệnh của
kháng sinh. Vì vậy, khi dùng thuốc cần tuân thủ những nguyên tắc sau đây:
+ Phải chẩn đoán đúng bệnh để dùng đúng thuốc, dùng sai thuốc sẽ chữa
không khỏi bệnh mà làm cho việc chẩn đoán bệnh về sau gặp khó khăn.
+ Chọn loại kháng sinh có tác dụng tốt nhất đối với mầm bệnh đã xác
định. Dùng liều cao ngay từ đầu, những lần sau có thể giảm liều lượng.
+ Không nên vội vàng thay đổi kháng sinh mà phải chờ một thời gian để
thuốc phát huy tác dụng.
14
+ Phải dùng phối hợp nhiều loại kháng sinh để làm giảm liều lượng và
độc tính của từng loại, làm mức tác động đến vi khuẩn rộng hơn, tăng tác
dụng điều trị và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng thuốc.
+ Phải tăng cường sức đề kháng của cơ thể gia súc như nuôi dưỡng tốt,
bổ sung thêm vitamin, chuyền nước muối sinh lý…
2.4. Tổng quan khu vực nghiên cứu
2.4.1. Vị trí địa lý
Huyện Ea Súp nằm ở phía tây bắc của tỉnh Đắk Lắk. Huyện lỵ của huyện
là thị trấn Ea Súp, nằm cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 70 km. Huyện
có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Ea H'leo và huyện Cư M'gar
Phía tây giáp Vương quốc Campuchia
Phía nam giáp huyện Buôn Đôn
Phía bắc giáp huyện Chư Prông và huyện Chư Pưh thuộc tỉnh Gia Lai.
2.4.2. Đặc điểm tự nhiên
a) Địa hình
Địa hình khu vực tương đối bằng phẳng tạo nên vùng bán bình nguyên
rộng lớn nằm kẹp giữa hai cao nguyên: Buôn Ma Thuột ở phía Đông, Đắk
Nông - Đắk Min ở phía Nam.
Độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 170-180m và nghiêng dần từ
Đông sang Tây. Độ dốc trung bình từ 0-80.
Địa hình trên địa bàn có các dạng chính sau:
Bắc bán bình nguyên Ea Súp: địa hình bằng phẳng thoải dần về phía Tây
bắc, tạo nên bán bình nguyên rộng, là toàn bộ lưu vực suối Ea Súp và sông Ea
H'Leo.
Nam bán bình nguyên Ea Súp: vùng giáp Buôn Đôn địa hình bằng thoải,
có núi xen kẽ tạo nên những bán bình nguyên hẹp, địa hình thấp dần theo
hướng tây nam.
b) Khí hậu
15
Huyện Ea Súp nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có tiểu vùng
khí hậu cá biệt, chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu nhiệt đới lục địa cao
nguyên, nhiệt độ cao, nắng nóng. Tổng tích ôn vào loại nhất tây nguyên, mỗi
năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô
từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
Lượng mưa trung bình:
Tổng lượng mưa trung bình 1.420 mm/năm. Đây là vùng có lượng mưa
trên năm nhỏ so với các vùng khác trong tỉnh.
Mưa nhiều nhất từ tháng 8 đến tháng 10, lượng mưa tập trung đến 93,5%
lượng mưa cả năm.
Lượng mưa mùa khô không đáng kể và thường bị khô hạn vào cuối mùa,
tháng 1; 2 và 3 hầu như không có mưa.
Độ ẩm: Độ ẩm trung bình năm là 78,7%, độ ẩm trung bình cao nhất là
91,5%, độ ẩm trung bình thấp nhất là 46,4%.
Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm là 240C, nhiệt độ trung bình cao nhất
33,30C, nhiệt độ trung bình thấp nhất 18,20C.
c) Thủy văn, sông suối
Nằm trên khu vực hạ lưu của hệ thống sông Sêrêpốk, Ea Súp có mạng
lưới sông suối với mật độ dày, khoảng 0,4-0,6 km/ km2, nhưng hầu hết chỉ có
nước vào mùa mưa.
Sự chênh lệch lưu lượng nước giữa mùa lũ và mùa cạn khá lớn do lượng
mưa phân bố không đều trong năm, gây nên tình trạng thiếu nước vào mùa
khô nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp trên địa bàn của
huyện.
16
Phần III
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
17
heo cai sữa.
