Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 65

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ


__________________________

BÀI TẬP LỚN


Học phần: Toàn cầu hóa
ĐỀ TÀI: TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN
XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM TỪ 1995 - I/2024
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS Đỗ Phú Hải

Ths Nguyễn Viết Dũng

Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thúy Ngân

Ngày sinh : 15/01/2004

Mã sinh viên : 22051150

Mã lớp học phần : INE 3109 5

Hà Nội, tháng 7 năm 2024


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới thầy Đỗ Phú
Hải và thầy Nguyễn Viết Dũng giảng viên bộ môn Toàn cầu hóa. Em cảm ơn thầy vì
đã đồng hành, truyền lửa tới những sinh viên đang học tập bộ môn Toàn cầu hóa. Bộ
môn Toàn cầu hóa là một môn học luôn gắn liền với thực tiễn cuộc sống nhưng cũng
không kém phần thú vị, kích thích được tinh thần học tập và tự do sáng tạo của sinh
viên. Trong quá trình học tập, em đã tiếp thu được rất nhiều kiến thức mới mẻ và bổ
ích phục vụ cho công việc của mình sau này. Bên cạnh đó, em còn có thêm nhiều góc
nhìn mới mẻ về toàn cầu hóa cũng như hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Do vốn kiến thức và hiểu biết có hạn, cách tiếp cận thông tin của em còn hạn
chế, vì vậy bài nghiên cứu của em không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong sẽ
nhận được những ý kiến đóng góp quý giá của thầy cô, để giúp em có thêm nhiều kinh
nghiệm và bài học cho những bài nghiên cứu sau.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 07 tháng 07 năm 2024


Sinh viên
Nguyễn Thúy Ngân
MỤC LỤC

1. Tính cấp thiết của Đề tài.......................................................................................... 8


2. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu....................................................... 9
2.1 Mục tiêu nghiên cứu............................................................................................9
2.1.1. Mục tiêu chung.......................................................................................... 9
2.1.2. Mục tiêu cụ thể.......................................................................................... 9
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................................... 9
3. Câu hỏi nghiên cứu................................................................................................. 10
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu............................................................................. 10
4.1 Đối tượng nghiên cứu........................................................................................10
4.2 Phạm vi nghiên cứu...........................................................................................10
5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................... 10
6. Đóng góp của đề tài.................................................................................................11
6.1 Đóng góp về mặt khoa học................................................................................11
6.2 Đóng góp về mặt thực tiễn................................................................................ 11
7. Kết cấu của đề tài.................................................................................................... 11
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN,
XÂY DỰNG KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG
CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
VIỆT NAM.................................................................................................................. 12
1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu....................................................................... 12
1.1.2 Tình hình nghiên cứu ngoài nước.............................................................12
1.1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước............................................................. 13
1.1.3 Khoảng trống nghiên cứu......................................................................... 14
1.2 Cơ sở lý thuyết về tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam....................................................................................................14
1.2.1 Các nền tảng lý thuyết.............................................................................. 14
1.2.2 Khái quát về ngành dệt may Việt Nam.................................................... 15
1.2.2.1 Khái niệm, đặc điểm ngành dệt may................................................ 15
1.2.2.2 Các sản phẩm của ngành dệt may.................................................... 16
1.2.3 Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may...........................................................16
1.2.3.2 Khái niệm, đặc điểm về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may............16
1.2.3.3 Vai trò xuất khẩu hàng dệt may của doanh nghiệp đối với nền kinh
tế...................................................................................................................17
* Thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước...................................................17
*Giảm mạnh tình trạng thất nghiệp................................................................... 18
*Chuyển đổi cơ cấu kinh tế............................................................................... 18
1.2.3.4 Các nhân tố chi phối đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp dệt
may...............................................................................................................19
1.2.3 Các khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế...............................................21
1.2.4. Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế................................................... 21
1.2.5 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến xuất khẩu hàng hóa.............. 23
1.2.5.1 Tác động tích cực............................................................................. 23
1.2.5.2 Tác động tiêu cực............................................................................. 24
1.3 Cơ sở thực tiễn.................................................................................................. 25
1.3.1 Tình hình hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam......................................25
1.3.2 Những cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam..................................................................................... 27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM.... 29
2.1 Tổng quan tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế................................................................................................ 29
2.1.1. Giai đoạn từ 1996-2010........................................................................... 29
2.1.1.1 Kim ngạch xuất khẩu....................................................................... 29
2.1.1.2 Thị trường xuất khẩu........................................................................29
2.1.1.3 Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.......................31
2.1.2 Giai đoạn 2011 - 2015.............................................................................. 31
2.1.2.1 Kim ngạch xuất khẩu....................................................................... 31
2.1.2.2. Thị trường xuất khẩu.......................................................................33
2.1.2.3 Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu hàng dệt may....................................... 34
2.1.3 Giai đoạn 2016 - 2020.............................................................................. 35
2.1.3.1 Kim ngạch xuất khẩu....................................................................... 35
2.1.3.2 Thị trường xuất khẩu........................................................................35
2.1.3.3 Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu hàng dệt may....................................... 37
2.1.4 Giai đoạn 2021 - 2024.............................................................................. 37
2.1.4.1 Kim ngạch xuất khẩu....................................................................... 37
2.1.4.2 Thị trường xuất khẩu........................................................................37
2.1.4.3 Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu hàng dệt may....................................... 38
2.2 Tổng kết tình hình xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam....................................38
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
ĐẾN XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM...............................................39
3.1 Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế đến xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam................................................................................................................. 39
3.1.1 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế trên góc độ song phương và đa
phương............................................................................................................... 39
3.1.1.1 Hiệp định tự do Thương mại (FTA)................................................. 39
3.1.1.2 FDI được lưu chuyển tự do.............................................................. 47
3.1.1.3 Tài chính quốc tế..............................................................................49
3.1.2 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế trên góc độ đơn phương..............50
3.2 Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế và nguyên nhân tồn tại ảnh
hưởng đến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam........................................................ 51
3.2.1 Tác động tiêu cực......................................................................................51
3.2.1.1 Sự mở cửa thương mại..................................................................... 51
3.2.1.2 FDI được lưu chuyển tự do.............................................................. 53
3.2.1.3 Tài chính quốc tế..............................................................................54
3.2.2 Nguyên nhân tồn tại..................................................................................55
CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG
DỆT MAY CỦA VIỆT NAM..................................................................................... 57
4.1 Định hướng cho việc đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu
của ngành Dệt May trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế..................................57
4.2 Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.................. 58
4.2.1 Giải pháp cho nhà nước............................................................................ 58
4.2.1 Giải pháp cho các doanh nghiệp...............................................................59
KẾT LUẬN..................................................................................................................61
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................62
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT NGUYÊN NGHĨA

ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

CPTPP Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ


xuyên Thái Bình Dương

EU Liên Minh Châu Âu

EVFTA Hiệp định thương mại tự do Liên minh


châu Âu-Việt Nam

VKFTA Hiệp định thương mại tự do Việt


Nam-Hàn Quốc

AKFTA Hiệp định thương mại tự do trong khuôn


khổ ASEAN-Hàn Quốc

FTA Hiệp định Thương mại tự do

TPP Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình


Dương

FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài

VITAS Hiệp hội Dệt May Việt Nam

SPS Kiểm dịch động thực vật

TBT Hàng rào kỹ thuật trong thương mại

WB Ngân hàng Thế giới

IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế


DANH MỤC HÌNH ẢNH

Hình Nội dung

Hình 2.1 Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu một số


mặt hàng chủ yếu Việt Nam năm
2019-2020

Hình 2.2 Tăng trưởng KNXK hàng dệt may Việt


Nam từ 2007-2010

Hình 2.3 Tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt
Nam giai đoạn 2011 – 2015

Hình 2.4 Giá trị XK hàng dệt may theo tháng năm
2014

Hình 2.5 Xuất khẩu hàng may mặc sang Hoa Kì


2013

Hình 2.6 Xuất khẩu hàng dệt may từ Việt Nam


sang các thị trường 2015-2017

Hình 2.7 Xuất khẩu hàng dệt may năm 2020

Hình 2.8 Những cam kết thuế quan trong VKFTA


và AKFTA

Hình 2.9 Các dòng thuế Hàn Quốc sẽ xóa bỏ cho


Việt Nam trong VKFTA

Hình 2.10 Những dòng thuế Việt Nam cam kết xóa
bỏ cho Hàn Quốc

Hình 2.11 Lộ trình cam kết xóa bỏ thuế quan trong


EVFTA
Hình 2.12 Lộ trình xóa bỏ thuế quan mà các nước
thành viên dành cho hàng dệt
may của Việt Nam
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Trong những năm trở lại đây, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là xu
thế của hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hoá, các nước
giàu luôn có những lợi thế vượt trội, còn các nước nghèo có nền kinh tế yếu kém dễ bị
thua thiệt, thường phải trả giá đắt nếu không có chủ trương đúng đắn, phương pháp
linh hoạt, sáng tạo. Đứng trước xu thế phát triển tất yếu của thời đại, Việt Nam không
thể khước từ, mà phải chủ động hội nhập mới khai thác được những nội lực sẵn có của
mình, đồng thời tranh thủ vốn, công nghệ, thị trường quốc tế rộng lớn để tạo ra những
thuận lợi trong phát triển kinh tế. Chính vì vậy, đại hội Đảng lần thứ XII xác định:
“Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi
cho hội nhập kinh tế”.
Với chủ trương đó, Việt Nam đã đánh dấu sự “góp mặt” vào đường đua hội
nhập kinh tế quốc tế bằng việc gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) vào tháng 7/1995. Sau 30 năm, Việt Nam đã ký kết 19 FTA, thu hút gần
438,7 tỷ USD vốn FDI và tham gia các tổ chức tài chính quốc tế. Hội nhập mang lại
cơ hội phát triển kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu và nội địa. Ví dụ, sau khi gia
nhập WTO, ngành dệt may Việt Nam được hưởng các ưu đãi như đối xử tối huệ quốc,
đối xử quốc gia, và không còn bị hạn ngạch xuất khẩu vào các nước thành viên WTO.
Mặt hàng dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực giúp tăng
trưởng kinh tế, cân bằng cán cân thương mại, thúc đẩy các ngành sản xuất trong nước
phát triển. Kim ngạch xuất khẩu dệt may năm 2023 đạt 40,3 tỷ USD, xuất khẩu sang
104 thị trường và vùng lãnh thổ, trong đó thị trường Mỹ là lớn nhất với kim ngạch đạt
trên 11 tỷ USD, tiếp đến Hàn Quốc 2,4 tỷ USD, Nhật Bản khoảng 3 tỷ USD ,... Ngoài
ra, nhờ việc tích cực hội nhập, Việt Nam thu hút nhiều FDI đầu tư vào lĩnh vực dệt
may, từ đó chuyển giao công nghệ từ nước phát triển cũng như nhận nguồn vốn lớn để
phát triển xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam. Đây là cơ hội xuất khẩu lớn khi các
quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật Bản đều là các thành viên của các hiệp định thương mại
mà Việt Nam tham gia.
Trước những tác động tích cực từ hội nhập kinh tế quốc tế mang lại thì doanh
nghiệp cũng cần đáp ứng những nhu cầu khắt khe từ thị trường quốc tế như những yêu
cầu về đổi mới công nghệ, minh bạch thông tin sản phẩm, nguyên liệu đảm bảo chất
lượng, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải có kiến thức pháp lý, kiến thức
kinh tế, thương mại quốc tế, năng lực cạnh tranh để tận dụng được những lợi ích và
vượt qua những thử thách mà hội nhập kinh tế quốc tế mang lại. Đồng thời, việc gia
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đồng nghĩa với việc nước ta dễ bị ảnh hưởng
trước những biến động đến từ bên ngoài, gây ra nhiều thách thức lớn cho thương mại
Việt Nam, ví dụ như tác động từ suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu, biến động thị
trường quốc tế, điều chỉnh chính sách của các nền kinh tế lớn và sự gia tăng bảo hộ
thương mại của các nước nhập khẩu, ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam, bao gồm hoạt động xuất khẩu hàng dệt may.
Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, doanh nghiệp Việt Nam
chủ yếu là vừa và nhỏ, tiềm lực tài chính còn yếu, chuyên môn lao động còn hạn chế
mặc dù nhân lực dồi dào, trong khi đó đối tác đều đến từ các quốc gia phát triển, có
trình độ công nghiệp cao như EU, Mỹ, Hàn, Nhật,... Đây vừa là điểm mạnh nhưng
cũng là điểm yếu. Do đó, để trả lời câu hỏi: Làm sao để phát huy tối đa những điểm
tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực từ hội nhập kinh tế quốc tế cho xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam? Tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu “ Tác động của hội nhập
kinh tế quốc tế đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam” nhằm cung cấp một cái
nhìn tổng quan về thực trạng hoạt động xuất khẩu dệt may cũng như tác động của hội
nhập kinh tế quốc tế đến xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Từ đó, đề xuất giải
pháp nhằm nhằm giải quyết những tác động tiêu cực, góp phần thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu đạt hiệu quả cao trong những năm tới.

2. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu


2.1 Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn về quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam, tác giả đánh giá những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
đến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, đồng thời đề xuất những giải pháp giúp khắc
phục những tác động tiêu cực mà quá trình lại.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Tổng quan những vấn đề lý luận và thực tiễn về tác động của hội nhập kinh tế
quốc tế đến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
- Đánh giá tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp khắc phục những điểm hạn chế của xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam và những tác động tiêu cực của xu hướng hội nhập kinh tế
quốc tế đối với xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, bài nghiên cứu tập trung thực hiện những
nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về tác động của hội nhập kinh tế
quốc tế đến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng dệt may trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là, tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến xuất khẩu hàng dệt may Việt
Nam.
Bốn là, đưa ra giải pháp hạn chế những tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế
đến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.

3. Câu hỏi nghiên cứu


- Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam diễn ra như thế nào?
- Hội nhập kinh tế quốc tế có tác động tích cực và tác động tiêu cực gì cho hoạt động
xuất khẩu dệt may Việt Nam?
- Cần những giải pháp gì để hạn chế tác động tiêu cực và đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu dệt may của Việt Nam?

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu


4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến hoạt động xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Thứ nhất, về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu tác động tích
cực và tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm: Các Hiệp định thương
mại tự do, đầu tư quốc tế và tài chính quốc tế đến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
Từ đó xây dựng giải pháp nhằm hạn chế tác động tiêu cực và góp phần thúc đẩy sự
phát triển xuất khẩu ngành dệt may nước ta.
Thứ hai, về thời gian: Đề tài nghiên cứu thời gian từ năm 1995 ( Việt Nam bắt
đầu tham gia hội nhập kinh tế quốc tế) đến I/2024.
Thứ ba, về không gian: Đề tài nghiên cứu tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
đến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.

5. Phương pháp nghiên cứu


Dựa trên nhiều nền tảng lý luận và thực tiễn như quan điểm duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
Pháp luật, quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây
dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cùng với các
nguồn đã thu thập được, để đạt được mục tiêu nghiên cứu, bài nghiên cứu sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích, so sánh đối chiếu, kế thừa được sử dụng để nghiên cứu
các công trình, các quan điểm trong nước cũng như nước ngoài liên quan đến
nội dung nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, so sánh, liệt kê để tổng quan về xuất khẩu ngành dệt
may và tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với hoạt động xuất khẩu dệt
may Việt Nam, cũng như xây dựng hệ thống các giải pháp để nâng cao hiệu
quả xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
- Phương pháp phân tích, điều tra, so sánh, tổng hợp số liệu được sử dụng để
đánh giá thực tiễn tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam.
- Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp để phân tích và đánh giá trong quá trình
nghiên cứu.
Dữ liệu thứ cấp thu thập và phân tích là những dữ liệu liên quan đến phát triển
xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Nguồn dữ liệu thứ cấp từ các báo cáo của Bộ
Công Thương, các Bộ ngành liên quan, các tạp chí chuyên ngành, hội thảo khoa học
trong nước và nước ngoài, số liệu của Tổng cục Thống kê, Tổ chức Thương mại thế
giới WTO, Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC). Dữ liệu thu thập từ các nguồn khác
nhau được kiểm tra theo các tiêu thức về tính chính xác, tính thích hợp và tính thời sự.
Các dữ liệu được đối chiếu và so sánh để có sự nhất quán và đảm bảo độ tin cậy cao.

6. Đóng góp của đề tài


6.1 Đóng góp về mặt khoa học
Bài nghiên cứu đã tổng hợp đầy đủ cơ sở lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế,
nêu được kết quả nghiên cứu từ tổng hợp các nghiên cứu có liên quan. Kết quả của bài
nghiên cứu bổ sung cho nguồn dữ liệu tham khảo về các tác động của hội nhập kinh tế
quốc tế đến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cho sinh viên các khối ngành kinh tế.
6.2 Đóng góp về mặt thực tiễn
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, bài nghiên cứu đã đánh giá và phân tích được
thực trạng về ngành xuất khẩu dệt may Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc
tế, đánh giá được những tác động tích cực và tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế đến
ngành dệt may. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
hàng dệt may của Việt Nam trong bối cảnh mới.

7. Kết cấu của đề tài


Bài nghiên cứu gồm có 4 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tài liệu, cơ sở lý thuyết và cơ sở thực tiễn về hội nhập kinh tế
quốc tế
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
Chương 3: Đánh giá tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam
Chương 4: Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN,
XÂY DỰNG KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG
CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẾN XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
VIỆT NAM.
1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.2 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Liên quan đến lĩnh vực dệt may trong thương mại quốc tế đã trở thành hàng
hóa có sự lưu thông rất mạnh giữa các thị trường thông quan hoạt động xuất nhập
khẩu. Hội nhập kinh tế quốc tế đã thúc đẩy sự phát triển thị trường dệt may ở các quốc
gia. Có rất nhiều bài viết với đề tài về ngành dệt may, đề cập đến những nội dung pháp
lý, những ưu đãi, những rào cản và thách thức được phản ánh khá đầy đủ. Nhiều công
trình đã được đăng tải ở các bài báo, công trình khoa học nước ngoài:
“Vietnam in the global garment and textile value chain: impacts on firms and
workers” (2003) của Khalid Nadvi, John T. Thoburn, Bui Tat Thang, Nguyen Thi
Thanh Ha, Nguyen Thi Hoa, Dao Hong Le, Enrique Blanco De Armas. Bài nghiên
cứu dựa trên các cuộc phỏng vấn với các doanh nghiệp và người mua cũng như phân
tích dữ liệu thương mại, theo dõi cách các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tham gia
vào chuỗi giá trị dệt may toàn cầu. Nó xem xét mối quan hệ giữa ngành dệt may Việt
Nam. Và phản ánh bản chất của việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu sẽ dẫn đến lợi
ích khác biệt như thế nào cho các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân cũng như cho
công nhân dệt may.
Mordechai E. Kreinin, Michael G. Plummer (2002) tiến hành nghiên cứu với
đề tài: ”Effects of economic integration in industrial countries on ASEAN and the
Asian NIEs” . Bài viết này đánh giá tác động của Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ
được đề xuất, sự mở rộng lần thứ hai của Cộng đồng châu Âu (EC) và EC-1992 đối
với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Hàn Quốc. Bằng cách kết nối
các mặt hàng xuất khẩu của ASEAN hoặc Hàn Quốc với một thị trường hội nhập
(chẳng hạn như Hoa Kỳ) với các mặt hàng được xuất khẩu sang cùng thị trường đó từ
các nguồn “nội địa” (chẳng hạn như Canada), nó xác định các ngành sẽ chịu gánh
nặng của sự thay đổi này và hiệu quả của hội nhập đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào ASEAN và Hàn Quốc cũng được đánh giá.
“A dynamic approach to assess international competitiveness of Vietnam’s
garment and textile industry” (2016) của Huong Thanh Vu, Lam Cat Pham. Bài viết
này sử dụng mô hình kim cương kép tổng quát (GDDM), phân tích năng lực cạnh
tranh quốc tế của ngành dệt may Việt Nam và so sánh với Trung Quốc. Kết quả cho
thấy Việt Nam kém cạnh tranh hơn Trung Quốc ở cả bốn thuộc tính của GDDM. Năng
lực cạnh tranh của Việt Nam thấp nhất so với Trung Quốc là Công nghiệp liên quan và
công nghiệp hỗ trợ, tiếp theo là các yếu tổ ảnh hưởng. Vì vậy, bài báo lập luận rằng
mặc dù Việt Nam cần cải thiện cả bốn thuộc tính này trong dài hạn nhưng Việt Nam
phải đặt ưu tiên cao cho phát triển các ngành hỗ trợ và liên quan, sau đó nâng cao các
điều kiện về yếu tố trong khi vẫn duy trì được thế mạnh của mình hơn Trung Quốc về
tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dệt may và bối cảnh kinh doanh thuận lợi.
“Assessing the impact of EVFTA on Vietnam's textile and garment exports to
the UK” (2022) Ha Van Hoi, Nguyen Tien Minh. Bài nghiên cứu đánh giá tác động
của EVFTA tới xuất khẩu dệt may từ Việt Nam sang Anh và đưa ra một số hàm ý
chính sách cho Việt Nam. Thông qua việc sử dụng dữ liệu xuất khẩu dệt may của Việt
Nam sang Anh giai đoạn 2010 – 2019 và dữ liệu xuất khẩu dệt may của các nước sang
Anh năm 2019 để đề xuất 3 kịch bản xuất khẩu cho Việt Nam. Nghiên cứu sử dụng
mô hình SMART kết hợp với phương pháp nghiên cứu định tính để phân tích, đánh
giá tác động tích cực và tiêu cực của UKVFTA đối với xuất khẩu dệt may của Việt
Nam. Nghiên cứu đã chỉ ra những tác động tích cực và hạn chế của UVK đối với xuất
khẩu hàng dệt may từ Việt Nam sang Anh. Từ đó, nhiều giải pháp ngắn hạn và dài hạn
đã được đề xuất nhằm phát triển ngành dệt may Việt Nam.

