Professional Documents
Culture Documents
(4) LANH DAO THEO PHONG CACH THANH PHAO-LO
(4) LANH DAO THEO PHONG CACH THANH PHAO-LO
1
2013
2
GIỚI THIỆU CÁC KHÓA THÁNH KINH VÀ HUẤN
LUYỆN LÃNH ĐẠO MUỐI ĐẤT MỞ RỘNG
Khi cầm trên tay một trong 6 cuốn Sách “LÃNH ĐẠO
TRONG SÁCH XUẤT HÀNH”, “LÃNH ĐẠO THEO
PHONG CÁCH THẦY GIÊ-SU TRONG TIN MỪNG
MÁC-CÔ”, “LÃNH ĐẠO THEO PHONG CÁCH NGÔN
SỨ I-SAI-A”, “LÃNH ĐẠO THEO PHONG CÁCH
THÁNH PHAO-LÔ”, “LÃNH ĐẠO TRONG SÁCH CÁC
THÁNH VỊNH”, “LÃNH ĐẠO THEO PHONG CÁCH
THẦY GIÊ-SU TRONG TIN MỪNG GIO-AN”, chắc bạn
sẽ thắc mắc “Do đâu hay vì sao mà có cuốn Sách và
Khóa học mang một trong những cái tên ấy?”
Tôi xin được phép chia sẻ với bạn quá trình hình thành các
Sách và các Khóa học mang các danh xưng trên.
1.- Vào tháng 11.2006, khi tôi đang ở quận Cam (CA) thì
nhận được thư điện tử của người bạn thân là tiến sĩ Lê
Xuân Hy, giáo sư của Seattle University (viết tắt là SU) là
Đai học của Dòng Tên ở thành phố Seattle, bang Washing-
ton, vùng tây bắc Hoa Kỳ. Anh Lê Xuân Hy viết cho tôi
rằng ở trên Seattle có một việc rất quan trọng và thú vị
đang chờ tôi. Thật ra thì không có thư của anh Lê Xuân
Hy, tôi cũng đã có chương trình đến Seattle để dự một
Khóa Thánh Linh Đặc Sủng, nhờ sự thu xếp và giúp đỡ
của một vài anh chị trong Phong Trào này ở Orange
3
County. Vậy là tôi có 2 lý do hay 2 công việc ở thành phố
Seattle.
Sau khi Khóa Thánh Linh kết thúc, tôi đến thăm gia đình
anh Lê Xuân Hy và được gia đình Anh cho tá túc mấy
ngày. Sau vài lời thăm hỏi, Anh Lê Xuân Hy trao ngay cho
tôi một tập tài liệu dầy cộm. Đó là giáo trình “Scripture
and Leadership Training vt SALT” của S.U. Anh Lê Xuân
Hy nói với tôi là Ban Giám Đốc Đại Học Seattle đang tìm
người dịch tài liệu này sang tiếng Việt và anh Lê Xuân Hy
đã giới thiệu tôi, vì anh cho rắng tôi là người thích hợp
nhất với công việc này. Anh Lê Xuân Hy đề nghị tôi đọc
qua tài liệu anh vừa trao cho tôi và nếu tôi thấy công việc
chuyển dịch sang tíếng Việt hấp dẫn thì anh sẽ đưa tôi vào
Đại Học gặp người phụ trách chương trình “Scripture and
Leadership Training vt SALT.”
2. Sáng hôm sau, tôi nói với anh Lê Xuân Hy là tôi thấy tài
liêu này rất hay và độc đáo. Tôi cho rằng nếu giáo dân
trong nước có cơ hội học hỏi Thánh Kinh theo chương
trình và phương pháp của “Scripture and Leadership Trai-
ning, vt SALT” thì sẽ rất hữu ích. Thật ra trong Giáo hội
Việt Nam việc học hỏi Thánh Kinh của giáo dân còn rất
hạn chế, không chỉ thiều thầy mà thiếu cả tài liệu và vẫn
theo phương pháp cổ truyền (thầy giảng/trò nghe). Từ
2005 mới có thêm chương trình và phương pháp “Thánh
Kinh một trăm tuần” (The Bible in 100 weeks) của linh
mục Marcel le Dorze, thuộc hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris
(M.E.P.) do linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm triển khai
4
tại Trung Tâm Mục Vụ Sàigòn mà tôi được cộng tác ngay
từ buổi đầu, từ việc chuyển dịch tài liệu tiếng Anh sang
tiếng Việt ngữ cho đến việc tổ chức lóp, tập huấn phương
pháp đọc và chia sẻ Lời Chúa cho các học viên. Tôi cũng
bày tỏ nỗi lo ngại to lớn của tôi là sợ không đủ khá năng và
vốn liếng tiếng Anh để làm công việc chuyển dịch một tài
liệu Thánh Kinh quan trọng như thế này sang tiếng Việt.
Được anh Lê Xuân Hy khích lệ, động viên và hứa sẽ cộng
tác với tôi và sẽ mời thêm một số linh mục, tu sĩ và giáo
dân ở Mỹ và Canađa hợp tác, tôi chấp nhân đi gặp người
phụ trách của Đại Học Seattle.