Quan sát toàn đàn sau đó quan sát từng con, thấy heo có biểu hiện tiêu
chảy thì đánh dấu theo dõi để biết ngày tuổi của heo tiêu chảy, số con tiêu
chảy trong ngày và tổng ngày con tiêu chảy trong các ô khảo sát trong từng
đợt của Trại, từ đó tính tỷ lệ heo con tiêu chảy và tỷ lệ ngày con tiêu chảy.
- Tỷ lệ heo tiêu chảy (TLHTC)
TLHTC (%) = (Số con tiêu chảy/ Số con khảo sát)*100
- Tỷ lệ ngày tiêu chảy (TLNTC)
TLNTC (%) = (Tổng số ngày bị tiêu chảy /Tổng số ngày nuôi) *100
3.5.2. Khảo sát triệu chứng lâm sàng và bệnh tích trên heo con
Quan sát, theo dõi và ghi nhận những triệu chứng lâm sàng và bệnh tích
điển hình của bệnh tại trại.
Bảng theo dõi triệu chứng lâm sàng
Số heo Số heo Đợt khảo sát
Triệu chứng lâm sàng theo dõi mắc bệnh Tháng Tháng Tháng Tổng
(con) (con) 3 4 5
Nhiệt độ
Kém ăn hay bỏ
ăn, lông xù
Ủ rũ, đi xiêu
vẹo, nằm liệt
Triệu
Sưng phù mí
chứng
mắt, hầu, họng
toàn thân
Bụng thóp,mắt
lõm sâu
Niêm mạc
nhợt nhạt, da
tím tái
Triệu Phân dính
chứng cục quanh hậu môn
bộ Màu sắc phân
18
tiêu chảy
3.5.3. Mổ khám bệnh tích trên lợn con chết do mắc hội chứng tiêu chảy
a) Kiểm tra bên ngoài
Thể trạng, da, lông, vết thương, các khối u, mụn nước, vết loét, các lỗ tự
nhiên, các khớp, ngoại ký sinh trùng vv...
b) Mổ khám kiểm tra bên trong
Phương pháp mổ khám theo sách hướng dẫn giải phẫu bệnh của TS.
Nguyễn Văn Khanh (trường Đại học Nông lâm TP. HCM, 2007), quy trình
mổ khám heo tiến hành như sau:
Đặt lợn nằm ngửa bụng trên bàn mổ
Dùng dao cắt các cơ trong nách tới khớp xương bả vai, cắt các cơ trong
bẹn tới khớp hông ở cả hai bên chân. Bẻ gập chân sang hai bên cho lợn nằm
ngửa trên bàn.
Dùng dao cắt lớp da và cơ từ cằm kéo dài tới cửa vào lồng ngực, cắt tiếp
lớp sụn xương ức ở hai bên lật xương ức, kéo dài tới cơ hai bên thành bụng để
bộc lộ toàn bộ các tổ chức vùng cổ, xoang ngực, xoang bụng.
Quan sát những biến đổi bên ngoài các tổ chức về màu sắc, kích thước,
hình dáng .v.v...
Kiểm tra màng, dịch xoang bao tim, mở kiểm tra cơ, van, chân cầu bên
trong tim, kiểm tra thực quản.
Lấy gan, mật, lá lách ra để kiểm tra về màu sắc, kích thước, độ cứng
mềm, ký sinh trùng .v.v...
Kiểm tra tuyến tuỵ.
Cắt đứt da, cơ dọc theo khớp bán động háng, dùng mũi dao tách rời khớp
bán động háng, bộc lộ xoang chậu.
Loại bỏ màng treo ruột, kéo dạ dày, ruột non, ruột già tới tận hậu môn để
ra ngoài kiểm tra sau cùng, tránh nhiễm bẩn dụng cụ và các tổ chức khác.
Kiểm tra hệ thống hạch trong cơ thể.
Rạch kiểm tra hệ thống tiêu hoá theo thứ tự từ dạ dày tới hậu môn đặc
biệt chú ý tới vùng van hồi manh tràng về các chất chứa, dịch, màu sắc, điểm
19
hoại tử, xuất huyết .v.v....
3.5.4. Ghi nhận thời gian và kết quả điều trị
Thời gian và kết quả điều trị được tính từ khi cấp thuốc đến khi dứt tiêu
chảy không còn cấp thuốc nữa, heo con đi phân lại bình thường, phân dần
chuyển thành đặc rồi thành khuôn, heo con hoạt bát và tăng trọng bình thường
trở lại.