1.1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước


“Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Liên Minh Châu
Âu” (2008) của Nguyễn Bằng Việt, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam. Bài nghiên
phân tích tổng quan thực trạng xuất khẩu ngành dệt may sang thị trường EU, tập trung
đề xuất giải pháp từ phía nhà nước, doanh nghiệp, Hiệp hội để phát triển xuất khẩu
mặt hàng dệt may.
Phan Thanh Hoàn (2020) tiến hành ngành nghiên cứu về hiệp định CPTPP với
đề tài: “Tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam trong thị trường CPTPP”. Nghiên cứu
phân tích tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam trong bối cảnh gia nhập Hiệp định Đối
tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Bằng việc tính toán các chỉ
số thương mại theo ngành hàng và thị trường, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: CPTPP
là thị trường chính của nhiều ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, tuy nhiên
mức độ tập trung thương mại chỉ ở một vài thành viên CPTPP như Mỹ, Nhật Bản,
Canada. Lợi thế cạnh tranh của các ngành và tăng trưởng xuất khẩu cao cũng chỉ biểu
hiện ở một số ngành và thị trường nhất định. Như vậy, Việt Nam có nhiều cơ hội gia
tăng xuất khẩu trong khu vực CPTPP. Tuy nhiên, cơ hội này chỉ được tận dụng tối đa
khi mà Việt Nam đảm bảo được quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn sản phẩm và nâng cao lợi
thế so sánh của các ngành hàng xuất khẩu.
Phạm Thị Bạch Tuyết (2019) “Phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Khoa học Thương mại. Bài viết sử dụng
phương pháp thu thập, xử lí số liệu thống kê, phương pháp phân tích, so sánh và tổng
hợp tài liệu, phương pháp bảng biểu, biểu đồ để làm rõ cơ hội và thách thức của ngành
ngoại thương Việt Nam cũng như giải pháp để khắc phục hạn chế, nhằm góp phần đẩy
mạnh sự phát triển của ngành ngoại thương trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
trong thời gian tới.
Hà Văn Hội (2012), “Phân tích chuỗi giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam”, Tạp
chi Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh. Nghiên cứu này phân tích toàn diện
chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, từ sản xuất nguyên liệu đến phân phối sản phẩm cuối
cùng. Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của mối liên kết giữa ngành dệt và may
trong chuỗi giá trị này.
Bằng cách tiếp cận từ sản phẩm đầu ra, bài viết xem xét bốn yếu tố chính của chuỗi
giá trị xuất khẩu dệt may: khách hàng quốc tế, nhà sản xuất nội địa, nguồn cung ứng
và các trung gian. Qua đó, tác giả chỉ ra nguyên nhân khiến giá trị gia tăng của hàng
dệt may xuất khẩu Việt Nam còn thấp. Dựa trên phân tích này, nghiên cứu đề xuất
nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam trong
chuỗi giá trị toàn cầu
Đinh Công Khải (2013), “Nâng cao vị thế ngành dệt may Việt Nam trong chuỗi
giá trị toàn cầu, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, Trường Đại học Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh. Bài nghiên cứu tập trung phân tích chuỗi giá trị dệt may
toàn cầu, nêu tầm quan trọng của việc phải phân tích chuỗi giá trị toàn cầu và phân
tích chuỗi giá trị dệt may Việt Nam. Từ đó đánh giá thách thức và giải pháp để hạn
chế thách thức, thúc đẩy sự phát triển ngành dệt may nước ta.

1.1.3 Khoảng trống nghiên cứu


Qua quá trình tổng quan tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nước, nghiên cứu
nhận thấy được một số khoảng trống còn tồn tại như sau:
Các đề tài nghiên cứu chưa có sự giống nhau về mục đích, đối tượng và phạm
vi nghiên cứu nên không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Hội nhập kinh
tế quốc tế có tác động cả về chiều rộng và chiều sâu đến Việt Nam với các quốc gia
nội khối, đã có nhiều bài nghiên cứu về chủ đề xuất khẩu hàng dệt may qua những
hiệp định tự do tuy nhiên những nghiên cứu chủ yếu đánh giá sơ bộ về tác động của
một Hiệp định thương mại Tự do cụ thể, rất ít bài nghiên cứu làm rõ thực trạng cũng
như đi sâu nghiên cứu tác động của hội nhập kinh tế quốc tế chung đến hoạt động xuất
khẩu dệt may của Việt Nam.
Hơn nữa các bài nghiên cứu chưa mang tính cập nhật, đặt trong bối cảnh toàn
cầu hoá và mở cửa kinh tế của Việt Nam và những biến động toàn cầu, chưa nêu rõ
những tác động tích cực và tiêu cực mà hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến xuất
khẩu dệt may Việt Nam.

1.2 Cơ sở lý thuyết về tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến xuất khẩu hàng
dệt may Việt Nam.
1.2.1 Các nền tảng lý thuyết
Thứ nhất, lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith: Lý thuyết lợi thế tuyệt
đối của Adam Smith ra đời trong bối cảnh các cuộc cách mạng lớn như Cách mạng
công nghiệp, Cách mạng Mỹ và Cách mạng Pháp. Dựa trên tư tưởng tự do hóa mậu
dịch, lý thuyết này cho rằng các quốc gia sẽ được hưởng lợi khi tham gia thương mại
quốc tế dựa trên lợi thế tuyệt đối của họ. Cụ thể, một quốc gia nên tập trung sản xuất
và xuất khẩu những sản phẩm có chi phí sản xuất thấp hơn so với các nước khác. Lý
thuyết này có nhiều ưu điểm, như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu và quốc gia,
khuyến khích chuyên môn hóa sản xuất, và tạo cơ sở cho việc lựa chọn mặt hàng tham
gia thương mại quốc tế hiệu quả. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn chế đáng kể,
chẳng hạn như chỉ áp dụng được cho các nước có chênh lệch năng suất lao động rõ
rệt, bỏ qua một số yếu tố chi phí quan trọng như vận tải, và không tính đến sự khác
biệt về trình độ lao động giữa các quốc gia.
Thứ hai, lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo: Lý thuyết lợi thế so
sánh của David Ricardo đề xuất rằng một quốc gia, dù bất lợi trong sản xuất tất cả mặt
hàng, vẫn có thể tham gia thương mại quốc tế bằng cách chọn mặt hàng có lợi thế so
sánh. Lợi thế này đạt được khi quốc gia chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu sản
phẩm có tương quan thuận lợi hơn so với quốc gia khác. Quốc gia kém hiệu quả nhất
nên tập trung vào mặt hàng ít bất lợi nhất. Ưu điểm của lý thuyết này là cho phép mọi
quốc gia tham gia thương mại, tối ưu hóa nguồn lực toàn cầu, và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế thế giới. Tuy nhiên, nó có hạn chế là bỏ qua các yếu tố sản xuất khác ngoài lao
động, giả định lao động đồng nhất giữa các nước, và đơn giản hóa chi phí sản xuất.
Thứ ba, các lý thuyết hiện đại: Lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm giải thích
nguyên nhân thương mại quốc tế thông qua các giai đoạn sống của sản phẩm. Khi sản
phẩm ở giai đoạn suy giảm, việc bán ra nước ngoài giúp kéo dài vòng đời và đảm bảo
lợi nhuận. Lý thuyết về đầu tư cho rằng đầu tư quốc tế là nền tảng cho thương mại,
cho phép khai thác triệt để các lợi thế về nguồn lực, công nghệ, thị trường, uy tín và
kinh nghiệm quản lý. Điều này giúp doanh nghiệp thu lợi từ thị trường nước ngoài và
vượt qua hàng rào thuế quan.

1.2.2 Khái quát về ngành dệt may Việt Nam


1.2.2.1 Khái niệm, đặc điểm ngành dệt may.
Ngành dệt may là ngành công nghiệp liên quan đến việc sản xuất sợi, dệt
nhuộm, vải, thiết kế sản phẩm, hoàn tất hàng may mặc và cuối cùng là phân phối hàng
may mặc đến tay người tiêu dùng.
Ngành dệt may có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, ngành Dệt may có thị trường tiêu thụ rộng lớn, bao gồm cả nhu cầu
trong nước và xuất khẩu. Sản phẩm đa dạng, phong phú, đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của người tiêu dùng như mặc, ngủ, ở. Đặc biệt, khi kinh tế phát triển, đời sống nhân
dân được nâng cao, nhu cầu về sản phẩm dệt may càng cao cấp và đa dạng hơn. Việc
gia công cho các nước giúp doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận công nghệ may tiên tiến,
thời trang thế giới, tạo cơ hội phát triển ngành dệt may đa dạng về sản phẩm và mở
rộng thị trường tiêu thụ toàn cầu.
Thứ hai, ngành dệt may sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là lao động nữ, với lợi
thế về nguồn nhân công dồi dào và giá nhân công rẻ. Công nghệ sản xuất đơn giản,
không đòi hỏi kỹ thuật cao, thu hút nhiều lao động, góp phần giải quyết việc làm cho
người lao động. Lao động nữ khéo léo, phù hợp với nhiều công đoạn trong ngành Dệt
may.
Thứ ba, ngành dệt may có ưu điểm là vốn đầu tư thấp nhưng mang lại lợi
nhuận cao, phù hợp với mô hình sản xuất vừa và nhỏ. Đây là lý do khiến ngành này
phát triển mạnh ở các nước đang phát triển, đặc biệt trong giai đoạn đầu công nghiệp
hóa. Khi một quốc gia trở thành nước công nghiệp phát triển, giá nhân công cao và
sức cạnh tranh giảm, họ sẽ chuyển sang các ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật
cao hơn. Do đó, Dệt may vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các nước
đang phát triển.
Thứ tư, Ngành Dệt may Việt Nam phụ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu,
bao gồm bông, sợi tổng hợp, sợi bông cho sản xuất hàng dệt kim và hóa chất nhuộm.
Việc sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu, ảnh hưởng đến sự
phát triển bền vững của ngành.
1.2.2.2 Các sản phẩm của ngành dệt may
Thứ nhất, đối với nhóm sản phẩm sợi, bao gồm sợi có nguồn gốc từ thực vật:
Sợi bông (sợi 100% cotton) gồm hai loại sợi là sợi chải kỹ và sợi chải thô; sợi tơ tằm.
Tiếp theo là sợi có nguồn gốc từ nhân tạo: Loại sợi này được sản xuất từ các loại phụ
phẩm của ngành hóa dầu; sợi pha (sợi pha bông với các thành phần khác).
Thứ hai, sản phẩm vải: Có thể phân loại theo loại sợi cấu thành vải, gồm: Vải
sợi bông; vải sợi tơ tằm, vải sợi tổng hợp. Hoặc, cũng có thể phân loại: Vải dệt thoi;
vải dệt kim; vải không dệt.

1.2.3 Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may.


1.2.3.2 Khái niệm, đặc điểm về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may
Xuất khẩu ngành dệt may là một hoạt động kinh tế quan trọng, bao gồm việc
bán và vận chuyển các sản phẩm dệt may như vải, quần áo, phụ kiện may mặc và các
sản phẩm liên quan từ một quốc gia sang các quốc gia khác. Hoạt động này không chỉ
giới hạn ở việc bán hàng, mà còn bao gồm cả quá trình sản xuất, thiết kế, marketing
và phân phối sản phẩm trên thị trường quốc tế.
Ngành xuất khẩu dệt may có nhiều đặc điểm nổi bật:
Thứ nhất, đối tượng của xuất khẩu dệt may là hàng dệt may, có đặc điểm riêng
biệt như gắn liền với nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng, ảnh hưởng bởi văn hóa,
địa lý, và tuổi tác. Sản phẩm dệt may đòi hỏi sự đổi mới liên tục về mẫu mã và chất
liệu để đáp ứng sở thích người tiêu dùng. Các sản phẩm dệt may rất phong phú, bao
gồm áo, quần, mũ, và tồn tại nhiều kiểu dáng dựa vào mục đích sử dụng: nhóm hàng
lót, nhóm mặt hàng mặc thường ngày, nhóm trang phục đặc biệt.
Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam là chủ thể sản xuất và xuất khẩu hàng dệt
may. Hoạt động xuất khẩu không chỉ giới hạn ở doanh nghiệp mà còn có thể do chính
phủ, cá nhân, hoặc tổ chức khác thực hiện. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, tác giả
tập trung vào doanh nghiệp Việt Nam, tức là các doanh nghiệp thành lập và hoạt động
tại Việt Nam theo pháp luật Việt Nam, bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư trong
và ngoài nước.
Thứ ba, xuất khẩu hàng dệt may là việc đưa hàng hóa ra khỏi lãnh thổ quốc gia
để bán sang quốc gia khác, thanh toán bằng tiền tệ (có thể là ngoại tệ). Điều này bao
gồm hàng hóa xuất khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc di chuyển từ khu vực thuế quan đặc
biệt ra bên ngoài.
Thứ tư, mục đích của xuất khẩu hàng dệt may là tận dụng lợi thế quốc gia trong
phân công lao động quốc tế. Việt Nam, với dân số gần 94 triệu, có nhu cầu lớn về sản
phẩm dệt may và nguồn nhân công dồi dào, cùng với nguồn nguyên liệu phong phú từ
các vùng sản xuất bông, sợi như Tây Nguyên, Nam Trung Bộ. Điều này thúc đẩy phát
triển ngành dệt may để xuất khẩu ra nước ngoài.
Thứ năm, hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu dệt may, diễn ra trên phạm
vi rộng cả về không gian và thời gian, có thể kéo dài từ ngắn hạn đến nhiều năm. Việt
Nam có thế mạnh trong xuất khẩu dệt may, mở rộng thị trường không chỉ ở châu Á mà
còn sang châu Âu và châu Mỹ.
Xuất khẩu, đặc biệt là trong lĩnh vực dệt may, đóng vai trò quan trọng trong
việc tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng và giải quyết
vấn đề thiếu hụt tài nguyên. Do đó, mỗi quốc gia đều thiết lập các quy định để quản lý
hoạt động này. Những đặc điểm riêng biệt về đối tượng, chủ thể và phạm vi đã tạo nên
tính chất đặc thù cho ngành xuất khẩu dệt may. Nhận thức được điều này, cả chính phủ
và doanh nghiệp đều đưa ra các chiến lược và giải pháp phù hợp nhằm tối đa hóa tiềm
năng của ngành công nghiệp dệt may trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu ngày
càng sâu rộng.

1.2.3.3 Vai trò xuất khẩu hàng dệt may của doanh nghiệp đối với nền kinh tế
Ngành dệt may xuất khẩu đang ngày càng khẳng định vị thế quan trọng trong
bức tranh kinh tế Việt Nam hiện nay. Ngành này không chỉ đáp ứng nhu cầu ngày một
đa dạng và tinh tế của người tiêu dùng, mà còn mang lại nhiều lợi ích kinh tế-xã hội to
lớn. Cụ thể, nó tạo ra nhiều cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động,
góp phần xóa đói giảm nghèo hiệu quả. Đặc biệt, dệt may xuất khẩu đóng góp đáng kể
vào ngân sách quốc gia hàng năm, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước.
Những đóng góp này sẽ được phân tích chi tiết qua các khía cạnh sau:

* Thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước


Xuất khẩu dệt may đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Nó tạo
nguồn thu ngoại tệ lớn, hỗ trợ nhập khẩu thiết bị và nguyên liệu phục vụ công nghiệp
hóa. Giai đoạn 2001-2010, kim ngạch xuất khẩu ngành này tăng trưởng mạnh, đạt
19%/năm, đóng góp đáng kể vào GDP. Đến 2010, hàng dệt may Việt Nam có mặt tại
220 thị trường, với 18 nhóm hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD.
Ngành dệt may phát triển nhanh, tăng trưởng bình quân 30%/năm, chiếm 20%
tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Cả nước có khoảng 822 doanh nghiệp dệt may,
bao gồm doanh nghiệp nhà nước, tư nhân và FDI. Nộp ngân sách từ ngành này tăng
bình quân 15%/năm.
Xuất khẩu dệt may thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mở rộng sản xuất, và tạo hiệu
ứng lan tỏa tích cực đến các ngành liên quan như trồng bông, sản xuất phân bón, và
logistics.

*Giảm mạnh tình trạng thất nghiệp


Ngành dệt may đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết vấn đề việc làm ở
Việt Nam. Đặc điểm của ngành là cần nhiều lao động và không yêu cầu trình độ
chuyên môn cao, phù hợp với bối cảnh một quốc gia nông nghiệp có trình độ học vấn
trung bình. Điều này giúp ngành dệt may trở thành giải pháp hiệu quả trong việc tạo
công ăn việc làm cho người dân, góp phần giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp - một thách
thức không chỉ riêng Việt Nam mà còn của nhiều nước trên thế giới.
Khi giảm được tỷ lệ thất nghiệp, nhà nước sẽ giảm được gánh nặng về các vấn
đề an sinh xã hội. Với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, vai trò này của
ngành dệt may mang ý nghĩa to lớn, thể hiện ưu thế vượt trội so với nhiều ngành công
nghiệp khác. Chính vì vậy, dệt may luôn giữ vị trí then chốt trong cơ cấu kinh tế quốc
gia trong suốt nhiều năm qua.

*Chuyển đổi cơ cấu kinh tế


Các ngành hàng trong nền kinh tế có mối liên hệ, tạo nên tiền đề để phát triển
những ngành còn lại và dệt may cũng vậy. Chính vì vậy, ngành dệt may có vai trò
quan trọng thúc đẩy phát triển những ngành kinh tế khác trong hệ thống công nghiệp –
xây dựng – nông nghiệp – dịch vụ ở Việt Nam.
Khi ngành hàng dệt may ngày càng phát triển, tất nhiên nền nông nghiệp phát
triển với các ngành trồng bông, đay hay nuôi tằm,… Tiếp đó ảnh hưởng trực tiếp đến
những ngành sản xuất nguyên phụ liệu. Khi ngành dệt may phát triển bền vững, nó
kéo theo sự tăng trưởng của các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ như sản xuất máy móc và
thiết kế phần mềm. Đồng thời, các ngành dịch vụ như logistics và marketing cũng có
cơ hội phát triển mạnh mẽ. Quá trình này góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế Việt Nam, từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang một
nền kinh tế công nghiệp - dịch vụ hiện đại.
Ngoài ra, nhờ chính sách hỗ trợ, bảo hộ của Nhà nước cùng sự tham gia của rất
nhiều thành phần kinh tế, ngành dệt may chắc chắn sẽ được nhiều doanh nghiệp nước
ngoài đầu tư và sẽ còn phát triển mạnh trong thời gian dài.
Hình 2.1: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu Việt Nam năm
2019-2020
Nguồn: theo gso.gov.vn
1.2.3.4 Các nhân tố chi phối đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp dệt may
* Chính sách, pháp luật của Nhà nước
Trong xu thế hội nhập quốc tế, Việt Nam thực hiện chiến lược hướng về xuất
khẩu, tập trung vào sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới và quốc gia.
Nhà nước có các chính sách khuyến khích xuất khẩu, như Quyết định chiến lược phát
triển ngành dệt may năm 2008, nhấn mạnh phát triển ngành này thành công nghiệp
trọng điểm, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và tạo việc làm. Chính phủ hỗ trợ
nguồn vốn vay, ODA, đầu tư vào sản xuất nguyên liệu và công nghiệp phụ trợ, sử
dụng nguồn thu phí hạn ngạch để mở rộng thị trường xuất khẩu. Để giảm phụ thuộc
vào nguyên liệu nhập khẩu, Chính phủ phê duyệt chương trình phát triển cây bông
Việt Nam, đầu tư nâng cao năng suất và chất lượng bông. Chính phủ cũng ký kết
nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương như AFTA, VJEPA, EVFTA,
và hiệp định dệt may WTO, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng may mặc
nhưng cũng đặt ra thách thức cho doanh nghiệp trong nước.

*Năng lực của doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu dệt may
Để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần phụ thuộc vào
nhiều yếu tố đến từ doanh nghiệp như năng lực lãnh đạo và quản trị kinh doanh của
ban quản lý, khả năng tài chính của doanh nghiệp. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế
như hiện nay, việc Việt Nam tham gia vào nhiều FTAs, giao dịch với nhiều quốc gia
trên thế giới đòi hỏi năng lực chuyên môn của đội ngũ xuất nhập khẩu cần phải được
nâng cao cũng như khoa học công nghệ hiện đại, đáp ứng yêu cầu khắt khe từ thị
trường quốc tế.
* Mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may trong nước
Cạnh tranh giúp doanh nghiệp cải thiện chất lượng sản phẩm, giảm giá thành
và làm sản phẩm dệt may đẹp hơn, đa dạng hơn. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có thể
loại bỏ các doanh nghiệp yếu kém. Hiện nay, nhà nước khuyến khích mọi doanh
nghiệp tham gia xuất khẩu, đặc biệt trong lĩnh vực dệt may, dẫn đến sự gia tăng số
lượng doanh nghiệp xuất khẩu. Điều này gây ra cạnh tranh không lành mạnh và ảnh
hưởng tiêu cực đến ngành xuất khẩu dệt may của đất nước.

