Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 28

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CHUỖI CUNG ỨNG XĂNG DẦU

TẠI TẬP ĐOÀN XĂNG DẦU VIỆT NAM

3.1. Giới thiệu về tập đoàn xăng dầu Việt Nam Petrolimex.

3.1.1. Lịch sử hình thành.

- Công ty Cổ phần Xuất Nhập khẩu Petrolimex tiền thân là Công ty Xuất Nhập
khẩu Petrolimex được thành lập từ năm 1999 theo Quyết định số 806/1999/QĐ-BTM
ngày 03/07/1999 của Bộ Thương mại nay là Bộ Công Thương.
- Năm 2000, Công ty Xuất Nhập khẩu Petrolimex được đổi tên thành Công ty
Xuất Nhập khẩu Tổng hợp Petrolimex theo Quyết định số 1299/2000/QĐ-TM ngày
20/09/2000 của Bộ Thương mại.
- Ngày 06/06/2002 theo quyết định số 0683/2002/QĐ-BTM, Công ty thực hiện
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp, phát huy nội lực và huy động thêm các nguồn vốn từ bên ngoài để củng
cố và phát triển doanh nghiệp.
- Ngày 01/10/2004 công ty chính thức hoạt động theo mô hình công ty cổ phần và
cổ đông Nhà Nước nắm giữ 80% vốn điều lệ công ty.
- Ngày 24/01/2008, cổ phiếu của công ty chính thức niêm yết tại sở Giao dịch
chứng khoán TP HCM căn cứ quyết định số 05-QD ngày 09/01/2008 với mã CK PIT.
- Công ty đã chia cổ tức và chia thưởng bằng cổ phiếu qua các năm do đó tổng giá
trị cổ phiếu niêm yết theo giá hiện nay là 128.314.550.000 đồng

3.1.2. Lĩnh vực kinh doanh.

- Kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng nông lâm thủy hải sản, hàng thủ công mỹ
nghệ, hàng tiêu dùng (hàng công nghệ phẩm, thực phẩm công nghệ), máy móc thiết bị
ngành công, nông nghiệp, phương tiện vận tải, vật tư, nguyên liệu phục vụ sản xuất, tiêu
dùng.
- Mua bán, sản xuất, gia công, chế biến, xuất nhập khẩu khoáng sản hàng hóa, kim
loại màu (không sản xuất, gia công, chế biến tại trụ sở).
- Kinh doanh các sản phẩm hóa dầu, đại lý kinh doanh xăng dầu, mua bán sản
phẩm hóa dầu.
- Đại lý, sản xuất, gia công, chế biến hàng hóa xuất nhập khẩu
- Sản xuất, mua bán sơn và nguyên liệu, sản phẩm ngành sản xuất sơn và chất phủ
3.1.3. Vị thế công ty.

Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Petrolimex xếp trong 10 doanh nghiệp xuất khẩu
lớn nhất Việt Nam, được Bộ Thương Mại bình chọn là doanh nghiệp xuất khẩu uy tín
ngành nông sản; là thành viên vàng của Cổng Thương mại điện tử quốc gia (ECVN);
được hải quan TP. HCM chọn là 1 trong những đơn vị đầu tiên được thông quan điện
tử. Liên tục 05 năm (2000-2004) Công ty được Bộ Thương mại tặng bằng khen về việc
hoàn thành kế hoạch kinh doanh và tăng trưởng XNK.

Công ty chiếm 40% thị phần xuất khẩu khoáng sản của Việt Nam, ngoài việc xuất
khẩu, công ty cũng tham gia với tư cách là cổ đông chiến lược của một số công ty chế
biến tinh luyện khoáng sản, tham gia cùng các côngty này trên lĩnh vực nhập nguyên
liệu thô từ một số nước ASEAN về sản xuất và tái xuất khẩu sản phẩm tinh cho Châu
Âu.

PITCO là thành viên của: Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam; Hiệp hội Cà phê Việt Nam
(VICOFA); Hiệp hội Thép Việt Nam (VSC); Hiệp hội Cao su Việt Nam (VNRA);
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).

3.1.4. Mô hình tổ chức của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam

Về cấu trúc tổ chức, hiện Petrolimex đã kiện toàn việc tái cơ cấu bộ máy, hình thành
45 công ty con kinh doanh xăng dầu do Petrolimex sở hữu 100% vốn và chi nhánh trực
thuộc các công ty. Trong đó có : (i) 43 công ty TNHH 1 thành viên xăng dầu trong
nước; (ii) 01 công ty TNHH 1 thành viên tại nước Cộng hòa Singapore; (iii) 01 công ty
TNHH 1 thành viên tại nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.

Ngoài ra, còn có, 02 Tổng công ty do Petrolimex sở hữu 100% vốn là (i) Tổng công
ty Vận tải thủy Petrolimex (PGT) kinh doanh dịch vụ vận tải xăng dầu bằng đường biển
và (ii) Tổng công ty Dịch vụ xăng dầu Petrolimex (PTC) kinh doanh dịch vụ vận tải
xăng dầu bằng đường bộ (có kinh doanh xăng dầu); 05 Tổng công ty, công ty do
Petrolimex sở hữu trên 50% vốn; 05 Công ty liên doanh, liên kết do Petrolimex sở hữu
trên 20% vốn điều lệ.
Sơ đồ 3. 2: Mô hình tổ chức của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam

(Nguồn: Báo cáo thường niên Petrolimex 2019)

3.2. Tổng quan về chuỗi cung ứng xăng dầu tại Việt Nam và Tập đoàn Xăng dầu
Việt Nam

3.2.1. Tình hình chung về phát triển ngành xăng dầu tại Việt Nam

Tại Việt Nam, xăng dầu là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, không chỉ có vai trò
thiết yếu đối với nền kinh tế, xăng dầu còn có vài trò chiến lược, ảnh hưởng rất lớn đến
các lĩnh vực khác như: xã hội, chính trị an ninh quốc phòng. Xác định vai trò quan trọng
và việc cần được kiểm soát đặc biệt đối với mặt hàng xăng dầu, cũng như các quốc gia
khác, Việt Nam có những cơ chế điều hành riêng cho lĩnh vực kinh doanh mặt hàng đặc
thù này. Bước sang thế kỷ XXI, cùng với xu hướng hội nhập, Chính phủ đã có những
cải cách mạnh mẽ tất cả các ngành nghề phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và ngành nghề kinh doanh xăng dầu cũng vậy. Từ năm 2000 đến nay,
Chính phủ đã có 4 lần thay đổi cơ chế kinh doanh, đó là các năm 2003 (Quyết định số
187/2003/QĐ-TTg); năm 2007 (Quyết định số 55/2007/NĐ-CP); năm 2009 (Quyết định
số 84/2009/NĐ-CP) và quy định còn hiệu lực cho đến nay thay đổi vào năm 2014
(Quyết định số 83/2014/NĐ-CP).

3.2.1.1. Giai đoạn trước năm 2000

Giai đoạn này kéo dài trên 10 năm, với sự gia tăng của các đầu mối nhập khẩu từ
một đầu mối duy nhất, tăng dần lên 5 và đến năm 1999, đã có 10 đầu mối tham gia nhập
khẩu xăng dầu cho nhu cầu nội địa. Trong những năm từ 1989 đến 1992, khi không còn
nguồn xăng dầu cung cấp theo Hiệp định với Liên xô (cũ), Nhà nước chuyển từ quy
định "giá cứng" sang áp dụng giá chuẩn để phù hợp với việc hình thành nguồn xăng dầu
nhập khẩu từ lượng ngoại tệ do doanh nghiệp đầu mối tự cân đối, mua của các doanh
nghiệp xuất khẩu qua ngân hàng hoặc hình thức uỷ thác bao tiêu xăng dầu cho doanh
nghiệp có ngoại tệ thu được từ xuất khẩu. Vào giai đoạn này, doanh nghiệp đầu mối
được quyền quyết định giá bán +/- 10% so với giá chuẩn để bảo đảm hoạt động kinh
doanh.

Đặc điểm lớn nhất của giai đoạn này là: nhờ quy định của Nhà nước về giá chuẩn,
doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh giá bán xăng dầu nhập khẩu thuộc nguồn ngoại
tệ tự huy động từ các doanh nghiệp xuất khẩu, đảm bảo quyền lợi cho họ thông qua tỷ
giá phù hợp.

Giai đoạn này cũng là thời kỳ giá xăng dầu thế giới ở mức đáy, tương đối ổn định
nên với cơ chế giá tối đa, Nhà nước đã đạt được mục tiêu đề ra, cụ thể là (i) Cân đối
cung cầu được đảm bảo vững chắc; (ii) Các hộ sản xuất và người tiêu dùng lẻ được
hưởng mức giá tương đối ổn định; biến động giá tuy chỉ theo xu hướng tăng song mức
tăng đều, không gây khó khăn nhiều cho sản xuất và tiêu dùng khi chủ động hoạch định
được ngân sách cho tiêu thụ xăng dầu hàng năm; (iii) Ngân sách Nhà nước tăng thu
thông qua việc tận thu thuế nhập khẩu, phụ thu, phí xăng dầu; (iv) Doanh nghiệp có tích
luỹ để đầu tư phát triển, định hình hệ thống cơ sở vật chất, từ cầu cảng, kho đầu mối,
kho trung chuyển, phương tiện vận tải đến mạng lưới bán lẻ.
Mặc dù vậy, cơ chế quản lý - điều hành trong giai đoạn này cũng đã bộc lộ khá rõ
những nhược điểm mà nổi bật là tương quan giá bán giữa các mặt hàng không hợp lý
dẫn đến tiêu dùng lãng phí, nhà đầu tư không có đủ thông tin để tính toán đúng hiệu quả
đầu tư nên chỉ cần thay đổi cơ chế điều hành giá sẽ làm ảnh hưởng rất lớn sử dụng
nhiên liệu, nhiều nhà sản xuất thậm chí đã phải thay đổi công nghệ do thay đổi nhiên
liệu đốt (thay thế mazut, dầu hoả bằng than, trấu, gas); gian lận thương mại xuất hiện do
định giá thấp đối với mặt hàng chính sách (dầu hoả); Nhà nước giữ giá ổn định trong
một thời gian quá dài thoát ly giá thế giới tạo sức ỳ và tâm lý phản ứng của người sử
dụng về thay đổi giá mà không cần xét đến nguyên nhân và sự cần thiết phải điều chỉnh
tăng giá.