- Tỷ lệ chữa khỏi (TLCK)
TLCK (%) = (Số con chữa khỏi/ Tổng số con điều trị)*100
- Tỷ lệ tái phát (TLTP)
TLTP (%) = (Số con tái phát/ Tổng số con điều trị khỏi)*100
- Tỷ lệ chết do tiêu chảy (TLCDTC)
TLCDTC (%) = (Số con chết do tiêu chảy/ Tổng số con khảo sát)*100.
- Tỷ lệ chết do nguyên nhân khác (TLCDNNK)
TLCDNNK (%) = (Số con chết do nguyên nhân khác/ Tổng số con khảo
sát)*100
20
PHẦN IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
21
chuồng, có dàn làm mát bằng nước, hệ thống quạt thông gió để duy trì nhiệt
độ thích hợp từ 26 - 28oC ( đối với heo con sau cai sữa nhiệt độ thích hợp 30-
31oC).
- Khu nhập heo: có lối dẫn riêng biệt, heo con được nhập vào, trước khi
nhập heo tiến hành vệ sinh sạch sẽ, phun sát trùng, rải vôi. Trước khi nhập
heo, ng-ười tham gia nhập phải tắm rửa sạch sẽ và thay đồ dùng để nhập heo,
sau khi xong thay lại đồ công nhân và xuống chuồng làm bình thường.
- Khu xuất heo: có lối dẫn riêng biệt, heo con được xuất đi, sau khi xuất
heo tiến hành vệ sinh sạch sẽ, sát trùng, rải vôi. Khi đi vào khu xuất heo thì
không được quay lại các khu nuôi heo.
4.2 Tình hình chăn nuôi tại trại heo Ea Súp
4.2.1. Tổng đàn heo qua các năm
Theo số liệu lưu trữ tại trại Ea Súp, chúng tôi đã tổng hợp được số lượng
đàn heo của trại từ 2022-03/2024 như sau:
Bảng 4.1. Tổng đàn heo qua các năm tại trại
Loại heo 11/2022 06/2023 03/2024 Tổng
Năm (con) (con) (con) (con)
Heo con sau cai 27.000 28.200 4800 60.000
sữa
Tỷ lệ (%) 45 47 8 100
23
nhất, đánh giá thông qua tổng thể đàn heo, tuần tuổi ghi trên phiếu cân, số bấm
trên tai heo ngoài ra còn nhìn qua màu sắc lông heo, phân heo đi màu gì.
Quy trình chăm sóc nuôi dưỡng heo con cai sữa
Nắm được đặc tính sinh học của heo con, có thân nhiệt 39 oc, tần số hô
hấp lần/phút: 8-18, nhịp tim lần/phút: 60-90, nhu cầu nước uống:1.5-6
L/con/ngày từ đó đưa ra cách chăm sóc và điều trị bệnh phù hợp với từng lứa
tuổi.
Chọn công nhân chăm sóc heo cai sữa, ưu tiên chọn những người có
kinh nghiệp, siêng năng, chịu khó, có tinh thần trách nhiệm cao trong công
việc.
Ép heo 15 phút tập cho heo đi vệ sinh, đối với chuồng sàn tưới nước sát
mép tường.
Bảng 4.2. Tiêu chuẩn núm uống
Số lượng núm
Nhu cầu Tốc độ Độ cao
uống
Stt Loại heo nước dòng chảy núm
Chuồng Chuồng
( L/ngày) ( L/phút) (cm)
đan sàn
1 Mới cai sữa 1-1.5 0.3 25-35 80 84
2 20 kg 1.5 - 2 0.5 – 1 35 – 45 80 84
3 20 – 40 kg 5–6 1 – 1.5 50 – 60 80 84
4 40 – 100 kg 5–6 2 60 – 75
24
cám 3 nước ( nếu thể trạng heo tốt và không bị tiêu chảy có thể cho heo ăn từ
tuần đầu tiên), tuần 2 pha thêm cám 550PF vào cho heo pha với nước ấm
khoảng 45oc, ngâm khoảng 5 phút quấy đều cho heo ăn khoảng 10 – 15
lần/ngày.
Máng cao su bỏ vào các ô chuồng để tập heo ăn cám cháo và trộn cám
khô trộn hai cám 550PF với cám 550sf theo tỉ lệ 1:2 trộn với thuốc amoxillin
hoặc thuốc tiêu chảy halquinol.
Lọc heo yếu gầy còi sang một ô tiến hành chăm sóc đặt biệt, bón cám
cho ăn, cho uống thuốc theo bệnh, phát đồ điều trị từng con cho đến khi khỏe.