5
Buổi gặp gỡ và trao đổi rất cởi mở và thân tình. Kết quả là
tôi nhận việc chuyển dịch bộ Tài Liệu «Scripture and
Leadership Training vt SALT» sang tiếng Việt.
4. Sau 6 tháng miệt mài lao động, tôi đã dịch xong toàn bộ
Tài liệu “Scripture and Leadership Training vt SALT” gồm
6 sách: Xuất Hành, Tin Mừng Máccô, Ngôn Sứ Isaia,
Thánh Phaolô, Các Thánh Vịnh và Tin Mừng Gioan, cả
phần của học viên (students) lẫn phần của giảng viên
(leaders). Anh Lê Xuân Hy đã lập một ê-kíp cộng tác viên
rất hùng hậu và chất lượng để làm công việc hiệu đính bản
dịch, trong đó, ngoài hai vợ chồng anh chị Lê Xuân Hy và
Nguyễn Thị Hoa còn có một linh mục Dòng Tên là linh
mục Trần Quốc Anh, lúc đó đang dọn tiến sĩ tại Đại Học
Georgetown của Dòng Tên ở Washington DC và một thầy
Dòng Tên là Nguyễn Văn Thảo (nay đã là linh mục và
đang dọn bằng tiến sĩ tại một Đại Học ở California) và một
vài anh chị em giáo dân khác ở Mỹ và Canađa. Anh Lê
Xuân Hy còn lập một ê-kíp phụ trách công việc dàn trang
cho công trình chung của nhóm chúng tôi, trong đó có con
gái lớn của Anh Hy-Chị Hoa và vài người khác.
6
Trong hai cuộc gặp gỡ và trao đổi với Đoàn các giáo sư
Đại Học Seattle, tôi hân hạnh được Đức Hồng Y và Cha
Giám Đốc Trung Tâm Mục Vụ gửi gấm cho Đoàn để họ
tạo điều kiện cho tôi được tham dự một hai Khóa
“Scripture and Leadership Training, vt SALT” tại Seattle
University.
Trước khi đoàn đến TpHCM thì anh chị em chúng tôi cũng
đã thực hiện được công việc dàn trang và phát hành (dạng
photocopy) cuốn MUỐI ĐẤT (1), song ngữ Anh Việt, là
phần của học viên của 4 cuốn Sách đầu của giáo trình
“Scripture and Leadership Training vt SALT” là Sách Xuất
Hành, Tin Mừng Máccô, Ngôn Sứ Isaia, Thánh Phaolô, để
ra mắt và để Đoàn sử dụng trong việc trình bày cho các Nữ
Tu Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, Tổng Giáo phận Huế.
Trong cuốn sách trên, chúng tôi hân hạnh có được 2 thư
giới thiệu, một của Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm
Minh Mẫn và một của Bà Tiến Sĩ Sharon Henderson
Callahan.
7
Ngay trong thời gian ở Seattle này, tôi được Linh Mục
Quản Nhiệm Cộng Đống các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại
thành phố Seattle cho phép và nâng đỡ để có thể tồ chức
được hai Khóa có tính thử nghiệm: Khóa “Xuất Hành” cho
các hội viên Hội Thánh Linh Seattle và Khóa “Thánh
Phaolô” cho các thành viên Ban Giáo Lý Cộng Đống các
Thánh Tử Đạo Việt Nam. Tham dự Khóa này có cả một
Phó Tế vĩnh viễn tương lai và hai ba Nữ Tu Dòng Mến
Thánh Giá Phát Diệm đang phục vụ tại đây
8
Kinh và Huấn Luyện Lãnh Đạo Muối Đất” tại Trung Tâm
Mục Vụ, Tu viện Thánh Phaolô, Giáo Xứ Kim Long, Giáo
Xứ Gia Hội, Giáo xứ Tây Linh. Tổng số Khóa “Thánh
Kinh và Huấn Luyện Lãnh Đạo Muối Đất” đã được tổ
chức ở Huế là 12 Khóa: 2 Khóa Xuất Hành, 2 Khóa Tin
Mừng Máccô, 1 Khóa Isaia, 4 Khóa Thánh Phaolô, 2 Khóa
Các Thánh Vịnh và 1 Khóa Tin Mừng Gioan.
9
Khóa đã được mở tại Giáo Xứ Phong Cốc, Tây Ninh (giáo
phận Phú Cường).
Kể cả 2 Khóa ở Seattle, và 12 Khóa ở Huế, thì cho đến
giữa năm 2012 này, tổng số các Khóa “Thánh Kinh và
Huấn Luyện Lãnh Đạo Muối Đất” đã được mở tại các nơi
là 43 Khóa (9 Khóa Xuất Hành, 7 Khóa Tin Mừng Mác-
cô, 5 Khóa I-sai-a, 14 Khóa Thánh Phao-lô, 5 Khóa Các
Thánh Vịnh và 5 Khóa Tin Mừng Gio-an).
