Professional Documents
Culture Documents
Kinh Tế Lượng
Kinh Tế Lượng
2
vậy, trong bài nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu đưa ra những nhân tố
tác động lên chỉ số phát triển con người tại một số nước năm 2022.
3. Thực trạng vấn đề trên thế giới, Việt Nam, địa bàn nghiên cứu
Chỉ số Phát triển Con người (HDI) của Việt Nam năm 2022 là
0.726, xếp hạng 107 trong số 193 quốc gia và vùng lãnh thổ theo Báo
cáo Phát triển Con người 2023/24 của Chương trình Phát triển Liên Hợp
Quốc (UNDP). Những thành tựu này phản ánh sự tập trung của Việt
Nam vào phát triển con người như là một phần quan trọng trong chiến
lược phát triển quốc gia.
Tuy nhiên tại các quốc gia trong phạm vi nghiên cứu nói chung và
Việt Nam nói riêng vẫn tồn tại một vài hạn chế như về lượng khí CO2
thải ra và chỉ số thu nhập bình quân đầu người. Điều này có thể hiểu
được do các nước trên đều là những nước đang phát triển và hai hạn chế
trên là không thể tránh khỏi trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa
4. Lý do lựa chọn chủ đề yêu cầu
Với tầm quan trọng của Chỉ số phát triển con người (sau đây gọi
là Chỉ số HDI), nhóm nghiên cứu nhận thấy sự cần thiết trong việc
nghiên cứu chuyên sâu về những yếu tố ảnh hưởng đến Chỉ số HDI, từ
đó có thể đánh giá một cách toàn diện và đầy đủ các nhân tố ảnh hưởng
đến sự phát triển của con người trong tương quan với sự phát triển của
nền kinh tế. Vì vậy, nhóm nghiên cứu lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Các
yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số phát triển con người (HDI) của một số quốc
gia năm 2022”
II. Tổng quan nghiên cứu
1. Tổng quan tài liệu nước ngoài
Trong một thời gian dài, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thường
được sử dụng để tính toán phát triển con người. Tuy nhiên, các chỉ số
kinh tế (chẳng hạn như GDP) không tính đến toàn bộ phúc lợi của con
người (Cracolici et al. 2010). Trong khi đó, Chỉ số Phát triển Con người
3
(HDI), được Chương trình Phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) giới
thiệu lần đầu tiên vào năm 1990, dần dần thay thế GDP để trở thành
thước đo chính trong đánh giá phát triển con người dựa trên ba đặc điểm
bao gồm kiến thức, tuổi thọ khỏe mạnh và một cuộc sống đạt mức lý
tưởng
Chỉ số Phát triển Con người (HDI) bao gồm các tiêu chuẩn tài
chính, đo lường trong hệ thống giáo dục và tuổi thọ trung bình, có thể
định hướng lại đáng kể các đặc điểm tổng thể của ngành (Anand và Sen
1994). Mahbub ul Haq, một nhà kinh tế học Pakistan, đã đưa ra ý tưởng
này từ những năm 1970 và sau đó đã trở thành thước đo quan trọng để
đánh giá sự phát triển của một quốc gia (Khodabakhshi 2011).
Trong bài nghiên cứu “Các yếu tố quyết định Chỉ số Phát triển Con
người: Phân tích thực nghiệm theo Quanh vùng" (2016), Smit Smah đã
đưa ra 6 yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số phát triển con người: Tuổi thọ
trung bình, tỷ lệ người lớn biết chữ - tính cho người từ 15 tuổi trở lên,
GDP bình quân, tỷ lệ sinh sản, hệ số bất bình đẳng thu nhập và tỷ lệ lạm
phát. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 5 nhân tố ảnh hưởng đến chỉ số,
ngoại trừ yếu tố tỷ lệ lạm phát là không có ảnh hưởng
Báo cáo Phát triển Con người năm 2014 (HDR) đã giới thiệu Hệ
số Bất bình đẳng Con người (HBI), một chỉ số tổng hợp đánh giá mức
độ bất bình đẳng trong ba lĩnh vực thiết yếu: y tế, giáo dục và thu nhập.