Không để heo thiếu cám ăn, máng cám phù hợp, tiến hành trộn cám khi
đổi loại cám, trộn cám cho heo dần thích nghi với cám mới.Trộn 6 ngày, 2
ngày đầu 25% - 75%, 2 ngày kế 50% - 50%, 2 ngày cuối 75% - 25%.
Tạo tiểu khí hậu chuồng nuôi, dựa vào tổng thể đàn heo phân bố, heo
nằm chồng lên nhau (heo bị lạnh), heo nằm rời rạc tập trung ở máng nước
nhiều ( heo nóng), heo 70% đứng chơi ( heo sức khỏe tốt), quan sát heo ăn
như thế nào, hoạt động có linh hoạt hay không heo có ho có tiêu chảy không.
Hệ thống lưu thông không khí trong chuồng, không khí trong sạch đi vào
chuồng, có sự pha trộn giữa không khí và hơi nóng trong chuồng, phần hơi
nóng lớn hơn, độ ấm amoniac (NH3), bị xử lý đẩy ra ngoài.
Kiểm tra nhiệt độ trong chuồng nuôi và điều chỉnh quạt, dàn mát cho phù
hợp.
Xử lý heo ỉa bậy, quét sạch chỗ heo ỉa bậy, rãi vôi mỏng, chuồng khô
sạch, không để vôi bột tồn đọng lại nền chuồng làm cho heo có thể bị bỏng.
Đối với heo ô bệnh và ô cuối cần định kỳ vệ sinh ô, nền chuồng để giảm mầm
bệnh và tạo môi trường thông thoáng cho heo phát triển tốt.
4.2.3. Quy trình vaccin tại trại
Với phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh, việc tiêm phòng vaccine
cho đàn heo là biện pháp tích cực và bắt buộc. Tiêm vaccine giúp cho cơ thể
có khả năng miễn dịch chủ động, chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn, virus.
Việc tiêm phòng vaccine phải được thực hiện nghiêm túc theo đúng lịch quy
25
định nhằm hạn chế dịch bệnh xảy ra, giảm thiệt hại về kinh tế. Ở các giai
đoạn khác nhau trại sử dụng các loại vaccine khác nhau để tiêm phòng cho
heo.
Bảo quản vaccine
Yêu cầu tủ vaccine có sổ theo dõi nhiệt độ (2-8 oC), không để thức ăn ,
nước uống trong tủ.
26
Bảng 4.3. Chương trình vaccine cho các trại heo hậu bị và thịt Swine
Tuần Nhóm 1 Nhóm 2-4 Nhóm 5A Nhóm 5B, Nhóm 6
tuổi 5C
(ngày)
4( 22-28) Circo+ Circo+Myco Circo+Myco Circo+Myco Circo+Myco
Myco PRRS PRRS PRRS(theo PRRS(theo
sức khỏe) sức khỏe)
5(29-35) - - - -
6(36-42) - - - -
7(43-49) - - - - CSF+FMD
8(50-56) CSF+FMD CSF+FMD CSF+FMD CSF+FMD
9(57-64) Vaccine S
27
Chuồng trại: thường xuyên vệ sinh sạch sẽ, quét sàn, quét mạng nhện,
dụng cụ để đúng vị trí, gọn gàng. Hàng ngày thu dọn phân, rác, thức ăn thừa,
rửa máng ăn, vệ sinh silo.
Khu vực xung quanh trang trại: Trước khi người và phương tiện vào trại
phải đi qua khu vực phun sát trùng trước cổng trại. Khu vực chăn nuôi và khu
sinh hoạt được xây tách biệt. Trước cửa mỗi khu chuồng đều có hố sát trùng,
rắc vôi bột trên đường và phun sát trùng quanh khu vực chăn nuôi. Thường
xuyên diệt ruồi muỗi trong và ngoài trại, dọn dẹp vệ sinh phát quang bụi rậm
định kỳ mỗi tuần.
Phương tiện ra vào trại: Kiểm tra, ghi chép đầy đủ thông tin: giờ vào trại,
tên tài xế, biển số xe (đối với xe chở cám, xe chở thuốc và xe xuất nhập heo)
và phun sát trùng kỹ. Cho xe nghỉ 60 phút ngoài cổng trước khi được vào khu
vực chăn nuôi. Phun sát trùng xe ở cổng, trước khi xe ra khỏi trại tránh lây lan
các mầm bệnh. Phun sát trùng xe chở heo, rắc vôi đường sau khi nhập cám,
thuốc và xuất heo.