Trong quá trình hướng dẫn các khóa, tôi thấy nhiều học
viên bỏ lớp lưng chừng hoặc chỉ học một hai Khóa rồi thôi.
Lý do có thể là vì những người ấy hoặc không đủ khả năng
theo học hoặc không có thời gian soạn bài. Vì thế mà tôi
nhìn ra một nhu cầu chính đáng là phải làm cho nội dung
và phương pháp Muối Đất trở nên dễ hiểu, dễ tiếp cận hơn
10
đối với đại đa số giáo dân Việt Nam. Và tôi âm thầm ôm
ấp dự định sẽ sọan ra một Bộ “Thánh Kinh và Huấn Luyện
Lãnh Đạo Muối Đất” mở rộng hay thích ứng, cho đại
chúng.
10. Chúa Quan Phòng thật kỳ diệu và bất ngờ! Đầu tháng 6
năm 2010 này, Linh mục Giuse Tạ Huy Hoàng, giảng viên
của Học Viện Mục Vụ và là Chủ Nhiệm các Khóa “Quản
Trị Mục Vụ” đã ngỏ ý mời tôi tham gia vào các Khóa của
ngài bằng cách đưa “Thánh Kinh và Huấn Luyện Lãnh
Đạo Muối Đất” vào chương trình “Huấn Luyện Thừa Tác
Viên Quản Trị Mục Vụ.”
Tôi đã đề nghị lấy Sách Xuất Hành làm Khóa Thánh Kinh
đầu tiên. Được sự chấp nhận của Cha Giuse Tạ Huy
Hoàng, tôi dành thời gian soạn bài bằng cách dựa vào
Khóa Xuất Hành của chương trình và phương pháp
“Thánh Kinh và Huấn Luyện Lãnh Đạo Muối Đất” chính
quy để làm nên một giáo trình mới cho Chương Trình
Huấn Luyện Thừa Tác Viên Quản Trị Mục Vụ. Học viên
của Khóa này tất cả đều là các “Chức Việc” của các Giáo
Xứ thuộc Tổng Giáo Phận Sài-gòn. Đó là Khóa “Lãnh Đạo
trong Sách Xuất Hành”
Sau Khóa “Lãnh Đạo trong Sách Xuất Hành” này tôi đã
tiếp tục hướng dẫn thêm 3 Khóa “Thánh Kinh và Huấn
Luyện Lãnh Đạo Muối Đất” mở rộng hay thích ứng khác
là các Khóa “Lãnh Đạo theo Phong Cách Thánh Phao-
lô”, “Lãnh Đạo theo Phong Cách Thầy Giê-su trong Tin
11
Mừng Mác-cô” và “Lãnh Đạo theo Phong Cách Thầy Giê-
su trong Tin Mừng Gio-an”. Học viên của 3 Khóa sau này
đã đựoc mở rộng cho các Nữ Tu và Giáo Dân nào có nhu
cầu học hỏi Thánh Kinh, chứ không chỉ thu hẹp trong số
các học viên của chương trình “Huấn Luyện Thừa Tác
Viên Quản Trị Mục Vụ”
Tôi hy vọng sẽ còn được tiếp tục phục vụ hai Khóa còn lại
của chương trình Muối Đất là Khóa “Lãnh Đạo theo
Phong Cách Ngôn Sứ I-sai-a” và Khóa “Lãnh Đạo theo
trong Sách các Thánh Vịnh”
11. Tôi đã đem giáo trình “Lãnh Đạo trong Sách Xuất
Hành” ra phục vụ 2 Khóa Thường Huấn cùa Dòng Nữ Tử
Bác Ái Vinh Sơn Việt Nam tại Sài-gòn (tháng 3.2011) và
Đà Lạt (tháng 6.2011). Tôi cũng đã đem giáo trình “Lãnh
Đạo theo Phong Cách Thánh Phao-lô” ra giúp Các Chị Nữ
Tử Bác Ái Vinh Sơn Sài-gòn học hỏi Thánh Kinh trong
suốt 4 tháng cuối năm 2011 tại Tu Viện Tú Xuơng, Quận
3, TpHCM.
12. Điều sau cùng tôi muốn nói ở đây là về Tựa Đề các
Sách/Khóa: “Lãnh Đạo trong Sách Xuất Hành”, “Lãnh
Đạo theo Phong Cách Thầy Giê-su trong Tin Mừng Mác-
cô”, “Lãnh Đạo theo Phong Cách Ngôn Sứ I-sai-a”,
“Lãnh Đạo theo Phong Cách Thánh Phao-lô”, “Lãnh Đạo
theo Phong Cách các Tác Giả các Thánh Vịnh”, “Lãnh
Đạo theo Phong Cách Thầy Giê-su trong Tin Mừng Gio-
an” v.v… Tôi lấy một định nghĩa rất thông dụng về người
lãnh đạo mà các nhà nghiên cứu Thánh Kinh, Thần Học và
12
Tu Đức ngày nay đều tán thành. Đó là định nghĩa người
lãnh đạo bằng 3 chữ P:
“A leader is a person who influences a group of people
towards the achievement of a goal (purpose)”
Tạm dịch
“Người Lãnh đạo là một người (person) ảnh hưởng trên
một nhóm người (people) để đạt được mục đích (purpose)
đã đặt ra.”