*Các nhân tố chi phối khác


Thứ nhất, tình hình kinh tế và văn hóa xã hội của thị trường xuất khẩu ảnh
hưởng đến nhu cầu và khả năng thanh toán của doanh nghiệp xuất khẩu dệt may. Các
yếu tố như GDP, thu nhập, lạm phát, lãi suất và thay đổi văn hóa-xã hội đều tác động
đến quyết định mua hàng của khách, ảnh hưởng đến số lượng, chất lượng và kiểu dáng
sản phẩm dệt may xuất khẩu.
Thứ hai, tình hình chính trị và hợp tác quốc tế: Xu hướng hợp tác giữa các quốc
gia và sự hình thành các khối kinh tế, chính trị sẽ ảnh hưởng đến thị trường xuất khẩu
của doanh nghiệp.
Thứ ba, trình độ phát triển khoa học công nghệ: Mức độ phát triển khoa học
công nghệ của thị trường xuất khẩu ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội và từ đó
tác động đến nhu cầu và sức mua của khách hàng.
Thứ tư, chính sách thương mại của các quốc gia: Chính sách thương mại của
các quốc gia có thể hạn chế hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Quốc gia có chính sách thương mại tự do sẽ giúp doanh nghiệp xuất khẩu dễ dàng hơn
và đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
Thứ năm, mức độ cạnh tranh quốc tế: Sức ép từ các doanh nghiệp quốc tế khi
cùng tham gia vào một thị trường xuất khẩu nhất định làm tăng khó khăn cho doanh
nghiệp trong việc thâm nhập, duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Cuối cùng, ảnh hưởng của tình hình kinh tế - xã hội thế giới: Sự biến động của
kinh tế-xã hội ở nước ngoài ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế trong nước. Hoạt động
xuất khẩu, do trực tiếp liên quan đến các đối tác nước ngoài, rất nhạy cảm với các thay
đổi về chính sách xuất khẩu, lạm phát, thất nghiệp hay tăng trưởng kinh tế của các
quốc gia khác.
Mục này đã phân tích được những yếu tố chi phối đến hoạt động xuất khẩu nói
chung và hoạt động xuất khẩu hàng dệt may nói riêng, việc này đã giúp doanh nghiệp
nhận diện được các nhân tố ảnh hưởng, chiều hướng tác động đến hoạt động xuất
khẩu hàng dệt may hiện tại cũng như trong tương lai, từ đó có định hướng và xây
dựng những giải pháp cụ thể loại bỏ hoặc giảm thiểu những yếu tố tác động tiêu cực,
giúp nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng dệt may.
1.2.3 Các khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Về mặt ngữ nghĩa, Hội nhập thường được hiểu là quá trình liên kết chặt chẽ về
chính trị, xã hội hoặc kinh tế giữa các quốc gia, và là sản phẩm của sự liên kết này.
Chủ nghĩa liên bang xem hội nhập như là sản phẩm cuối cùng và nhấn mạnh đến khía
cạnh hình thức và thể chế. Ngược lại, quan điểm coi hội nhập vừa là quá trình, vừa là
sản phẩm, chú trọng vào sự liên kết qua thương mại, thông tin, du lịch... để tạo ra một
cộng đồng chung. Có quan điểm khác cho rằng hội nhập là trạng thái cân bằng mới,
trong đó các quốc gia kết hợp thành một chính thể có cấu trúc nhất định, chấp nhận
nhường một phần chủ quyền và tuân theo các luật lệ, thể chế của chính thể đó.
Hội nhập kinh tế quốc tế được bàn ở đây trên một ý nghĩa nào đó nằm trong
khái niệm hội nhập nói chung là quá trình nhất thể hóa nền kinh tế thế giới, nhằm xóa
bỏ khác biệt kinh tế giữa các quốc gia và khu vực. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay, hội nhập kinh tế quốc tế gắn kết nền kinh tế của từng nước với thị trường khu vực
và thế giới thông qua nỗ lực mở cửa và thúc đẩy tự do hóa kinh tế ở các cấp độ: đơn
phương, song phương và đa phương. Đây là quá trình chủ động "hóa thân" của mỗi
quốc gia vào các thực thể khu vực và toàn cầu, nhằm thể hiện vị thế và tính tự cường,
đồng thời loại trừ những khác biệt để trở thành một phần của các chính thể khu vực và
toàn cầu.
Theo cách hiểu này thì hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình đồng thời thực hiện
hai tiếp cận: Một là, việc ký kết và tham gia các định chế và tổ chức kinh tế quốc tế,
nơi các thành viên xây dựng và thực hiện các luật chơi chung, tuân thủ các quy định
và cam kết tự do hóa, giảm thiểu khả biệt và không phân biệt đối xử. Hai là, các quốc
gia tiến hành cải cách trong nước để thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế, mở cửa
thị trường, xóa bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, điều chỉnh cơ cấu kinh tế,
nâng cao năng lực cạnh tranh, đào tạo nguồn nhân lực, và xây dựng các thể chế kinh
tế tương thích.
Như vậy, Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình liên kết kinh tế với mục tiêu,
định hướng cụ thể gắn với phạm vi, cấp độ cung như điều kiện cụ thể của mỗi nước.
Do đặc thù kinh tế - xã hội riêng, mỗi quốc gia sẽ có lộ trình, bước đi và giải pháp hội
nhập khác nhau. Hội nhập kinh tế quốc tế chịu ảnh hưởng bởi toàn cầu hóa và cách
mạng khoa học công nghệ, nhưng không phải là một quá trình chung chung mà là sự
tham gia cụ thể của mỗi quốc gia vào các thể chế khu vực và toàn cầu, ở cấp độ song
phương hoặc đa phương.

1.2.4. Đặc trưng của hội nhập kinh tế quốc tế


Từ tiếp cận hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình thể hiện các nỗ lực trong
chính sách và hành động cụ thể, mở cửa của các quốc gia trên các cấp độ thì tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế cũng có những đặc trưng nổi bật:
Thứ nhất, xét trên góc độ đơn phương, các quốc gia đã đẩy mạnh cải cách và
chuyển đổi kinh tế theo hướng tự do hóa, mở cửa thị trường bằng cách thay đổi hệ
thống pháp luật và thể chế, cải cách cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Những cải cách này dựa trên các tiêu chí phát triển quốc tế, chưa cần tuân theo các
cam kết cụ thể của quốc tế/khu vực. Thực tế, Trung Quốc và Việt Nam đã thành công
trong việc thu hút đầu tư trước khi tham gia các định chế quốc tế. Hội nhập đơn
phương là quá trình cải cách liên tục, đáp ứng nhanh chóng và hiệu quả trước những
biến động của toàn cầu hóa, tạo tiền đề cho hội nhập sâu hơn ở các cấp độ khác.
Thứ hai, ở cấp độ song phương, hầu hết các nước đã và đang đàm phán và ký
kết với nhau các hiệp định song phương, đặc biệt là các hiệp định tự do thương mại
song phương trong những năm gần đây. Từ 1948 - 1994 chỉ có khoảng 124 FTA được
ký kết song kể từ năm 1995 đến nay, đã có hơn 400 FTA được ký kết. Hiện nay, các
FTA song phương và khu vực đã diễn ra phổ biến và rộng khắp ở hầu hết các khu vực
trên thế giới, nổi bật và rầm rộ nhất là ở Đông và Đông Nam Á. Các nước lớn và các
nước phát triển đều triển khai FTA với khu vực này - một khu vực phát triển năng
động. Cách tiếp cận FTA tuy có khác nhau: Mỹ xúc tiến FTA với một số nước trong
ASEAN để hình thành mạng lưới FTA song phương nhưng chưa phải để tính tới một
FTA với toàn ASEAN trong khi Nhật xúc tiến cả với toàn ASEAN và với một số nước
có lựa chọn. Trung Quốc lại tiến hành ký kết FTA với toàn ASEAN xong mới tiến tới
giải quyết tay đôi với từng nước. Điều quan trọng là các FTA song phương vẫn không
đi ngược với các nguyên tắc của tự do hoá đa phương mà là những sự bổ sung quan
trọng cho các Hiệp định tự do đa phương khu vực và toàn cầu bởi hầu như các nước
ký kết FTA với nhau trước hết đều phải là thành viên của WTO. FTA đặt ra những yêu
cầu rất cao, thúc đẩy mở cửa thị trường sớm và cam kết tự do hoá toàn diện hơn. Trên
thực tế, các nước phát triển hơn và có độ mở cửa thị trường lớn hơn thì dường như
thường được hưởng lợi nhiều hơn. Dù vậy, FTA song phương hiện đang được nhiều
nước ưa chuộng kể cả các quốc gia đang phát triển. Bởi đây là sự kết hợp lợi ích trước
mắt và lâu dài, giữa lợi ích cục bộ và lợi ích toàn thể để cuối cùng các nước đều trở
thành một bộ phận hữu cơ trong hệ thống thương mại toàn cầu ít khác biệt, không
phân biệt đối xử và ngày càng trở nên “Công bằng” hơn cho mọi quốc gia/ khu vực.
Thứ ba, ở cấp độ đa phương, một số hoặc nhiều nước cùng nhau đẩy mạnh việc
thành lập hoặc tham gia vào những định chế/tổ chức khu vực và toàn cầu. Các định
chế này có thể hình thành từ các nước trong cùng một khu vực địa lý (EU, NAFTA,
AFTA...); hoặc đó là định chế toàn cầu với gần hầu hết các nước trên thế giới (WTO
với 153 thành viên hiện nay). Những năm gần đây, ngoài các định chế đa phương lớn
có tính bao trùm như WTO, EU..., hội nhập kinh tế dưới hình thức các tam/tứ giác
phát triển cũng đã nhiều nước cận kề xúc tiến, thúc đẩy. Chúng cũng được vận hành
trên một số nguyên tắc cơ bản của tự do hoá mậu dịch để khai thác các nguồn lực bổ
sung cho nhau.
1.2.5 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến xuất khẩu hàng hóa
1.2.5.1 Tác động tích cực
a) Góc độ song phương và đa phương
* Hiệp định tự do Thương mại (FTA)
Thứ nhất, mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng số lượng, sản lượng sản phẩm
xuất khẩu. Việc ký kết các FTA đã mở rộng cơ hội thị trường xuất khẩu cho hàng hóa
Việt Nam. Từ chỗ chủ yếu sản xuất cho thị trường nội địa và đối tác truyền thống, các
doanh nghiệp có thể tiếp cận nhiều thị trường mới trên thế giới. Sự mở rộng này
không chỉ tăng nhu cầu hàng hóa mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển
quy mô, tăng lao động và vốn đầu tư.
Thứ hai, hưởng nhiều ưu đãi về thuế quan, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và
các chế độ đãi ngộ khác từ các cam kết trong FTAs. Việt Nam tham gia ký kết các
FTA, dưới vai trò là các quốc gia thành viên, sẽ được đưa ra những lộ trình về cam kết
cắt giảm thuế suất đối với hàng hóa nhập khẩu, và thường sẽ dành cho nhau những ưu
đãi về thuế suất và thậm chí thuế suất sẽ được miễn trừ về 0%, do đó khi xuất khẩu
hàng hóa các doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi trong FTAs.
Thứ ba, nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm của các doanh nghiệp: Việc
tham gia FTAs, hàng hóa Việt Nam phải đáp ứng những yêu cầu của Hiệp định về
nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường, chất lượng, mẫu mã...
Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải nâng cao chất lượng và cải tiến
sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế.

* FDI được lưu chuyển tự do


Thứ nhất, việc thu hút FDI cũng góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu nhờ
những mối quan hệ khách hàng quốc tế rộng lớn cũng như lợi thế từ thị trường của
nước đầu tư vốn kết hợp với sự am hiểu thị trường quốc tế của FDI giúp Việt Nam có
cơ hội tiếp cận nhiều khách hàng tiềm năng.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh cho
sản phẩm bởi FDI mang lại nguồn vốn lớn đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chuyển giao công
nghệ và kinh nghiệm quản lí, làm việc từ các quốc gia phát triển vào Việt Nam nhằm
cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa
học công nghệ của nước nhà.

* Tài chính quốc tế


Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế mở rộng cơ hội Việt Nam với tiếp cận thị
trường tài chính quốc tế như World Bank và IMF, Việt Nam có cơ hội tham gia hội
chợ triển lãm sản phẩm quốc tế cho các quốc gia đang phát triển, đây là cơ hội để Việt
Nam đưa sản phẩm ra thị trường quốc tế, góp phần thúc đẩy sản phẩm xuất khẩu Việt
Nam vào nhiều quốc gia.
Thứ hai, nâng cao năng lực quản lý và tiếp cận kỹ thuật hiện đại thông qua
những chương trình hỗ trợ công nghệ, vốn hay các hội thảo kinh tế, hợp tác giáo dục -
đào tạo và nghiên cứu khoa học, tiếp nhận các công nghệ hiện đại từ việc đầu tư và
chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến.
Thứ ba, ổn định kinh tế vĩ mô, sự tham gia của Việt Nam vào thị trường tài
chính quốc tế có tác động đáng kể đến cân bằng cung-cầu ngoại tệ và hoạt động xuất
khẩu. Dòng vốn nước ngoài chảy vào làm tăng nguồn cung ngoại tệ, giúp cân đối với
nhu cầu từ hoạt động nhập khẩu, từ đó giảm áp lực lên tỷ giá và hạn chế biến động
mạnh. Tỷ giá ổn định tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu lập kế
hoạch dài hạn và giảm rủi ro tỷ giá cho các hợp đồng xuất khẩu. Tuy nhiên, cần lưu ý
rằng nếu tỷ giá quá ổn định có thể làm giảm lợi thế cạnh tranh về giá của hàng xuất
khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế.

b) Góc độ đơn phương


Việc tham gia hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy Việt Nam cần cải cách và
chuyển đổi kinh tế theo hướng tự do hóa, mở cửa thị trường bằng cách thay đổi hệ
thống pháp luật và thể chế, cải cách cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Đồng thời, các doanh nghiệp trong nước cũng cần chủ động nâng cao năng lực và thay
đổi để bắt kịp với thị trường quốc tế.
Ngoài ra, có nhiều tác động tích cực khác đến từ việc hội nhập kinh tế quốc tế
sâu rộng về văn hóa, xã hội, đời sống,...

1.2.5.2 Tác động tiêu cực


* Sự mở cửa thương mại
Thứ nhất, các FTA đặt ra nhiều thách thức mới cho Việt Nam trong quá trình
xây dựng chính sách và luật pháp ở nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, các thủ tục về hành
chính, thủ tục hải quan, môi trường làm việc,... Cũng như những yêu cầu khắt khe về
môi trường, kỹ thuật, nguồn gốc xuất xứ,...
Thứ hai, sau một thời gian thực thi các FTA thế hệ mới, lợi ích nhận được từ
các hiệp định này còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp chưa
nắm rõ về những ưu đãi thuế quan theo các hiệp định, cũng như khả năng đáp ứng các
tiêu chuẩn chất lượng của nước nhập khẩu. Phần lớn các doanh nghiệp mới chỉ hiểu
biết sơ bộ về hiệp định, số lượng doanh nghiệp hiểu biết rõ về các cam kết trong các
FTA thế hệ mới liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình chiếm tỷ lệ rất nhỏ.

* FDI được lưu chuyển tự do


Thứ nhất, doanh nghiệp trong nước đối mặt với nhiều thách thức khi hội nhập
kinh tế quốc tế. Họ phải cạnh tranh với đối thủ nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh
hơn, thường có lợi thế về đầu tư và marketing. Nhiều doanh nghiệp nội địa còn thua
kém về công nghệ và quy trình quản lý, thiếu kinh nghiệm cạnh tranh quốc tế gây khó
khăn trong việc xây dựng chiến lược và thích ứng với thị trường toàn cầu. Điều này có
thể “dìm chết” nhiều doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp nước
ngoài thâm nhập vào thị trường Việt Nam, có hành vi cạnh tranh không lành mạnh
như bán phá giá để chiếm thị phần, chuyển giá nhằm trốn thuế hợp pháp khiến doanh
nghiệp trong nước càng khó cạnh tranh.
Thứ hai, sự lệ thuộc kinh tế và dễ bị tổn thương bởi biến động từ bên ngoài:
Ngành xuất khẩu Việt Nam phụ thuộc vào các thị trường chính và kim ngạch xuất
khẩu của FDI luôn chiếm thế “thượng phong” trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả
nước, điều này có thể hạn chế sự phát triển kinh tế độc lập và ổn định. Ngoài ra, các
biến động từ kinh tế - tài chính của thế giới cũng ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hóa
Việt Nam. Chẳng hạn, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, bắt đầu từ sự
sụp đổ của thị trường bất động sản tại Hoa Kỳ, đã nhanh chóng lan rộng và gây ra sự
suy thoái kinh tế ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Sự phụ thuộc
lẫn nhau trong thương mại dẫn đến kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong
giai đoạn này giảm rõ rệt.

*Tài chính quốc tế


Biến động tỷ giá hối đoái tác động đáng kể đến giá cả và sức cạnh tranh của
hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Khi đồng nội tệ mất giá, tức là tỷ giá tăng,
hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn đối với người mua nước ngoài. Điều này làm tăng sức
cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế và có thể thúc đẩy tăng khối lượng
xuất khẩu. Ngược lại, khi đồng nội tệ tăng giá, tức là tỷ giá giảm, hàng xuất khẩu trở
nên đắt hơn đối với người mua nước ngoài, dẫn đến giảm sức cạnh tranh và có thể làm
giảm khối lượng xuất khẩu. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu phụ thuộc vào nguyên
liệu nhập khẩu, biến động tỷ giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất. Tùy theo
hướng biến động của tỷ giá, điều này có thể làm tăng hoặc giảm lợi nhuận của doanh
nghiệp.
Biến động thị trường tài chính toàn cầu có tác động sâu rộng đến nhu cầu tiêu
dùng và giá cả hàng hóa. Những biến động này có thể ảnh hưởng đáng kể đến tâm lý
và khả năng chi tiêu của người tiêu dùng trên toàn cầu, từ đó làm thay đổi nhu cầu đối
với hàng xuất khẩu. Đồng thời, những biến động này cũng có thể tác động trực tiếp
đến giá cả hàng hóa cơ bản trên thị trường thế giới. Sự thay đổi này không chỉ ảnh
hưởng đến giá thành sản phẩm cuối cùng mà còn tác động đến chi phí đầu vào của
nhiều ngành sản xuất xuất khẩu.

1.3 Cơ sở thực tiễn


1.3.1 Tình hình hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam
Tháng 7/1995, Việt Nam gia nhập ASEAN đã mở đầu cho tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là sự kiện đánh dấu bước hội nhập toàn diện
của Việt Nam với nền kinh tế thế giới.
Nhờ việc thay đổi chính sách, đường lối lãnh đạo kịp thời để phù hợp với xu
thế toàn cầu, Việt Nam đã tích cực hội nhập kinh tế quốc tế và đạt được nhiều thành
tựu nổi bật trong nhiều năm qua. Năm 2003 tăng 20,6% so với năm 2002; năm 2004
tăng 31,4 %; năm 2005 tăng 22,5%; 2006 tăng 22,7%; 2007 tăng 21,9%; 2008 tăng
29,1%. Ngoại trừ năm 2009 do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, kim
ngạch xuất khẩu giảm 8,9%, các năm tiếp theo đều tăng cao: năm 2010 tăng 26,4%;
năm 2011 tăng 33,3%. Kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn này tăng 6,6 lần từ 14,5
tỷ USD năm 2000 lên 96,3 tỷ USD năm 2011. Đến năm 2018, tổng kim ngạch xuất,
nhập khẩu ước đạt 475 tỷ USD. Hàng hóa Việt Nam đã tiếp tục khai thác các thị
trường truyền thống và mở rộng tìm kiếm, phát triển thêm nhiều thị trường mới. Đặc
biệt, xuất khẩu sang thị trường các nước có hiệp định thương mại tự do (FTA) với Việt
Nam.
Sau hơn 30 năm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hiện cả nước có
khoảng 438,7 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài. Trong số này, đã có 274 tỷ USD đã
được giải ngân, bằng 62,5% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực Theo đó, khu vực
FDI đã ngày càng phát triển, trở thành một trong những khu vực năng động nhất của
nền kinh tế. FDI đã đóng góp lớn trong việc gia tăng năng lực sản xuất và xuất khẩu
của Việt Nam. Hiện FDI đang đóng góp 24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chiếm
khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu và hơn 50% sản lượng công nghiệp chế biến chế
tạo. Khu vực FDI đã góp phần tăng thu ngân sách, tạo việc làm cho người dân, ổn
định tình hình xã hội. FDI có vai trò quan trọng, trở thành “điểm sáng" của nền kinh
tế Việt Nam. FDI đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hiện FDI đã tạo ra
khoảng 55% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành công
nghiệp chủ lực như viễn thông, dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin... Đây là nền
tảng quan trọng cho tăng trưởng dài hạn cũng như thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Ngày 12/11/2018, đánh dấu một bước ngoặt lớn trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam khi Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn.
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và các văn
kiện có liên quan. Tham gia Hiệp định này là động lực giúp Việt Nam nâng cao nội
lực, đa dạng hóa thị trường để ứng phó với các tác động của kinh tế thế giới đang diễn
biến phức tạp với chiều hướng bảo hộ thương mại gia tăng của các nền kinh tế lớn.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam có khả năng tăng thêm 1,32% tính đến
năm 2035. Trong trường hợp đồng thời cắt giảm thuế quan và tự do hóa dịch vụ, GDP
có thể tăng thêm 2,01%. Với mức độ cam kết của các nước trong CPTPP, các mặt
hàng xuất khẩu có thể mạnh của Việt Nam như nông, thủy sản, điện, điện tử đều được
xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam có
thể tăng thêm 4,04% và nhập khẩu tăng thêm 3,8% vào năm 2035; tổng số việc làm
tăng thêm hàng năm từ 20.000 lao động đến 26.000 lao động. Bên cạnh đó, tham gia
vào Hiệp định Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội khác về thu hút FDI, cơ hội học hỏi để
hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như năng lực quản lí
Bất chấp những khó khăn từ rào cản thương mại, sự gia tăng bảo hộ của các
nước hay căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn
chinh phục “đỉnh cao" mới. Năm 2018, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt 7,08%,
mức cao nhất trong vòng 10 năm. Năm 2024,tăng trưởng kinh tế dự kiến ​sẽ đạt 5,5%
vào, tăng từ mức 5% vào năm 2023, và nguyên nhân sự giảm nhẹ trong tăng trưởng
kinh tế do ảnh hưởng của dịch covid 19.
Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế, từ
việc xây dựng và củng cố quan hệ đối tác chiến lược, toàn diện, đặc biệt với Lào và
Campuchia. Đặc biệt, tích cực mở rộng hợp tác thông qua FTA lớn như FTA giữa Việt
Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương (CPTPP)… trong đó có các đối tác đặc biệt lớn của Việt Nam như
Liên minh châu Âu (EU), Hoa Kỳ, Nhật Bản… Đây chính là cơ hội lớn cho các sản
phẩm hàng hóa của Việt Nam có thể tăng khả năng cạnh tranh về giá trên thị trường
thế giới, đưa sản phẩm Việt Nam đến với thế giới, tạo lợi thế cho các doanh nghiệp
Việt Nam có thể bước vào sân chơi quốc tế, từ đó góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.
Tính đến tháng 8/2023, Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán 19 FTA, trong
đó có 16 hiệp định đã có hiệu lực và đang thực thi cam kết, 03 hiệp định đang đàm
phán. Từ đó, ta có thể thấy được kể từ năm 1995 - dấu mốc đầu tiên trên đường đua
hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam không ngừng hoàn thiện để phù hợp với yêu cầu
quốc tế, chủ động tìm kiếm cơ hội hợp tác với các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản,... góp
phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước.

