Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 4

GV.

Nguyễn Thị Linh Chi

ĐỀ ÔN TẬP HK II LỚP 10
I. ĐỌC – HIỂU
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
Bóng của thành phố - Nguyễn Ngọc Tư
Như bao bà mẹ khác, mẹ tiễn con gái về nhà chồng cũng sụt sịt lấy tay áo lau nước mắt. Mọi người
xúm lại kêu, gả con về chợ, mắc gì mà khóc. Trong lòng những bà dì bà thím ở quê, về chợ nghĩa là ăn
sung mặc sướng, đèn đóm sáng trưng, thiếu thứ chi chỉ cần bước ngay ra cửa là có, “mãn năm 1 móng
chân không dính miếng sình”.
Nhưng chỉ bữa sau đám cưới, cô dâu mới đã phải xoắn tay áo hì hụi tát nước, kê cao những vật dụng
trong nhà. Sau trận mưa khuya đường sá biến thành sông, nước tràn vào lòng những căn nhà thấp hệt
thung lũng, sau mấy bận người ta cơi cao mặt đường chống ngập. Nước mưa và triều cường cứ dùng
dằng mãi trên đường không chịu rút. Cô thấy cái cảnh mình xoắn quần lội lò dò đi giữa rác rưởi và nước
cống rãnh đen ngòm, có khác gì ở quê những ngày lụt. Thành phố cuối năm, những bữa tiệc nước không
mong đợi cứ theo gió chướng mà về.
Nhưng cô dâu mới không vỡ mộng, cái nơi chốn cô vừa trở thành nông dân chính thức không lạ gì
sau năm năm trọ học. Cũng có thể cô đã từng hơi thất vọng, vào những ngày đầu khăn gói đến đây. Thấy
chợ cũng như cái xóm quê mình, mưa đầu mùa cũng gặp mấy con cá rô ốm ròm vác cái bụng lặc lè trứng
lóc qua sân nhà trọ. Chạng vạng, ễnh ương, nhắc nheng kêu sầu trời đất. Có bữa dậy thấy rắn nước nằm
khoanh tìm hơi ấm trong giày. Đường sá quãng cuối năm thành sông, lút nửa vành bánh xe đạp. Ở cái nơi
là chợ, lâu lâu thấy một ông già lùa đàn bò ngang qua, nhiều khu dân cư mới người tới chưa đông, cỏ dại
mọc đầy. Cái anh trọ ở đầu dãy, suốt ngày vác trúm đặt lươn quanh quanh mấy mương cống, mà đủ sống.
Và bà già bán bánh bò xốp ở ngã tư đường, anh sửa bếp ga, ông già đổi nước mưa cũng nghèo cũng
ướt như dì Út Chót làm cỏ mướn kế bên nhà mẹ ở quê. Chính những con người lam lũ ấy khiến cô sinh
viên trẻ khi đó cảm giác thật rõ ràng, thành phố cũng là một cái làng không quá khác biệt với chốn quê
nơi cô trải qua suốt thời thơ ấu. Đời sống chợ - quê trong cô không quá chênh lệch đến nỗi ập vào ngộp
thở như mỗi lần đi qua cây cầu, một bên rạng rỡ ánh đèn, bên kia là khu nhà ổ chuột chằng đụp, bóng
đèn dây tóc đỏ lói. Nghe nói để giải tỏa hết khu ổ chuột trên sông đó, cũng phải chục năm nữa. Nghĩa là
thêm chục năm cây cầu bất đắc dĩ làm biên giới. Và cả thành phố không hiếm những đường biên kiểu vậy,
hữu hình hoặc vô hình. Dễ gặp những cơ quan, dinh thự thênh thang, cách đó chừng trăm mét là ngõ hẻm
lầy lội, khuất tối. Dễ gặp một người ve chai ngồi ăn vội gói xôi trước cửa hàng sang trọng rực ánh đèn.
Hào nhoáng, mơ tưởng như lớp vôi vữa, cứ dần rụng rơi. Thành phố không phải thiên đường cho tất
cả cư dân lặn ngụp trong lòng nó.
Vài ba lần trong năm, thành phố có chút rộn ràng với những chiếc xe quảng cáo nhạc hội. Thứ nhạc
hội mà bọn trẻ con len lỏi gần cánh gà vẫn thường nghe ca sỹ hạng ba văng tục, và các anh chị được
quảng cáo là ngôi sao hàng đầu ấy vẫn hát oang oang kể cả khi rớt micro. Nội dung thì mỗi người một
nẻo, sến sang vọng cổ đủ cả. Những buổi tối dằng dặc còn lại, khi nhạc hội dọn bãi rồi, đàn ông không
biết làm gì ngoài chuyện cụng ly trong quán nhậu, phụ nữ coi phim truyền hình nhiều tập, trẻ con xem
hoạt hình nếu khỏi phải tới những buổi học thêm. Không rạp chiếu phim đúng nghĩa, không nhà hát.
Cô dâu mới chưa bao giờ che giấu ước mơ kiếm thật nhiều tiền để chuyển đến thành phố lớn hơn, khi
cô có con (như người ở thành phố lớn đang tìm đường ra nước ngoài cho con cái họ). Những cuối tuần cô
sẽ đưa chúng đi công viên vẽ tranh, đi bảo tàng, hoặc xem kịch, coi phim, may hơn có thể tham dự một vài
buổi hòa nhạc ngoài trời. Những thứ đó, cô nghĩ, đâu phải là quá xa xỉ với cư dân đô thị. Nhưng sao
người của cái thành phố tỉnh lẻ này phải chờ đợi quá chừng lâu.
1
Mãn năm: cả năm
GV. Nguyễn Thị Linh Chi