HBI được tính toán bằng trung bình số học phi trọng số của các ước tính
bất bình đẳng trong từng lĩnh vực. Chỉ số này có mối quan hệ nghịch đảo
4
với Chỉ số Phát triển Con người (HDI), cho thấy mức độ bất bình đẳng
cao sẽ kìm hãm tiến bộ phát triển con người. Do đó, đề xuất đưa Hệ số
bất bình đẳng vào mô hình nghiên cứu.
2. Trong nước
Trong bài Nghiên cứu chỉ số phát triển con người HDI ở thành
phố phố Đà Nẵng (2015). Trương Văn Cảnh và cộng sự đã đưa ra ba yếu
tố chính ảnh hưởng đến chỉ số phát triển con người là: Chỉ số tuổi thọ,
Chỉ số giáo dục, Chỉ số thu nhập. Kết quả nghiên cứu cho thấy các chỉ
số thành phần thể hiện rõ mối quan hệ tương quan tỷ lệ thuận với chỉ số
HDI. Các quận/ huyện nào có chỉ số thành phần cao thì chỉ số HDI cao
và ngược lại. Tuy nhiên, tác giả chỉ nghiên cứu về 3 yếu tố cơ bản ảnh
hưởng đến chỉ số HDI, bỏ qua các yếu tố về tỷ lệ sinh sản, và hệ số bất
bình đẳng con người.
3. Khoảng trống nghiên cứu
Ngoài nước
Hầu hết các nghiên cứu trước đây tập trung vào các nhóm nước
phát triển, bỏ qua các nước đang và kém phát triển.
Trong nước
Đa số các bài nghiên cứu trong nước đều chỉ quan tâm về các biến
cơ bản, bỏ qua các biến về yếu tố xã hội và sự ảnh hưởng chênh lệch
giữa các tầng lớp.
Kết luận: Các nghiên cứu trước đây chưa có nhiều thực nghiệm
xác lập mối liên hệ giữa các biến và những phát hiện còn mơ hồ. Điều
5
này cho thấy cần phải nghiên cứu thêm để làm rõ mối liên hệ giữa các
biến.
III. Phương pháp nghiên cứu
1. Cơ sở xây dựng
Nhiều học thuyết vẫn luôn cho rằng con người là trung tâm của sự
phát triển và “Phát triển bền vững” chính là những gì mà xã hội hướng
đến. Chỉ số HDI (Human Development Index) ra đời như một thành tựu
chiến lược có ý nghĩa rất lớn trong nghiên cứu về sự phát triển kinh tế
dựa trên nền tảng phát triển con người, đặc biệt là trong bối cảnh mục
tiêu lớn nhất của các nước hiện nay là phát triển kinh tế bền vững. Vì
vậy, việc phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến chỉ số HDI để đề ra
những giải pháp phù hợp giúp nâng cao đời sống con người trên thế giới
là rất cần thiết. Từ đó, chúng ta tiến hành xây dựng mô hình:
HDI =β 1+ β 2 ln ( CO 2 ) + β 3 ln (GNI )+ β 4 ln ( ¿ )
+ β 5 ln (GINI ) + β 6 ln ( LR 1 ) +ui
Trong đó:
β 1 : Hệ số chặn
β 2 , β 3 , β 4 , β 5 , β 6: Hệ số góc
ui : Sai số ngẫu nhiên
Sau khi có mô hình hồi quy tổng thể, để dễ dàng tính toán và ước lượng
kết quả, ta xây dựng mô hình hồi quy mẫu:
6
2. Phương pháp thu thập dữ liệu
Phương pháp thu thập số liệu: Nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu
thứ cấp bằng cách tìm kiếm và thu thập số liệu trên World Bank của biến
GNI - chỉ số thu nhập quốc dân trên đầu người; đồng thời nhóm còn
nghiên cứu, tìm kiếm và thu thập dữ liệu trên báo cáo phát triển con
người của tổ chức UNDP.
Phân tích dữ liệu: Các biến số sau khi thu nhập được được làm
sạch và sử dụng phần mềm Eviews 10 để phân tích các tác động của các
biến độc lập LnGINI, LnGNI, LnLE, LnCO2, LnLR1 tới biến phụ thuộc
HDI bằng cách kiểm định các hệ số hồi quy, kiểm định các khuyết tật
của mô hình. Từ đó đưa ra được mô hình hồi quy phù hợp nhất, sau đó
kiểm định giả thuyết để đánh giá sự tác động cùng hay ngược chiều của
biến độc lập đến biến phụ thuộc.
