Professional Documents
Culture Documents
CƠ SỞ TỰ NHIÊN HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ NGƯỜI 2 - module 4
CƠ SỞ TỰ NHIÊN HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ NGƯỜI 2 - module 4
Sản phẩm
Cấu trúc của hoạt động:
- Chủ nghĩa hành vi cho rằng, hoạt động của con nguời và động vạt có cấu trúc
chung là: kích thích - phản ứng (S-R).
- Trong tâm lý học có lúc người ta xem xét cấu trúc của hoạt động bao gồm các
thành tố diễn ra ở phái con người (chủ thể) thuộc các thành tố đơn vị thao tấc của hoạt
động, hoạt động có cấu trúc như sau: hoạt động - hành động - thao tác.
Hoạt động tạo ra sự phát triển tâm lý trong mỗi cá nhân. Hoạt động là phạm trù cốt
lõi trong tâm lý học.
3. Giao tiếp và tâm lý
a) Khái niệm:
Giao tiếp là mối quan hệ giữa con người với con người, thể hiện sự tiếp xúc tâm lí
giữa người với người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, cảm xúc, tri
giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Hay nói cách khác, giao tiếp xác lập
và vận hành các quan hệ người-người, hiện thực hóa các quan hệ giữa chủ thể này với chủ
thể khác.
Có nhiều hình thức giao tiếp: cá nhân - cá nhân, cá nhân - nhóm, nhóm -nhóm, nhóm
- cộng đồng.
b) Các loại giao tiếp:
- Xét theo phương tiện giao tiếp: có 3 loại
+ Giao tiếp vật chất: giao tiếp thông qua hành động vật thể.
+ Giao tiếp bằng tính hiệu phi ngôn ngữ: cử chỉ, điệu bộ, nét mặt...
3
+ Giao tiếp bằng ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết): đây là hình thức giao tiếp đặc
trưng của con người.
- Xét theo khoảng cách:
+ Giao tiếp trực tiếp: Mặt đối mặt, trực tiếp phát và nhận tín hiệu với nhau.
+ Giao tiếp gián tiếp: qua thư từ, có khi qua ngoại cảm, thần giao cách cảm...
- Xét theo quy cách:
+ Giao tiếp chính thức: Giao tiếp nhằm thực hiện nhiệm vụ chung theo chức
trách, quy định, thể chế.
+ Giao tiếp không chính thức: Giao tiếp giữa những người hiểu biết rõ về nhau,
không câu nệ thể thức mà theo kiểu thân tình nhằm mục đích chính là thông cảm, đồng
cảm với nhau.
Các loại giao tiếp nói trên luôn tác động qua lại, bổ sung cho nhau, làm cho mối
quan hệ giao tiếp của con người vô cùng đa dạng phong phú.
c) Vai trò của giao tiếp:
Nói về vai trò của giao tiếp, V. I. Lénine để khái quát rằng: “Giao tiếp còn quan
trọng hơn cả ánh sáng”. Thật vậy, con người không thể là “con người”, không thể sống,
hoạt động, thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần nếu không giao tiếp với những người
xung quanh. Theo đó xã hội loài người không thể hình thành, tồn tại và phát triển được.
Cùng với các hoạt động khác, hoạt động giao tiếp có vai trò rất quan trọng đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách. Thực chất sự phát triển tâm lý chnh là sự lĩnh hội kinh
nghiệm lịch sử - xã hội, lĩnh hội nền văn hoá xã hội loài người do thế hệ trước tích lũy và
truyền thụ lại. Thông qua con đường hoạt động và giao tiếp con người lĩnh hội được kinh
nghiệm đó, có thể nói tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp.