Ở cuối của giai đoạn này giá thế giới đã có dấu hiệu biến động mạnh, ở mức cao
hơn; các cân đối cung cầu và ngân sách, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và lạm phát...đều
có nguy cơ bị phá vỡ khi tình trạng đó kéo dài; trong khi chưa tìm được cơ chế điều
hành thích hợp, vì mục tiêu ổn định để phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước đã sử dụng
biện pháp bình ổn giá, khởi đầu cho giai đoạn bù giá cho người tiêu dùng qua doanh
nghiệp nhập khẩu trong gần 10 năm tiếp theo.

3.2.1.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến trước thời điểm Nhà nước công bố chấm
dứt bù giá, vận hành giá xăng dầu theo thị trường (tháng 9/2008)

Về cơ bản, nội dung và phương thức quản lý điều hành hoạt động kinh doanh xăng
dầu vẫn chưa có sự thay đổi so với giai đoạn trước đó. Trong khi đó, từ đầu những năm
2000, biến động giá xăng dầu thế giới đã có những thay đổi căn bản; mặt bằng giá mới
hình thành và liên tiếp bị phá vỡ để xác lập mặt bằng mới trong các năm tiếp theo. Do
tiếp tục chính sách bù giá cho người tiêu dùng thông qua doanh nghiệp nhập khẩu khi
cố gắng giữ mức giá nội địa ở mức thấp nên số tiền ngân sách bù giá ngày càng gia
tăng, từ 1.000 tỷ (năm 2000) lên đến 22.000 tỷ đồng năm 2008.

Cũng trong giai đoạn này, sau khi nổ ra cuộc chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ 2; giá
xăng dầu đã dịu lại song cũng đã hình thành một mặt bằng mới; trước nguy cơ không
thể cân đối ngân sách cho bù giá xăng dầu, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 187/2003/QĐ-TTg ngày 15/9/2003 về kinh doanh xăng dầu. Cho đến thời điểm
này, sự đổi mới cơ chế quản lý, chủ yếu là quản lý giá theo Quyết định 187 vẫn được
coi là mạnh mẽ nhất với các tư tưởng cơ bản bao gồm: (i) Nhà nước xác định giá định
hướng; doanh nghiệp đầu mối được điều chỉnh tăng giá bán trong phạm vi + 10% (đối
với xăng) và + 5% (đối với các mặt hàng dầu), (ii) Hình thành 2 vùng giá bán; giá bán
tại vùng xa cảng nhập khẩu, doanh nghiệp được phép cộng tới vào giá bán một phần chi
phí vận tải nhưng tối đa không vượt quá 2% so với giá bán ở vùng gần cảng nhập khẩu;
(iii) Chỉ thay đổi giá định hướng khi các yếu tố cấu thành giá thay đổi lớn, Nhà nước
không còn công cụ điều tiết, bảo đảm các lợi ích của người tiêu dùng Nhà nước và
doanh nghiệp.

Tuy nhiên, vì những lý do khách quan, sự đột phá cơ chế điều hành giá trong QĐ
187 chưa được triển khai trên thực tế; cho đến hiện nay, Nhà nước tiếp tục điều hành và
can thiệp trực tiếp vào giá bán xăng dầu, kể cả chiều tăng và giảm.

Đánh giá chung cho giai đoạn này, có thể thấy quyết tâm rất cao để đổi mới cơ chế
quản lý kinh doanh xăng dầu thể hiện qua 2 văn bản pháp quy là QĐ 187 và NĐ 55
song cho đến hiện nay, văn bản đã không đi vào thực tế kinh doanh (trừ hệ thống phân
phối được thiết lập nhưng việc kiểm soát tính tuân thủ hầu như chưa thực hiện

được). Yếu tố ổn định giá vẫn được đặt lên hàng đầu và chính nó đã làm cho các
cơ quan quản lý Nhà nước lúng túng khi phải điều hành đạt các mục tiêu dường như
mâu thuẫn nhau ở cùng một thời điểm.

Việc áp dụng một biện pháp duy nhất (biện pháp bù giá), làm cho giá nội địa thoát
ly giá thế giới trong một chu kỳ quá dài với bối cảnh giá xăng dầu thế giới đã nhiều lần
hình thành mặt bằng giá mới cao hơn; ngoài yếu tố cung cầu thì yếu tố địa chính trị
cũng ảnh hưởng lớn đến biến động giá; biên độ dao động giá quá mạnh sau mỗi ngày...
đã làm cân đối ngân sách bị phá vỡ, doanh nghiệp bị kiệt quệ nguồn lực cho phát triển;
việc kìm giá và điều chỉnh sốc tác động tiêu cực đến nền kinh tế, chưa kể hiện tượng
đầu cơ chờ tăng giá làm méo mó nhu cầu, chuyển khá nhiều nguồn lực cho đại lý; phần
lớn người tiêu dùng không được thông tin đầy đủ về cơ chế điều hành và lợi ích mà Nhà
nước đem lại cho nhân dân nên thường xuyên có phản ứng tiêu cực sau mỗi lần điều
chỉnh giá (kể cả tăng và giảm), từ đó chưa tạo được sự đồng thuận trong xã hội; thẩm
lậu xăng dầu qua biên giới ngày càng phức tạp, khó kiểm soát; Nhà nước thất thu ngân
sách kể cả lúc giá thấp hơn và cao hơn nước lân cận do thẩm lậu xăng dầu qua biên giới.

Hệ quả rất xấu của cơ chế bù giá xăng dầu kéo dài (mà người tiêu dùng vẫn hiểu là
bù lỗ cho doanh nghiệp đầu mối) là việc khó chấp nhận điều chỉnh tăng giá, kể cả mức
rất thấp và phản ứng mạnh trước thông tin doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu không có
hiệu quả mà luôn được Nhà nước bù lỗ.

3.2.1.3. Giai đoạn từ cuối năm 2008 đến 2014

Ngày 15/10/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 84/2009/NĐ-CP về Kinh
doanh xăng dầu. Có thể nói, Nghị định 84 là cơ sở pháp lý quan trọng để hoạt động kinh
doanh xăng dầu vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Sau 5
năm thực thi, Nghị định này đã đạt được nhiều kết quả tích cực, tạo nền móng căn bản
để dẫn dắt việc kinh doanh xăng dầu dần dần vận hành theo cơ chế thị trường.

Nghị định 84 lần đầu tiên đưa ra khái niệm về giá cơ sở. Nếu như giá định hướng
trong giai đoạn trước đó dựa trên mức giá dự báo trên thế giới và sự ảnh hưởng của giá
xăng dầu đến giá của các loại hàng hóa và dịch vụ khác thì giá cơ sở được tính toán dựa
trên giá mua thực tế của các đầu mối nhập khẩu xăng dầu, các chi phí thực tế cần thiết
và mức lợi nhuận định mức giữ lại cho doanh nghiệp. Vì thế có thể thấy giá cơ sở có
tính minh bạch cao hơn so với giá định hướng do dựa trên chi phí thực tế chứ không
phải ước tính.

Ngoài ra, Nghị định 84 cũng thành lập Quỹ bình ổn giá xăng dầu. Theo đó khi
mua xăng dầu, người tiêu dùng phải góp thêm 300 đồng/lít (kg) vào quỹ này. Mức trích
lập và thời điểm trích lập chỉ được Bộ Tài chính điều chỉnh trong trường hợp cần thiết
khi có biến động của thị trường và thông báo để các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu
thực hiện. Tùy theo mức độ biến động giá của từng thời kỳ, Liên bộ Tài chình-Công
thương sẽ quyết định mức trích Quỹ bình ổn đối với từng loại hàng nhằm mục tiêu ổn
định giá thị trường xăng dầu.

Tuy nhiên, trong quá trình thi hành Nghị định này cũng bộc lộ một số tồn tại, hạn
chế với một số quy định rất khó thực hiện thậm chí không thể thực hiện được. Cụ thể,
việc quy định tổng đại lý phải sở hữu hoặc đồng sở hữu hay thuê sử dụng kho chứa
5.000m³ từ 5 năm trở lên. Để có được một kho chứa xăng như vậy, thông thường tổng
đại lý cần phải có một diện tích trên 1ha, kinh phí đầu tư không dưới 30 tỷ đồng và thời
gian thực hiện không chỉ 3 năm.