Theo định nghĩa này thì bất cứ ai cũng có thể là người lãnh
đạo: các bậc cha mẹ, thầy cô, các chức sắc, huynh trưởng
đểu là những người lãnh đạo, vì đếu là những người có ảnh
hưởng trên nguời/những người khác, nhằm giúp nguời/
hững người ấy đạt được mục đích của ho.
Trong Lãnh Đạo Ki-tô giáo mục đích đã được đặt ra và
phải đạt được là các Ki-tô hữu khám phá ra Thiên Chúa và
được hưởng hạnh phúc nơi Người. Như vậy thì học hỏi về
Lãnh Đạo Ki-tô giáo chắc chắn không chỉ là việc thủ đắc
những kỹ thuật vể tâm lý con người cũng như nắm bắt
được các kỹ năng và phương pháp cần thiết. Học hỏi về
Lãnh Đạo Ki-tô giáo trước hết và trên hết phải là học Tinh
Thần và Cung Cách Lãnh Đạo của chính Thiên Chúa là
Đấng đã thể hiện là một Nhà Lãnh Đạo Tuyệt Vời trong
Lịch Sử của dân Ít-ra-en nói chung và trong Cuộc Xuất
Hành của dân ấy nói riêng, cũng nhu học Tinh Thần và
Cung Cách Lãnh Đạo của chính Con Một Thiên Chúa làm
người là Thầy Giêsu và của các môn đệ xuất sắc của Thiên
Chúa như Môsê, Isaia, Phaolô v.v…
13
Đó chính là lý do tại sao tôi chọn tựa đề
“Lãnh Đạo trong Sách …… hay “Lãnh Đạo theo Phong
Cách………” cho cả Bộ Sách “Thánh Kinh và Huấn Luyện
Lãnh Đạo Muối Đất” mở rộng hay thích ứng!
14
ĐÔI LỜI VỀ KHÓA
“LÃNH ĐẠO THEO PHONG CÁCH
THÁNH PHAO-LÔ”
15
2. Thánh Phao-lô : Nói về Thánh Phao-lô thì không sao
nói hết. Các bài, các sách viết về Thánh Phao-lô nhie62i
không sao kể hết. Chỉ xin nói điều quan trọng này: Từ một
Pha-ri-sêu giỏi giang và nhiệt thành với Do-thái giáo và
tích cực bách hại các Ki-tô hữu thời Giáo Hội mới hình
thành ở Pa-lét-tin đầu Công Nguyên, ông Sa-un đã bất ngờ
được Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh hiện ra với ông trên
đường Đa-mát. Từ lần gặp gỡ huyền nhiệm này, cuộc đời
của Sa-un đã hoàn toàn thay đổi. Ngài đã trở thành vị tông
đồ nhiệt thành của Chúa Giê-su Ki-tô và đã hiến cả cuộc
đời cho công cuộc loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Thiên
Chúa cho dân ngoại.
Trong bối cảnh tuyên bố việc thiết lập Năm Thánh Phao-lô
từ 28.06.2008 đến ngày 29.06.2009, Đức Thánh Cha Bê-
nê-đic-tô XVI đã nói về Thánh Phao-lô như sau:
“Thánh Tông Đồ Phao-lô, một dung mạo xuất sắc và hầu
như không thể bắt chước được, nhưng hào hứng, ở trước
mặt chúng ta như một gương sáng cao cả về việc hoàn
toàn hiến thân phụng sự Thiên Chúa và phục vụ Hội
Thánh, cũng như cởi mở với nhân loại và các nền văn hóa.
Cho nên thật công bằng để cho chúng ta dành cho Ngài
một chỗ đặc biệt, không những chỉ trong sự tôn kính của
chúng ta, mà còn trong cố gắng hiểu biết những gì ngài
muốn nói với chúng ta, là những Ki-tô hữu thời nay.”
16
* Một là các học viên sẽ có cơ hội hiểu biết và yêu mến
một con người cũng là một vị thánh vĩ đại của Ki-tô giáo.
* Hai là các học viên sẽ có dịp hiểu sâu những chủ đề thần
học và mục vụ lớn của Thánh Phao-lô, Vị Tông Đồ Dân
Ngoại.
* Ba là các học viên có dịp chia sẻ với nhau những kinh
nghiệm cá nhân về đời sống tâm linh gắn bó mật thiết với
Chúa Ki-tô phục sinh và những đóng góp của riêng mỗi
người trong việc xây dựng cộng đoàn Ki-tô hữu.
17
Đề Tài XII: Giáo huấn của Thánh Phao-lô về ơn được nên
công chính.
Đề Tài XIII: Linh đạo Ki-tô hữu theo giáo huấn của Thánh
Phao-lô.