7
Chỉ số phát triển
con người là chỉ
số so sánh, định
lượng về mức
thu nhập, tỷ lệ
biết chữ, tuổi thọ
1 HDI và một vài nhân +
tố khác của các
quốc gia trên thế
giới; tạo ra cái
nhìn tổng quát về
sự phát triển của
quốc gia đó
2 GINI Hệ số Gini được -
xem là một công
cụ quan trọng để
đánh giá mức độ
chênh lệch kinh
tế và xã hội của
mỗi quốc gia và
kết quả này sẽ
giúp các nhà
quản lý cũng như
chính phủ đưa ra
được các chính
sách hợp lý, điều
chỉnh các chính
sách để nhằm
giảm bớt bất bình
đẳng và đảm bảo
8
việc phân phối
tài sản; thu nhập
được công bằng
hơn.
Thu nhập quốc
dân (Gross
national income
– GNI) là chỉ số
kinh tế xác định
tổng thu nhập
3 GNI +
của một quốc gia
trong một thời
gian, thường là
một năm. Đây là
chỉ tiêu đo thực
lực của quốc gia.
4 LE Kỳ vọng sống là +
một thước đo
thống kê về tuổi
thọ trung bình
của một người
trong một quần
thể, bị ảnh hưởng
bởi một số yếu tố
bên ngoài tác
động. Nhìn
chung, kỳ vọng
sống cao là một
xu hướng tích
cực với nhiều lợi
9
ích cho xã hội.
Đây là chỉ số chỉ
lượng CO2 thải
ra môi trường,
5 CO2 chỉ số này càng -
cao càng đe dọa
đến đời sống con
người.
6 LR1 Tỷ lệ biết chữ là +
một chỉ số quan
trọng phản ánh
mức độ phát
triển của một
quốc gia hoặc
khu vực trên
nhiều phương
diện. Nó được
tính bằng tỷ lệ
phần trăm dân số
trong độ tuổi từ
15 tuổi trở lên có
thể đọc, viết và
hiểu được những
câu đơn giản của
một ngôn ngữ
nhất định. Nâng
cao tỷ lệ biết chữ
là một nhiệm vụ
quan trọng góp
phần thúc đẩy
10
phát triển kinh tế,
xã hội và văn
hóa.
3. Mô tả thống kê
Từ bảng trên, nhóm tác giả đưa ra nhận xét về bộ số liệu như sau:
Chỉ số HDI cao nhất trong bộ số liệu được thống kê là của Singapore với
0.949, Chỉ số HDI thấp nhất là 0.644 của Ấn Độ. Ta có thể thấy trong 83
nước này 39 nước có HDI cao hơn mức trung bình (0.790605).
Ln của kỳ vọng sinh Ln(LE) trung bình của 83 quốc gia này là
khoảng 4.313, trong đó có Ln(LE) cao nhất là Italy và Singapore là
4.432007, và thấp nhất là South Africa là 4.119037.
Nhìn chung, tỷ lệ biết chữ ở người lớn tính cho người trên 15 tuổi
ở 83 quốc gia là khoảng 94.5%. Trong đó, tỷ lệ biết chữ ở người lớn cao
11
nhất là Andorra, Slovenia, Estonia, Barbados, Ba Lan, Latvia,...(99.9%)
và thấp nhất là Bhutan (72%). Ln của tỷ lệ biết chữ là hệ số duy nhất
trong nghiên cứu mang giá trị âm. Giá trị trung bình tương đối thấp
(khoảng -0.060434). Nước Singapore có Ln(LR1) cao nhất (khoảng
0.000000), trong khi đó quốc gia Bhutan có Ln(LR1) thấp nhất vào
khoảng -0.328504.
Cả GNI bình quân đầu người và Ln của GNI bình quân đầu người
đều có sự chênh lệch tương đối. Ta thấy Ln(GNI) trung bình là khoảng
9.749633. Năm 2022, Singapore là nước có Ln(GNI) lớn nhất (khoảng
11.39370), gấp 1.56 lần Kyrgyzstan - nước có Ln(GNI) thấp nhất
(khoảng 4,782).
Ln trung bình của lượng khí CO2 thải ra môi trường ở 83 quốc
gia quan sát là Ln(CO2) = 1.293447, trong đó, Ln(CO2) lớn nhất là
3.234749 và Ln(CO2) bé nhất là -0.510826.