1.3.2 Những cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với xuất khẩu
hàng dệt may Việt Nam.
Khi hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã đưa ra nhiều cam kết quan trọng
trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may.
Thứ nhất, việc giảm thuế xuất nhập khẩu đã tạo điều kiện thuận lợi cho ngành
này phát triển. Ví dụ, hiệp định VKFTA và AKFTA : Trong khuôn khổ thỏa thuận,
Hàn Quốc cam kết loại bỏ 11.679 dòng thuế đối với hàng hóa Việt Nam, trong khi
Việt Nam sẽ xóa bỏ 8.521 dòng thuế cho sản phẩm Hàn Quốc. Ngoài ra, hiệp định
VKFTA cho phép hai quốc gia tổ chức tham vấn và thiết lập các thỏa thuận phụ trợ
nhằm thúc đẩy quá trình giảm hoặc loại bỏ thuế quan. Nếu một bên mong muốn đẩy
nhanh tiến độ cắt giảm hoặc xóa bỏ thuế, họ cần thông báo cho đối tác. Một khi các
biện pháp giảm hoặc loại bỏ thuế đã được thực thi, sẽ không thể đảo ngược quyết định
này.
Thứ hai, cam kết về việc tuân thủ quy tắc xuất xứ là một trong những cam kết
quan trọng của ngành dệt may Việt Nam. Để được hưởng ưu đãi thuế quan từ các hiệp
định thương mại tự do (FTA), các doanh nghiệp dệt may phải đáp ứng các yêu cầu về
nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm. Điều này đòi hỏi ngành phải tăng cường sản xuất
nguyên phụ liệu trong nước, giảm phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu. Theo số liệu từ
Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS), tỷ lệ nội địa hóa nguyên phụ liệu trong ngành
đã tăng từ khoảng 40% năm 2015 lên 55% vào năm 2020. Tuy nhiên, con số này vẫn
chưa đáp ứng đủ yêu cầu của một số FTA quan trọng như CPTPP hay EVFTA, vốn
đòi hỏi tỷ lệ nội địa hóa từ 65-70%. Để khắc phục tình trạng này, nhiều doanh nghiệp
đã đầu tư mạnh vào sản xuất vải, với tổng giá trị đầu tư ước tính lên đến 1,5 tỷ USD
trong giai đoạn 2018-2020. Nỗ lực này không chỉ giúp ngành dệt may Việt Nam tận
dụng tốt hơn các ưu đãi từ FTA, mà còn nâng cao giá trị gia tăng và khả năng cạnh
tranh trên thị trường quốc tế.
Thứ ba, cam kết về tiêu chuẩn đối với sản phẩm: tính đến nay, hệ thống tiêu
chuẩn quốc gia của Việt Nam về dệt và may mặc có khoảng 313 tiêu chuẩn; trong đó,
nổi bật là các tiêu chuẩn về xác định các chất độc hại tồn dư trong sản phẩm dệt - may.
Các tiêu chuẩn được xây dựng chủ yếu chấp nhận tiêu chuẩn quốc tế (ISO), tiêu chuẩn
châu Âu (EN). Do đó, mức độ hài hòa với quốc tế là rất cao, phản ánh sự tương thích
với thông lệ quốc tế và xu hướng chung, đảm bảo đáp ứng yêu cầu về chất lượng của
sản phẩm dệt - may Việt Nam, tạo thuận lợi cho xuất khẩu sang các nước. Bên cạnh
đó, còn có nhiều tiêu chuẩn tự xây dựng dựa trên trình độ khoa học và công nghệ, nhu
cầu và đặc trưng của Việt Nam.
Thứ tư, cam kết về quy tắc xuất xứ đối với sản phẩm: ngành dệt may Việt Nam
đã cam kết tuân thủ quy tắc xuất xứ trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) để
được hưởng ưu đãi thuế quan. Các nước tham gia Hiệp định thương mại tự do sẽ đưa
ra thoả thuận chung về quy tắc xuất xứ áp dụng cho hàng dệt may, điều này đòi hỏi
ngành phải tăng cường sản xuất nguyên phụ liệu trong nước. Theo số liệu từ Hiệp hội
Dệt May Việt Nam (VITAS), tỷ lệ nội địa hóa nguyên phụ liệu đã tăng từ 40% năm
2015 lên 55% vào năm 2020. Tuy nhiên, con số này vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu của
một số FTA quan trọng như CPTPP hay EVFTA, vốn đòi hỏi tỷ lệ nội địa hóa từ
65-70%.
Việt Nam tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng thông qua các Hiệp
định thương mại tự do đặt ra nhiều cam kết khác đòi hỏi hai bên cần tuân thủ theo:
hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT), cam kết về lao động, cam kết về sở hữu
trí tuệ (SHTT).
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
2.1 Tổng quan tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập kinh tế quốc tế
2.1.1. Giai đoạn từ 1996-2010
2.1.1.1 Kim ngạch xuất khẩu
Ngành dệt may Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong nhiều thập
kỷ qua. Trong giai đoạn này, ngành xuất khẩu hàng dệt may không ngừng phát triển.
Cụ thể, tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may liên tục tăng, từ 1,15 tỷ USD vào năm
1996 lên gần 7,8 tỷ USD vào năm 2001, gần 9,7 tỷ USD vào năm 2007 và khoảng 9,1
tỷ USD vào năm 2008. Trong 10 tháng đầu năm 2009, mặc dù chịu ảnh hưởng tiêu
cực từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, ngành dệt may vẫn đạt giá trị xuất khẩu gần
7,5 tỷ USD, chỉ giảm khoảng 1,5% so với cùng kỳ năm 2008. Đáng chú ý, giá trị xuất
khẩu đã tăng khá nhanh từ năm 2002 đến nay, với mức tăng trưởng giai đoạn
2002-2008 khoảng 22%/năm.
Theo giá so sánh (1994), trong giai đoạn 2000 - 2008, giá trị sản xuất của
ngành dệt đã tăng gần 2,7 lần (~10.040 tỷ đồng lên hơn 26.950 tỷ đồng). Thậm chí,
tốc độ tăng trưởng của ngành may mặc tăng nhanh hơn từ mức 6.040 tỷ đồng - gần
26.620 tỷ đồng.
Việc kim ngạch xuất khẩu tăng là do Việt Nam bắt đầu tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế từ năm 1995 cũng như bình thường hóa quan hệ với Mỹ, đây chính là “bàn
đạp” cho phát triển xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam.

2.1.1.2 Thị trường xuất khẩu


Trong giai đoạn này, nhờ việc tham gia vào ASEAN và tích cực hội nhập kinh
tế hàng dệt may Việt Nam có cơ hội xuất khẩu sang nhiều quốc gia.
Từ năm 1996 - năm 2007, các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam chủ yếu
là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Tỷ trọng xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng đóng góp giá trị xuất
khẩu hàng dệt may của Việt Nam cũng tăng tương ứng, từ mức xấp xỉ 34,6% vào năm
2002 lên gần 50,7% vào năm 2007. Các thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn của Việt
Nam là EU và Nhật Bản. Thị trường EU có mức tăng khá ổn định, từ mức 225 triệu
USD vào năm 1996 lên 1,5 tỷ USD vào năm 2007. Trong khi đó, xuất khẩu hàng dệt
may vào Nhật Bản có diễn biến phức tạp hơn, mặc dù trên hiện xu hướng tăng: giá trị
xuất khẩu năm 2000 là 620 triệu USD, giảm xuống còn 514 triệu USD vào năm 2003
và tăng lên 860 triệu USD vào năm 2007. Chỉ riêng thị trường này đã chiếm hơn 81%
giá trị xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam, mặc dù đã giảm so với điểm đỉnh điểm
85,9% vào năm 2004.
Từ năm 2007 - 2010, thị trường xuất khẩu hàng dệt may mở rộng hơn, ngoài
các thị trường Châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản, ngành dệt may Việt Nam có cơ hội góp
mặt vào thị trường Hàn Quốc, các quốc gia Asean, Thụy Sĩ,...
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ VITAS
Hình 2.2: Tăng trưởng KNXK hàng dệt may Việt Nam từ 2007-2010
Tại thị trường Hoa Kỳ, thị trường lớn nhất với tỷ trọng chiếm hơn 55% tổng
giá trị xuất khẩu dệt may, các doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động hợp tác với các nhà
nhập khẩu để tối ưu hóa cơ cấu giá cả, đồng thời duy trì chất lượng sản phẩm và dịch
vụ. Kết quả là năm 2008, kim ngạch xuất khẩu dệt may vào Hoa Kỳ đạt trên 5,1 tỷ
USD, tăng 15% so với năm trước. Nhưng đến năm 2009 do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ Hoa Kỳ làm nhu cầu tiêu dùng của thị
trường này sụt giảm. Cụ thể, giá trị giảm nhẹ 4,5% (~ 1 tỷ USD) do thị trường nhập
khẩu dệt may Hoa Kỳ suy giảm đáng kể, với mức giảm 12,7% tổng nhập khẩu từ thị
trường Việt Nam và sự sụt giảm từ nhiều quốc gia sản xuất chính (Hồng Kông giảm
21%, Indonesia 2,9%, Thái Lan 25,6%, Ấn Độ 7,7%), hàng dệt may Việt Nam vẫn
duy trì được vị thế cạnh tranh thể hiện khả năng thích ứng tốt của ngành dệt may Việt
Nam trước những biến động của thị trường. Tuy nhiên năm 2010, ngành xuất khẩu dệt
may chứng kiến một sự tăng trưởng mạnh mẽ từ 4,5 tỷ USD - 6 tỷ USD do nền kinh tế
Hoa Kỳ khôi phục trở lại sau khủng hoảng kinh tế 2008-2009, dẫn đến nhu cầu tiêu
thụ của thị trường này tăng nhanh trở lại.
Tại thị trường Châu Âu, thị trường này đóng góp khoảng 20% tổng giá trị xuất
khẩu dệt may, các doanh nghiệp Việt Nam đã thực hiện chiến lược nâng cao chất
lượng sản phẩm và mở rộng các dịch vụ hỗ trợ. Từ năm 2007- 2009, kim ngạch xuất
khẩu ngành dệt may vào thị trường này dao động trong khoảng 1,25 tỷ USD - 1,8 tỷ
USD. Tuy nhiên, năm 2009, giá trị xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào thị trường
này giảm nhẹ 3,5%, đạt gần 1,25 tỷ USD. Điều này cho thấy khả năng thích ứng và
duy trì vị thế cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam trên thị trường Châu Âu, ngay
cả trong điều kiện kinh tế khó khăn. Nhưng đến năm 2010, các chỉ số giá trị tăng
trưởng trở lại.
Tại thị trường Nhật Bản, thị trường lớn thứ ba của ngành dệt may Việt Nam,
các doanh nghiệp trong nước nỗ lực thúc đẩy hoạt động xúc tiến hợp tác đầu tư,
thương mại với đối tác Nhật. Nhờ đó kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này không
ngừng tăng trưởng (năm 2008 tăng 12% và 9 tháng đầu năm 2009 tăng 15,3 %).
Bên cạnh đó, doanh nghiệp đã có nhiều nỗ lực để xúc tiến các thị trường mới.
Trong 9 tháng đầu năm 2009, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hàn Quốc đã
tăng 50,6%, Ả-rập Xê-út tăng 23%, Thụy Sĩ tăng 12,7% và các nước ASEAN tăng
7,8%.

2.1.1.3 Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Các sản phẩm dệt may xuất khẩu chính ở giai đoạn này chủ yếu là hàng may
mặc (áo sơ mi, quần tây, áo khoác, váy,...); vải (vải bông, vải sợi tổng hợp, vải dệt
kim,...); sợi (sợi bông, sợi tổng hợp); phụ liệu may mặc (cúc, khóa kéo, chỉ may) và
các mặt hàng sản phẩm khác. Nhưng trong đó, mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất là hàng
may mặc, sang các thị trường lớn như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ.

2.1.2 Giai đoạn 2011 - 2015


2.1.2.1 Kim ngạch xuất khẩu

Năm Giá trị xuất khẩu

2011 15,831

2012 17,018

2013 21,092

2014 24,692

2015 27,500
106.133
Tổng

Hình 2.3: Tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam giai đoạn 2011 – 2015
(Đơn vị: Triệu USD)
Nguồn: Báo đầu tư
Giai đoạn 2011 - 2015, ngành dệt may Việt Nam đã xuất khẩu lượng hàng dệt
may, xơ sợi, dệt... trị giá hơn 106 tỷ USD tới nhiều thị trường lớn trên toàn cầu. Năm
2012, kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt khoảng 17,2 tỷ USD, tăng 8,5% so với cùng
kỳ 2011, đây là năm thứ tư liên tiếp dệt may dẫn đầu trong các ngành hàng xuất khẩu
của Việt Nam. Nếu so sánh con số tăng trưởng 8,5% của năm 2012 với 38% của năm
2011 thì rõ ràng, kim ngạch xuất khẩu dệt may năm 2012 có dấu hiệu giảm rõ rệt do
tình hình khó khăn chung của nền kinh tế thế giới, kim ngạch xuất khẩu dệt may cũng
bị ảnh hưởng bởi giá xuất khẩu của năm nay xuống thấp. Xu hướng chung của xuất
khẩu ngành dệt may giai đoạn này tăng trưởng đáng kể, luôn là nhóm hàng xuất khẩu
chủ lực của cả nước. Đặc biệt, năm 2014, giá trị xuất khẩu hàng dệt may năm 2014 đạt
20,95 tỷ USD; tăng 16,8% so với năm trước, đây là tốc độ tăng trưởng đáng ngưỡng
mộ.

Hình 2.4: Giá trị XK hàng dệt may theo tháng năm 2014
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Trong tất cả các tháng năm 2014, kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may Việt
Nam đều đạt giá trị trên 1 tỷ USD. Điều này chứng tỏ vị thế của ngành dệt may Việt
Nam trên thương trường quốc tế ngày càng vững chắc, mặc dù bối cảnh kinh tế của
giai đoạn này gặp nhiều khó khăn do nhu cầu tiêu dùng của thị trường quốc tế sụt
giảm

2.1.2.2. Thị trường xuất khẩu


Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh và chủ yếu vẫn ở các
quốc gia: Hoa Kỳ, Nhật bản, Hàn Quốc, EU. Giai đoạn này, ngành dệt có cơ hội mở
sang các thị trường tiềm năng khác như Châu Phi, Trung Đông,...
Tại thị trường Hoa Kỳ, Việt Nam đang giữ vị trí quan trọng trong thị trường
may mặc Hoa Kỳ, chỉ đứng sau Trung Quốc. Năm 2013, gần một nửa tổng giá trị xuất
khẩu ngành may mặc Việt Nam là từ thị trường Mỹ. Theo số liệu của OTEXA, Việt
Nam có mức tăng trưởng ấn tượng nhất trong các nước xuất khẩu may mặc vào Mỹ,
tăng 14.59% về trị giá và 13.74% về lượng so với năm 2012. Cụ thể, Việt Nam xuất
khẩu 3.6 tỷ m2 hàng may mặc, trị giá 8.77 tỷ USD, chiếm 8.38% thị phần.
Trong khi đó, các đối thủ cạnh tranh khác có mức tăng trưởng thấp hơn
nhiều.Thị phần hàng may mặc Trung Quốc năm 2013 là 39.79%, tăng 2.69% về giá trị
xuất khẩu. Tương tự, thị phần may mặc của Indonesia (4.99%), Campuchia (2.47%)
tăng 0.63% và 0.72% so với năm 2012
Đáng chú ý, giá nhập khẩu hàng may mặc Việt Nam vào Mỹ ngang bằng hoặc
cao hơn so với các đối thủ như Trung Quốc và Bangladesh. Tuy vậy, tốc độ tăng
trưởng nhập khẩu từ Việt Nam vẫn dẫn đầu trong top 10 nhà cung cấp lớn nhất cho thị
trường Mỹ năm 2013.

Hình 2.5: Xuất khẩu hàng may mặc sang Hoa Kì 2013
Nguồn: Vietinbanksc Ngành dệt may Việt Nam
Trong năm 2014, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt
28,655 tỷ USD; chiếm hơn 19% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước. Tiếp
tục tăng trong năm 2015, với kim ngạch xuất khẩu gần 33,5 tỷ USD, ghi nhận mức
tăng trưởng về giá trị 16,9% so với năm 2014, và Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn
nhất của Việt Nam.
Tại thị trường Châu Âu, năm 2011, xuất khẩu hàng dệt may đạt 2,4 tỷ USD,
tăng 25% so với năm 2010 đặc biệt. Nhưng sang đến năm 2012, kim ngạch xuất khẩu
dệt may sang thị trường này giảm nhẹ 2-3 % do các nhà nhập khẩu EU đang chuyển
dần đơn hàng từ Việt Nam sang Campuchia, Lào và Bangladesh nhằm tránh mức thuế
nhập khẩu 10% để tiết kiệm chi phí, do những quốc gia này còn được hưởng tiêu
chuẩn Tối huệ quốc (MFN) với mức thuế suất nhập khẩu 0%. Năm 2013, Thị trường
EU, mức tiêu thụ hàng hóa dệt may thấp hơn, chỉ tăng trưởng 0,5 % (từ 233 tỷ USD
năm 2012 lên 234 tỷ USD năm 2013).
Tại thị trường Nhật Bản, tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị thị trường này năm
2011 có xu hướng tăng đạt 1,65 tỷ USD, tăng 43% so với năm 2010.Trên đà tiếp tục
tăng, năm 2013 - 2014,, xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản tăng từ 2,38 tỷ USD -
2,62 tỷ USD, tăng 10,1%. Mặt hàng dệt may tiếp tục là mặt hàng đạt kim ngạch cao
nhất trong tổng số mặt hàng xuất khẩu sang Nhật Bản.
Bên cạnh kim ngạch XK vào các thị trường chủ lực như: Mỹ, EU và Nhật Bản
tăng trưởng ổn định (châu Âu tăng 41%, Nhật Bản tăng 52%), một số thị trường nhập
khẩu hàng dệt may Việt Nam mới nổi như: Hàn Quốc, Đài Loan, Canada cũng góp
phần tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu hàng
dệt may của Việt Nam sang thị trường Hàn Quốc tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2010,
điều này đã giúp ngành dệt may tạo đà để mở rộng sang các thị trường tiềm năng khác
như Châu Phi, Trung Đông..; một số thị trường: Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan
cũng tăng mạnh; đưa tỷ trọng từ chỗ chỉ chiếm chưa đến 10% tổng kim ngạch xuất
khẩu lên gần 20%. Bên cạnh đó, ngành cũng đã chú trọng khai thác các thị trường
ngách, giảm phụ thuộc vào các thị trường truyền thống như: Angola, New Zealand,
Cuba… Tăng cường xuất khẩu ODM - hình thức bán hàng may mặc xuất khẩu bao
gồm cả thiết kế, hoặc phát triển mạng lưới kinh doanh và phân phối.