Con người
Kỹ thuật và công nhân trại phải mặc trang phục bảo hộ lao động (quần
áo, ủng, khẩu trang…) khi làm việc. Tắm sát trùng trước khi đi vào khu vực
chăn nuôi. Công nhân mới đến trại phải cách ly từ 2-3 ngày trước khi vào
chuồng làm việc. Người lạ không phải công nhân hoặc không phận sự làm
việc không được tiếp xúc, tự ý đi lại trong khu vực chăn nuôi.
Trang thiết bị và dụng cụ chăn nuôi
Dụng cụ và trang thiết bị khi mới mua về phải được sát trùng kỹ, cho vào
phòng UV-Ozone khử rồi mới sử dụng, sau khi sử dụng thì phải được cọ rửa sạch
sẽ, sát trùng rồi mới sử dụng tiếp. Những đồ không sử dụng nữa thì được tiêu hủy
theo đúng quy định. Để ngăn ngừa, phòng chống dịch bệnh (dịch tả heo Châu Phi)
cũng như tăng năng suất và hiệu quả trong chăn nuôi trong thời gian thực tập và
làm việc tại trại chúng tôi đã tham gia các công tác vệ sinh theo đúng quy định của
trại, cụ thể như sau: Trước khi vào chuồng làm việc tất cả đều phải tắm sát trùng
28
sau đó mặc quần áo bảo hộ, đi ủng, đi qua khay sát trùng.
Rắc vôi, quét dọn lối đi. Vệ sinh máng ăn sạch sẽ (máng tập ăn). Một
ngày tiến hành xịt gầm, xả rãnh. Một ngày tiến hành phun thuốc sát trùng 2
lần, rội vôi gầm, quét mạng nhện trong chuồng và rắc vôi bột ở cửa ra vào
chuồng.
Bảng 4.4. Một số thuốc sát trùng trang trại đang sử dụng
Tên thuốc Liều dùng
Omnicide 20ml pha 1 lít nước
Virkon 1kg pha 100 lít nước
Apa clean 2,5 - 3,5 ml pha 1 lít nước
29
Phun ở ngoài chuồng nuôi với tỷ lệ 1/400 hàng ngày
Dùng nước vôi với nồng độ 1/30 để tưới các vị trí đường liên kết
giữa các chuồng.
4.3. Tình hình nhiễm tiêu chảy tại trại
4.3.1 Triệu chứng lâm sàng trên heo mắc bệnh
Trong thời gian thực tập tại trại, heo con mắc bệnh có một số triệu chứng
lâm sàng như sốt, phân dính quanh hậu môn, đi chân xiêu vẹo, kém ăn.... Qua
quá trình theo dõi, chúng tôi ghi nhận được số lượng heo con sau cai sữa mắc
hội chứng tiêu chảy có các triệu chứng lâm sàng như sau:
Bảng 4.5. Số lượng heo mắc bệnh có các triệu chứng lâm sàng
(ĐVT: con)
Số heo Số heo Đợt khảo sát
Triệu chứng lâm
theo mắc Tháng Tháng Tháng Tổng
sàng
dõi bệnh 3 4 5
Sốt 600 440 20 15 10 45
Kém ăn hay
bỏ ăn, lông 600 440 40 30 25 95
xù
Ủ rũ, đi xiêu
vẹo, nằm 600 440 15 10 5 30
Triệu liệt
chứng Sưng phù mí
toàn mắt, hầu, 600 440 8 1 1 10
thân họng
Bụng
thóp,mắt 600 440 40 30 30 100
lõm sâu
Niêm mạc
nhợt nhạt, 600 440 30 15 5 50
da tím tái
Triệu Phân dính 600 440 150 140 150 440
chứng quanh hậu
30
môn
cục bộ Tiêu chảy
600 440 90 65 35 190
phân vàng
Qua bảng 4.5 tôi nhận thấy, những triệu chứng lâm sàng phổ biến trên
heo cai sữa khi mắc hội chứng tiêu chảy là phân thường có màu vàng và dính
quanh hậu môn, con vật bị bệnh thường ủ rủ nằm úp bụng và thường nằm ở
các góc chuồng. Bên cạnh đó, những con có thể trạng kém thường kèm theo
những triệu chứng nặng hơn như: niêm mạc tím tái, bụng thóp,mắt lõm sâu,
bỏ ăn hay sưng phù mắt. Vì vậy trong quá trình chăm sóc và điều trị, những
con bị bệnh và có thể trạng kém thường được lọc qua chuồng chăm sóc riêng
để tiện theo dõi và điều trị. Từ đó làm tăng tỷ lệ khỏi bệnh và tỉ lệ sống sót.