Ở cấp độ cá nhân, sự hình thành và phát triển nhân cách chỉ có thể thực hiện bằng
giao tiếp và thông qua giao tiếp. Tâm lý học hiện đại khẳng định: dáng đi, ngôn ngữ, lao
động, ý thức… là những đặc trưng cơ bản của nhân cách. Những đặc điểm này đưa con
người thoát ra khỏi thế giới loài vật. Muốn có chúng con người phải giao tiếp với những
người xung quanh. Điều này có nghĩa là thông qua giao tiếp với người lớn, đứa trẻ mới
nhận được sự hướng dẫn, sự uốn nắn để có dáng đi của người; qua quan hệ với người khác
đứa trẻ biết phát âm tiếng người, biết nói, hiểu ngôn ngữ và biết sử dụng ngôn ngữ trong
4
cuộc sống của mnh… Qua giao tiếp với người khác, con người mới có thể tương tác, phối
hợp với nhau để thực hiện sự phân công lao động xê hội; qua giao tiếp với người khác, con
người nhận thức được chính mình, từ đó điều khiển, điều chỉnh hành vi để ngày càng hoàn
thiện nhân cách.
Một nhà tâm lí học Mỹ đã làm thực nghiệm “tước bỏ giao tiếp”, để người được thí
nghiệm sống lâu dài trong một hang động sâu cách mặt đất 100m, không tiếp xúc với ai.
Tháng thứ nhất không có gì đặc biệt nhưng dần dần người được thí nghiệm trở nên có tâm
thần bất định, thời gian càng lâu càng nghiêm trọng hơn, đến ngày thứ 156 người được thí
nghiệm dường như tuyệt vọng, chữ ghi trong nhật ký cũng trở nên lộn xộn, lung tung
chứng tỏ tinh thần đã lâm vào tình trạng khủng hoảng. Cho người ấy trở lại mặt đất, tinh
thần vẫn trì trệ như cũ, lạnh lùng, không tình cảm, cử chỉ khác thường, phải sau một thời
gian dài mới dần dần mất đi tổn thương về tâm lý sống cách biệt với thế giới loài nguời.
Giao tiếp xã hội trong đời người chiếm thời gian khá lớn. Nhà xã hội học Mỹ là
Bulaixơcoat qua điều tra, đem thời gian nghe, nói, đọc, viết chia thành tỉ lệ phần trăm, ông
phát hiện ra ngoài thời gian ngủ ra thì 93% thời gian con người dùng để hoạt động giao
tiếp, tức là mỗi ngày con người dùng 15 giờ để giao tiếp. Trong 15 giờ ấy tỉ lệ phần trăm
nghe, nói, đọc, viết là 47%, 31%, 17%, 5%. Nói rõ hơn, trong 15 giờ ấy, trong 1 phút chỉ
có 5 giây là không hoạt động giao tiếp.
Làm thế nào để nâng cao hiệu quả giao tiếp?
Căn cứ vào các yếu tố tham gia vào quá trình giao tiếp như: Chủ thể giao tiếp, mục
đích giao tiếp, nội dung giao tiếp, phương tiện giao tiếp, quan hệ giao tiếp, hoàn cảnh giao
tiếp, kênh giao tiếp.
4. Quan hệ giao tiếp với hoạt động
Nhiều nhà tâm lí học cho rằng giao tiếp như một dạng đặc biệt của hoạt động: Giao
tiếp cũng diễn ra bằng các hành động và có cả các thao tác cụ thể, sử dụng các phương tiện
khác nhau, nhằm đạt những mục đích xác định, thỏa mãn các nhu cầu cụ thể, tức là được
thúc đẩy bởi động cơ.
Một số nhà tâm lý học khác cho rằng: Giao tiếp và hoạt động là 2 phạm trù đồng
đẳng, có quan hệ qua lại với nhau trong cuộc sống con người.
+ Có trường hợp giao tiếp là điều kiện của một hoạt động khác.
5
Ví dụ: Trong lao động sản xuất, giao tiếp là điều kiện để con người phối hợp với
nhau để tạo ra sản phẩm lao động.
+ Có trường hợp hoạt động là điều kiện để thực hiện mối quan hệ giữa con người
với con người.
Ví dụ: Diễn viên múa trên sân khấu thì các hành động chân tay, điệu bộ, cử chỉ là
điều kiện để thực hiện mối quan hệ giao tiếp giữa anh ta và khán giả.
5. Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: tâm lý người có nguồn gốc từ thế giới
khách quan chuyển vào trong não mỗi người. Trong thế giới thì quan hệ sản xuất, nền văn
hóa xã hội là cái quyết định tâm lý người.
- Tâm lí người là kinh nghiệm xã hội lịch sử chuyển thành kinh nghiệm bản thân
thông qua hoạt động và giao tiếp.