Đề Tài XIV: Tổng Hợp: Lãnh Đạo theo Phong Cách
Thánh Phao-lô.
Ngày 25/10/2012
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Điện thoại 098 648 0337
Email: hnoivnguyen@yahoo.ca
18
PHẦN THỨ NHẤT
CÁC ĐỀ TÀI
19
ĐỀ TÀI I
CUỘC “TRỞ LẠI” HAY “ĐỔI ĐỜI”
CỦA THÁNH PHAO-LÔ
20
PK 1: Nguyện Chúa Thánh Thần xin ngự đến. Lòng vạn
lòng đợi trông Ngài soi sáng. Và luyện lọc hầu mong được
xứng đáng với danh hiệu Đền Thánh Chúa cao quang.
PK 2: Nguyện Chúa Thánh Thần xin ngự đến. Ngài là
niềm ủi an kẻ than khóc. Là nguồn mạch tràn lan mọi ơn
phúc, suối êm dịu hàn gắn những thương đau.
2.2 Xin mỗi học viên cho biết cơ duyên nào đưa bạn tới
với khóa học này?
21
3.5 Tại sao Phao-lô tìm bắt (bách hại) các Ki-tô hữu ?
3.6 Phải hiểu thế nào về cuộc trở lại hay đổi đời của Phao-
lô?
3.7 Cuộc trở lại hay đổi đời của Thánh Phao-lô quan trọng
như thế nào với chính Phao-lô, với Hội Thánh công giáo
và với mỗi người chúng ta?
3.8 Cuộc trở lại hay đổi đời của Thánh Phao-lô cho ta
những bài học gì?
3.9 Cuộc trở lại hay đổi đời của Thánh Phao-lô có liên hệ
gì với những cuộc trở lại hay đổi đời của mỗi chúng ta
không?
22
+ trong việc khai triển và đào sâu nội dung sứ điệp Tin
mừng cứu độ mà Chúa Giê-su Ki-tô đã đem đến cho nhân
loại,
+ trong việc truyền giáo tức rao giảng Tin Mừng và giúp
người ta nhìn nhận Chúa Giê-su Ki-tô là Cứu Chúa, là Con
Thiên Chúa, là Thiên Chúa.
+ trong việc thiết lập, củng cố, hướng dẫn các cộng đoàn
Ki-tô hữu tiên khởi bên ngoài xứ Pa-lét-tin.
Do đó học và sống tinh thần Thánh Phao-lô là điều Đức
Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI và Hội Thánh mong muốn ở
mọi tín hữu nhất là trong năm Thánh Phao-lô này.
4.2 Nói / học về Thánh Phao-lô thì câu truyện đầu tiên
người ta phải nhắc tới hay kể lại là câu truyện nào?
- Nói / học về Thánh Phao-lô thì câu truyện đầu tiên người
ta phải nhắc tới hay kể lại là “câu truyện Thánh Phao-lô trở
lại” hay đúng hơn là “câu truyện Thánh Phao-lô gặp Chúa
Giê-su Ki-tô Phục Sinh trên đường Đa-mát”. Biến cố này
đã thay đổi cuộc đời Thánh Phao-lô một cách triệt để, từ
một kẻ bắt/giết đạo thành một người rao giảng và xây dựng
Ki-tô giáo khắp vùng quanh Địa Trung Hải trong thế kỷ
thứ nhất của Công nguyên.
23
Tông Đồ (9,1-19 và 22,6-16). Trong thư gửi tín hữu Ga-
lát, Thánh Phao-lô cũng nhắc đến sự kiện này (Gl 1,11-
24).
24
* Lần 3: Người hướng dẫn đọc lại đoạn văn Cv 9,1-19,
các học viên nhắm mắt và lắng nghe và tập trung sự chú ý
của mình vào (những) lời/câu/hình ảnh khiến mình chú ý
để trả lời câu hỏi: đọc Cv 9,1-19 bạn được (những)
lời/câu/hình ảnh nào lôi kéo đánh động? bạn nghe thấy âm
vang gì trong bạn? tại sao?
- Tôi được lôi kéo, đánh động bởi tiếng nói (từ trời):
«Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?»
và
«Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ!»
Thế có nghĩa là khi Sao-lô tìm bắt các Ki-tô hữu là ông tìm
bắt chính Chúa Giê-su Ki-tô là Đấng mà các Ki-tô hữu tin
theo. Cũng có nghĩa là hễ ai đụng tới các Ki-tô hữu là đụng
tới chính Chúa Ki-tô.