12
Dựa vào bảng, nhóm tác giả đưa ra những nhận xét về sự tương
quan giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập như sau: Hệ số tương quan
giữa HDI và Ln(GNI) là 0,721921>0 thể hiện mối quan hệ thuận chiều
khá lớn.
Hệ số tương quan giữa biến phụ thuộc HDI với các biến độc lập
khá cao, điều này cho thấy rằng mức độ tương quan giữa các biến độc
lập với biến phụ thuộc là rất mạnh.
Hệ số tương quan giữa các cặp biến độc lập hầu hết đều nhỏ hơn
0,8 vì vậy có thể kết luận không tồn tại đa cộng tuyến giữa các biến này.
13
Nhóm tác giả sử dụng phần mềm Eviews 11 ước lượng mô hình và thu
được kết quả như sau:
Từ kết quả trên trên thu được mô hình hồi quy mẫu ngẫu nhiên như sau:
14
H0 : Mô hình không bỏ sót biến quan trọng
H1 : Mô hình bỏ sót biến quan trọng
15
Từ kết quả kiểm định trên, ta có thể dễ dàng thấy được P-
value>0.05 và biến được thêm vào có Prob. = 0.064 > 0.05. Như vậy, ta
có thể kết luận rằng, mô hình nghiên cứu đã không bỏ sót biến quan
trọng tại mức ý nghĩa 5%
b. Kiểm định đa cộng tuyến
Nhằm đảm bảo tính chính xác và hiệu quả của mô hình hồi quy
tổng thể, nhóm nghiên cứu đã tiến hành kiểm định khuyết tật đa cộng
tuyến của mô hình. Để kiểm định đa cộng tuyến, nhóm nghiên cứu đã sử
dụng phương pháp xem xét nhân tử phóng đại phương sai VIF:
Thu được bảng kết quả như trên. Qua đó, ta có thể thấy hệ số VIF của
các biến độc lập LOG(GINI), LOG(GNI), LOG(LE), LOG(CO2),
LOG(LR1) đều có giá trị nhỏ hơn 10. Như vậy, mô hình không tồn tại
đa cộng tuyến giữa các biến độc lập
Kiểm định phương sai sai số thay đổi
Để kiểm định phương sai sai số thay đổi, nhóm nghiên cứu đã sử dụng
cặp giả thiết sau:
16
H0 : Phương sai sai số thuần nhất
H1 : Phương sai sai số thay đổi
Tiến hành kiểm định White, ta thấy được P-value <0.005. Như vậy, bác
bỏ H0. Mô hình nghiên cứu có phương sai sai số thay đổi
3. Khắc phục khuyết tật của mô hình
Để khắc phục hiện tượng phương sai sai số thay đổi, nhóm tác giả sử
dụng sai số vững của White - Hinkey để thay thế
17
Nhận xét: Ta có thể thấy rằng phương sai của mô hình tuy có thay đổi
nhưng không ảnh hưởng đến kết quả ước lượng mô hình hồi quy mẫu
4. Kiểm định hệ số hồi quy
Để kiểm định hệ số hồi quy của mô hình sau khi khắc phục hiện tượng
phương sai sai số thay đổi, nhóm sử dụng cặp giả thiết sau:
H0: β i=0
H1: β i ≠ 0
Xét p-value của từng biến độc lập:
Nếu p-value <∝ = 0.05 thì bác bỏ giả thiết H0
Nếu p-value >∝ = 0.05 thì bác bỏ giả thiết H0
18
LnCo2 2 0.0002 < ∝ Có ý nghĩa
thống kê
LNGINI 3 0.028 < ∝ Có ý nghĩa
thống kê
LNGNI 4 0.0021 < ∝ Có ý nghĩa
thống kê
LNLE 5 0.0000 < ∝ Có ý nghĩa
thống kê
LNLR1 6 0.0420 < ∝ Có ý nghĩa
thống kê
Nhận xét: Dựa vào bảng giá trị trên, ta có thể kết luận được rằng các hệ
số hồi quy của các biến LNCO2. LNGINI, LNGNI, LNLE đều có ý
nghĩa thống kê với mức ý nghĩa 5%. Như vậy, lượng khí Co2 thải ra môi
trường, hệ số bất bình đẳng con người, thu nhập bình quân, kỳ vọng
sống, tỷ lệ người lớn biết chữ có ảnh hưởng đến chỉ số HDI.