2.1.2.3 Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu hàng dệt may


Các sản phẩm chính của Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường chủ lực là
hàng may mặc (chủ yếu là áo Jacket, quần, đồ lót, áo thun, áo sơ mi,...) Ngoài ra, các
mặt hàng xuất khẩu khác như vải, xơ sợi, vải không dệt, nguyên phụ liệu dệt may
Thị trường Hoa Kì, mặt hàng xuất khẩu chiểm tỷ trọng lớn là Áo sơ mi
(34,2%); tiếp đến là Quần (25,6%), còn lại là các mặt hàng áo khoác, đồ lót, ….
Thị trường EU, áo Jacket là mặt hàng xuất khẩu chiểm tỷ trọng lớn với
33.55%; Quần (16.91%), còn lại là các mặt hàng áo thun, áo sơ mi, váy ….
Thị trường Nhật Bản , mặt hàng xuất khẩu được ưa chuộng là áo jacket
(18,22%); tiếp đến là áo thun (18,19%), còn lại là các mặt hàng quần, đồ lót….
Thị trường Hàn Quốc, áo jacket chiếm tỷ trọng vô cùng lớn với 53,9%, quần
(16,2%); còn lại là các mặt hàng áo thun, vải, quần áo trẻ em, ….
2.1.3 Giai đoạn 2016 - 2020
2.1.3.1 Kim ngạch xuất khẩu
Ngành dệt may trong giai đoạn này gặp nhiều biến động do những tác động đến
từ bên ngoài và ảnh hưởng của dịch Covid 19 . Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu toàn
ngành Dệt may Việt Nam năm 2016 ước đạt 28,3 tỷ USD, chỉ tăng nhẹ 5% so với năm
2015. Do năm 2016 là năm thế giới cũng xảy ra nhiều biến động về kinh tế, chính trị,
trong đó nổi bật là sự kiện Brexit, việc Anh rời EU đã ngay lập tức ảnh hưởng lớn đến
nền kinh tế thế giới, đồng bảng Anh ngay sau đó bị mất giá, lập mức đáy của 31 năm
vào ngày 05/10/2016. Đồng thời, sự kiện này cũng ảnh hưởng lớn đến Hiệp định
Thương mại tự do Việt Nam – EU. Nhưng từ năm tiếp theo, xuất khẩu hàng dệt may
lại tăng mạnh trở lại, kim ngạch xuất khẩu năm 2017 của ngành Dệt May Việt Nam
đạt hơn 31 tỷ USD, tăng trưởng hơn 10% so với năm 2016. Năm 2018 ước đạt hơn 36
tỷ USD, tăng hơn 16% so với 2017, được gọi là năm “ đột biến” của ngành dệt may vì
đó là tốc độ tăng trưởng cao nhất tính từ năm 2011, trên 16% và kim ngạch xuất khẩu
tăng hơn năm trước 5 tỷ USD, so với năm 2015 tăng hơn 12%, năm 2016 tăng hơn
4%, năm 2017 tăng hơn 10%. Tổng kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may tăng đến năm
2020, do ảnh hưởng vô cùng lớn của dịch Covid 19 xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
đạt 35,2 tỷ USD, giảm 10,9%.

2.1.3.2 Thị trường xuất khẩu


Ngành dệt may vẫn đứng vững trên các thị trường chính và mở rộng thêm
nhiều thị trường mới.

Hình 2.6:Xuất khẩu hàng dệt may từ Việt Nam sang các thị trường 2015-2017
Nguồn: Hải quan Việt Nam
Kể từ Hiệp định thương mại Việt-Mỹ năm 2000, Hoa Kỳ trở thành thị trường
xuất khẩu dệt may chính của Việt Nam, chiếm hơn 40% tỷ trọng vào năm 2017. Tiếp
theo là châu Âu (khoảng 13%), Nhật Bản (10,38%), Hàn Quốc (9,58%) và Trung
Quốc (10,41%). Các hiệp định thương mại tự do đã thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu dệt
may Việt Nam.
Ví dụ, sau khi Hiệp định Việt Nam - Hàn Quốc có hiệu lực cuối năm 2015, xuất
khẩu sang Hàn Quốc tăng 9,5% năm 2016 (đạt 2,67 tỷ USD) và 11,8% năm 2017 (gần
3 tỷ USD). Các hiệp định này cũng mở ra cơ hội phát triển thị trường mới cho doanh
nghiệp dệt may Việt Nam.
Đáng chú ý, sau khi Hiệp định Việt Nam - Liên minh kinh tế Á Âu có hiệu lực
(tháng 10/2016), xuất khẩu dệt may sang Nga tăng mạnh: 29,4% năm 2016 và 53,6%
năm 2017 so với cùng kỳ. Mặc dù giá trị xuất khẩu sang Nga chưa cao, nhưng với tốc
độ tăng trưởng ấn tượng, đây được xem là thị trường đầy tiềm năng cho các doanh
nghiệp Việt Nam mở rộng thị phần xuất khẩu.
Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ đạt 13,7
tỷ USD, tăng 11,6%; sang EU đạt 4,16 tỷ USD, tăng 9,9%; sang Nhật Bản đạt 3,81 tỷ
USD, tăng 22,6%; sang Hàn Quốc là 3,3 tỷ USD, tăng 24,9% so với năm trước. Riêng
xuất khẩu hàng dệt may sang Trung Quốc trong năm 2018 đạt 1,5 tỷ USD, tăng mạnh
39,6% so với năm trước đó, tương ứng tăng 437 triệu USD về số tuyệt đối.
Nhưng đến năm 2020, vì ảnh hưởng của dịch Covid 19, xuất khẩu của Việt
Nam sang các thị trường giảm đáng kể:

Hình 2.7: Xuất khẩu hàng dệt may năm 2020


Nguồn: vinanet.vn
Mỹ là thị trường chủ đạo của xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, đạt 13,99 tỷ USD,
chiếm 46,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước, giảm 5,8%
so với năm 2019; xuất sang EU đứng thứ 2 về kim ngạch, đạt 3,63 tỷ USD, chiếm
12,2%, giảm 14,8%; tiếp đến thị trường Nhật Bản đạt 3,53 tỷ USD, chiếm 11,9%,
giảm 11,4% và sang Hàn Quốc đạt 2,86 tỷ USD, chiếm 9,6%, giảm 14,8% so với năm
2019.
Ngoài ra, các thị trường khác cũng có xu hướng giảm so với năm 2019 như
Canada (-2.03%), Đức (-5,63%), Tây Ban Nha (-34,17%), Mexico (-27.32%),...
2.1.3.3 Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu hàng dệt may
Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu vẫn là hàng may mặc, vải, xơ, sợi, dệt. Cụ
thể, Kim ngạch xuất khẩu năm 2017 của ngành Dệt May Việt Nam đạt hơn 31 tỷ
USD, tăng trưởng hơn 10% so với năm 2016. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng
may mặc đạt 25,795 tỷ USD, tăng hơn 8% so với năm 2016; xuất khẩu vải đạt 1,354
tỷ USD tăng hơn 25%; xuất khẩu xơ, sợi, dệt các loại đạt 3,604 tỷ USD tăng hơn 23%;
xuất khẩu nguyên phụ liệu dệt may đạt 1,208 tỷ USD; xuất khẩu vải mành kỹ thuật
khác đạt 451 triệu USD. Tổng kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may năm
2017 ước đạt 18,91 tỷ USD (trong đó, khoảng 16 tỷ USD dùng cho sản xuất xuất
khẩu), tăng 11,43% so với năm 2016.
Năm 2018, kim ngach xuất khẩu hàng may mặc đạt 28,78 tỷ USD, tăng
14,45%; xuất khẩu vải đạt 1,66 tỷ USD, tăng 25,5%; xuất khẩu xơ sợi đạt 3,95 tỷ
USD, tăng 9,9%; xuất khẩu vải không dệt đạt 528 triệu USD, tăng 15,54%; xuất khẩu
nguyên phụ liệu dệt may đạt 1,23 tỷ USD, tăng 14,59%.
Năm 2020, do tổng kim ngạch xuất khẩu giảm dẫn đến tình hình xuất khẩu của
các mặt hàng cụ thể cũng giảm theo. Xuất khẩu hàng xơ, sợi dệt giảm 478 triệu USD
so với năm 2019, bằng 11,05% phần kim ngạch xuất khẩu toàn ngành giảm. Xuất
khẩu hàng may mặc ước đạt 29,47 tỷ USD, giảm 10,22% so với năm 2019 (chiếm
77,61% so với toàn ngành). Xuất khẩu vải kỹ thuật của Việt Nam năm 2020 ước đạt
447 triệu USD, giảm 24,1% so với năm 2019. Xuất khẩu nguyên phụ liệu dệt may ước
đạt 1,66 tỷ USD, giảm 17,28% so với năm 2019

2.1.4 Giai đoạn 2021 - 2024


2.1.4.1 Kim ngạch xuất khẩu
Theo thông tin từ VITAS, ngành dệt may Việt Nam có sự tăng trưởng tích cực
trong năm 2022 với kim ngạch xuất khẩu đạt 44,4 tỷ USD, tăng gần 10% so với năm
trước. Tuy nhiên, năm 2023 đã gặp nhiều khó khăn do tình hình kinh tế toàn cầu và
trong nước. Lạm phát ở các thị trường chính như Hoa Kỳ và châu Âu đã làm giảm sức
mua và đơn hàng, cùng với đó là vấn đề lãi suất cao và biến động tỷ giá.
Mặc dù tình hình chung không mấy khả quan, vẫn có một số thị trường xuất
khẩu đạt kết quả tích cực như Nhật Bản, Australia, Nga và Ấn Độ. Nhờ nỗ lực của các
doanh nghiệp, kim ngạch xuất khẩu năm 2023 đạt khoảng 40,3 tỷ USD. Qua đến năm
2024, 5 tháng đầu năm, xuất khẩu dệt may đạt gần 16 tỉ USD, tăng 5% so cùng kỳ
năm trước

2.1.4.2 Thị trường xuất khẩu


Việt Nam hiện nằm trong top 3 quốc gia xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới.
Trong đó, năm 2021, Hoa Kỳ luôn dẫn đầu trong kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt
may Việt Nam, chiếm gần 42%, tiếp theo là Trung Quốc (11,04%), Hàn Quốc
(9,05%), Nhật Bản (8,58%), EU (8,56%)...
Năm 2023, thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vô cùng rộng lớn.
Ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS) cho biết ”Mặc dù
kim ngạch xuất khẩu giảm nhưng năm 2023 là năm xuất khẩu dệt may bứt phá về thị
trường, chưa năm nào ngành dệt may xuất khẩu vào nhiều thị trường như vậy với 104
thị trường, vùng lãnh thổ”, thị trường lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam vẫn là thị
trường Mỹ, trong 9 tháng sản phẩm may mặc xuất khẩu vào thị trường Mỹ đạt trên 11
tỷ USD, Nhật Bản khoảng 3 tỷ USD, Hàn Quốc là 2,4 tỷ USD, EU là gần 2,9 tỷ USD.
Đây là 4 thị trường trọng điểm của ngành dệt may. Tiếp đó, ngành dệt may xuất khẩu
sang Canada khoảng 850 triệu USD, Trung Quốc 830 triệu USD, Campuchia hơn 600
USD, Anh 504 triệu USD…
Các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đã góp phần đáng kể thúc
đẩy xuất khẩu dệt may sang các thị trường. Điển hình như Hiệp định Đối tác toàn diện
và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đã giúp sản phẩm dệt may lan tỏa nhanh
hơn tới thị trường Canada, New Zealand, Australia…; FTA Việt Nam - EU (EVFTA)
cũng giúp một số dòng sản phẩm thâm nhập tốt hơn vào thị trường EU. Việt Nam đã
tham gia và đang đàm phán 19 Hiệp định thương mại tự do (trong đó: 16 FTA đã ký
kết và thực thi; 3 FTA đang trong quá trình đàm phán) và là quốc gia duy nhất ký kết
Hiệp định thương mại tự do với tất cả các đối tác kinh tế lớn trên toàn cầu như: Hoa
Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, EU, Anh, Nga.

2.1.4.3 Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu hàng dệt may


Năm 2023, Xuất khẩu hàng may mặc ước giảm 3,1 tỷ USD, tương đương
8,9%, xuất khẩu vải ước giảm 186 triệu USD, tương đương 6,9%, xuất khẩu sơ sợi
ước giảm 485 triệu USD tương đương 10,3%, xuất khẩu nguyên phụ liệu ước giảm
218 triệu USD, tương đương 16%.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu trong năm nay có sự thay đổi rõ rệt. Một số mặt
hàng xuất khẩu chủ lực giảm mạnh như đồ nỉ, quần short, quần áo trẻ em… Ở chiều
ngược lại, các mặt hàng như đồ bảo hộ lao động, bộ comple, quần áo y tế, quần jeans
lại tăng nhanh.

2.2 Tổng kết tình hình xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam
Nhìn chung, từ những số liệu được cung cấp trong bài, tổng kinh ngạch xuất
khẩu ngành hàng dệt may Việt Nam tăng trưởng rõ rệt sau hội nhập kinh tế quốc
(1995). Việc Việt Nam tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới, ký kết các Hiệp định
thương mại tự do mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu hàng dệt may đến các cường quốc lớn
như Hoa Kì, EU, Nhật, Hàn Quốc.
Song, đi cùng với lợi ích thì Việt nam cũng chịu những tác động đến từ những
biến động bên ngoài: khủng hoảng kinh tế 2008, sự kiện Brexit, dịch Covid. Điều này
ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung và kim ngạch xuất khẩu
hàng may mặc nói riêng.
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
ĐẾN XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM.
3.1 Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế đến xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam.
3.1.1 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế trên góc độ song phương và đa
phương
3.1.1.1 Hiệp định tự do Thương mại (FTA)
* Mở rộng thị trường xuất khẩu
Hiện nay, Việt Nam đã và đang tham gia 19 FTA song phương và đa phương
với hầu hết các nền kinh tế trên thế giới như CPTPP, EVFTA,.... Điều này giúp đa
dạng hóa thị trường, từ các thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Nhật Bản mở rộng
sang các thị trường mới như Nga, Trung Đông, châu Phi. Hiện Việt Nam đang nằm
trong top 3 quốc gia xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới khi đã xuất khẩu 36 mặt hàng
dệt may sang 104 thị trường. Trong đó, Hoa Kỳ là thị trường chiếm tỷ trọng lớn nhất,
tiếp đó là EU, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản. Ngành dệt may Việt Nam còn nhiều
dư địa để tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu.

* Tác động thuế quan


Thứ nhất, về giảm thuế xuất khẩu: Các FTA cam kết giảm hoặc loại bỏ hầu hết
các loại thuế xuất khẩu đối với hàng hóa dệt may Việt Nam xuất sang các nước đối
tác. Điều này giúp giảm bớt chi phí đầu vào cho doanh nghiệp dệt may Việt Nam và
tăng tính cạnh tranh của hàng hóa dệt may Việt Nam trên thị trường quốc tế. Giảm
thuế sẽ mang lại lợi nhuận về cho doanh nghiệp Việt Nam cao hơn, giảm được chi phí
trung gian.
Thứ hai, làm tăng khả năng cạnh tranh với các đối thủ khác, việc tham gia các
FTA thế hệ mới sẽ khiến cho nhiều mặt hàng làm nguyên liệu đầu vào cho sản xuất
trong nước có giá thấp hơn, do đó, chi phí sản xuất của các doanh nghiệp được cắt
giảm, từ đó, giá cả hàng hóa sẽ cạnh tranh hơn, thúc đẩy sản xuất trong nước để xuất
khẩu. Việc cắt giảm thuế quan sẽ khiến hàng hóa nhập khẩu từ các nước, đặc biệt là
các nước EU vào Việt Nam sẽ nhiều hơn do giá thành rẻ, mẫu mã phong phú và đa
dạng, tác động tích cực đến sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu.
Thứ ba, khả năng mở rộng thị trường, nhờ các FTA, Việt Nam hợp tác với
nhiều quốc gia trên thế giới, xây dựng mối quan hệ thân thiết với các thị trường Hoa
Kỳ, EU, Nhật Bản,.... từ đó các doanh nghiệp dệt may Việt Nam được hưởng lợi từ
việc giảm thuế xuất khẩu cũng như sự “ưu ái”, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam
thâm nhập vào nhiều thị trường nhờ vào quan hệ hợp tác có lợi đôi bên, lợi thế về ưu
đãi thuế quan, giá cả hợp lý so với các đối thủ.

* Hạn ngạch xuất khẩu hàng hóa


Đối với xuất khẩu hàng hóa trong lĩnh vực dệt may, hạn ngạch luôn luôn là một
vấn đề nan giải. Hạn ngạch khống chế số lượng hàng dệt may xuất khẩu và hạn chế
chủng loại hàng dệt may sang một thị trường. Đây là biện pháp bảo hộ của các quốc
gia nhằm bảo vệ ngành dệt may trong nước và kiểm soát được số lượng hàng dệt may
nhập vào nước mình.
Việc áp đặt hạn ngạch xuất khẩu hàng hóa dệt may của Việt Nam sang các thị
trường lớn như EU,.. đang dần được bãi bỏ. Ngày nay, hội nhập kinh tế đang diễn ra
sôi nổi và mạnh mẽ nên WTO đã bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho các nước thành viên
kể từ ngày 01/01/2005 và EU bãi bỏ hạn ngạch dệt may từ ngày 01/01/2005. Việc bãi
bỏ hạn ngạch dệt may giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa trong lĩnh vực
dệt may có cơ hội cạnh tranh bình đẳng nhưng nó cũng làm gia tăng mức độ cạnh
tranh trong ngành này.

* Tác động đến chất lượng và chuẩn mực sản phẩm dệt may
Hiện nay, các FTA đưa ra các quy định, yêu cầu về nguồn gốc xuất xứ, tiêu
chuẩn kĩ thuật và công nghệ và vấn đề lao động. Đồng thời, các FTA cũng đưa ra các
nguyên tắc và tiêu chuẩn chung mà các sản phẩm dệt may cần tuân theo để được xuất
khẩu vào thị trường quốc tế. Điều này đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam cần cải tiến chất lượng sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng
cường tính bền vững của ngành công nghiệp dệt may.

* Các hiệp định thương mại tự do của Việt Nam đối với các thị trường trọng điểm:
(i) Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Hàn Quốc (VKFTA)
Việt Nam và Hàn Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 22
tháng 12 năm 1992.Trải qua hơn hai thập kỷ, quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc phát triển
qua nhiều giai đoạn. Năm 2016 Việt Nam và Hàn Quốc đã ký hiệp định thương mại tự
do trong khuôn khổ ASEAN-Hàn Quốc (AKFTA). Để tăng cường sự hợp tác giữa hai
quốc gia ngày 5/5/2015 hai bên đã chính thức ký kết hiệp định thương mại tự do Việt
Nam – Hàn Quốc và có hiệu lực vào ngày 20/12/2015. Hiệp định gồm có 17 chương
gồm 208 điều, 15 phụ lục và 1 thỏa thuận thực thi quy định.
VKFTA là một hiệp định mang tính hợp tác toàn diện, với mức độ cam kết cao
và bao quát các lĩnh vực lợi ích cho cả hai bên. VKFTA đã dành nhiều ưu đãi hơn so
với Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA) đối với hai bên về
thương mại, hàng hóa, đầu tư và dịch vụ.
Theo hiệp định, các bên đã cam kết cắt giảm những mặt hàng mà trong AKFTA
chưa được cắt giảm hoặc cắt giảm bị hạn chế. Cụ thể, Hàn quốc sẽ xóa bỏ thêm cho
Việt nam 506 dòng thuế (chiếm 4,14% biểu thuế và tương đương với 5,5% tổng kim
ngạch nhập khẩu của Việt nam vào Hàn quốc năm 2012). Việt Nam sẽ xóa bỏ thêm
cho Hàn Quốc 265 dòng thuế (chiếm 2,2% biểu thuế và tương đương với 5,91% tổng
kim ngạch nhập khẩu từ Hàn Quốc vào Việt Nam năm 2012).
Vì vậy, tổng hợp tất cả các cam kết trong VKFTA và AKFTA, Hàn Quốc sẽ
xóa bỏ cho Việt Nam 11.679 dòng thuế (chiếm 95,44% biểu thuế và tương đương với
97,22% tổng kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam vào Hàn Quốc năm 2012). Việt Nam
sẽ xóa bỏ cho Hàn Quốc 8.521 dòng thuế (chiếm 89,15% biểu thuế và tương đương
92,72% tổng kim ngạch nhập khẩu từ Hàn Quốc vào Việt Nam năm 2012).
Ngoài ra, điều 2.3 phần B của hiệp định quy định rằng trong quá trình thực thi
VKFTA, hai bên có thể tham vấn và thiết lập các thỏa thuận bổ sung nhằm thúc đẩy
việc cắt giảm hoặc xóa bỏ thuế quan. Nếu một bên muốn đẩy nhanh tiến trình này, họ
phải thông báo cho bên kia và sau khi việc cắt giảm hoặc xóa bỏ thuế quan có hiệu lực
thì không được rút lại.