Và trong lúc cô nỗ lực làm lụng kiếm tiền để nuôi dưỡng một giấc mơ, thì các thím trong quê cũng
dành dụm để đưa con cái ra chợ học, với ước mong tụi nhỏ sớm thụ hưởng thứ ánh sáng thị thành. Định
nghĩa về thành phố với người quê thật giản dị, chỉ cần nhiều đèn và nhiều khu mua sắm, có trung tâm
sinh ngữ cho tụi nhỏ bôn ba từ lớp chiều đến lớp đêm.
Những cư dân xóm chợ nào đã trải qua những tối dài nhàm chán không cách chi làm đầy, những khi
khách xa đòi ngồi ở quán cà phê ngắm mấy dòng sông mà thành phố đã quyết liệt giấu chúng sau những
dãy phố ken chật, những lần trẻ con níu áo hỏi ba ơi mình đi đây vậy, lúc ấy, mới thấy thành phố vẫn
chưa đủ sáng, thứ ánh sáng không đơn giản chỉ là treo thật nhiều đèn màu chớp nháy.

Câu 1: Đoạn trích trên sử dụng phương thức biểu đạt nào?
A. Tự sự B. Miêu tả
C. Biểu cảm D. Nghị luận
Câu 2: Quyền năng của người kể chuyện được phát huy như thế nào trong văn bản trên?
A. Ngôi kể thứ nhất, người kể là một nhân vật trong truyện, nhưng đã tận dụng tối đa khả năng toàn
tri, am hiểu tường tận diễn biến sự việc và tâm tư của mọi nhân vật để tái hiện câu chuyện.
B. Kết hợp ngôi kể thứ nhất và ngôi kể thứ ba, quyền năng người kể chuyện được phát huy tối đa, vừa
đem lại tính chân thực vừa tạo nên tính khách quan cho các sự kiện được kể.
C. Ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện hạn tri, nhưng bộc bạch một cách thành thực nhất những tâm tư
tình cảm của mình và những điều mình quan sát được.
D. Ngôi kể thứ ba, người kể chuyện phát huy khả năng toàn tri, dẫn dắt mạch truyện một cách tự
nhiên, điểm nhìn di chuyển linh hoạt tạo nên tính khách quan cho câu chuyện.
Câu 3: Giọng điệu và nhịp điệu kể của người kể chuyện được thể hiện như thế nào trong tác
phẩm?
A. Giọng điệu lạnh lùng nhưng ẩn chứa sau đó là nỗi xót thương và nhịp điệu linh hoạt, khi chậm rãi,
lúc vội vàng.
B. Giọng điệu buồn mênh mang, xen lẫn những đắng cay và nhịp điệu kể càng về cuối lại càng gấp
gáp, vội vàng.
C. Giọng điệu điềm nhiên, trầm tĩnh, có phần đượm buồn, chua xót và nhịp điệu kể chậm rãi, từ tốn
theo nhịp sống.
D. Giọng điệu vừa giễu nhại, phê phán lại vừa xót xa, thương cảm và nhịp điệu kể càng lúc càng
chậm rãi.
Câu 4: Phương án nào sau đây chỉ ra chính xác và đầy đủ đặc điểm không gian nghệ thuật
được tái hiện trong truyện ngắn trên?
A. Không gian làng quê, xóm chợ, thị thành hiện lên ở hai chiều thực tế và mơ tưởng đối lập với
nhau: thực tại tối tăm, tù túng, nghèo khổ còn trong mơ tưởng lại hào nhoáng, sáng rực, đẹp đẽ.
B. Không gian thành phố với những đối lập trong cách nhìn của mỗi nhân vật: sáng chói, rực rỡ, hào
nhoáng với người ở quê và chật chội, ngột ngạt, tối tăm với người đã và đang sống trong nó.
C. Không gian thành thị với những mảng màu đối lập đan xen nhau, ngay cạnh những dinh thự xa hoa
là những ngõ hẻm lầy lội; tương phản với vẻ thanh bình nơi làng quê nghèo.
D. Không gian làng quê nghèo đói, chật hẹp, tối tăm bao phủ những ước mơ con người, đối lập với
không gian thành phố sáng loáng, đẹp đẽ, rực rỡ sang trọng, xa hoa thắp lên niềm tin và hi vọng.
Câu 5: Trong truyện ngắn trên, Nguyễn Ngọc Tư không đặt tên cụ thể cho các nhân vật. Cách
gọi nhân vật bằng “bà mẹ”, “cô dâu mới”, “các thím”, “cư dân xóm chợ” có ý nghĩa như thế nào
trong việc làm nên thành công của thiên truyện?
A. Việc chỉ gọi nhân vật bằng các danh từ chung góp phần làm tăng tính khái quát cho vấn đề cuộc
sống được đặt ra trong tác phẩm; đó không chỉ là câu chuyện của một người, một làng, một thành phố mà
là của biết bao kiếp người, biết bao vùng quê khác.
GV. Nguyễn Thị Linh Chi