Mặt khác, Nghị định 84/2009/NĐ-CP cũng chưa làm rõ trách nhiệm của thương
nhân đầu mối, tổng đại lý, đại lý và cơ quan quản lý Nhà nước trong việc kiểm tra, xử
phạt hệ thống kinh doanh xăng dầu. Việc trích lập Quỹ bình ổn giá thông qua giá bán lẻ
còn chưa hợp lý. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và chuyên gia kinh tế cho
rằng quỹ bình ổn xăng dầu hoạt động còn thiếu minh bạch, cần xem xét lại, thay đổi
cách vận hành hoặc bỏ đi để mặt hàng này vận hành theo cơ chế thị trường. Về mặt bản
chất, quỹ bình ổn giá vẫn được đóng góp từ tiền túi của người dân. Ngay khi mua xăng
dầu, người dẫn đã góp vào quỹ này 300 đồng/lít (kg). Khi giá xăng dầu biến động tăng
quá mức cho phép, khoản tiền từ quỹ này sẽ được trích ra để trợ giá. Như vậy, về cơ bản
là tiền từ túi này sang túi kia, tức là tiền của người tiêu dùng góp vào rồi lại được sử
dụng thời gian sau nhưng số tiền này được chính doanh nghiệp quản lý trước sự đồng
thuận của Liên Bộ Tài chính - Công thương. Sự can thiệp mang tính chất hành chính
này chỉ khiến giá xăng dầu trong nước và thế giới không đồng nhất, làm méo mó tính
thị trường. Thêm vào đó, quỹ này cũng gây ra bất cập trong việc quản lý dòng tiền đối
với doanh nghiệp. Có những lúc còn âm quỹ và doanh nghiệp đầu mối phải chịu, có thể
bỏ lợi nhuận hoặc vay ngân hàng để bù vào. Khi dương quỹ lại gửi vào ngân hàng quản
lý, doanh nghiệp đầu mối cũng không được sử dụng.

Từ những bất cập đó, cần sửa đổi nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh xăng dầu
vận hành theo đúng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; tạo khung pháp lý
thúc đẩy thị trường xăng dầu Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với các nước trong khu
vực; đảm bảo bảo lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người sử dụng; tạo nguồn thu
ổn định cho ngân sách nhà nước, đồng thời để các đơn vị kinh doanh xăng dầu không bị
lỗ do cơ chế; giữ vững an ninh năng lượng; tạo điều kiện cho người sử dụng có thông
tin minh bạch về giá bán lẻ xăng dầu.

3.2.1.4. Giai đoạn từ cuối năm 2014 đến 2021

Từ tháng 11/2014, Chính phủ ban hành Nghị định số 83/2014/NĐ-CP về Kinh
doanh xăng dầu. Nghị định này đã từng bước nới lỏng các điều kiện về kinh doanh xăng
dầu tại Việt Nam, tăng cường tính cạnh tranh, công khai, minh bạch trong kinh doanh
xăng dầu; quản lý chặt chẽ hệ thống phân phối xăng dầu, bảo đảm cung ứng ổn định
xăng dầu trong hệ thống, bảo đảm chất lượng xăng dầu lưu thông trên thị trường...

Về các đối tượng tham gia kinh doanh xăng dầu, nhằm tăng tính cạnh tranh trên
thị trường xăng dầu, bên cạnh việc kinh doanh xăng dầu theo phương thức tổng đại lý,
đại lý đang quy định tại Nghị định số 84/2009/NĐ-CP, Nghị định 83 bổ sung thêm 2
phương thức phân phối xăng dầu mới là phương thức mua đứt bán đoạn và nhượng
quyền thương mại. Nghị định 83 đã đưa ra thêm đối tượng là thương nhân phân phối
xăng dầu (Điều 13, 14, 15) được mua xăng dầu từ nhiều thương nhân đầu mối, đối
tượng là thương nhân nhận nhượng quyền bán lẻ xăng dầu (Điều 22, 23) hoạt động theo
pháp luật về nhượng quyền thương mại. Chính phủ cũng quy định những điều kiện cụ
thể đối với từng nhóm đối tượng này bao gồm các điều kiện kho bể, sức chứa, phương
tiện vận tải, hệ thống đại lý....

Về điều hành giá xăng dầu, nhằm bảo đảm giá bán lẻ trong nước bám sát giá thế
giới, Nghị định 83 quy định tần suất điều chỉnh giá là 15 ngày/một lần (Khoản 1 Điều
38) thay vì 10 ngày/một lần như Nghị định số 84/2009/NĐ-CP quy định; giá cơ sở được
tính toán trên cơ sở bình quân giá thế giới 15 ngày sát với ngày tính giá (Khoản 9 Điều
3) thay vì bình quân giá thế giới 30 ngày gần ngày tính giá như Nghị định số
84/2009/NĐ-CP quy định.

Về biên độ điều chỉnh, giá bán lẻ xăng dầu được sửa đổi tăng/giảm để phù hợp với
khả năng chấp nhận của nền kinh tế và công khai rõ ràng để mọi người quan tâm đều
nắm bắt được.

Về Quỹ bình ổn giá xăng dầu, Nghị định 83 đã quy định rõ nguyên tắc trích lập, sử
dụng và quản lý Quỹ Bình ổn giá xăng dầu: “Việc sử dụng Quỹ bình ổn được thực hiện
khi giá cơ sở cao hơn giá bán lẻ hiện hành hoặc việc tăng giá ảnh hưởng đến phát triển
kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân...” (Khoản 2 Điều 37). Đồng thời quy định rõ
Chính phủ mới được quyết định bình ổn giá xăng dầu trong nước và giao cho Bộ Công
Thương chủ trì, phối hợp Bộ Tài chính triển khai thực hiện các biện pháp bình ổn giá
trong thời hạn áp dụng biện pháp bình ổn giá (Khoản 1 Điều 38).

3.2.2. Tổng quan chuỗi cung ứng xăng dầu tại Việt Nam

Ngành dầu khí Việt Nam được chi phối bởi Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam
(PVN/PetroVietnam), dưới sự giám sát của Bộ Công Thương, trong cả điều hành và vận
hành ngành này. Từ sau Nghị định 83, thị trường xăng dầu Việt Nam đã mở cửa hơn,
giá bán cũng bắt nhịp tốt hơn với giá dầu thế giới tuy nhiên thị trường trong nước vẫn
chủ yếu nằm dưới sự điều hành của Nhà nước thông qua các tập đoàn năng lượng quốc
gia mà chủ yếu là Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam và Tập đoàn Xăng dầu Việt
Nam. Chuỗi cung ứng ngành xăng dầu tại Việt Nam được mô tả trong sơ đồ sau đây:
Sơ đồ 3.2: Chuỗi cung ứng ngành xăng dầu Việt Nam (Nguồn: VCBS, 2020)

Ở thượng nguồn về khai thác dầu khí, tất cả hoạt động trong nước đều được thực
hiện bởi các công ty con của PetroVietnam như Tổng Công ty Cổ phần khoan và Dịch
vụ khoan dầu khí (PVD), Tổng Công ty cổ phần dịch vụ kỹ thuật dầu khí (PTSC). Các
công ty này thực hiện các hoạt động tìm kiếm, khai thác các mỏ dầu và các dịch vụ liên
quan. Ở trung nguồn, hoạt động lọc dầu, hóa dầu và sản xuất các sản phẩm sinh học
khác, hoạt động khai thác và cung cấp khí, vận chuyên xăng dâu cũng chủ yêu bị chi
phối với PVN. . Việt Nam hiện mới chỉ có 2 nhà máy lọc dầu là Nhà máy lọc hóa dầu
Bình Sơn (BSR) và Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn (NSR) đều trực thuộc PVN. Hai nhà
máy này nếu hoạt động hết công suất có thể đáp ứng 80% nhu cầu xăng dầu của Việt
Nam. Đối với nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn, mặc dù PVN chỉ chiếm 25,1% vốn,
nhưng lại là đơn vị thực hiện bao tiêu toàn bộ sản phẩm xăng dầu của nhà máy thông
qua chi nhánh phân phối sản phẩm lọc hóa dầu Nghi Sơn (PVNDB). Các khách hàng
của Chi nhánh phân phối sản phẩm lọc hóa dầu Nghi Sơn/Công ty Lọc hóa dầu Bình
Sơn là các Thương nhân đầu mối. Hiện tại, theo quy định tại Nghị định 83 của Chính
phủ về kinh doanh xăng dầu, BSR/PVNDB chỉ được bán hàng cho các Thương nhân
đầu mối hoặc các thương nhân phân phối thuộc hệ thống của mình. Như vậy, trong lĩnh
vực thượng nguồn, PVN nắm vai trò chủ đạo, chịu trách nhiệm khai thác, vận chuyển và
chế biến các sản phẩm lọc, hóa dầu. Về chế biến và khai thác khí, PVN có 2 công ty con
trong lĩnh vực này là Tổng Công ty khí Việt Nam (PVGas) và Công ty cổ phần CNG
Việt Nam trực thuộc PVGas.
Ở lĩnh vực hạ nguồn phân phối các sản phẩm từ xăng dầu, Việt Nam hiện có 120
thương nhân phân phối, trong đó vai trò chủ đạo là Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam.
Tương quan của Petrolimex so với một số đối thủ cạnh tranh chính trong ngành được
thể hiện ở bảng dưới đây:

Bảng 3.2: Tổng quan các doanh nghiệp phân phối xăng dầu tại Việt Nam năm
2019

Công ty

Thị phần (%) 48 22 8 7 <5

Sức chứa (m3) 2.200.000 1.000.000 36.000 N/A < 265.400

Địa bàn kinh Chủ yếu ở TP. HCM


Chủ yếu ở
doanh Toàn quốc Toàn quốc Đông Nam và Tây
miền Bắc
Bộ Nam Bộ

(Nguồn: Petrolimex, Analyst Meeting Report, 2019)

Có thể thấy, trên thị trường phân phối xăng dầu, Petrolimex chiếm thị phần lớn
nhất (48%), cách khá xa so với công ty đứng thứ hai trong ngành là Tổng Công ty dầu
Việt Nam (PVOil) với thị phần khoảng 22%. So về các chỉ tiêu khác như sức chứa, số
cửa hàng/đại lý xăng dầu, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam cũng chiếm ưu thế vượt trội so
với các đối thủ còn lại. Ngoài ra, chỉ có 2 công ty là Petrolimex và PVOil có địa bàn
hoạt động trên toàn quốc trong khi các đối thủ còn lại chỉ hoạt động ở một vùng nhất
định.