Hình 2.8: Những cam kết thuế quan trong VKFTA và AKFTA
Nguồn: Bộ Tài Chính

Hình 2.9: Các dòng thuế Hàn Quốc sẽ xóa bỏ cho Việt Nam trong VKFTA
Nguồn: Bộ Tài Chính
Hình 2.10: Những dòng thuế Việt Nam cam kết xóa bỏ cho Hàn Quốc
Nguồn: Bộ Tài Chính
Khi hiệp định VKFTA có hiệu lực, ngành dệt may sẽ được hưởng lợi và được
kỳ vọng là sẽ làm tăng tốc độ nhập khẩu vào thị trường Hàn Quốc khi có đến 24 dòng
sản phẩm trong nhóm ngành dệt may sẽ được Hàn Quốc xóa bỏ cho Việt Nam. Bên
cạnh đó, Việt Nam cũng cam kết xóa bỏ đến 31 dòng sản phẩm trong nhóm ngành
nguyên phụ liệu dệt may, da giày cho Hàn Quốc.
Khi hiệp định VKFTA có hiệu lực, ngành dệt may của Việt Nam sẽ được
hưởng lợi đáng kể và dự kiến sẽ tăng tốc độ nhập khẩu vào thị trường Hàn Quốc, khi
có tới 24 dòng sản phẩm dệt may sẽ được Hàn Quốc miễn thuế cho Việt Nam. Đồng
thời, Việt Nam cũng cam kết miễn thuế cho 31 dòng sản phẩm trong nhóm nguyên
phụ liệu dệt may và da giày từ Hàn Quốc.
Ngành xuất khẩu nói chung và ngành dệt may nói riêng, để được hưởng các ưu
đãi thuế quan, phải tuân thủ các quy định về quy tắc xuất xứ trong hiệp định. Theo đó,
hàng hóa nhập khẩu vào lãnh thổ của một bên sẽ được coi là có xuất xứ và được
hưởng ưu đãi thuế quan nếu đáp ứng một trong ba điều kiện tại điều 3.1 phần A
chương 3 của hiệp định:
Hàng hóa có xuất xứ thuần túy và được sản xuất hoàn toàn tại lãnh thổ nước
xuất khẩu. Ví dụ, hàng dệt may của Việt Nam sẽ được coi là có xuất xứ thuần túy và
hưởng ưu đãi thuế quan khi nhập khẩu vào Hàn Quốc nếu nguyên liệu được trồng tại
Việt Nam và toàn bộ các công đoạn sản xuất diễn ra tại Việt Nam.
Hàng hóa không có xuất xứ thuần túy và không được sản xuất hoàn toàn tại
lãnh thổ nước xuất khẩu nhưng đáp ứng quy tắc cụ thể mặt hàng, hoặc hàng hóa được
sản xuất tại khu công nghiệp trên bán đảo Triều Tiên sử dụng nguyên liệu từ một bên
và sau đó tái nhập trở lại bên đó, hoặc sử dụng nguyên liệu tại lãnh thổ của bên kia để
sản xuất ra thành phẩm đủ điều kiện hưởng ưu đãi thuế quan, sẽ được coi là có xuất
xứ.
Hàng hóa được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ bên xuất khẩu từ nguyên liệu có
xuất xứ tại Việt Nam hoặc Hàn Quốc theo quy tắc cộng gộp xuất xứ. Hàng dệt may
xuất khẩu vào Hàn Quốc sẽ được coi là có xuất xứ và hưởng ưu đãi thuế quan khi
nguyên liệu để sản xuất có xuất xứ từ Hàn Quốc hoặc Việt Nam.
Ngoài ra, thủ tục cấp chứng nhận xuất xứ ưu đãi (C/O) theo VKFTA vẫn áp
dụng qua cơ quan có thẩm quyền do nhà nước quy định. C/O có thể được cấp trước
hoặc vào thời điểm hàng lên tàu, hoặc trong vòng 3 ngày làm việc kể từ ngày hàng lên
tàu. Nếu C/O không được cấp trước hoặc vào thời điểm hàng lên tàu hoặc trong thời
hạn 3 ngày do sai sót vô ý hoặc lý do xác đáng, C/O có thể được cấp sau nhưng không
quá 1 năm kể từ ngày hàng lên tàu và phải có dòng chữ “ISSUED
RETROACTIVELY”. C/O không cần nộp nếu giá trị hàng hóa nhập khẩu không quá
600 USD tính theo trị giá FOB hoặc mức cao hơn nếu nước nhập khẩu cho phép.
Hiệp định còn bao gồm các cam kết về nguyên tắc, mở cửa thị trường thương
mại dịch vụ, chính sách cạnh tranh, thủ tục hải quan, cam kết đầu tư, giải quyết tranh
chấp đầu tư, biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS),
hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT).

(ii) Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA)


EVFTA là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, với phạm vi cam kết
rộng và mức độ cam kết cao, bao gồm các lĩnh vực thương mại truyền thống như hàng
hóa, dịch vụ, đầu tư, mua sắm công, pháp lý - thể chế, và các lĩnh vực "phi truyền
thống" như mua sắm chính phủ, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, bảo vệ môi trường, thương
mại và phát triển bền vững. Đây là hiệp định có mức độ cam kết sâu rộng nhất mà
Việt Nam từng tham gia, bao gồm 17 chương, 2 nghị định thư và một số biên bản ghi
nhớ kèm theo.
Trong thỏa thuận,hai bên đồng ý cắt giảm thuế quan với lộ trình nhanh chóng
và toàn diện. Hiệp định EVFTA đã tạo ra nhiều cơ hội tìm kiếm thị trường xuất khẩu
mới cho cả Việt Nam và EU. Theo cam kết, hai bên sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với
hơn 99% các dòng thuế và kim ngạch xuất khẩu của nhau, với lộ trình tối đa là 7 năm
từ phía EU và 10 năm từ phía Việt Nam. Lộ trình và tỷ lệ xóa bỏ thuế quan của hai
bên trong Hiệp định EVFTA được quy định cụ thể như sau:
Hình 2.11: Lộ trình cam kết xóa bỏ thuế quan trong EVFTA
Nguồn: Bộ công thương
Theo hiệp định, Việt Nam và EU cam kết không áp dụng bất kỳ loại thuế hoặc
phí xuất khẩu nào, trừ các trường hợp được bảo lưu (chỉ Việt Nam có bảo lưu, EU
không có). Theo cam kết này, trừ các trường hợp bảo lưu của Việt Nam, cả hai bên sẽ
không áp dụng thuế hoặc phí riêng đối với hàng xuất khẩu mà không áp dụng cho
hàng tiêu thụ nội địa, và không áp dụng mức thuế hoặc phí cao hơn cho hàng xuất
khẩu so với hàng tiêu thụ nội địa.
Theo cam kết trong EVFTA, sau khi Hiệp định có hiệu lực, 42,5% số dòng thuế
của ngành dệt may sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay lập tức, số còn lại sẽ được
xóa bỏ theo lộ trình trong vòng 7 năm. Điều này làm cho ngành dệt may được kỳ vọng
sẽ hưởng lợi nhiều nhất khi EVFTA có hiệu lực.
Tuy nhiên, để được hưởng các ưu đãi về thuế xuất khẩu ngành hàng dệt may
phải đáp ứng các yêu cầu về quy tắc xuất xứ, hàng dệt may được coi là có quy tắc xuất
xứ khi đáp ứng được một trong ba điều kiện sau: Trước hết, sản phẩm có nguồn gốc
thuần túy từ Việt Nam, bao gồm nguyên liệu và toàn bộ quá trình sản xuất, sẽ đủ điều
kiện. Thứ hai, ngay cả khi sử dụng nguyên liệu không có xuất xứ thuần túy, nếu những
nguyên liệu này được gia công hoặc xử lý tại Việt Nam hoặc EU theo quy định, sản
phẩm vẫn được coi là đáp ứng quy tắc xuất xứ. Cuối cùng, theo quy tắc cụ thể mặt
hàng, vải phải có xuất xứ từ Việt Nam hoặc EU, và quá trình cắt may phải diễn ra tại
một trong hai khu vực này. Đáng chú ý, vải có xuất xứ từ Hàn Quốc cũng được chấp
nhận trong một số trường hợp nhất định.
Trong Hiệp định EVFTA, cũng có hai cơ chế cấp chứng nhận xuất xứ: nhà xuất
khẩu được tự chứng nhận xuất xứ và cấp giấy chứng nhận xuất xứ. Các công ty được
EU cấp mã số ủy quyền, còn được gọi là mã số ủy quyền, sẽ được phép xuất khẩu
hàng hóa tự chứng nhận xuất xứ theo cơ chế tự chứng nhận xuất xứ của EU. Doanh
nghiệp xuất khẩu phải tuân thủ một số quy định nghiêm ngặt để được cấp mã số ủy
quyền tự chứng nhận xuất xứ. Đồng thời, hải quan thường xuyên kiểm tra việc tuân
thủ các quy định này. Bên cạnh các doanh nghiệp được ủy quyền, một số ít doanh
nghiệp không đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu hoặc với các lỗ hàng trị giá nhỏ (dưới
6.000 Euro), EU vẫn duy trì hệ thống tổ chức cấp C/O cho các đối tượng này.
Ngoài ra, hàng hóa quá cảnh và chia nhỏ lộ hàng tại một quốc gia không phải là
Việt Nam hoặc EU vẫn có thể được chứng nhận xuất xứ nếu nhà nhập khẩu đưa ra
chứng cứ chứng minh rằng xuất xứ của hàng hóa vẫn chưa bị thay đổi.
EVFTA là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, quy định rất nhiều về
thương mại và phát triển bền vững và cam kết thực thi các tiêu chuẩn cơ bản của ILO.
Các hiệp định đa phương về môi trường; không vì thu hút đầu tư mà giảm các yêu cầu
hoặc gây hại đến môi trường và lao động trong nước; bảo tồn và quản lý bền vững
nguồn đa dạng sinh học.
Ngoài các quy định liên quan đến thương mại, thương mại và phát triển bền
vững. Hiệp định cũng quy định các chính sách cạnh tranh, đầu tư và thương mại dịch
vụ với mục đích tạo ra một môi trường kinh doanh cởi mở, minh bạch và thuận lợi cho
cả hai bên.
Các cam kết liên quan đến hàng rào thuế quan, chẳng hạn như rào cản kỹ thuật
đối với thương mại (TBT), cũng được quy định trong Hiệp định nhằm mục đích giảm
bớt hàng rào thuế quan, chẳng hạn như các cam kết liên quan đến cấp phép xuất khẩu
nhập khẩu, thủ tục hải quan... thúc đẩy xuất nhập khẩu giữa hai bên.

(iii) Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)
Hiệp định CPTPP chính thức được ký kết vào ngày 9/3/2018 với 11 thành viên
( tiền thân là Hiệp định TPP), bao gồm thị trường 500 triệu người và tổng kim ngạch
thương mại toàn cầu vượt 10.000 tỷ USD, chiếm 13,5% GDP toàn thế giới. Hiệp định
được xây dựng dựa trên nguyên tắc duy trì tiêu chuẩn cao, cân bằng và đảm bảo lợi
ích cho tất cả các thành viên tham gia. CPTPP gồm 8000 trang với 30 chương.
Theo hiệp định, các bên cam kết cắt giảm hoàn toàn thuế nhập khẩu theo lộ
trình cho tất cả hàng hóa, với gần 100% dòng thuế sẽ được cắt giảm về 0% trong thời
hạn 7 năm riêng Việt Nam là 10 năm.
Mặt khác, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào mỗi thành viên CPTPP sẽ
được hưởng thuế ưu đãi riêng cho từng loại hàng hóa và mức ưu đãi có thể khác nhau
tùy vào thị trường dù trong cùng thị trường CPTPP. Đồng thời, Việt Nam cũng cam
kết ưu đãi thuế quan riêng theo từng dòng thuế, nhưng với mỗi ưu đãi theo từng dòng
thuế sẽ áp dụng chung cho hàng hóa nhập khẩu đến từ tất cả các nước thành viên
CPTPP.

Hình 2.12: Lộ trình xóa bỏ thuế quan mà các nước thành viên dành cho hàng dệt
may của Việt Nam
Cũng giống các FTA mà Việt Nam đã ký trước đó, để được hưởng các ưu đãi
thể quan, ngành dệt may phải đáp ứng được một trong ba quy định về quy tắc xuất xứ
mà CPTPP quy định: Thứ nhất, được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ của một hoặc nhiều
bên (có xuất xứ thuần túy). Thứ hai, được sản xuất hoàn toàn trong lãnh thổ của một
hoặc nhiều bên và hoàn toàn từ các nguyên liệu có xuất xứ: Sản phẩm dệt may của
Việt Nam có thể được sản xuất trong khu vực lãnh thổ và từ các nguyên phụ liệu có
xuất xứ từ các nước thành viên của CPTPP. Thứ ba, được sản xuất hoàn toàn trong
lãnh thổ của một hoặc nhiều bên sử dụng nguyên liệu không có xuất xứ với yêu cầu
hàng hóa đáp ứng đầy đủ các quy định về quy tắc xuất xứ cụ thể theo mặt hàng: Hàng
dệt may được sản xuất từ các nguyên phụ liệu không có xuất xứ nhưng đáp ứng được
các điều kiện về quy tắc xuất xử cụ thể theo mặt hàng thi khi xuất khẩu vào các nước
thành viên CPTPP vẫn được xem là có quy tắc xuất xứ và được hưởng ưu đãi thuế
quan.
Đối với thủ tục xuất xứ, CPTPP khác với các hiệp định VKFTA hay EVFTA về
việc cấp chứng nhận xuất xứ, cho phép nhà xuất khẩu, nhà sản xuất và nhà nhập khẩu
được tự chứng nhận. Giấy chứng nhận xuất xứ có thể áp dụng cho một lô hàng duy
nhất hoặc nhiều lộ hàng của hàng hóa giống hệt nhau trong khoản thời gian (<12
tháng).
Nếu giá trị hàng nhập khẩu dưới 1000 đô la mỹ hoặc bên nhập khẩu không yêu
cầu giấy chứng nhận xuất xứ với điều kiện việc nhập khẩu không phải là hoạt động
nhằm trốn tránh các quy định của pháp luật thì giấy chứng nhận xuất xứ sẽ được miễn.
Những vấn đề về lao động, theo Hiệp định, các bên cam kết thực thi có hiệu
quả những quy định của ILO như: cho phép người lao động được tự do tham gia các
tổ chức công đoàn, không bị phân biệt đối xử trong lao động và nghề nghiệp, môi
trường làm việc an toàn,v.v. Các bên phải thực thi hiệu quả những cam kết thông qua
những quy định trong luật Lao động
Với mục đích tạo ra môi trường thương mại và môi trường kinh doanh, giấy
chứng nhận xuất xứ sẽ được miễn, các bên cũng đã thỏa thuận trong hiệp định về thủ
tục hải quan, các chính sách cạnh tranh như thủ tục hải quan phải thống nhất, nhanh
chóng và minh bạch, cơ quan hải quan phải ra quyết định về phân loại thuế quan trước
khi hàng hóa vào nước mình, áp dụng tiêu chí xác định trị giá hải quan hay hàng hóa
có quy tắc xuất xứ hay không, phải duy trì các thủ tục hải quan đơn giản để giải phóng
hàng hóa, cơ quan có thẩm quyền của mỗi quốc gia phải nỗ lực, duy trì, đưa ra các
biện pháp chống hành vi hạn chế cạnh tranh...
Ngoài ra, CPTPP cũng quy định những vấn đề khác như: các biện pháp phòng
vệ thương mại, đầu tư, môi trường, hàng rào kỹ thuật thương mại, giải quyết tranh
chấp, thương mại điện tử, viễn thông, ...

3.1.1.2 FDI được lưu chuyển tự do


Kể từ khi hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có nhiều chính sách nhằm thu hút
FDI, việc thu hút đầu tư nước ngoài mang lại nhiều lợi ích cho tăng trưởng kinh tế
Việt Nam nói riêng và ngành xuất khẩu dệt may nói riêng. Hơn 37 tỷ USD là tổng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đổ vào ngành dệt may Việt Nam, với khoảng
3.500 dự án, góp phần tăng năng lực sản xuất của ngành và đóng góp lớn vào kim
ngạch xuất khẩu.
* Mở rộng thị trường xuất khẩu nhờ FDI:
Sự tham gia của các doanh nghiệp FDI (Đầu tư trực tiếp nước ngoài) vào ngành
may mặc Việt Nam đã góp phần đáng kể vào việc mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo
đà cho sự phát triển mạnh mẽ của ngành này.,Theo số liệu của Bộ Công Thương, năm
2023, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam đạt 44 tỷ USD, tăng 11,5%
so với năm 2022. Trong đó, đóng góp của khối doanh nghiệp FDI chiếm hơn 60%.
Một số thị trường xuất khẩu chủ lực của ngành may mặc Việt Nam nhờ FDI bao gồm
Mỹ, EU, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Mạng lưới khách hàng quốc tế rộng khắp: Doanh nghiệp FDI sở hữu lợi thế về
mạng lưới khách hàng quốc tế được xây dựng lâu năm, trải dài khắp các thị trường lớn
trên thế giới. Nhờ đó, họ có thể dễ dàng giới thiệu sản phẩm may mặc Việt Nam đến
với các đối tác tiềm năng, mở ra cơ hội xuất khẩu sang những thị trường mới mà các
doanh nghiệp trong nước khó có thể tiếp cận được.
Cầu nối đến các thị trường tiềm năng: Không chỉ giới hạn ở thị trường hiện có,
doanh nghiệp FDI còn đóng vai trò cầu nối, giới thiệu sản phẩm may mặc Việt Nam
đến những thị trường tiềm năng, đầy hứa hẹn. Nhờ sự am hiểu thị trường quốc tế, họ
có thể đánh giá nhu cầu, xu hướng tiêu dùng và đưa ra chiến lược tiếp cận phù hợp,
giúp sản phẩm Việt Nam khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế.
Công ty CP Đầu tư và Thương mại TNG doanh thu tiêu thụ năm 2023 đạt
7.085 tỷ đồng, đánh dấu mức tăng trưởng liên tiếp trong 5 năm (2019 – 2023), giữ
được vị thế trên các thị trường khó tính. Trong cơ cấu doanh thu xuất khẩu của TNG,
Mỹ chiếm tỷ trọng lớn nhất với hơn 53%, kế đến là EU với 22%, Nga đóng góp 6% và
còn lại là các thị trường khác.

* Nâng cao năng lực cạnh tranh


Công nghệ tiên tiến và quản lý hiện đại: Các doanh nghiệp FDI tạo ra mối quan
hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng công nghệ
trong nước; từ đó, các DN trong nước có cơ hội tiến hành nghiên cứu và phát triển
(R&D) qua việc thiết kế, chế tạo, tiếp thu công nghệ nguồn, sau đó cải tiến cho phù
hợp với điều kiện thực tế và biến chúng thành công nghệ của mình. Ngoài ra, FDI còn
chuyển giao quy trình quản lý chuyên nghiệp, hiệu quả giúp tạo ra được nhiều sản
phẩm có chất lượng cao, với hình thức, mẫu mã đẹp đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
thị trường trong nước và xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài.
Tiếp cận nguồn nguyên liệu, phụ liệu chất lượng cao: Doanh nghiệp FDI có
chuỗi cung ứng nguyên liệu rộng lớn, phụ liệu ổn định và chất lượng cao từ các nhà
cung cấp uy tín trên thế giới. Nhờ đó, sản phẩm may mặc Việt Nam được sản xuất từ
nguyên liệu tốt, đảm bảo chất lượng và độ bền cao, góp phần nâng cao giá trị sản
phẩm và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Việc TNG áp dụng công nghệ tiên tiến từ Nhật Bản, TNG đã nâng cao năng
suất lao động lên 30%, giảm chi phí sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, giúp
TNG cạnh tranh hiệu quả trên thị trường quốc tế. Hay Công ty cổ phần May xuất khẩu
Vinatex (Việt Nam) hợp tác với các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực dệt may, Vinatex
đã tiếp cận được nguồn nguyên liệu, phụ liệu chất lượng cao từ các nhà cung cấp uy
tín trên thế giới, giúp nâng cao chất lượng sản phẩm và giá trị thương hiệu.

* Tăng kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may


Ngành dệt may Việt Nam đang chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ nhờ dòng
vốn FDI (Đầu tư trực tiếp nước ngoài) dồi dào. Khu vực này đóng góp quan trọng cho
ngành, chiếm đến 65% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Hàn Quốc, Đài Loan,
Hồng Kông, Trung Quốc là những quốc gia/vùng lãnh thổ đầu tư lớn nhất vào ngành
dệt may Việt Nam, trong đó Hàn Quốc dẫn đầu. Sự đổ bộ của các dự án FDI giúp Việt
Nam trở thành một trong 3 quốc gia xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới, chỉ sau
Trung Quốc và Bangladesh. Năm 2022, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành dệt may Việt
Nam đã đạt hơn 44 tỷ USD, gấp hơn 20 lần so với con số khiêm tốn 2 tỷ USD vào
năm 2000.
Sự phát triển mạnh mẽ của ngành dệt may Việt Nam là minh chứng cho hiệu
quả của việc thu hút FDI, góp phần khẳng định vị thế của Việt Nam trên thị trường dệt
may quốc tế.