B. Tác giả chỉ gọi nhân vật bằng “bà mẹ”, “cô dâu mới”, “các thím”, “cư dân xóm chợ” bởi đó là các
nhân vật vô danh, bình dị, không một ai biết đến; họ sống một cách thầm lặng với những ước mơ và hi
vọng nhỏ nhoi trong những làng quê, xóm chợ nghèo.
C. Việc không đặt tên cụ thể cho các nhân vật giúp tác giả dễ dàng, tự do lách sâu vào những tâm tư
sâu thẳm của mỗi nhân vật; tránh bị dư luận đánh giá về việc lấy nguyên mẫu đời thực trong xã hội phê
bình online phát triển mạnh mẽ như hiện nay.
D. Cách xây dựng các nhân vật không có tên riêng tạo điều kiện cho nhà văn khắc họa được những số
phận có thực ở nông thôn Nam Bộ mà không khiến cho họ cảm thấy tự ái; đồng thời tạo nên tính phổ quát,
giúp mỗi người đọc như cũng thấy mình trong đó.
Câu 6: Phương án nào sau đây chỉ ra chính xác định nghĩa về thành phố của những người dân
ở quê trong truyện ngắn trên?
A. Người dân ở quê định nghĩa về thành phố là nơi chẳng khác gì với làng quê họ đang sống, cũng tối
tăm, chật vật, ngột ngạt với những mối lo cơm áo.
B. Người dân ở quê định nghĩa về thành phố là nơi hoa lệ, giàu sang, là nơi giúp cho con cái của họ
có cơ hội được đổi đời, nhưng cũng đầy những khó khăn, cạm bẫy.
C. Định nghĩa về thành phố của người dân ở quê là chốn xa hoa, lạ lẫm; đó là nơi không thuộc về
những kiếp người nghèo, chỉ quanh quẩn nhưng suy nghĩa mưu sinh như họ.
D. Định nghĩa về thành phố với người quê thật giản dị, chỉ cần nhiều đèn và nhiều khu mua sắm, có
trung tâm sinh ngữ cho tụi nhỏ bôn ba từ lớp chiều đến lớp đêm.
Câu 7: Trong bài báo Một số giọng điệu trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư đăng trên tạp chí
Khoa học & Công nghệ số 1 năm 2012, Phạm Thị Hồng Nhung đã viết: “Trong truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta thấy con người tuy phải hứng chịu nhiều bất hạnh, oan trái nhưng trong
từng lời nói và trong sâu thẳm suy nghĩ của họ vẫn luôn ánh lên một niềm tin: những khó khăn, vất vả
cùng những đau khổ nhất định rồi sẽ qua đi.”
Niềm tin đó được thể hiện như thế nào trong truyện ngắn Bóng của thành phố?
A. Trong truyện, các nhân vật thể hiện niềm tin mãnh liệt sẽ được đổi đời, họ khao khát đổi thay cái