Việc phát triển chuỗi cung ứng xăng dầu tại Việt Nam hiện nay chủ yếu nằm ở
việc phát triển số lượng các cửa hàng. Các cửa hàng xăng dầu được phát triển theo các
hình thức chủ yếu sau đây: (i) COCO (company owns-company operates): Đây là hình
thức truyền thống và phổ biến nhất tại Việt Nam. Theo đó, các công ty kinh doanh xăng
dầu tự xây dựng và điều hành cửa hàng. Ưu điểm của hình thức này là dễ quản lý, các
CHXD chịu sự chi phối hoàn toàn của doanh nghiệp. (ii) DODO (dealer owns-dealer
operates): Đây là hình thức phổ biến với các doanh nghiệp nhỏ, các cửa hàng tư nhân
không đủ tiềm lực để tự nhập khẩu xăng dầu. Theo đó, các doanh nghiệp, cửa hàng này
(được gọi là đại lý) tự xây dựng và điều hành cửa hàng của mình và nhập xăng dầu từ
các thương nhân đầu mối. Các cửa hàng này thường không tuân thủ hợp đồng đại lý với
các thương nhân đầu mối, nhập xăng dầu từ nhiều nguồn khác nhau và đôi khi tiếp tay
cho xăng dầu buôn lậu. Tuy nhiên nếu được quản lý tốt, loại hình cửa hàng đem đến
nhiều ưu điểm cho các doanh nghiệp đầu mối. Cụ thể là, hợp đồng đại lý hoặc thương
nhân nhượng quyền thường quy định các cửa hàng này chỉ được nhập khẩu xăng dầu từ
một đầu mối duy nhất và phải sử dụng thương hiệu cũng như quy trình bán hàng, quản
lý chất lượng xăng dầu của thương nhân đầu mối. Các quy định này giúp cho thương
nhân đầu mối đảm bảo được đầu ra, tăng sự hiện diện thương hiệu trong khi mất ít chi
phí đầu tư ban đầu và chi phí quản lý hơn so với hình thức COCO. Do đó, hình thức này
đang ngày càng trở nên phổ biến ở Việt Nam.

(iii) CODO (company owns-dealer operates). Đây là hình thức kết hợp giữa 2 hình
thức kể trên theo đó các công ty tự xây dựng và sở hữu cửa hàng xăng dầu nhưng giao
cho đại lý điều hành. Ưu điểm của hình thức này là các công ty tiết kiệm được chi phí
quản lý tuy nhiên nhược điểm là khó quản lý các đại lý trong quá trình điều hành cửa
hàng trong khi vẫn phải bỏ ra vốn đầu tư ban đầu. Vì thế, hình thức này hiện nay được
sử dụng tương đối hạn chế tại Việt Nam. Ngoài ra, còn một số ngành liên quan khác đền
dầu khí như sản xuất phân bón, bảo hiểm hay sản xuất điện cũng có sự tham gia của
PVN và Petrolimex thông qua những công ty con.

3.3. Phân tích thực trạng phát triển chuỗi cung ứng xăng dầu của Tập đoàn Xăng

dầu Việt Nam

3.3.1. Cấu trúc chuỗi cung ứng xăng dầu của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam

3.3.1.1. Mô hình chuỗi cung ứng xăng dầu của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam

Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam nằm ở hạ nguồn trong chuỗi giá trị ngành xăng dầu. Theo
đó, Petrolimex đảm nhiệm việc phân phối xăng dầu thông qua hệ thống các cửa hàng
bán lẻ trực thuộc, hệ thống đại lý, tổng đại lý và thương nhân nhượng quyền.

Hiện nay Tập đoàn đang cung ứng xăng dầu trên toàn bộ 63 tỉnh thành của Việt
Nam thông quan 43 công ty xăng dầu thành viên. Vì thế, không chỉ đóng vai trò là một
doanh nghiệp thông thường kinh doanh để tìm kiếm lợi nhuận, Petrolimex còn có nhiệm
vụ chính trị quan trọng là đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đảm bảo cung cấp đầy
đủ và kịp thời nhiên liệu phục vụ đời sống sinh hoạt của người dân Việt Nam. Trước khi
tìm hiểu về chuỗi cung ứng của Tập đoàn, ta cần làm rõ các khái niệm sau về phân loại
các công ty thành viên trong chuỗi cung ứng xăng dầu của Petrolimex:

- Công ty tuyến 1: Là các công ty thực hiện các thủ tục nhập khẩu bao gồm: Mở tờ
khai hàng nhập khẩu, Tờ khai hàng tạm nhập, thanh khoản tờ khai tạm nhập tái xuất;
tiếp nhận xăng dầu nhập khẩu và/nguồn mua trong nước.

- Công ty tuyến 2: Là các Công ty được Tập đoàn tạo nguồn về các kho trung tâm.

- Công ty tuyến 3: Là các Công ty có xuất di chuyển nguồn của Tập đoàn cho các
Công ty tuyến sau.

- Công ty tuyến sau: Là các Công ty không có xuất di chuyển nguồn của Tập đoàn
cho các Công ty khác.

Chuỗi cung ứng của Tập đoàn chia làm 2 công đoạn chính: Nhập tạo nguồn và
phân phối. Sơ đồ dưới đây minh họa chi tiết 2 công đoạn này trong chuỗi cung ứng.

Sơ đồ 3.3: Chuỗi cung ứng xăng dầu của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam
(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)

*Nhập tạo nguồn

Tập đoàn tạo nguồn từ hai nguồn chính là nhập khẩu và mua nội địa. Xăng dầu nhập
mua chủ yếu được vận chuyển bởi đường thủy thông qua Tổng Công ty Vận tải thủy
Petrolimex về đến hệ thống các kho cảng đầu mối của các công ty tuyến 1, tuyến 2 được
phân bố ở cả 3 miền Bắc Trung Nam. Ngoài ra, một phần nhỏ được tạo nguồn trực tiếp
bằng đường bộ từ 2 nhà máy lọc dầu về kho chứa của Tập đoàn tại Thanh Hóa và
Quảng Ngãi.

Từ 01/01/2017, Petrolimex bắt đầu kinh doanh mặt hàng xăng E5 tại 02 tỉnh lớn là
Tp. Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh theo đề nghị thí điểm của Bộ Công thương. Và đến
01/10/2017 tổ chức bán trên toàn hệ thống theo yêu cầu bắt buộc của Chính phủ. Để
đảm bảo nguồn cung (ngoài nhập khẩu và nhập trong nước), Petrolimex đầu tư hệ thống
phối trộn tại 09 kho lớn với 02 hệ thống dây chuyền chính là pha chế intank (pha tại
bồn) và pha chế inline (pha tại đường ống) với tỉ lệ pha chế trung bình 5% nhiên liệu
sinh học (E100) và 95% nhiên liệu hóa thạch (xăng Ron 92).

*Phân phối

Sau khi xăng dầu được nhập về các kho cảng đầu mối, dựa trên nhu cầu và sức chứa của
từng địa bàn, Tập đoàn tiếp tục điều động hàng hóa về kho của các công ty tuyến 3,
tuyến sau bằng đường bộ hoặc vận chuyển đường sông, ven biển. Cuối cùng, hàng hóa
ở các công ty thành viên (cả tuyến 1, 2, 3 và tuyến sau) được vận chuyển trực tiếp bằng
đường bộ đến các CHXD trong hệ thống Petrolimex để phục vụ bán lẻ và/hoặc đến cửa
hàng của các đại lý/thương nhân nhượng quyền hay các khu công nghiệp để phục vụ
bán buôn. Xăng dầu sau đó được phân phối trực tiếp đến người tiêu dùng từ các CHXD.

3.3.1.2. Các thành viên trong chuỗi cung ứng xăng dầu của Tập đoàn Xăn dầu
Việt Nam

*Nhà cung cấp

Đối với hàng nhập khẩu, Tập đoàn nhập mua từ các nhà cung cấp lớn, có uy tín
trên thế giới như: BP, Shell, Lukoil, Trafigura, SK Energy... Các công ty này đóng vai
trò trung gian kết nối giữa Tập đoàn và các nhà máy lọc dầu nước ngoài. Bản thân Tập
đoàn cũng có một công ty con tại nước ngoài, đảm nhiệm vai trò tìm kiếm nguồn hàng
đồng thời là nhà cung cấp là công ty TNHH MTV Petrolimex Singapore do Tập đoàn sở
hữu 100% vốn. Thị trường nhập mua chủ yếu của Petrolimex là Hàn Quốc, Malaysia và
các quốc gia trong ASEAN để được hưởng các ưu đãi về thuế quan.