4.3.2 Tỷ lệ heo tiêu chảy
Trong thời gian thực tập tại cơ sở chúng tôi tiến hành theo dõi 200 heo
con trong thời gian sau cai sữa, kết quả cho thấy tỷ lệ heo con mắc bệnh tiêu
chảy cao. Do quy trình nuôi khép kín, quy mô lớn nên heo con ăn dễ mắc
bệnh và dễ lây lan mầm bệnh trong chuồng rất cao , kết quả được chúng tôi
trình bày ở bảng 4.6.
Bảng 4.6. Tỷ lệ bị tiêu chảy của heo cai sữa
Đợt khảo sát
tháng 3 tháng 4 tháng 5 Tổng
Chỉ tiêu
31
Tổng số ngày bị tiêu chảy (ngày) 5 4 4 13
Để có kết quả theo dõi đàn heo mới nhập về, tôi đã lựa chon 3 ô chuồng
để kiểm tra. Qua quá trình theo dõi tôi thấy được hầu hết heo mới về đều có
biểu hiện tiêu chảy ở những ngày đầu. Nguyên nhân là do trong quá trình vận
chuyển heo thường bị tác động mạnh bởi yếu tố nhiệt độ môi trường bên
ngoài khi vận chuyển trên đường. Đồng thời heo về môi trường mới cũng
chịu những tác động ban đầu như ép heo xuống máng nước để tập vệ sinh
đúng chỗ và mỗi ô chuồng lại có số lượng lớn dẫn đến những stress ban đầu.
Điều này tác động làm ảnh hưởng xấu đến sức đề kháng của heo nên tỷ lệ tiêu
chảy thường cao.
Bên cạnh đó, qua quá trình theo dõi tôi nhận thấy đàn heo nhập về
thường có thời gian tiêu chảy từ 4-5 ngày. Do đây là thời gian tách lọc heo
biết ăn và heo chưa biết ăn ra những ô khác nhau để dễ quản lý, làm ảnh
hưởng chung đến lượng thức ăn ăn vào ở những đối tượng khác nhau kèm
theo cả những stress ban đầu khi mới nhập đàn làm cho heo con bị tiêu chảy
kéo dài. Tuy nhiên trong quá trình chăm sóc heo được trộn kháng sinh và
chích thuốc kháng sinh nên hầu hết sau năm ngày là tình hình tiêu chảy ở đàn
đã được khống chế và sức khỏe của heo dần ổn định. Điều này có được là do
cách chăm sóc và quản lý tốt từ những kỹ thuật và công nhân dày dặn kinh
nghiệm tại trại.
4.3.3 Kết quả điều trị
Trong thời gian thực tập tại trại, bằng kiến thức đã học, cùng với sự giúp
đỡ của kỹ thuật và công nhân trong trại chúng tôi đã tiến hành chẩn đoán và
điều trị bệnh tiêu chảy xảy ra tại trại. Quá trình điều trị bệnh tiêu chảy trên
heo con sau cai sữa tại trại Ea Súp chúng tôi ghi nhận và kết quả được trình
bày ở bảng 4.8
32
Bảng 4.8. Kết quả điều trị bệnh trên heo con.
Chỉ Tỷ lệ chữa khỏi Tỷ lệ tái phát
tiêu (TLCK) (TLTP)
Số
con Số Số ca
Số con Số ca
khảo con TLCK điều TLTP
khỏi tái
Đợt sát điều (%) trị (%)
bệnh phát
khảo trị khỏi
sát
tháng 3 200 150 140 93,3 140 10 7,1
tháng 4 200 140 135 96,4 135 8 5,9
tháng 5 200 150 145 96,7 145 15 10
Tổng 600 440 420 95,4 420 33 7,8
120
80
60
40
20 10
7,1 5.9
0
THÁNG 3 THÁNG 4 THÁNG 5
TLCK TLTP
33
Bảng 4.9. Tỷ lệ chết của heo con cai sữa
Tỷ lệ chết do nguyên nhân
Chỉ Số Tỷ lệ chết do tiêu chảy
khác
tiêu con
Tỷ lệ chết Số con chết Tỷ lệ chết do
Đợt khảo Số con chết
do tiêu do nguyên nguyên nhân
khảo sát sát do tiêu chảy
chảy (%) nhân khác khác (%)
tháng 3 200 10 5 20 10
tháng 4 200 5 2,5 10 5
tháng 5 200 5 2,5 15 7,5
Tổng 600 20 3 35 5,8
12
10
0
THÁNG 3 THÁNG 4 THÁNG 5
TLCDTC TLCDNNK
34
đồ điều trị bệnh như sau:
- Phác đồ điều trị 1: dùng thuốc bột Haquylnol trộn cám, kết hợp tiêm
với Mycocin và Electrol pha nước uống. Điều trị liên tục 3-5 ngày.