- Tôi cũng được lôi cuốn và đánh động bởi quá trình thấy -
không thầy - (lại) thấy của Thánh Phao-lô. Có một sự khác
biệt vô cùng lớn lao và sâu sắc giữa cái thấy của Phao-lô
lúc trước khi gặp Chúa Ki-tô Phục Sinh và cái thấy sau khi
được Chúa mở mắt qua bàn tay của Kha-na-ni-a ! Có thể
nói lúc trước Phao-lô thấy rất giới hạn (Đạo cũ, Lề Luật,
sự tuân giữ nghiêm ngặt các điều khoản) và lúc sau Phao-
lô thấy rất nhiều và rất sâu rộng (Tình Yêu và Quyền Năng
của Thiên Chúa, Kế hoạch Cứu độ của Người, sự Vâng
Phục và Hạ Mình của Chúa Giê-su, Con Một Thiên Chúa,
Mầu Nhiệm Phục Sinh và Cứu Độ, v.v....) Để thấy được
như thế Phao-lô đã phải trải qua 3 ngày không thấy, không
ăn cũng chẳng uống như Chúa Giê-su đã trải qua 3 ngày
được mai táng trong mồ để được Chúa Cha làm cho trỗi
dậy.
25
Liên hệ với bản thân, tôi nghĩ rằng tôi cũng phải trải qua
một quá trình chết đi, từ bỏ, để được «thấy» tức được đổi
mới, được phục sinh.
- Tôi cũng được lôi cuốn và đánh động bởi lời Chúa Giê-su
nói với Phao-lô: «Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào thành,
và ngưòi ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì.» (câu
6) và bởi cuộc trao đổi giữa Chúa Giê-su và ông Kha-na-
ni-a “Trong một thị kiến, Chúa phán với ông : "Kha-na-ni-
a !" Ông thưa : "Dạ, lạy Chúa, con đây." 11 Chúa bảo
ông: "Đứng lên, đi tới phố gọi là Phố Thẳng, đến nhà Giu-
đa tìm một người tên là Sao-lô quê ở Tác-xô: người ấy
đang cầu nguyện 12 và thấy một người tên là Kha-na-ni-a
đi vào, đặt tay trên mình để làm cho mình lại thấy được."
13 Ông Kha-na-ni-a thưa: "Lạy Chúa, con đã nghe lắm kẻ
nói về người ấy, về tất cả những điều ác người ấy đã làm
cho dân thánh Chúa tại Giê-ru-sa-lem. 14 Còn ở đây,
người ấy được các thượng tế cho quyền bắt trói tất cả
những ai kêu cầu danh Chúa." 15 Nhưng Chúa phán với
ông : "Cứ đi, vì người ấy là lợi khí Ta chọn để mang danh
Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái
Ít-ra-en. 16 Thật vậy, chính Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy tất
cả những đau khổ người ấy phải chịu vì danh Ta." (câu 11-
16). Tôi hiểu là Thiên Chúa đã dùng Kha-na-ni-a để chỉ
cho Phao-lô biết ông phải làm gì. Thế có nghĩa là để tôi
gặp được Chúa, biết Chúa muốn gì ở tôi, tôi cần có người
hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ. Và có thêm nghĩa là Chúa
cũng dùng tôi làm người hướng dẫn, giúp đỡ một số người
tìm gặp Chúa.
26
4.5 Có nhiều lý do để cắt nghĩa tại sao Phao-lô tìm bắt
hay bách hại các Ki-tô hữu: Theo linh mục Nguyễn Khắc
Hy thuộc Hội Xuân Bích, giáo sư thần học ở Mỹ thì có
nhiều lý do giải thích tại sao Phao-lô tìm bắt hay bách hại
các Ki-tô hữu. Ngài giải thích như sau:
* Về phương diện chính trị (mà chính trị không thể tách
ra khỏi tôn giáo với nhiều người Do-thái thời đó), Phao-lô
tỏ ra yêu dân tộc Do-thái qua việc bảo vệ Do-thái giáo
chống lại ảnh hưởng của một giáo phái mới (là Ki-tô giáo)
chấp nhận sự có mặt của người ngoại (Ro-ma, Hy-lạp…)
sinh hoạt chung với người Do-thái. Phao-lô cũng như
những người yêu nước khác sợ rằng nếu nhiều người Ro-
ma theo giáo phái mới này, dần dà ảnh hưởng của Ki-tô sẽ
mạnh hơn, vì về chính trị người Ro-ma là những kẻ nắm
quyền đô hộ. Phao-lô, cũng như nhiều thanh niên nhiệt
thành Do Thái đương thời, đề cao gương sống anh hùng
của 3 vị: Pin-khát (cháu A-ha-ron), tiên tri E-li-a, và tư tế
Mat-tít-gia. Ba vị này ảnh hưởng đời sống Phao-lô cũng
như nhiều thanh niên đương thời.
Như những cha ông này, Phao-lô có lòng nhiệt thành với
Chúa Gia-vê, với dân It-ra-en, và với Luật Mô-sê.
4.6 Ý nghĩa của cuộc trở lại hay đổi đời của Thánh
Phao-lô
Cuộc trở lại của Thánh Phao-lô không thể được hiểu
theo nghĩa thông thường (mà nhiều giáo dân vẫn hiểu) là
Phao-lô bỏ cuộc sống ăn chơi sa đọa, tội lỗi và hoán cải trở
về với Chúa; mà theo nghĩa là Phao-lô từ một Pha-ri-siêu
sốt sáng, nhiệt thành đến độ bắt đạo đã trở thành một tín
hữu gương mẫu, một tông đồ nhiệt thành rao giảng chính
Đấng và Đạo mà ông bách hại các tín đồ lúc trước.