3.1.1.3 Tài chính quốc tế


*Tăng cường tiếp cận thị trường quốc tế:
Nhờ sự hỗ trợ của các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB)
và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), ngành dệt may Việt Nam ngày càng có thêm nhiều cơ
hội để tiếp cận thị trường quốc tế. Cụ thể, các chương trình hỗ trợ từ các tổ chức này
giúp doanh nghiệp dệt may Việt Nam tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế uy tín,
nơi họ có thể giới thiệu sản phẩm, kết nối với khách hàng tiềm năng và tìm kiếm cơ
hội hợp tác kinh doanh. Nhờ vậy, sản phẩm may mặc Việt Nam được quảng bá rộng
rãi đến với thị trường quốc tế, thu hút sự chú ý của người tiêu dùng và nhà nhập khẩu,
tạo điều kiện cho việc gia tăng xuất khẩu.
Chẳng hạn, chương trình "Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất khẩu" của
WB: Chương trình đã hỗ trợ hơn 500 doanh nghiệp dệt may Việt Nam tham gia các
hội chợ, triển lãm quốc tế tại châu Âu, Mỹ, châu Á, giúp các doanh nghiệp kết nối với
hơn 1.000 khách hàng tiềm năng và ký kết được nhiều hợp đồng xuất khẩu trị giá
hàng triệu USD.
Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu (SMEF) của IMF: Quỹ đã cung cấp vốn vay ưu đãi cho
các doanh nghiệp dệt may Việt Nam để tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại,
quảng bá sản phẩm và phát triển thị trường quốc tế. Nhờ nguồn vốn này, nhiều doanh
nghiệp đã có thể mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước mới như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Australia, v.v.
* Nâng cao năng lực quản lý
Nâng cao chất lượng nhân lực: Các tổ chức tài chính quốc tế tổ chức các khóa
đào tạo và hội thảo chuyên sâu về quản trị doanh nghiệp, giúp lãnh đạo và cán bộ
quản lý của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nắm bắt kiến thức và kỹ năng quản lý
tiên tiến, bao gồm quản trị tài chính, quản trị nguồn nhân lực, quản trị sản xuất, quản
trị marketing, v.v. Các chương trình đào tạo tập trung vào việc nâng cao trình độ
chuyên môn và kỹ năng tay nghề cho cán bộ công nhân viên trong ngành dệt may,
giúp họ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động quốc tế.

* Ổn định kinh tế vĩ mô
Sự cân bằng cung-cầu ngoại tệ: yếu tố này tác động đáng kể đến ngành xuất
khẩu dệt may Việt Nam. Khi dòng vốn nước ngoài chảy vào, nguồn cung ngoại tệ tăng
lên, giúp đáp ứng nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu và máy móc cho ngành dệt may.
Điều này làm giảm chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh
tranh về giá.
Tỷ giá hối đoái hợp lý: Tỷ giá hối đoái ổn định giúp doanh nghiệp dệt may dự
báo được giá nguyên vật liệu nhập khẩu và giá bán sản phẩm xuất khẩu, từ đó đưa ra
chiến lược giá cả hợp lý, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, biến
động tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận của doanh nghiệp dệt
may. Khi tỷ giá thay đổi đột ngột, doanh nghiệp có thể gặp rủi ro lỗ do chênh lệch tỷ
giá. Hệ thống tài chính quốc tế đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết tỷ giá hối
đoái, góp phần hạn chế rủi ro này cho doanh nghiệp.

3.1.2 Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế trên góc độ đơn phương
Cải cách pháp luật: các cam kết tại FTA tác động tích cực đến hoạt động cải
cách luật pháp. Việc thực hiện các cam kết về hàng hóa, hải quan, thuận lợi hóa
thương mại, dịch vụ, đầu tư thúc đẩy các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam phải
điều chỉnh các quy định pháp luật có liên quan, đơn giản hóa thủ tục hành chính về
cấp phép đầu tư, giấy phép kinh doanh, thủ tục hải quan, xuất nhập khẩu đối với
ngành dệt may nhằm đảm bảo tính minh bạch hóa và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho
doanh nghiệp. Đồng thời, nhà nước cũng có cách chính sách thay đổi đối với ngành
dệt may, đặt ra những yêu cầu cao hơn về môi trường làm việc, quyền lợi của người
lao động, đảm bảo vấn đề môi trường như trong cam kết của FTA.
Năng lực chuyên môn: hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy năng lực chuyên môn
của nhân lực Việt Nam theo yêu cầu quốc tế, làm việc trong môi trường quốc tế cần
nắm vững kiến thức chuyên sâu về các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã
tham gia, các quy định, tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến lĩnh vực công tác của mình.
Ngoài ra, hiểu biết về kinh tế thị trường, nắm vững các nguyên tắc, quy luật vận hành
để tham mưu, đề xuất các chính sách phù hợp với điều kiện là điều vô cùng quan
trọng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Đồng thời, hội nhập kinh tế quốc
tế cũng đặt ra yêu cầu về kỹ năng mềm như ngoại ngữ, kỹ năng đàm phán,...
Các doanh nghiệp sản xuất dệt may trong nước ngày càng chú trọng đầu tư
công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu nghiêm ngặt về các biện
pháp kỹ thuật hay kiểm dịch để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, cũng
như đáp ứng được yêu cầu của các thị trường khó tính: EU, Hoa Kỳ,...

3.2 Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế và nguyên nhân tồn tại ảnh
hưởng đến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam.
3.2.1 Tác động tiêu cực
3.2.1.1 Sự mở cửa thương mại
Việc tự do hóa thương mại và tham gia các FTA đã mang lại cho Việt Nam và
các doanh nghiệp dệt may nhiều lợi ích và cơ hội lớn về thuế quan, thị trường, và kim
ngạch xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, đi kèm với những cơ hội này là những khó khăn và
thách thức. Ngoài những khó khăn nội tại của doanh nghiệp, còn có những thách thức
lớn từ chính các cam kết và thỏa thuận trong hiệp định. Nếu doanh nghiệp dệt may
không đáp ứng được những cam kết này trong quá trình thực thi, họ sẽ gặp nhiều khó
khăn và trở ngại
Thứ nhất, các FTA đặt ra nhiều cam kết gây thách thức lớn cho Việt Nam trong
quá trình xây dựng chính sách và luật pháp ở nhiều lĩnh vực nói chung và ngành dệt
may nói riêng.
Thách thức từ các cam kết về thủ tục hành chính: nhiều bất cập trong quá trình
thực hiện, trong công tác chỉ đạo điều hành cải cách hành chính có lúc có nơi còn
chưa quyết liệt, vẫn còn thủ tục hành chính không hợp lý, phức tạp, rườm rà và tính
công khai minh bạch một số nơi còn hạn chế. Tác phong làm việc của một số cơ quan
chưa chuyên nghiệp, hiện đại, đặc biệt là sự phối hợp giữa các cơ quan hành chính
Nhà nước trong quá trình giải quyết công việc còn bất cập.
Thách thức từ các cam kết về thủ tục hải quan: những khó khăn về thủ tục hải
quan gây trở ngại cho các doanh nghiệp trong quá trình xuất khẩu như sau: Công tác
lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện cải cách thủ tục hải quan ở một số nơi còn thiếu
quyết liệt; một số cán bộ công chức hải quan chưa được đào tạo chuyên sâu, không
đáp ứng được yêu cầu cải cách; một số doanh nghiệp lợi dụng môi trường làm việc
thông thoáng để buôn lậu và gian lận thương mại. Ngoài ra, cơ quan hải quan phải xử
lý nhiều loại hàng hóa khác nhau, dẫn đến nhiều văn bản chuyên ngành điều chỉnh gây
ra khó khăn cho cơ quan hải quan.
Thách thức từ các cam kết về bảo vệ môi trường: những cam kết về môi trường
và phát triển bền vững trong các FTA thế hệ mới yêu cầu các tiêu chuẩn cao và các
nghĩa vụ rõ ràng giữa các bên, thậm chí bao gồm cả cơ chế giải quyết tranh chấp. Việc
thực hiện những cam kết này trở thành rào cản lớn đối với các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do khó khăn trong việc xây dựng,
xử lý và quản lý chất thải theo tiêu chuẩn môi trường. Chi phí đầu tư vào trang thiết bị
hiện đại để xử lý chất thải là không nhỏ, trong khi nhiều doanh nghiệp vẫn sử dụng
công nghệ lạc hậu, ít thân thiện với môi trường. Hóa chất độc hại từ hoạt động nhuộm
gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, và trách nhiệm, ý thức bảo vệ môi trường của
nhiều doanh nghiệp còn kém. Một số nhà máy sẵn sàng xả thải chưa qua xử lý ra môi
trường, như vụ Công ty cổ phần Dệt may Huế và Công ty cổ phần Đầu tư Dệt may
Thiên An Phát. Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vấn đề môi trường của các cơ
quan có thẩm quyền cũng chưa chặt chẽ.
Thách thức từ chính sách cạnh tranh: môi trường kinh doanh thương mại minh
bạch và công bằng là yếu tố quan trọng giúp nền kinh tế phát triển. Trong những năm
gần đây, chính sách cạnh tranh luôn được coi là nội dung quan trọng và được đề cập
trong các FTA thế hệ mới. Mặc dù mỗi FTA có mức độ cam kết và nghĩa vụ thực thi
khác nhau, nhưng tất cả đều nhằm mục đích đảm bảo môi trường cạnh tranh bình
đẳng, trong sạch trong khu vực tự do thương mại, không phân biệt đối xử, quy trình tố
tụng minh bạch trong việc thực thi luật cạnh tranh, và sự phối hợp, hợp tác giữa các cơ
quan thực thi.
Thứ hai, sau một thời gian thực thi các FTA thế hệ mới, lợi ích nhận được từ
các hiệp định này còn hạn chế. Do các doanh nghiệp chưa nắm rõ về những ưu đãi
thuế quan theo các hiệp định và khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng của
nước nhập khẩu còn nhiều khó khăn. Phần lớn các doanh nghiệp mới chỉ hiểu biết sơ
bộ về hiệp định, số lượng doanh nghiệp hiểu biết rõ về các cam kết trong các FTA thế
hệ mới liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Thách thức từ các quy định về quy tắc xuất xứ: đây là yếu tố then chốt quyết
định việc hàng dệt may Việt Nam có được hưởng ưu đãi thuế quan từ các thành viên
trong các FTA hay không. Mỗi FTA sẽ có những quy định khác nhau về quy tắc xuất
xứ. Trong VKFTA, hàng dệt may phải được sản xuất hoàn toàn từ Việt Nam hoặc Hàn
Quốc, hoặc phải đạt hàm lượng khu vực trên 40%. Ngoài ra, quy tắc cộng dồn xuất xứ
cũng được chấp nhận, nghĩa là nguyên liệu sản xuất phải có xuất xứ từ Việt Nam hoặc
Hàn Quốc mới được coi là có xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế quan.
Tương tự như VKFTA, trong EVFTA, quy tắc xuất xứ đối với ngành dệt may là
từ vải trở đi, nghĩa là vải sử dụng để cắt may phải có xuất xứ từ Việt Nam hoặc EU.
EVFTA cũng chấp nhận vải có xuất xứ từ Hàn Quốc do Hàn Quốc có FTA với cả Việt
Nam và EU. Khác với EVFTA, CPTPP có quy định nghiêm ngặt hơn về quy tắc xuất
xứ từ sợi trở đi, nghĩa là toàn bộ quá trình kéo sợi, dệt vải, nhuộm, hoàn tất và may
quần áo phải được thực hiện trong các nước thành viên CPTPP.
Những quy định về quy tắc xuất xứ trong các FTA như VKFTA, EVFTA,
CPTPP... đã đặt ra những thách thức lớn cho ngành dệt may Việt Nam do phụ thuộc
nhiều vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Việc phát triển sản xuất nguyên phụ liệu trong
nước sẽ gặp khó khăn ban đầu vì Việt Nam từ trước đến nay chủ yếu nhập khẩu
nguyên liệu, với giá trị nhập khẩu vải và nguyên phụ liệu chiếm khoảng 40% giá trị
kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc, trong đó 70% vải nhập khẩu phục vụ cho mục
đích may xuất khẩu. Chi phí nhập khẩu nguyên phụ liệu chiếm khoảng 30% tổng giá
trị xuất khẩu của doanh nghiệp, và nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước chưa đáp
ứng được các tiêu chuẩn về chất lượng và kỹ thuật.
Thách thức về năng lực cạnh tranh: rào cản đối với nhiều doanh nghiệp dệt
may năng lực hiểu biết pháp luật cũng như luật thương mại quốc tế của doanh nghiệp
còn kém, năng lực cạnh tranh yếu, không nhận được sự bảo hộ của cơ quan nhà nước
mà phải cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp nước ngoài ngay thị trường trong nước.
Thứ ba, phụ thuộc nhiều vào các thị trường bên ngoài, dễ bị tác động khi các
vấn đề kinh tế - chính trị, xã hội trên thế giới bất ổn.
Thách thức từ các thị trường trọng điểm, các thị trường xuất khẩu hàng dệt may
chính của Việt Nam là Hoa Kì, EU, Nhật, Hàn. Tuy nhiên, điều này mang lại khá
nhiều thách thức, chẳng hạn, sự kiện Brexit Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
EU do đó bị giảm sút, do một phần thị trường lớn (Anh) đã tách ra. Sau Brexit, Anh
và EU có thể áp dụng các mức thuế quan và quy định khác nhau đối với hàng hóa
nhập khẩu, bao gồm cả hàng dệt may. Các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam phải
điều chỉnh để tuân thủ các quy định mới của từng thị trường, dẫn đến chi phí tăng và
thời gian thông quan lâu hơn. Ngoài ra, sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng do Brexit
làm tăng chi phí vận chuyển và lưu kho hàng hóa.. Hơn nữa, biến động tỷ giá hối đoái
giữa đồng Việt Nam, euro và bảng Anh sau Brexit có thể làm tăng rủi ro tài chính cho
các doanh nghiệp xuất khẩu, ảnh hưởng đến lợi nhuận và giá cả hàng hóa. Dẫn đến
kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào EU giảm đáng kể.
Thách thức từ dịch bệnh Covid - 19, năm 2020 dịch bệnh bùng phát khiến
chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy, các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam
giảm nhu cầu thậm chí đóng cửa khiến hàng dệt may Việt Nam không xuất khẩu được
và kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may giảm kỷ lục.

3.2.1.2 FDI được lưu chuyển tự do


Thứ nhất, cạnh tranh gay gắt giữa FDI với các doanh nghiệp nội địa, điều này
gây nhiều bất lợi cho doanh nghiệp nội địa.
Thách thức về năng lực cạnh tranh: doanh nghiệp FDI thường sở hữu tiềm lực
tài chính mạnh mẽ, công nghệ tiên tiến và đội ngũ nhân lực chất lượng cao, tạo nên lợi
thế cạnh tranh đáng kể so với doanh nghiệp nội địa. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh
gay gắt trong việc tiếp cận thị trường, khách hàng và nguồn lực. Doanh nghiệp nội
địa, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thường gặp khó khăn trong việc cạnh
tranh với các "ông lớn" FDI, dẫn đến nguy cơ bị thâu tóm hoặc buộc phải thu hẹp hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Thách thức về sở hữu trí tuệ: việc sử dụng công cụ sở hữu trí tuệ như bảo hộ
nhãn hiệu, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp… không chỉ giúp tăng khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp, mà còn bảo vệ được quyền lợi của chủ sở hữu hợp pháp khi
có tranh chấp phát sinh. Hiện nhiều doanh nghiệp dệt may Việt vẫn có tâm lý tập trung
mạnh vào bán hàng và phân phối hơn là xây dựng thương hiệu và định vị doanh
nghiệp. Ngoài ra, hiểu biết của người tiêu dùng về thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa
còn hạn chế… nên cũng làm giảm động lực xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp.
Dẫn đến nhiều doanh nghiệp dệt may nội địa còn chịu sức ép cạnh tranh từ những
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, đặc biệt phân khúc sản phẩm dệt may giá rẻ bị Trung
Quốc chiếm lĩnh. Hàng nhập lậu, hàng nhái kém chất lượng tràn lan trên thị trường,
được gắn mác hàng Việt Nam, ảnh hưởng các doanh nghiệp sản xuất dệt may chân
chính.
Thứ hai, các doanh nghiệp FDI có bán phá giá để chiếm thị phần trong thời
gian đầu khi sang thị trường Việt Nam, khiến các doanh nghiệp trong nước khó cạnh
tranh.
Thách thức từ việc bán phá giá của FDI: Nhiều doanh nghiệp FDI sử dụng
chiến thuật thâm nhập thị trường một cách bất hợp pháp, nhờ việc có lợi thế từ tài
chính và nguồn vốn lớn mà các doanh nghiệp FDI bán với mức giá thấp hơn so với thị
trường làm các doanh nghiệp trong nước không cạnh tranh được, nhiều doanh nghiệp
thua lỗ, phá sản. Sau khi chiếm nhiều thị phần ở Việt Nam các doanh nghiệp FDI độc
quyền và nâng giá.
Thứ ba, FDI luôn chiếm thế “thượng phong” trong kim ngạch xuất nhập khẩu,
điều này có thể hạn chế sự phát triển ngành dệt may độc lập và ổn định.
Thách thức từ hạn chế kiểm soát chuỗi giá trị: Khi doanh nghiệp FDI đóng vai
trò chủ đạo, Việt Nam có nguy cơ mất quyền kiểm soát đối với các khâu quan trọng
trong chuỗi cung ứng dệt may. Điều này bao gồm khâu thiết kế, sản xuất nguyên liệu,
gia công, phân phối và tiếp thị. Hệ quả là, Việt Nam khó có thể nâng cao giá trị gia
tăng trong chuỗi, dẫn đến lợi nhuận thấp hơn và khả năng cạnh tranh hạn chế.
Nguy cơ phụ thuộc: Khi xuất khẩu dệt may phụ thuộc quá nhiều vào FDI, Việt
Nam dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động của thị trường quốc tế và các chính sách
của nước ngoài. Doanh nghiệp FDI thường xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị
trường của họ, khiến Việt Nam phụ thuộc vào thị trường của một số nước nhất định.
Nếu thị trường này xảy ra biến động, xuất khẩu dệt may của Việt Nam có thể bị ảnh
hưởng nặng nề. Chẳng hạn,Thị trường xuất khẩu dệt may lớn nhất của Việt Nam là
Hoa Kỳ, chiếm gần 49,2% (năm 2021) tổng kim ngạch xuất khẩu. Nếu Mỹ áp dụng
biện pháp bảo hộ thương mại đối với hàng dệt may Việt Nam, ngành dệt may của
nước ta sẽ đối mặt với nhiều khó khăn.

3.2.1.3 Tài chính quốc tế


* Biến động tỷ giá hối đoái
Biến động tỷ giá hối đoái có thể tác động mạnh mẽ đến ngành dệt may Việt
Nam theo hai chiều hướng. Khi tỷ giá hối đoái tăng, đồng Việt Nam mạnh lên so với
tiền tệ của các nước nhập khẩu, khiến hàng dệt may Việt Nam trở nên kém cạnh tranh
hơn về giá cả trên thị trường quốc tế, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng xuất
khẩu. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái giảm, doanh nghiệp dệt may phải đối mặt với chi
phí nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cao hơn, dẫn đến sụt giảm lợi nhuận và khả năng
cạnh tranh.
Năm 2022 chứng kiến sự tăng mạnh của tỷ giá USD/VND, khiến giá xuất khẩu
dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ giảm 5%. Thêm vào đó, nhiều doanh
nghiệp dệt may Việt Nam phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu như bông, sợi và hóa
chất, do đó khi tỷ giá USD/VND tăng, chi phí sản xuất của họ cũng tăng theo, gây áp
lực lên lợi nhuận.

* Khủng hoảng tài chính


Khủng hoảng tài chính quốc tế có thể gây ra những tác động nghiêm trọng đối
với ngành dệt may Việt Nam. Khi nền kinh tế toàn cầu gặp khó khăn, nhu cầu tiêu
dùng thường suy giảm, đặc biệt là đối với các mặt hàng không thiết yếu như quần áo
và các sản phẩm dệt may khác. Hậu quả trực tiếp là sự sụt giảm mạnh trong xuất khẩu
dệt may của Việt Nam. Ngoài ra, khủng hoảng tài chính còn có thể dẫn đến việc các
ngân hàng thắt chặt chính sách cho vay, gây khó khăn cho các doanh nghiệp dệt may
trong việc tiếp cận nguồn vốn cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Những tác động này có thể thấy trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
năm 2008-2009, khi ngành xuất khẩu dệt may của Việt Nam đã chứng kiến sự sụt
giảm đáng kể, phản ánh tình trạng chung của nền kinh tế thế giới thời điểm đó.