Đối với hàng nội địa, Tập đoàn hiện đang là khách hàng lớn của 2 nhà máy lọc
dầu trong nước là BSR tại Quảng Ngãi và NSR tại Thanh Hóa.
*Các công ty xăng dầu thành viên

Các công ty xăng dầu thành viên là các công ty thuộc sở hữu 100% vốn của Tập
đoàn, có nhiệm vụ thay mặt Tập đoàn bán xăng dầu cho người tiêu dùng ở các địa bàn
được phân công. Các công ty này được chia thành các công ty tuyến 1, 2, 3 và tuyến sau
(xem thêm trong phần 3.2.1.1).

Các công ty tuyến 1 và tuyến 2 sở hữu hệ thống kho bể lớn, là nơi trung chuyển
xăng dầu cho các công ty tuyến sau. Petrolimex có hệ thống kho bể ở cả 3 miền Việt
Nam với tổng sức chứa lên đến hơn 2 triệu m³ (tham khảo Phụ lục 3), gấp đôi so với
PVOil với sức chứa khoảng 952 ngàn m³ (PVOil, 2019). Cụ thể, tại miền Bắc, kho đầu
mối được đặt tại Hòn Gai, Quảng Ninh. Ở miền Trung, kho đầu mối phân bố ở các tỉnh
Nghệ An, Đà Nẵng, Bình Định, Nha Trang. Còn ở miền Trung, Tổng kho Nhà Bè là
kho đầu mối lớn nhất cùng với các kho đầu mối khác ở Vũng Tàu và Cần Thơ. Đặc biệt
2 kho có sức chứa lớn nhất phải kể đến hệ thống các kho xăng dầu B12 trực thuộc
Petrolimex Quảng Ninh và Tổng kho Nhà Bè trực thuộc Petrolimex Sài Gòn. Hệ thống
các kho xăng dầu B12 có sức chứa lên đến gần 380 ngàn m³ nằm trên 4 tỉnh/thành phố
Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương và Hưng Yên. Tổng kho Nhà Bè có sức chứa lên
tới 730 ngàn m³ không chỉ phục vụ nhu cầu của Tập đoàn mà còn kinh doanh dịch vụ
cho thuê kho, bảo quản cho các doanh ngiệp xăng dầu khác ở khu vực phía Nam. Kho
bể của Tập đoàn đều được đầu tư những công nghệ hiện đại và tiên tiến. Các kho đầu
mối của Petrolimex đều được trang bị hệ thống đo mức tự động, góp phần kiểm soát tốt
hao hụt, giảm hao phí sức lao động.

Thông qua các công ty thành viên, Petrolimex sở hữu hệ thống CHXD lớn nhất
Việt Nam với mạng lưới phủ rộng cả 63 tỉnh thành trên cả nước. So với các đối thủ còn
lại, Petrolimex vượt trội hơn hẳn về số lượng theo các cửa hàng trực tiếp sở hữu và số
lượng đại lý/thương nhân nhượng quyền. Tương quan số lượng cửa hàng của các doanh
nghiệp xăng dầu lớn tại Việt Nam được thống kê trong bảng dưới đây:

Bảng 3.3: Số lượng cửa hàng xăng dầu của các doanh nghiệp Việt Nam năm 2023

Hình thức cửa hàng Petrolimex PVOil Petimex Mipec

Trực tiếp sở hữu 2.700 600 n/a 140

Đại lý/Nhượng quyền 2.500 1.200 n/a 500


Tổng 5.200 1.800 ~1.500 640

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ website của Petrolimex, PVOil, Petimex và Mipec)

Đến năm 2019, Petrolimex có khoảng 5.200 cửa hàng trên toàn quốc, trong đó
khoàng 2.700 cửa hàng do Tập đoàn sở hữu và quản lý, còn lại là do các đại lý và
thương nhân nhượng quyền sở hữu. Số CHXD của Tập đoàn sở hữu vượt xa so với các
đối thủ cạnh tranh lớn trong ngành là PVOil (1.800 cửa hàng) và Petimex (1.500 cửa
hàng).

*Các công ty phụ trách vận tải

Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam tổ chức vận chuyển hàng hóa chủ yếu thông qua
đường bộ và đường thủy. Ngoài 2 phương thức này, hàng hóa cũng được vận chuyển
bằng đường ống thông qua hệ thống ống dẫn dầu đặt tại Petrolimex Quảng Ninh (Công
ty xăng dầu B12).

Vận tải bộ là một trong những lĩnh vực chủ chốt phục vụ cho kinh doanh xăng
dầu, đảm bảo duy trì tốt hoạt động sản xuất kinh doanh xăng dầu. Vận tải bộ được triển
khai trong tất cả các loại hình kinh doanh của Tập đoàn gồm tái xuất, bán lẻ, bán buôn,
bán đại lý và tổng đại lý trên địa bàn toàn quốc. Lĩnh vực này được phụ trách bởi Tổng
Công ty Dịch vụ xăng dầu Petrolimex (PTC). Số lượng và dung tích đội xe của PTC
trong tương quan với đội xe của PVOil được thống kê trong bảng dưới đây:

Bảng 3.4: Số lượng phương tiện và dung tích đội xe của Petrolimex và PVOil
năm 2023

Số lượng xe bồn Dung tích


TT Công ty Ghi chú
(xe) (m3)

1 PTC 925 19.234 Công ty 100% vốn của


Petrolimex

2 PVOil 150 2.500

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ website của PTC và PVOil)


Tính đến thời điểm cuối năm 2019, tổng số phương tiện toàn Tổng công ty là 925
xe tương ứng tổng dung tích 19.234 m³, gấp 6 lần so với PVOil về số lượng phương tiện
và 7 lần về dung tích. Ngoài ra, lĩnh vực vận tải thủy cũng là lĩnh vực có vốn đầu tư rất
lớn của Tập đoàn, có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động nhập khẩu xăng dầu. Phụ trách
lĩnh vực này là Tổng Công ty Vận tải thủy Petrolimex. Số lượng và tổng trọng tải đội
tàu của của một số doanh nghiệp vận tải xăng dầu được thống kê trong bảng dưới đây:

Bảng 3.5: Số lượng tàu và dung tích đội tàu của các doanh nghiệp vận tải xăng dầu
tại Việt Nam năm 2023

Số lượng tàu biển Số lượng tàu sông Tổng trọng tải


TT Công ty
(chiếc) (chiếc) (DWT)

1 PGT 12 10 500.000

2 PVTrans 12 0 210.00

2 PVOil 0 7 5.000

3 MekongTrans 2 0 13.000

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ website của PGT, PVOil, PVTrans, Mekong Trans)

Có thể thấy, PGT sở hữu số lượng tàu sông và tàu biển lớn nhất Việt Nam với tổng
trọng tải lên đến 500.000DWT. Trong khi đó, đối thủ đứng thứ hai trong ngành là
PVOil chỉ có 7 xà lan với tổng trọng tải vào khoảng 5.000DWT, thấp hơn rất nhiều so
với PGT. PVOil chủ yếu tổ chức vận chuyển thông qua PVTrans, công ty con trong
cùng hệ thống với PVOil trực thuộc Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam. Việc tự chủ
động đội tàu đã góp phần giúp Petrolimex tiết kiệm chi phí kinh doanh, nâng cao hiệu
quả hoạt động và tăng sức cạnh tranh.

3.2.2. Đặc trưng chuỗi cung ứng xăng dầu của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam

Đặc trưng trong chuỗi cung ứng xăng dầu của Tập đoàn thể hiện ở những đặc
điểm sau:

Về mô hình kinh doanh, khác với các công ty kinh doanh xăng dầu khác trong
nước, Tập đoàn kiểm soát gần như toàn bộ chuỗi cung ứng của mình: từ phương tiện
vận chuyển, bồn bể, kho hàng, cửa hàng phân phối xăng dầu. Do đó, phương thức chủ
yếu bán hàng chủ yếu của Petrolimex là bán lẻ. Trong khi đó, các công ty xăng dầu nhỏ
lẻ chủ yếu thuê tàu, thuê kho và bán buôn cho đại lý. Về mặt quản lý, Tập đoàn quản lý
chuỗi cung ứng của mình theo nguyên tắc quản lý tập trung, tức là Tập đoàn chịu trách
nhiệm tạo nguồn hoàn toàn đến các công ty thành viên trong hệ thống. Hàng hóa trên
toàn hệ thống thuộc quyền sở hữu của Tập đoàn, gửi tại các kho do công ty thành viên
quản lý và Tập đoàn trả cho các công ty thành viên phí thuê kho. Các công ty, doanh
nghiệp thành viên trong Tập đoàn không được phép vay, mua nguồn xăng dầu khác
ngoài Tập đoàn để kinh doanh khi chưa được Tập đoàn chấp thuận bằng văn bản. Tập
đoàn mua hàng, điều hành nguồn trên nguyên tắc đáp ứng tốt nhất nhu cầu xăng dầu
tiêu dùng của xã hội trong điều kiện cụ thể về khả năng nhập khẩu và khai thác nguồn,
duy trì tồn kho toàn Tập đoàn ở mức hợp lý, phù hợp với quy định của pháp luật. Để
chuẩn bị cho công tác lập kế hoạch mua, hàng tháng các công ty thành viên gửi đơn
mua hàng ghi rõ số lượng, chủng loại hàng hóa và phương thức bán hàng (bán lẻ, bán
buôn, bán đại lý). Đơn mua hàng được lập dựa trên cơ sở nhu cầu bán hàng của tháng
tiếp theo, đăng ký với Tập đoàn, không điều chỉnh và không hủy ngang. Đơn mua hàng
là một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng marketing, nắm bắt diễn biến nhu cầu
và khả năng cạnh tranh của các công ty thành viên; không phải là định mức hạn chế bán
hàng. Công ty được quyền đăng ký đơn hàng bổ sung khi Tập đoàn nhận thấy có khả
năng cân đối được nguồn hàng.