- Phác đồ điều trị 2: dùng thuốc bột Norflo trộn cám, kết hợp tiêm với
Mycocin và Electrol pha nước uống. Điều trị liên tục 3-5 ngày.
- Phác đồ điều trị 3: dùng thuốc bột Amoxcilin trộn cám , kết hợp tiêm
với Mycocin và Electrol pha nước uống. Điều trị liên tục 3-5 ngày.
bảng 4.10. Kết quả điều trị những phác đồ trên
Thời gian điều trị khỏi bệnh (ngày) Tổng
Số Tỷ
Phác Ngày 1 Ngày 2 Ngày 3 Ngày 4 số
con lệ
đồ Số con
điều Số Tỷ Số Tỷ Số Tỷ Tỷ Trung khỏi
điều con khỏi
trị con lệ con lệ con lệ lệ Bình bệnh
trị (n) (n)
(n) (n) (%) (n) (%) (n) (%) (%) (%)
1 50 0 - 10 20 35 70 5 10 4 50 100
2 50 0 - 15 30 35 70 0 - 3 50 100
3 50 0 - 5 10 25 50 15 30 4 45 90
Tổng 150 0 - 30 20 95 63 20 13,3 11 145 96,7
Qua bảng 4.10 cho thấy, hầu như tỷ lệ điều trị ngày đầu tiên chưa cho
thấy được dấu hiệu khỏi bệnh. Điều này là do ngày đầu tiên những triệu
chứng tiêu chảy có thuyên giảm nhưng phân vẫn sệt và dính ở hậu môn. Tuy
nhiên, qua ngày thứ 2 thì số con bị bệnh đã có biểu hiện khỏe hơn, phân
khuôn và đã chạy nhảy và ăn uống tốt hơn, đến ngày thứ 4 hầu hết đã khỏi
bệnh, chỉ còn một số con có thể trạng yếu là vẫn còn tình trạng phân chưa
khuôn hoặc những con nặng quá thì thường tiên lượng xấu. Điều này cho thấy
trại đã áp dụng tốt phác đồ điều trị để tăng tỷ lệ khỏi bệnh và giảm số ngày
điều trị giúp giảm chi phí đầu vào trong chăn nuôi từ đó làm tăng hiệu quả
kinh tế qua mỗi lứa.
35
4.3.4. Đề xuất biện pháp tăng cường sức đề kháng cho heo
Chăn nuôi lợn phải có hiệu quả kinh tế, năng suất và chất lượng sản
phẩm tốt, được người tiêu dùng tin cậy. Do vậy, việc chăm sóc, nuôi dưỡng
và quản lý đàn lợn phải đảm bảo cho chúng sinh trưởng, phát dục bình
thường, có tốc độ tăng trọng nhanh, có khả năng sinh sản tốt và sản xuất con
giống có chất lượng cao, có sức đề kháng tốt. Muốn vậy, người chăn nuôi lợn
nắm chắc kỹ thuật chăn nuôi lợn, phòng trừ dịch bệnh và tiếp cận tốt với thị
trường.
Trong quá trình thực tập tại trại, tôi thấy trại đã có những biện pháp
phòng và điều trị bệnh khá tốt, lựa chọn những con giống đẹp có nguồn gốc
an toàn, ít mầm bệnh. Tuy nhiên, tôi có một số góp ý cho trại về công tác
chăm sóc nuôi dưỡng như sau:
Phương pháp cho lợn con ăn:
- Cho lợn con ăn đúng giờ giấc quy định và tập cho lợn con có những
phản xạ có điều kiện về tiêu hóa.
- Cho lợn con ăn từ từ để tránh vung vãi ra ngoài, từ đó hạn chế đƣợc
lợn con mắc các bệnh về đường tiêu hóa.
- Cho lợn con ăn đúng tiêu chuẩn và khẩu phần ăn. Theo dõi sức khỏe để
điều chỉnh khẩu phần và tiêu chuẩn cho chúng.
- Cần hạn chế bớt những yếu tố tác động từ bên ngoài, tạo điều kiện cho
lợn con ổn định để sinh trưởng và phát triển bình thường.