4.7 Tầm quan trọng của cuộc trở lại hay đổi đời của
Thánh Phao-lô
(a) Trước hết là đối với chính bản thân Thánh Phao-lô
vì nếu không có câu truyện này thì Phao-lô cũng chỉ là
một người vô danh hay cùng lắm sẽ chỉ được sử sách nhắc
tới như một Pha-ri-siêu thông minh tài giỏi và như một tên
bạo chúa bách hại người Ki-tô hữu thời kỳ đầu của Giáo
hội Công giáo Rô-ma. Nhưng nhờ cuộc gặp gỡ kỳ diệu với
Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh trên đường Đa-mát, Phao-lô
đã được biến đổi hoàn toàn, thành một vị đại thánh; một
tông đồ nhiệt thành rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại;
29
một thần học gia uyên thâm, sắc sảo; một mục tử hết lòng
vì đoàn chiên.
4.8 Cuộc trở lại hay đổi đời của Thánh Phao-lô cho
chúng ta những bài học sau đây
(a) Thiên Chúa đã có kế hoạch riêng và rất bất ngờ dành
cho Thánh Phao-lô. Thiên Chúa cũng có kế hoạch riêng
cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là mỗi người
chúng ta khám phá ra và vâng theo kế hoạch của Thiên
Chúa!
30
(b) Thiên Chúa là Đấng quyền năng và yêu thương
(không có việc gì là bất khả thi đối với Thiên Chúa) trong
việc tuyển chọn và biến đổi Thánh Phao-lô từ «thù» thành
«bạn». Sự kiện đó khiến mỗi người chúng ta vững tin vào
Thiên Chúa, dù chúng ta có yếu hèn, tội lỗi, bất hiếu, bất
trung đến thế nào chăng nữa.
4.9 Mối liên hệ giữa cuộc trở lại hay đổi đời của Thánh
Phao-lô và những cuộc trở lại hay đổi đời của chúng ta
Thánh Phao-lô đã được Chúa Ki-tô Phục Sinh biến đổi từ
một người bắt đạo thành một người truyền đạo. Bạn đã có
lần nào được Chúa biến đổi nhiều hoặc ít chưa? Bạn hãy
chia sẻ một cuộc biến đổi ấn tượng và đáng nhớ nhất.
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
...............................................................................................
31
Chia sẻ của người hướng dẫn
Cho đến ngày hôm nay, tôi đã có nhiều «cuộc đổi đời»
không làm sao quên được. Tôi xin chia sẻ về một trong
những «cuộc đổi đời» ấy:
Vào khoảng cuối năm 1975 tôi được giới thiệu vào làm
trong nhà máy Thuốc Lá Vĩnh Hội, Quận 4 Sàigòn. Nhưng
sau mấy năm, tôi bắt buộc phải xin nghỉ vì nạn «kỳ thị lý
lịch» trong giới lãnh đạo nhà máy. Tôi thấy mình bị oan ức
vì không được làm việc như người công dân bình thường
mà lại còn bị nghi kỵ nữa (tôi phải làm việc nhiều lần với
một nhân viên an ninh của chế độ, vì tôi là người vào làm
trong nhà máy sau 30.04.75). Tôi cảm nhận rằng những
người Công giáo như tôi không được đón nhận bởi những
người cộng sản nắm quyền cai trị đất nước.
Cũng vào thời gian ấy, tôi bị một số bạn bè, họ hàng, bề
trên nghi là người thân cộng, là đảng viên nằm vùng.
Tôi lâm vào cảnh bị hiểu lầm, bị nghi ngại và thậm chí bị
xa lánh và loại trừ từ cả hai phía: xã hội và giáo hội. Tôi
không biết đường nào mà đi, làm thế nào mà sống ! Có thể
nói là tôi rơi vào khủng hoảng tinh thần và tâm linh.
Vào lúc ấy tôi may mắn gặp được một cuốn sách rất hay có
tựa đề là DIEU CRUCIFIÉ (Thiên Chúa bị đóng đinh thập
giá) của ông Moltmann là một nhà thần học Tin Lành
người Đức nổi tiếng. Trong sách tác giả đã phân tích rất
sâu sắc ý nghĩa của việc Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa và
là Thiên Chúa bị đóng đinh thập giá để cứu chuộc nhân
loại. Từ đó tác giả rút ra những hệ luận cho đời sống người
Ki-tô hữu là môn đệ Chúa Giê-su là phải chịu chung một
số phận (bị hiểu lầm, bị vu khống, bị kết án, bị đánh đòn,
32
bị loại trừ và bị giết) như Chúa Ki-tô là Thầy và là Chúa
của mình!