Về giá mua và sản lượng, do là khách hàng lớn, thông thường Tập đoàn ký hợp
đồng term (hợp đồng năm) với 2 nhà cung cấp chính là BSR và NSR. Ký hợp đồng term
mang lại lợi thế cho Tập đoàn trong khi đàm phán giá cả, tuy nhiên bù lại Tập đoàn phải
cam kết sản lượng mua hàng tháng do đó, sẽ khó điều chỉnh khi có sự thay đổi đột ngột
về sức cầu trong nước. Trong các trường hợp sản phầm của 2 nhà máy này không đủ để
đáp ứng nhu cầu, Tập đoàn sẽ mua từ nhà cung cấp nước ngoài theo hợp đồng spot (hợp
đồng theo từng chuyến). Việc mua hàng hóa theo hợp đồng spot thường sẽ khiến giá
mua cao hơn so với hợp đồng term.

Về hàng hóa, Tập đoàn kiểm soát gần như hoàn toàn về chất lượng và số lượng
hàng hóa kể từ khi mua từ các nhà cung cấp cho đến khi bán cho người tiêu dùng thông
qua hệ thống kho bể, hệ thống các CHXD và phương tiện vận tải của các công ty con
mà Tập đoàn nắm quyền kiểm soát. Để làm được điều này, Petrolimex đã ban hành các
quy chế thống nhất các nội dung và nguyên tắc về quản lý hao hụt, quản lý chất lượng
áp dụng trên toàn hệ thống. Vì thế, khách hàng có thể luôn yên tâm khi sử dụng các sản
phẩm của Petrolimex.
Cuối cùng, khác với các công ty tư nhân, Petrolimex là một doanh nghiệp chịu sự
chi phối của Nhà nước, mà cụ thể là Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp và
dưới sự giám sát của Bộ Công Thương. Theo đó, Tập đoàn xăng dầu Việt Nam chịu
trách nhiệm đảm bảo cung ứng đầy đủ nguồn năng lượng này cho xã hội và nền kinh tế,
hay nói cách khác là đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Khi giá xăng dầu giảm sâu
hoặc trong những điều kiện khách quan không thuận lợi, nếu như các công ty tư nhân có
thể tạm thời ngừng bán hay từ chối cấp hàng thì Tập đoàn vẫn luôn phải đảm bảo đủ
nguồn hàng cần thiết, không chỉ để đáp ứng nhu cầu của những khách hàng thường
xuyên mà còn cả lượng cầu trước đây được các công ty này cung cấp. Vì thế, việc cân
bằng giữa hiệu quả kinh doanh và nhiệm vụ chính trị luôn đặt ra một bài toán khó đối
với Ban lãnh đạo Petrolimex.

3.3.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của chuỗi cung ứng xăng dầu

của Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam

3.3.2.1. Nhân tố bên trong

Nguồn nhân lực

Nếu công tác nguồn nhân lực được thực hiện tốt sẽ hỗ trợ rất lớn trong hoạt động
của chuỗi cung ứng (Ellinger, 2013). Trong quá trình hội nhập quốc tế, Tập đoàn đã
thực hiện bán một phần vốn cho đối tác Nhật Bản là JX Nippon Oil And Energy. Hai
bên đã ký thỏa thuận hợp tác chiến lược, theo đó đối tác Nhật Bản sẽ hỗ trợ Petrolimex
trong nhiều lĩnh vực như tài chính kế toán, kỹ thuật, công nghệ,... Do đó, khác với các
thời kỳ trước, Petrolimex ngày nay cần đội ngũ nhân sự thông thạo ngoại ngữ, có
chuyên môn cao để nắm bắt cơ hội tiếp nhận những kiến thức hiện đại, tiên tiến
trên thế giới.

Bên cạnh đó, kinh doanh xăng dầu là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, chịu sự
ràng buộc bởi nhiều quy định của luật pháp về kinh doanh, kỹ thuật, an toàn. Mặt hàng
xăng dầu là mặt hàng chịu sự giám sát của Nhà nước, phải tuân theo quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia. Vì thế, nhân sự làm trong ngành này không chỉ cần giỏi chuyên môn nghiệp
vụ mà còn cần có kiến thức về luật pháp và đặc biệt là kinh nghiệm trong lĩnh vực xăng
dầu.

Trình độ tổ chức quản lý, dự trữ mua hàng


Phát buổi tại Hội nghị Tổng kết hoạt động kinh doanh 2020, ông Phạm Đức
Thắng, Tổng Giám đốc Petrolimex nhận định quản trị rủi ro hàng tồn kho đã được xếp
vào một trong những rủi ro trọng yếu cấp Tập đoàn. Cũng theo ông, bản thân
Petrolimex cũng đã trải nghiệm nhiều bài học sâu sắc trong công tác quản trị hàng tồn
kho trước diễn biến khó dự đoán của giá dầu, điển hình là kết quả kinh doanh hồi nửa
đầu năm 2020 của Tập đoàn đã chịu tác động nặng nề khi giá dầu xuống mức thấp nhất
trong lịch sử. Vì thế, quản trị rủi ro hàng tồn kho là một trong những ưu tiên hàng đầu
cần được phát triển trong công tác điều hành thời gian tới.

Là một công ty thương mại, hoạt động chủ yếu là mua đi bán lại xăng dầu, lợi
nhuận của Tập đoàn chịu ảnh hưởng rất lớn bởi phương pháp quản lý hàng tồn kho.

Theo thông lệ mua bán xăng dầu quốc tế tại châu Á, giá mua của Tập đoàn được
dựa trên trung bình giá mua và bán các sản phẩm trên thị trường Singapore hàng ngày
(Mean of Platts Singaore) và các loại công thức giá. Có nhiều loại công thức giá như:

Hiện nay, Tập đoàn chủ yếu mua các lô hàng theo công thức giá 15 ngày sau ngày
vận đơn cho phù hợp với chu kỳ đổi giá 15 ngày của Liên Bộ Công Thương-Tài Chính.
Tuy nhiên, do là 15 ngày sau ngày vận đơn nên giá mua của các lô hàng biến động
nhiều trong tháng, phụ thuộc nhiều vào ngày vận đơn. Trong khi đó, chu kỳ đổi giá của
Liên Bộ Công Thương-Tài Chính theo Nghị định 83 là đều đặn 15 ngày dựa trên trung
bình giá MOPS trong nửa đầu tháng hoặc nửa sau tháng. Việc giá mua thay đổi liên tục
trong khi giá bán chỉ điều chỉnh 15 ngày một lần đã dẫn đến khó khăn trong việc quản
lý hàng tồn kho do không có sự phù hợp trong công thức giá giữa giá mua vào và giá
bán ra. Trong các thời kỳ giá giảm đột ngột, việc dữ trự hàng tồn kho mua từ thời điểm
trước với giá cao gây ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của Tập đoàn.

Thêm vào đó, cũng theo quy định tại Nghị định 83, Tập đoàn phải duy trì hàng tồn
kho tối thiếu 30 ngày cung ứng để dự phòng trong những trường hợp cần thiết. Quy
định này gây ảnh hưởng rất lớn đến sự linh động trong điều hành hàng tồn kho. Việc dự
trữ 1 lượng hàng tồn kho lớn đủ trong 30 ngày trong khi giá thế giới liên tục thay đổi
vòn giá bán lẻ điều chỉnh 15 ngày 1 lần ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của
Petrolimex. Trong những thời kỳ giá xuống, việc dự trữ một lượng hàng tồn kho lớn giá
cao trong khi giá bán lẻ điều chỉnh giảm khiến cho Petrolimex có thể bị lỗ đối với các lô
hàng mua trước đó.
Cuối cùng, ngoài dự trữ hàng hóa cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình,
Petrolimex còn phải đảm nhiệm vai trò dự trữ hàng quốc gia. Đây là loại hàng phục vụ
cho mục đích bảo đảm an ninh năng lượng, thuộc sở hữu của Nhà nước, hiện đang được
gửi tại kho, giao cho Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam và Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt
Nam quản lý và không được sử dụng vào mục đích kinh doanh. Quy định này cũng đã
gây trở ngại trong hoạt động của Tập đoàn khi một phần sức chứa bị cô lập, làm mất
tính linh hoạt trong việc điều động hàng tồn kho.

Công nghệ thông tin

Với sự biến động phức tạp của thị trường xăng dầu thế giới và yêu cầu quản lý
Nhà nước đối với thị trường xăng dầu trong những năm gần đây, việc quản trị hoạt động
kinh doanh xăng dầu của Tập đoàn đòi hỏi thông tin minh bạch, kịp thời và chuẩnxác.
Ngoài ra, với mạng lưới phân phối rộng lớn và hoạt động liên tục 24/7, Petrolimex cần
kiểm soát theo thời gian thực dữ liệu hàng hóa, kế toán, tài chính. Những yêu cầu này
trên thực tế chỉ có thể được đáp ứng thông qua việc áp dụng CNTT vào công tác quản
lý, điều hành. Các tài liệu cho thấy sự cần thiết việc sử dụng các hệ thống ERP để đảm
bảo chất lượng (Issa và cộng sự, 2009).