3.2.2 Nguyên nhân tồn tại


* Vấn đề đến từ quản lý của Nhà nước
Hệ thống quản lý hành chính chưa hiệu quả là một trong những nguyên nhân
quan trọng. Tư duy quản lý cũ, chậm đổi mới và thiếu linh hoạt đang cản trở sự phát
triển. Bên cạnh đó, việc thiếu cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả trong cải cách
hành chính cũng như chưa có hệ thống khuyến khích và kỷ luật hiệu quả để thúc đẩy
cải cách đang làm chậm tiến trình đổi mới.
Năng lực và đào tạo cán bộ còn hạn chế cũng là một vấn đề đáng quan ngại.
Hiện tại, chúng ta đang thiếu các chương trình đào tạo chuyên sâu và cập nhật cho cán
bộ hải quan và hành chính. Chưa có chính sách thu hút và giữ chân nhân tài trong khu
vực công, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao. Đồng thời, sự
thiếu hụt kỹ năng và kiến thức về công nghệ thông tin và quản lý hiện đại cũng đang
cản trở quá trình hiện đại hóa nền hành chính.
Hạn chế trong ứng dụng công nghệ là một rào cản lớn cho sự phát triển. Đầu tư
không đủ vào hệ thống công nghệ thông tin và tự động hóa đang làm chậm quá trình
số hóa. Thiếu sự tích hợp giữa các hệ thống của các cơ quan khác nhau gây ra sự
không đồng bộ và kém hiệu quả. Việc chậm trong áp dụng các giải pháp số hóa và
chính phủ điện tử cũng đang làm giảm hiệu suất công việc và chất lượng dịch vụ công.
Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan ,cơ chế phối hợp liên ngành chưa hiệu quả
dẫn đến sự chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ giữa các cơ quan. Thiếu cơ chế chia
sẻ thông tin hiệu quả giữa các đơn vị cũng làm giảm hiệu suất làm việc và gây khó
khăn trong việc ra quyết định.
Khung pháp lý chưa hoàn thiện, nhiều văn bản pháp luật chưa đồng bộ và còn
chồng chéo, gây khó khăn trong việc áp dụng. Sự chậm trễ trong việc cập nhật và điều
chỉnh các quy định để phù hợp với thực tiễn cũng đang cản trở sự phát triển. Thiếu cơ
chế pháp lý hiệu quả để xử lý các vi phạm trong lĩnh vực môi trường và cạnh tranh
cũng là một vấn đề cần được giải quyết.
Chính sách bảo hộ của nhà nước đối với các doanh nghiệp dệt may trong nước
còn nhiều yếu kém, việc hỗ trợ tài chính cũng như thuế chưa thực sự hiệu quả, chưa
linh hoạt. Chẳng hạn như điều kiện để được miễn, giảm thuế quá khắt khe đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy trình hoàn thuế giá trị gia tăng (VAT) phức tạp, thời
gian chờ hoàn thuế lâu,...

* Vấn đề đến từ doanh nghiệp


Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là vừa và nhỏ chiếm 98% vì vậy về quy
mô, khả năng tài chính cũng như năng lực làm việc và quy trình sản xuất còn nhiều
hạn chế. Đồng thời, thiếu năng lực sản xuất nguyên liệu đáp ứng tiêu chuẩn chất
lượng và kỹ thuật, phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguồn nguyên liệu, chủ yếu tập
trung vào khâu may, cho nên khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu "từ vải trở đi" hoặc
"từ sợi trở đi" trong một số FTA.
Chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp chưa đảm bảo cũng như thiếu sự
hướng dẫn và kinh nghiệm về pháp luật và luật thương mại quốc tế khi tham gia vào
thị trường quốc tế bởi trước đây chủ yếu kinh doanh hàng hóa nội địa hoặc các đối tác
truyền thống. Đồng thời, thiếu chính sách giữ chân và thu hút nhân sự chất lượng cao.
Ngoài việc hạn chế về tài chính, cơ cấu thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp
dệt may Việt Nam thiếu sự đa dạng, mô hình sản xuất phụ thuộc vào đơn hàng nước
ngoài và phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Đồng thời, thiếu sự linh
hoạt trong chiến lược kinh doanh và chiến lược phòng ngừa rủi ro nên dễ bị ảnh
hưởng bởi biến động của thị trường quốc tế.
Nhận thức và thực thi pháp luật còn yếu là một thách thức lớn. Ý thức tuân thủ
pháp luật của một số doanh nghiệp còn thấp, gây ra nhiều vấn đề trong quản lý. Thiếu
hiểu biết về các cam kết quốc tế và tác động của chúng cũng làm giảm khả năng hội
nhập. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật chưa hiệu quả cũng góp phần vào tình
trạng này.
Doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may đối mặt với nhiều thách thức trong lĩnh
vực sở hữu trí tuệ. Nhiều công ty, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn thiếu hiểu
biết về tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Chi phí đăng ký và duy trì
quyền sở hữu trí tuệ cao, cùng với thủ tục phức tạp và kéo dài, tạo ra rào cản đáng kể.
Ngay cả khi đã đăng ký bảo hộ, việc thực thi quyền vẫn là một thách thức lớn, đặc biệt
ở thị trường nước ngoài. Ngành dệt may có tính cạnh tranh cao và dễ bị sao chép,
khiến nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với việc sản phẩm hoặc thiết kế bị sao chép
trái phép. Xây dựng và bảo vệ thương hiệu trên thị trường quốc tế cũng là một thách
thức lớn. Đồng thời, nhiều doanh nghiệp thiếu nguồn nhân lực chuyên môn về sở hữu
trí tuệ, dẫn đến việc quản lý và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ không hiệu quả.
CHƯƠNG 4: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG
DỆT MAY CỦA VIỆT NAM.
4.1 Định hướng cho việc đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xuất
khẩu của ngành Dệt May trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước. Đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước là những nguyên tắc,
những khung pháp lý chung bắt buộc tất cả các thành phần kinh tế, kinh doanh bất cứ
hàng hóa dịch vụ nào cũng phải phù hợp và tuân theo. Vì vậy, liên quan đến lĩnh vực
xuất khẩu Dệt may, các giải pháp đề xuất trước hết phải tuân thủ chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, và được biểu hiện cụ thể trong Hiến pháp 2013 và các văn
bản pháp luật liên quan.
Thứ hai, phù hợp với đặc điểm về kinh tế, xã hội của Việt Nam. Đặc điểm về
kinh tế, xã hội của Việt Nam là yếu tố môi trường kinh doanh quan trọng tác động tới
các giải pháp của hoạt động trong các doanh nghiệp Dệt may. Tuy theo từng thời kỳ
cụ thể, mà nhà nước có các chính sách vĩ mô phù hợp để tạo điều kiện cho sự phát
triển của doanh nghiệp trên địa bàn. Hơn nữa, đặc điểm về trình độ lao động, về lề lối
làm việc cũng tác động tới hoạt động của nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp.
Chính vì thế, các giải pháp đề xuất cần dựa vào từng giai đoạn phát triển kinh tế cụ thể
của đất nước, cũng như trình độ nguồn lao động để đảm bảo tính hiệu quả và phù hợp.
Thứ ba, phù hợp với những cam kết trong FTAs mà Việt Nam là thành viên.
Cam kết của Việt Nam trong FTAs đối với hoạt động xuất khẩu của ngành Dệt may là
những khía cạnh pháp lý ràng buộc các doanh nghiệp Dệt may trong đó có doanh
nghiệp Dệt may Việt Nam phải tuân theo. Do đó, những giải pháp đề xuất cũng như
thực thi các giải pháp đó vào thực tiễn phải phù hợp với những cam kết mà Việt Nam
đã thỏa thuận trong FTAs. Những cam kết cần phải chú ý và tuân thủ mà các FTAs
thường xuyên đề cập đó chính là những cam kết về cắt giảm thuế quan; cam kết về
xóa bỏ hàng rào các thủ tục hành chính; các cam kết về bảo vệ môi trường,v.v.

4.2 Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
4.2.1 Giải pháp cho nhà nước
Để cải thiện hệ thống quản lý hành chính, cần áp dụng mô hình quản trị hiện
đại và linh hoạt hơn. Thiết lập cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả cải cách hành
chính một cách chặt chẽ, kèm theo hệ thống khen thưởng và kỷ luật rõ ràng. Điều này
sẽ thúc đẩy quá trình đổi mới và đảm bảo trách nhiệm giải trình trong quá trình cải
cách.
Để nâng cao năng lực cán bộ, cần triển khai các chương trình đào tạo chuyên
sâu, hội thảo tập huấn và cập nhật kiến thức, kỹ năng công nghệ thông tin cũng như
quản lý hiện đại. Xây dựng chính sách thu hút và giữ chân nhân tài trong khu vực
công, bao gồm cơ chế đãi ngộ hợp lý và lộ trình phát triển nghề nghiệp rõ ràng.
Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, thủ tục hải quan, thực hiện thủ tục hải
quan điện tử, C /O điện tử giúp các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, đơn giản và nhanh
gọn. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ bằng cách tăng cường đầu tư vào hệ thống công
nghệ thông tin và tự động hóa. Tập trung vào việc tích hợp các hệ thống giữa các cơ
quan khác nhau để đảm bảo sự đồng bộ và hiệu quả. Đẩy nhanh quá trình áp dụng các
giải pháp số hóa và chính phủ điện tử để nâng cao hiệu suất công việc và chất lượng
dịch vụ công.
Các cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Bộ Y tế, Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Công Thương cần cung cấp thông
tin cụ thể và hỗ trợ các doanh nghiệp tìm hiểu những quy định TBT, SPS và biện pháp
quản lý nhập khẩu của các thị trường đối tác. Từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh cho các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may Việt Nam.
Các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường nỗ lực truyền thông và phổ biến
nội dung của các hiệp định thương mại tự do một cách đơn giản và dễ tiếp cận. Mục
tiêu là giúp doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có thể
tự áp dụng các quy định phức tạp này một cách chủ động và hiệu quả. Khi doanh
nghiệp hiểu rõ và vận dụng đúng các điều khoản trong các hiệp định như CPTPP và
EVFTA - bao gồm lộ trình giảm thuế, quy trình tự chứng nhận xuất xứ, quy tắc cộng
gộp, và các quy định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) cũng như vệ sinh
an toàn thực phẩm (SPS) - họ sẽ nâng cao được năng lực cạnh tranh, giảm chi phí sản
xuất và xuất khẩu. Điều này sẽ tạo lợi thế cho doanh nghiệp Việt Nam khi cạnh tranh
với các đối thủ đến từ các quốc gia chưa tham gia CPTPP hoặc chưa có FTA với EU.
Để bảo hộ và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp trong nước trước tác
động của FDI, chính phủ Việt Nam cần xây dựng và triển khai các chính sách ưu đãi
đặc biệt. Cụ thể, các doanh nghiệp Việt Nam nên được hưởng các ưu đãi về thuế hoặc
tín dụng khi đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) cũng như các sáng
kiến đổi mới. Chính sách này sẽ khuyến khích doanh nghiệp nội địa nâng cao năng lực
cạnh tranh thông qua việc cải tiến công nghệ và quy trình sản xuất. Bên cạnh đó, việc
tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận nguồn vốn vay với lãi suất
ưu đãi cũng là một biện pháp quan trọng. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp trong nước
có thêm nguồn lực tài chính để đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cấp trang thiết bị và đổi
mới công nghệ, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI.
Chính phủ cần chú trọng thắt chặt vấn đề chống bán phá giá và hỗ trợ doanh
nghiệp trong việc áp dụng công nghệ mới và quy trình sản xuất hiện đại để đáp ứng
những yêu cầu cao về sản phẩm, đồng thời nâng cao năng suất.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các doanh nghiệp FDI, việc hỗ
trợ phát triển thương hiệu cho các doanh nghiệp Việt Nam trở nên cấp thiết. Chính
phủ cần xây dựng và triển khai các chính sách cụ thể nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong
nước xây dựng và quảng bá thương hiệu của mình. Điều này có thể bao gồm các
chương trình tư vấn, đào tạo về xây dựng thương hiệu, cũng như hỗ trợ tài chính cho
các chiến dịch marketing và quảng cáo. Đồng thời, việc tạo điều kiện thuận lợi để
doanh nghiệp Việt Nam tham gia các hội chợ và triển lãm quốc tế cũng đóng vai trò
quan trọng. Thông qua các sự kiện này, doanh nghiệp có cơ hội giới thiệu sản phẩm,
dịch vụ của mình đến khách hàng tiềm năng trên toàn cầu, đồng thời học hỏi từ các
đối thủ cạnh tranh quốc tế. Những nỗ lực này sẽ giúp nâng cao nhận diện thương hiệu
và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên cả thị trường nội địa và quốc
tế.
Để bảo vệ doanh nghiệp xuất khẩu dệt may trước những biến động của thị
trường tài chính thế giới, chính phủ Việt Nam cần áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt
và cung cấp thông tin thị trường kịp thời. Việc điều chỉnh tỷ giá một cách linh hoạt sẽ
giúp duy trì khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đồng thời chính phủ cần cung
cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho doanh nghiệp. Song song với đó, việc
thiết lập hệ thống cảnh báo sớm về biến động thị trường tài chính và xu hướng tiêu
dùng toàn cầu, đồng thời khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp chủ động trong toàn bộ
quy trình sản xuất hàng từ khâu nguyên liệu đầu vào. Chính phủ cũng nên tổ chức các
hội thảo, diễn đàn để cập nhật thông tin và tạo cơ hội cho các doanh nghiệp chia sẻ
kinh nghiệm với nhau. Những biện pháp này sẽ giúp doanh nghiệp chủ động hơn
trong việc ứng phó với các thách thức từ thị trường tài chính thế giới, đồng thời nâng
cao khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế.

4.2.1 Giải pháp cho các doanh nghiệp


Các doanh nghiệp cũng cần chủ động các khâu sản xuất và vươn lên để đáp
ứng tốt hơn các yêu cầu nghiêm ngặt của các nước nhập khẩu trong khu vực FTA về
các biện pháp kỹ thuật hay kiểm dịch cũng như các biện pháp quản lý nhập khẩu khác.
Các doanh nghiệp cần tập trung tìm hiểu các quy định về TBT, SPS và biện pháp quản
lý nhập khẩu của các nước mà doanh nghiệp muốn xuất khẩu, đặc biệt là các thị
trường trọng điểm: Hoa Kỳ, EU, Hàn Quốc,... bởi hàng dệt may Việt Nam có lợi thế
về thuế và hạn ngạch khá ưu đãi ở những thị trường này nhờ các FTA.
Ngoài việc tuân thủ những quy định như hải quan, quy tắc xuất xứ, TBT, SPS,
các doanh nghiệp cần phải thực hiện đầy đủ và tránh vi phạm những quy định mới
trong các FTA thế hệ mới như sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường, v.v.... Những hành
vi như không tuân thủ các yêu cầu về sử dụng lao động, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ
sẽ có thể dẫn tới việc doanh nghiệp sẽ bị một số nước ngừng cho hưởng ưu đãi thuế
quan.
Các doanh nghiệp cũng cần chủ động học hỏi các doanh nghiệp FDI và nâng
cao năng lực trong đội ngũ nhân sự. Đào tạo nhân sự giúp nâng cao hiểu biết và luật
pháp, đặc biệt luật trong thương mại quốc tế, năng lực quản lý và phong cách làm việc
phù hợp với bối cảnh kinh tế quốc tế. Đồng thời, doanh nghiệp có thể học hỏi kinh
nghiệm quản lý, công nghệ và chiến lược kinh doanh của các FDI để nâng cao sức
cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp
đến từ World Bank hoặc IMF, để gia tăng cơ hội học hỏi từ nhiều thị trường và các đối
thủ quốc tế cũng như tên tuổi của sản phẩm doanh nghiệp đến gần hơn với thị trường
quốc tế.
Về vấn đề sở hữu trí tuê, nhà nước cần phối hợp cùng với doanh nghiệp, đây là
vấn đề khá phức tạp. Chính phủ nên xem xét hỗ trợ tài chính hoặc ưu đãi thuế cho việc
đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đơn giản hóa thủ tục đăng ký và tăng cường hợp
tác quốc tế để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Xây dựng cơ chế hỗ trợ pháp
lý và thúc đẩy phát triển thương hiệu.
KẾT LUẬN
Nhìn chung, hàng Dệt may là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực có
tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định. Trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế, xuất khẩu
hàng Dệt may đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp và nền
kinh tế đất nước, xuất khẩu hàng Dệt may mang lại cho đất nước một nguồn thu ngoại
tệ lớn, giúp chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế kéo theo sự phát triển của các ngành khác
có liên quan.
Ngoài việc phân tích tác động của hội nhập kinh tế quốc tế thông qua FTA, FDI
và tài chính quốc tế bài đã tập trung nghiên cứu những quy định về hàng Dệt may
trong các hiệp định VKFTA, EVFTA và CPTPP như: mức độ và lộ trình để ngành dệt
may được hưởng các ưu đãi thuế quan, các điều kiện về quy tắc xuất xứ mà các doanh
nghiệp Dệt may phải đáp ứng được nếu muốn được hưởng ưu đãi, các quy định về thủ
tục hành chính, thủ tục Hải quan đảm bảo sự thông thoáng cho hoạt động của doanh
nghiệp, phải đảm bảo môi trường đầu tư công bằng, bình đẳng và minh bạch dành cho
các nước thành viên, nhận thấy tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường trong sự
phát triển kinh tế bền vững FTAs còn đưa ra những quy định về bảo vệ môi trường mà
các nước thành viên phải tuân thủ trong quá trình phát triển nền kinh tế. Từ đó giúp
cho người nghiên cứu đưa ra được những tác động tích cực và tiêu cực của hội nhập
kinh tế quốc tế với ngành xuất khẩu dệt may. Đồng thời, bài đã đưa ra các giải pháp
nhằm giải quyết các thách thức và phát huy điểm mạnh của ngành xuất khẩu dệt may
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Công Thương (2024), Ngành Dệt May Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế
quốc tế
https://tapchicongthuong.vn/nganh-det-may-viet-nam-trong-thoi-ky-hoi-nhap-kinh-te-
quoc-te-56083.htm
2, Trần Đại Cát(2023),Tác động của Hiệp định thương mại tự do Liên Minh Châu Âu -
Việt Nam đối với xuất khẩu hàng hóa trong lĩnh vực dệt may ở Việt Nam
https://hul.edu.vn/upload/phong-dao-tao/Th%E1%BA%A1c%20s%C4%A9/tt%20202
3/TT%20TR%E1%BA%A6N%20%C4%90%E1%BA%A0I%20C%C3%81T.pdf?fbc
lid=IwZXh0bgNhZW0CMTAAAR3WSVIoW-GQNOjr0WPrVrAsT45p-ZO80PCJ-H
PEEjYf08VvM9Im-hM0hBo_aem_RLmNeaZFFXWIm9wKOxI4bQ
3, TS Trần Viết Long (2019), Tác động của Hiệp định thương mại tự do đối với ngành
dệt may Việt Nam - Qua thực tiễn tại tỉnh Thừa Thiên Huế
https://sg.docworkspace.com/d/sIL6u08LxAc6P97MG
4,Báo đầu tư (2024), Việt Nam đã thu hút hơn 37 tỷ USD vốn FDI vào dệt may
https://baodautu.vn/viet-nam-da-thu-hut-hon-37-ty-usd-von-fdi-vao-det-may-d214898
.html#:~:text=H%C6%A1n%2037%20t%E1%BB%B7%20USD%20l%C3%A0,v%C
3%A0o%20kim%20ng%E1%BA%A1ch%20xu%E1%BA%A5t%20kh%E1%BA%A
9u.&text=Vi%E1%BB%87t%20Nam%20%C4%91%C3%A3%20thu%20h%C3%BAt
%20l%C6%B0%E1%BB%A3ng%20v%E1%BB%91n%20FDI%20l%C3%AAn%20t
%E1%BB%9Bi,USD%20v%C3%A0o%20ng%C3%A0nh%20d%E1%BB%87t%20m
ay.
5, Bộ Công Thương (2022), Tác động của Hiệp định thương mại tự do đối với xuất
khẩu dệt may Việt Nam
https://vioit.org.vn/vn/chien-luoc-chinh-sach/tac-dong--cua-cac-hiep-dinh-thuong-mai
-tu-do--fta--toi-xuat-khau-det-may-viet-nam-4646.4050.html
6, Tạp chí công thương (2022), Thực trạng ngành Dệt May Việt Nam hiện nay và
những thách thức trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
https://tapchicongthuong.vn/thuc-trang-nganh-det-may-viet-nam-hien-nay-va-nhung-t
hach-thuc-truoc-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-4-0-88667.htm
7, WTO (2020), Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động đối với kinh
tế Việt Nam
https://trungtamwto.vn/tin-tuc/15709-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-va-t
ac-dong-doi-voi-kinh-te-viet-nam
8, Nguyễn Xuân Thắng (2007), Giáo trình Toàn cầu hóa và Hội nhập kinh tế quốc tế.
9, TS. Nguyễn Đình Cung, TS. Trần Toàn Thắng (2017), Hiệp định thương mại tự do
Việt Nam-EU: tác động đến thể chế và điều chỉnh chính sách, Nxb Thế giới, Hà Nội.
10, Vũ Thanh Hương (2015), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU: tác động
động đối với thương mại hàng hóa giữa 2 bên và hàm ý cho Việt Nam, Luận án tiến sĩ
Kinh tế quốc tế, Tp. Hà Nội.
11. Nguyen Tue Anh (2006), the impacts of foreign direct investment on the economic
growth in Vietnam
https://d1wqtxts1xzle7.cloudfront.net/33750629/FDI_growth_1__-_C._Tue_A
nh-libre.pdf?1400637012=&response-content-disposition=inline%3B+filenam
e%3DTHE_IMPACTS_OF_FOREIGN_DIRECT_INVESTMENT.pdf&Expires=
1719565123&Signature=gU3r0amuszTovMshNIKRmH8pcfZnhXE2ZdZcTuP
EOf9isZnOFepXh8fnGD~uVW0l~U8BbOaFgW2GN2~V99lQWmbkzf2nVowG
QB5O27VB4EJvzN242K~j3LpzCxVytVugw2NgfhZyvOIZkIVR4kTM0bSush6ti
9NuWBroMRloMBK8RDbzSNCR1S6NxIwuQ5rD3fZp4bksbt-HnoVO~tQ2puI
SwGBZ78vMMxSGsSGGLbV6P9-0ogjYxdU5Ep3tc6nWwm3nlh~xywf5y4F6e
k59XNqODWqUAvcdxSF6rBMSXIWmSn15c9vPETVpVn-RoBOqzzXZ9HYE-
-f2k0QqdyiYjw__&Key-Pair-Id=APKAJLOHF5GGSLRBV4ZA

You might also like