Kiểm định sự phù hợp của mô hình
Để xem xét trường hợp các tham số của biến độc lập β i đồng thời xảy ra
bằng 0 có xảy ra không, nhóm nghiên cứu tiến hành kiểm định cặp giả
thuyết:
Dựa theo kết quả hồi quy trên, ta có: Fqs = 87.23 > F0.05(5,74) và P-value
(F) =0.000<0.05
Qua đó, bác bỏ giả thuyết H0. Mô hình hồi quy phù hợp.
19
V. Thảo luận kết quả
1. Mô hình hồi quy mẫu cuối cùng
Nhóm nghiên cứu đã xây dựng mô hình hồi quy tổng thể và từ đó
phát triển mô hình hồi quy mẫu cuối cùng với dạng thức như sau:
HDI =−1.6879+ 0.0274 LnCO 2−0.0286 LnGINI +0.0222 LnGNI +0.5356 LnLE+ 0.11 LnLR1+ ei
Hệ số xác định R2=0.85 cho ta biết các biến số độc lập giải thích
được 85% sự biến động trong biến phụ thuộc chỉ số phát triển con người
HDI. 15% còn lại do các yếu tố khác tác động vào biến phụ thuộc HDI
20
Đối với 6: Khi các yếu tố khác không đổi và nếu tỷ lệ người lớn
biết chữ - tính từ 15 tuổi trở lên tăng 1% thì chỉ số phát triển con người
tăng 0.12 đơn vị và ngược lại
Như vậy nghiên cứu này đã thành công trong việc xác định và
kiểm định các yếu tố ảnh hưởng đến HDI, cung cấp cái nhìn toàn diện và
đầy đủ về mối liên hệ giữa các biến kinh tế - xã hội với sự phát triển con
người. Các kiểm định cho thấy mô hình hồi quy tổng thể là phù hợp và
không có các khuyết tật lớn, đảm bảo tính chính xác và hiệu quả của kết
quả nghiên cứu
21
VI. Kết luận
Dựa trên kết quả phân tích, nhóm nghiên cứu xin đề xuất một số
giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại trong mối quan hệ giữa hệ số
GINI và Chỉ số Phát triển Con người (HDI) như sau:
● Giảm thiểu tác động tiêu cực của hệ số GINI lên HDI:
22
+ Áp dụng các biện pháp chống trốn thuế, thuế lậu, góp
phần tăng thu ngân sách nhà nước.
● Tăng cường các yếu tố tác động tích cực đến HDI:
Tuy nhiên, chỉ số CO2 thải ra môi trường vẫn cần phải xem
xét thêm do không đạt dấu nhưng đây cũng là một yếu tố cần tập
trung giải quyết vì có khả năng lượng CO2 thải ra sẽ có ảnh hưởng xấu
tới mức độ sức khỏe của người dân, từ đó làm giảm chỉ số HDI. Vì vậy
nhóm nghiên cứu đưa ra một vài giải pháp để hạn chế tăng chỉ số CO2
như sau:
23
- Trồng rừng, bảo vệ môi trường:
+ Mở rộng diện tích rừng, tăng cường công tác bảo vệ
rừng.
+ Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường của người dân.
Lưu ý:
- Các giải pháp trên cần được cụ thể hóa và điều chỉnh cho phù
hợp với điều kiện thực tế của từng quốc gia.
- Việc thực hiện các giải pháp này cần có sự tham gia của các
bên liên quan, bao gồm chính phủ, doanh nghiệp, tổ chức phi
chính phủ và người dân.
24
Tài liệu tham khảo
Hossain, M. A., & Chen, S. (2021). Nexus between Human Development Index (HDI) and CO2
emissions in a developing country: decoupling study evidence from Bangladesh. Environmental Science
and Pollution Research. doi:10.1007/s11356-021-14822-5
Moreno-Enguix, M. del R., Lorente-Bayona, L. V., & Gras-Gil, E. (2018). Social and Political Factors
Affect the Index of Public Management Efficiency: A Cross-Country Panel Data Study. Social Indicators
Research. doi:10.1007/s11205-018-2043-8
Determinants of Human Development Index: A Cross-Country Empirical Analysis (2016), Shah, Smit
from National Institute of Bank Management,Pune,India
25