Không những vậy, CNTT 4.0 hiện đang trong giai đoạn khởi phát, sẽ xóa nhòa
khoảng cách giữa thế giới thực và thế giới ảo thông qua các công nghệ tiên tiến. Cuộc
cách mạng này đang làm thay đổi thói quen tiêu dùng người mua. Người tiêu dùng giờ
đây không chỉ đơn thuần mua sản phẩm mà còn muốn được trải nghiệm các tiện ích về
công nghệ trong quá trình mua và sử dụng sản phẩm như thanh toán, hậu mãi, tích
điểm... Do đó, CNTT không chỉ cần được ứng dụng trong công tác quản lý điều hành
mà còn cần được phát huy để gia tăng sự tiện dụng, trải nghệm của khách hàng khi sử
dụng các sản phẩm và dịch vụ của Petrolimex. Có thể nói, CNTT là một trong những
yếu tố quan trọng, xuất phát từ nhu cầu nội tại, góp phần vào sự phát triển chung của
Tập đoàn.

3.3.2.2. Nhân tố bên ngoài

Quan hệ với khách hàng và nhà cung cấp

Một doanh nghiệp muốn có được sự thành công lâu dài thì cần phải chú ý đến mối
quan hệ với khách hàng thông qua việc thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Đối với
Petrolimex, sự hài lòng của khách hàng càng đóng vai trò đặc biệt quan trọng do các sản
phầm xăng dầu đều tuân theo quy chuẩn của Bộ Khoa học Công nghệ và vì thế sản
phẩm của Petrolimex không có sự khác biệt nhiều so với đối thủ cạnh tranh, chi phí
chuyển đổi từ mua hàng của Petrolimex sang mua hàng của các đối thủ khác là khá
thấp. Do đó, sự hài lòng của khách hàng đạt được thông qua trải nghiệm dịch vụ, thái độ
của nhân viên phục vụ, sự thuận tiện của vị trí cửa hàng xăng dầu,... là yếu tố quyết định
sự trung thành của khách hàng với Petrolimex.

Bên cạnh đó, Petrolimex cũng cần duy trì mối quan hệ tốt đối với những nhà cung
cấp. Hiện nay, Tập đoàn chủ yếu nhập mua từ 2 nhà máy lọc dầu trong nước là BSR và
NSR và vì thế bất kỳ sự thay đổi nào trong hoạt động của 2 nhà máy này đều có ảnh
hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của Tập đoàn. Trên thực tế, nhà máy lọc dầu Nghi
Sơn mới đi vào vận hành nên hoạt động chưa ổn định, do đó trong một số thời kỳ không
cung cấp đủ sản lượng như đã cam kết. Điều này gây ảnh hưởng đến kế hoạch mua
hàng của Tập đoàn, gây khó khăn trực tiếp cho công tác lập kế hoạch mua hàng và đàm
phán về giá cả. Nhất là đối với những sự cố bất thường không được thông báo trước,
Tập đoàn buộc phải mua hàng nhập khẩu theo hợp đồng chuyến và do đó giá mua luôn
cao hơn. Vì thế ngoài mối quan hệ mua bán thông thường, Tập đoàn cần xây dựng được
mối quan hệ tin tưởng lẫn nhau dựa trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi với các nhà
cung cấp. Việc được chia sẻ thông tin chính xác về tình hình hoạt động của các nhà máy
sẽ giúp Petrolimex chủ động hơn trong công tác tạo nguồn của minh. Sương (2012) cho
rằng việc xây dựng sự hợp tác trong chuỗi là rất cần thiết nhằm không chỉ giải quyết
được việc các thành viên chịu chia sẻ trách nhiệm và lợi ích từ việc cải thiện lợi ích
chung, mà còn giải quyết được vấn đề quản lý kém linh hoạt trong toàn bộ chuỗi cung
ứng.

Sự cạnh tranh trong chuỗi cung ứng

Nghị định 83 đã nới lỏng 1 số điều kiện về kinh doanh xăng dầu, tạo ra một môi
trường cạnh tranh hơn khi ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào lĩnh vực phân
phối xăng dầu. Trong Danh sách các thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu
xăng dầu đăng trên website của Bộ Công Thương, con số được ghi nhận ở thời điểm
tháng 8/2019 là 32 thương nhân. Trong khi đó, khi Bộ Công Thương phân bổ hạn mức
kinh doanh xăng dầu nhập khẩu năm 2012, danh sách chỉ có 13 doanh nghiệp đầu mối.
Tới năm 2014, con số tăng lên 18 đầu mối, năm 2015 là 19 đầu mối. Tính tới hết năm
2020 toàn thị trường có 38 thương nhân phân phối, tăng gấp đôi so với năm 2015
(http:minhbach.moit.gov.vn). Số lượng gia tăng nhanh chóng của các đầu mối dẫn đến
sự cạnh tranh tương đối khốc liệt trong lĩnh vực phân phối xăng dầu.

Các doanh nghiệp tư nhân luôn có sự linh hoạt hơn trong điều hành do chỉ theo
đuổi mục tiêu lợi nhuận. Điển hình như trong những trường hợp giá xăng dầu thế giới
biến động mạnh và đột ngột, việc hạn chế hay tạm ngừng nhập mua hàng mới là cần
thiết để đảm bảo lợi nhuận thì Petrolimex vẫn phải tiếp tục công tác nhập mua để đảm
bảo nhu cầu tiêu thụ trong nước còn các doanh nghiệp tư nhân thì ít chịu tác động hơn
bởi các nhiệm vụ chính trị-xã hội như vậy.

Không chỉ đối mặt với sự cạnh tranh từ các đối thủ trong ngành, Petrolimex còn
chịu áp lực bởi sự cạnh tranh từ xăng dầu nhập lậu. Hiện nay, thị phần của Petrolimex
rơi vào khoảng gần 50%, PV Oil khoảng 20% (VCBS, 2020). Nếu tính thêm thị phần
của một số doanh nghiệp cũng kinh doanh xăng dầu lâu năm như Saigon Petro, Tổng
công ty Xăng dầu Quân đội, Công ty Thương mại Dầu khí Đồng Tháp, Tổng công ty
Xuất nhập khẩu Thanh Lễ với tổng cộng khoảng 15% nữa, thì phần còn lại cho hơn 20
thương nhân kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu chỉ còn hơn 15%. Dẫu vậy, sự nở rộ
của các đầu mối xuất nhập khẩu xăng dầu gần đây cho thấy, thời điểm này, tư nhân có
vẻ rất thích mảng này, mà nguyên nhân được cho là có những kẽ hở để “lậu”, có cả lậu
về số lượng và lậu về chất lượng. Nếu khai lậu được số lượng, như tàu 5.000 m³ mà qua
mặt được cơ quan chức năng xuống chỉ còn 2.000 m³, thì lợi nhuận thu được không
nhỏ, bởi mỗi lít xăng giá khoảng 20.000 đồng nếu nhập khẩu chính ngạch sẽ phải chịu
từ 6.000-7.000 đồng chi phí thuế và phí các loại. Do các đầu mối này có hệ thống chân
rết là các cây xăng bán lẻ tới người tiêu dùng và người mua không cần lấy hoá đơn, nên
doanh nghiệp có thể lợi dụng kẽ hở này để hợp pháp hoá việc nhập nhiều nhưng khai ít.
Ngoài ra hiện tại tỷ lệ thuế, phí hiện tại đang chiếm tới 55- 60% đối với xăng, khoảng
40% đối với dầu cho nên với mức giá vào khoảng 19.000đ/1 với xăng và 14.000đ/1 đối
với dầu (giá bán lẻ tại ngày 16/4/2021) thì doanh nghiệp buôn lậu có thể "né" thuế, phí
lên đến mức cao nhất là gần 10.000 đồng/lít, là mức "siêu lợi nhuận".

3.4. Đánh giá chung về chuỗi cung ứng xăng dầu của Tập đoàn Xăng dầu Việt
Nam

3.4.1. Kết quả đạt được


Về quy mô, trong giai đoạn 2016-2019, Petrolimex liên tục được vinh danh là Nhà
quán quân thị trường chứng khoán về doanh thu trong "Top 50 Công ty niêm yết tốt
nhất Việt Nam" do Tạp chí Forbes bình chọn. Petrolimex cũng xếp thứ 5 trong danh
sách VNR500- Bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam dựa trên kết quả
nghiên cứu và đánh giá độc lập theo chuẩn mực quốc tế của Công ty Vietnam Report
theo mô hình Fortune 500.

Về địa bàn kinh doanh, Petrolimex có mạng lưới phân phối trải dài cả ba miền
cùng số lượng cửa hàng lớn nhất Việt Nam. Bên cạnh đó, Tập đoàn còn mở rộng kinh
doanh ra thị trường quốc tế, cụ thể là thị trường Campuchia và Lào. Petrolimex cũng là
doanh nghiệp duy nhất có kho ngoại quan tiếp nhận tàu chở dầu cỡ lớn 150.000 DWT;
giúp Petrolimex chủ động được nguồn hàng và giảm thiểu tối đa các chi phí trong việc
vận chuyển xăng dầu.