- Cho lợn con ăn uống theo tiêu chuẩn, khẩu phần (cho ăn đúng) và
không thay đổi khẩu phần ăn đột ngột. Duy trì ổn định các thao tác nuôi
dưỡng hàng ngày phải thực hiện đúng trong lịch đã nêu trong các phiếu theo
dõi lợn con. Đặc biệt là chế độ nuôi dưỡng lợn con phải thực hiện đúng để có
thể điều khiển khả năng sinh trưởng và phát triển của lợn con theo ý muốn.
Phòng bệnh cho lợn con:
Trong quá trình nuôi dưỡng, ngoài phòng bệnh bằng vaccine ra chúng
ta phải tẩy giun sán cho lợn con bằng các loại thuốc dễ tẩy và ít gây ra ngộ
36
độc cho lợn con. Bổ sung thêm hợp chất vitamin- khoáng và một số chế phẩm
enzyme để tăng khả năng hấp thu của hệ tiêu hóa, tăng sức đề kháng cho lợn
con làm giảm nguy cơ mắc bệnh về đường tiêu hóa, giúp lợn con sinh trưởng,
phát triển tốt hơn.
37
PHẦN V
KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
38
PHẦN VI
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Trọng Đạt, Phan Thanh Phương, Lê Ngọc Mỹ, và Huỳnh Văn Kháng
(1999). Bệnh ở lợn nái và lợn con, Nhà xuất bản Nông Nghiệp. Tr.136-
139.
2. Đoàn Thị Kim Dung (2003). “Sự biến đổi một số vi khuẩn hiếu khí đường
ruột, vai trò của E. coli trong hội chứng tiêu chảy ở lợn con theo mẹ, các
phác đồ điều trị”, Luận án tiến sỹ Nông nghiệp, Viện Thú y, Hà Nội.
3. Lê Văn Tạo, Khương Bích Ngọc, Nguyễn Thị Vui và Đoàn Băng Tâm
(1993). Nghiên cứu chế tạo vacxin E. coli uống phòng bệnh phân trắng
lợn con, Tạp chí Nông nghiệp Thực phẩm, số 9. Tr.324-325.
4. Lý Thị Liên Khai (2001). Phân lập, xác định độc tố ruột của các chủng
E. coli gây tiêu chảy cho heo con, Tạp chí KHKT Thú y số 2, Tr.13-18.
5. Nguyễn Cảnh Tự, Trương Quang (2010). Nghiên cứu vai trò của
Salmonella trong hội chứng tiêu chảy của lợn sóc (lợn đê) nuôi tại Đắk
Lắk, Tạp chí Khoa học và Phát triển. Tr.114-119.
6. Nguyễn Ngọc Phục (2005). Công tác thú y trong chăn nuôi lợn, Nhà xuất
bản Lao Động Xã Hội.
7. Nguyễn Tất Toàn và Đỗ Tiến Duy (2013). Một số yếu tố liên quan và đặc
điểm bệnh học của dịch tiêu chảy cấp trên heo con theo mẹ tại một số tỉnh
phía Nam, Khoa học kĩ thuật Thú Y, tập XX(2). Hội Thú Y Việt Nam. Tr.5-
10.
8. Nguyễn Mạnh Thuột “ Bài giảng Chăn nuôi heo” trường Đại học Tây
Nguyên.
9. Trần Thị Thanh Vân “ bài giảng Truyền nhiễm động vật” trường Đại học
Tây Nguyên.
10. Phạm Ngọc Thạch (2006). Bệnh nội khoa gia súc, Nhà xuất bản Nông
nghiệp, Hà Nội.
11. Phạm Tuân, Nguyễn Đình Trí dịch (1986). Bệnh lợn con. Nhà xuất bản
39
Nông nghiệp, Hà Nội.
40
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
41
Hình ảnh: Heo con bị tiêu chảy
( lông xù, chân đứng xiêu vẹo, phân dính hậu môn)
Hình ảnh: Hai loại cám được sử dụng cho heo sau cai sữa tại trại
42
Hình ảnh: Công nhân làm vệ sinh chuồng nuôi
43
Hình ảnh: Mô hình heo nuôi trong chuồng
44
Hình ảnh: Một số loại thuốc bột được sử dụng tại trại
45
Hình ảnh: Chất tẩy rửa sử dụng trong trại
46
Hình ảnh: Một số loại thuốc được sử dụng điều trị bệnh tại trại
47
Ý KIẾN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
Nhận xét:.....................................................................................................
.....................................................................................................................
.....................................................................................................................
.....................................................................................................................
.....................................................................................................................
.....................................................................................................................
48