nhịp sống tẻ nhạt nơi làng quê nghèo tù túng, họ mong muốn đem lại hạnh phúc cho những thế hệ mai sau
trên chính mảnh đất quê hương.
B. Các nhân vật trong truyện hiện lên với niềm mơ ước cháy bỏng về việc vượt thoát thực tại, họ
không ngồi yên đợi chờ mà luôn hành động, luôn nỗ lực, sẵn sàng làm mọi việc để có thể rời khỏi quê
hương, đến với mảnh đất thị thành xa hoa.
C. Trong truyện, các nhân vật vẫn luôn tin tưởng và hi vọng về ánh sáng hạnh phúc ở một chân trời
mới trong tương lai, đó là một thế giới khác với cuộc sống đang ghì chặt họ, là nơi con cái của họ sẽ đổi
đời với cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy.
D. Các nhân vật trong truyện hiện lên với niềm mơ ước giản dị, được bình yên và hạnh phúc, họ
không mong cầu sự giàu sang, phú quý về vật chất của thị thành hoa lệ mà hy vọng về tương lai ấm no,
gia đình sum vầy nơi mảnh đất quê nhà.
Câu 8: Xác định biện pháp chêm xen được sử dụng trong văn bản trên.
Câu 9. Từ “thiên đường” trong câu văn “Thành phố không phải thiên đường cho tất cả cư dân lặn
ngụp trong lòng nó” có nghĩa là gì? Hãy tìm những từ Hán Việt khác có yếu tố “thiên” mang nghĩa giống
từ “thiên đường”.
Câu 10: Qua nội dung tác phẩm, hãy trình bày cách hiểu của anh/ chị về nhan đề Bóng của thành
phố.
Câu 11. Vì sao khi trông thấy mẹ tiễn con gái về nhà chồng cũng sụt sịt lấy tay áo lau nước mắt Mọi
người xúm lại kêu: gả con về chợ, mắc gì mà khóc?
Câu 12: Truyện ngắn Bóng của thành phố không kết thúc ở chi tiết mong ước con cái được hưởng
ánh sáng thị thành của các thím ở quê, mà kể tiếp đến “thành phố vẫn chưa đủ sáng” trong cảm nhận của
những người xóm chợ, những người khách xa, những lần trẻ con níu áo hỏi ba ơi mình đi đâu vậy. Hãy
chia sẻ suy nghĩ của anh chị về kết thúc trên.
GV. Nguyễn Thị Linh Chi

II. VIẾT
Câu 1. Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) phân tích hình ảnh cô dâu mới trong truyện ngắn Bóng của
thành phố (Nguyễn Ngọc Tư).
Câu 2. Viết bài văn (khoảng 500 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến: Ước mơ, hy vọng là
ngọn đuốc rực rỡ, thắp sáng con đường dẫn ta đến với ngày mai.

You might also like