Về sản phẩm, hiện tại, Petrolimex cũng là doanh nghiệp xăng dầu duy nhất cung
cấp các nguồn nhiên liệu sạch, giảm ô nhiễm môi trường, có mức tiêu chuẩn cao nhất
hiện nay tại thị trường Việt Nam, như sản phẩm dầu Diesel tiêu chuẩn Euro 5, và xăng
Ron 95 tiêu chuẩn Euro 4. Tập đoàn cũng đang nghiên cứu để trong tương lai gần sẽ
đưa tới người tiêu dùng các sản phẩm xăng, dầu chất lượng cao cấp hơn nữa, đạt tiêu
chuẩn Euro mức 5, mức 6 và xa hơn nữa là các sản phẩm năng lượng tái tạo.

Về hiệu quả hoạt động, so với các đối thủ khác trong ngành, Petrolimex có hiệu
quả hoạt động cao hơn thể hiện qua chỉ tiêu năng suất lao động. Nếu như năng suất lao
động của đối thủ đứng thứ 2 trong nganhg là PVOil đạt trung bình 110m³/cửa
hàng/tháng thì con số này của Petrolimex là 180m³/cửa hàng/tháng, cao hơn tới 63%.

Về ứng dụng CNTT trong quản lý, Petrolimex là doanh nghiệp tiên phong trong
ngành với việc áp dụng thành công các công nghệ như: ERP-SAP trong quản lý số liệu,
E-gas để quản lý cửa hàng xăng dầu, E-invoice, E-office,... Petrolimex cũng là doanh
nghiệp đầu tiên và duy nhất của Việt Nam triển khai đồng bộ và áp dụng trên các giải
pháp công nghệ trên toàn hệ thống. Việc đầu tư, lắp đặt hệ thống thiết bị thu hồi khí thải
ra môi trường, xử lý nước thải hay nâng cấp các hệ thống cơ sở vật chất, công nghệ và
trang thiết bị phòng cháy chữa cháy, bảo vệ môi trường hiện đại có mức độ cảnh báo và
phòng ngừa cao luôn được Petrolimex chú trọng thực hiện nghiêm túc và bài bản.

3.4.2. Hạn chế và nguyên nhân


Mặc dù đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, hoạt động kinh doanh của Petrolimex
còn tồn tại một số hạn chế cần được khắc phục, cụ thể như sau:

3.4.2.1. Đối với công tác tạo nguồn

Việc mua và dữ trữ tồn kho hiện nay phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu xã hội và biến
động giá dầu trên thị trường. Trong khi đó, giá bán đầu ra chịu sự điều chỉnh của Liên
Bộ Công Thương-Tài chính với chu kỳ là 15 ngày dựa trên giá dầu thế giới 15 ngày
trước ngày công bố. Chính vì thế, việc dự trữ hàng tôn đảm bảo cho 15 ngày cung ứng
là cách hợp lý nhất để giá mua của doanh nghiệp tiệm cận được với giá bán quy định.

Tuy nhiên, cũng theo quy định một số doanh nghiệp lớn cần dự trữ hàng tồn kho
tối thiểu 30 ngày cung ứng, dẫn đến việc bất cân xứng giữa giá mua và giá bán. Việc
Nhà nước quy định giá bán cũng dẫn tới sự méo mó của thị trường khi giá không được
xác định dựa trên quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh, gây thiệt hại cho doanh
nghiệp trong các thời kỳ giá thế giới biến động mạnh.

3.4.2.2. Đối với quá trình vận chuyển

Hiện nay, Tập đoàn vận chuyển hang hóa thông qua 2 hình thức: vận tải đường
biển và đường bộ. Đối với vận tải đường biển, việc khai thác đội tàu của Petrolimex
chưa thực sự đem lại hiệu quả, chưa phản ứng kịp thời với những thay đổi trong nền
kinh tế. Cụ thể là, việc nhà máy lọc dầu Nghi Sơn đi vào hoạt động từ năm 2017 đã
khiến cho tổng sản lượng xăng dầu sản xuất trong nước đáp ứng được gần 80% nhu cầu
thực tế. Thêm vào đó, việc tạo nguồn nội địa cũng hiệu quả hơn về mặt chi phí do tối ưu
hóa được quãng đường vận chuyển. Vì thế, bắt đầu từ năm 2017, Petrolimex cũng đã
dần chuyển hướng tự tạo nguồn nhập khẩu sang nội địa. Trong khi đó, các cảng nội địa
chỉ có thể tiếp nhận được các tàu có trọng tải trung bình (tối đa 20.000DWT), không
phù hợp với đội tàu cỡ lớn mà Petrolimex đang sở hữu vốn phù hợp với việc vận
chuyển đường dài.

Đối với vận tải đường bộ, Tổng Công ty dịch vụ Xăng dầu Petrolimex (PTC) chịu
trách nhiệm vận chuyển xăng dầu bằng đường bộ giữa các kho và CHXD trong hệ
thống Petrolimex. PTC không trực tiếp điều động vận tải mà giao quyền và phương tiện
cho 6 chi nhánh, mỗi chi nhánh phụ trách các địa bàn khác nhau. Quy trình di chuyển
hàng hiện nay diễn ra như sau:
Hàng ngày, các Công ty thành viên kiểm tra lượng hàng tồn kho tại các CHXD
trực thuộc. Từ đó, các công ty tính toán nhu cầu và đặt hàng chi nhánh PTC vận chuyển.
Sau khi nhận yêu cầu đặt hàng từ các công ty, PTC nhận lệnh và điều động xe đến kho
lấy hàng và chở đến CHXD.

Quy trình hiện tại gây ra nhiều bất cập trong việc quản lý, cụ thể như sau:

(i) Việc cập nhật hàng tồn kho và ước tính nhu cầu phụ thuộc rất lớn vào yếu tố
con người. Nhiều cửa hàng trưởng chưa sát sao dẫn đến chậm cập nhật đơn hàng, bố trí
phương tiện vận chuyển.

(ii) Việc các chi nhánh của PTC phụ trách các khu vực khác nhau dẫn đến việc
cạnh tranh nội bộ giữa các chi nhánh và kém hiệu quả về mặt chi phí. Trên thực tế đã
xảy ra trường hợp chi nhánh A vận chuyển đến 1 CHXD hiệu quả hơn nhưng lại không
được đảm nhận do CHXD đó nằm trên địa bàn của chi nhánh B quản lý.

(iii) Hiện nay, lịch trình và vị trí của các xe trong quá trình vận chuyển đang
không được kiểm soát, gây khó khăn trong việc ước tính thời gian vận chuyển và có thể
dẫn đến gian lận trong quá trình vận chuyển.

(iv) Các công ty thành viên thường xuyên thay đổi đơn hàng nhằm phục vụ mục
tiêu sản lượng, đặc biệt vào những thời kỳ cao điểm như lễ tết, thời tiết thay đổi đột
ngột hay những ngày đổi giá. Việc này dẫn đến bất cập trong việc điều xe, lập kế hoạch
vận chuyển.

3.4.2.3. Các hạn chế khác


Một là việc giao kế hoạch cho các công ty thành viên chủ yếu dựa trên sản lượng
đôi khi chưa phù hợp với mục tiêu tối ưu hóa lợi nhuận, lợi ích cho cổ đông. Do hàng
hóa được Tập đoàn trực tiếp tạo nguồn, các công ty con chỉ bán hộ và hưởng chiết khấu
từ giá bán nên các công ty ít quan tâm đến việc đảm bảo lợi nhuận mà chỉ phấn đấu bán
sản lượng để hoàn thành kế hoạch. Mọi khoản lỗ nếu có sẽ được chuyển gần như toàn
bộ về công ty mẹ. Chính vì thế, Tập đoàn luôn phải quy định mức giá bán tối thiểu ra
bên ngoài, điều này mặt khác lại gây nên bất cập do các công ty dưới là người trực tiếp
bán hàng, hiểu được khách hàng nhưng lại không có quyền quyết định về giá và nguồn
hàng mà phụ thuộc hoàn toàn vào công ty mẹ.

Hai là, cùng với quy mô lớn là việc quản lý một lúc quá nhiều hoạt động cũng dẫn
đến bộ máy hoạt động cồng kềnh và chưa thực sự hiệu quả. Do mô hình cung ứng tập
trung cao nên đã làm mất đi tính chủ động của các đơn vị. Các đơn vị thành viên không
được phép tự tạo nguồn mà phụ thuộc hoàn toàn vào Công ty mẹ. Điều này đã hạn chế
tính chủ động của các công ty thành viên trong công tác tổ chức kinh doanh. Do đó, sự
phản ứng của Petrolimex với những biến động của thị trường còn thiếu tính kịp thời do
phải qua nhiều cấp báo cáo và chịu sự chỉ đạo của nhiều cơ quan trung gian.

Ba là, việc ứng dụng công nghệ số vào gia tăng trải nghiệm khách hàng tại các
CHXD chưa được quan tâm đúng mức. Khách hàng hiện tại vẫn chưa được tiếp cận với
các tiến bộ công nghệ trong quy trình bán hàng tại các CHXD. Đơn cử như việc thanh
toán bằng thẻ đã được triển khai từ năm 2009 nhưng đến nay chưa thu được nhiều kết
quả khả quan. Hệ thống POS được đầu tư những năm 2009 đến nay đã lạc hậu, model
thiết bị đã ngừng sản xuất, không còn thiết bị thay thế, tình trạng POS lỗi phát sinh
nhiều gây ảnh hưởng đến việc thanh toán của khách hàng. Không những thế, hệ thống
POS tại CHXD là hệ thống thanh toán độc lập với hệ thống thiết bị bán hàng (cột bơm),
các thông tin về thanh toán và thông tin giao dịch bán hàng không có sự liên kết trực
tiếp với hệ thống của Petrolimex.

You might also like