Cuốn Sách «Thiên Chúa bị đóng đinh thập giá» đã đem lại
cho tôi ánh sáng và sức mạnh. Tôi hiểu rằng thân phận của
tôi với tư cách là một Ki-tô hữu thì phải là như vậy. Tôi
sung sướng hạnh phúc trong đau khổ, vì tôi được nên
giống Chúa hơn, điều mà tôi khao khát trong những năm ở
trong Chủng Viện và Dòng Tu (Tiểu Đệ Phúc Âm của
Chân Phước Charles de Foucauld). Dần dần tôi lấy lại
được sự bình an và lạc quan, tin tưởng.
Có thể xem đây là «cuộc trở lại» của tôi, trở lại theo hướng
chấp nhận thân phận của người môn đệ Chúa Giê-su Ki-tô
và con đường Thập Giá là con đường tôi phải đi, vì chính
Chúa Giê-su Ki-tô đã đi con đường ấy và mời gọi những ai
muốn theo Người đi theo con đường ấy! «Cuộc trở lại »
này chẳng những giúp tôi thoát khỏi cuộc khủng hoảng của
những năm 75-80 mà còn giúp tôi «kiên vững» trong cuộc
sống những năm sau này, thậm chí ngay cả ngày hôm nay.
Cuộc sống của tôi gặp rất nhiều khó khăn, hiểu lầm, nghi
kỵ, thành kiến, vu khống của những người xung quanh,
nhất là của bạn bè, bề trên.
33
chúng ta từ bỏ cuộc sống tầm thường, ích kỷ, thậm chí tội
lỗi để trở nên một con người khác: nhiệt thành, tích cực và
thánh thiện.
2°) Trong hành động tha thứ cho chúng ta và lôi kéo chúng
ta về với Người, Thiên Chúa luôn tôn trọng sự tự do, hợp
tác và đồng thuận của chúng ta.
3°) Nếu chúng ta đọc kỹ lịch sử của dân Ít-ra-en là Dân
Riêng của Thiên Chúa, thì chúng ta cũng khám phá ra một
kinh nghiệm tương tự: Dân phạm tội – Thiên Chúa kêu gọi
và trừng phạt – Dân sám hối – Thiên Chúa thứ tha – Dân
sống trong mối tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa và với
nhau – Dân lại sa ngã phản bội - Thiên Chúa kêu gọi và
trừng phạt – Dân sám hối – Thiên Chúa thứ tha – Dân sống
trong mối tương quan tốt đẹp với Thiên Chúa và với nhau.
- Vì thế các nhà tu đức hay tâm linh nói «Linh Đạo Ki-tô
giáo được xây dựng trên Ơn Trở Lại».
34
Xin ghi nhật ký để chuẩn bị chia sẻ vào lần học tới với các
anh chị em khác.
35
TINH THẦN CỦA THÁNH PHAO-LÔ mà liên tục hoán
cải và canh tân đời sống đức tin của chúng ta theo lời mời
gọi của chính Thiên Chúa. Chúng ta cùng dâng lời cầu
nguyện và cùng hát.
ĐK.- Xin chỉ cho con (xin chỉ cho con) đường đi của Chúa
(đường đi của Chúa). Xin dạy bảo con (xin dạy bảo con)
nước bước của Ngài (nước bước của Ngài). Xin hướng dẫn
con trong chân lý. Xin dạy bảo con những điều cao quý, vì
Chúa là Đấng cứu độ con, là Đấng ngày đêm con cậy
trông.
1. Tất cả đường nẻo Chúa là Tình Yêu và Chân Lý dành
cho những ai giữ trọn minh ước. Điều răn Chúa ra nghiêm
chỉnh thực thi.
36
2. Xin mở lượng từ bi từ ngàn xưa Ngài vẫn có, mà quên
hết những lỗi lầm con mắc, hồi niên thiếu vươn lên trong
dại thơ.
37
ĐỀ TÀI II
THỜI ĐẠI & TIỂU SỬ CỦA THÁNH PHAO-LÔ
38
II. CHIA SẺ KHÁM PHÁ / CẢM NGHIỆM / QUYẾT
TÂM / THAY ĐỔI LIÊN QUAN TỚI CUỘC TRỞ LẠI
HAY ĐỔI ĐỜI CỦA THÀNH PHAO-LÔ
Bạn muốn chia sẻ khám phá, cảm nghiệm, quyết tâm, hay
thay đổi gì mới hoặc muốn nêu ý kiến hay thắc mắc gì liên
quan tới đề tài I là cuộc trở lại hay đổi đời của Thánh
Phao-lô mà bạn đã học lần trước.
Xin mời bạn chia sẻ hay phát biểu.
3.2 Thời đại của Thánh Phao-lô có những đặc điểm gì?
3.5 Chúng ta có thể học được gì từ việc tìm hiểu thời đại
và tiểu sử của Thánh Phao-lô?
39
IV. HỌC HỎI
[Sách Thánh cần đọc: Cv 7,58; 8,1; 9,14.17; 13,1-14,28;
15,6-21,17; 22,3.7.13; 26,14; 1Cr4,12; 2Cr 6,3-10; 12,13;
Gl 1,15-16]
4.1 Muốn tìm hiểu về một con người nói chung, một vị
thánh nói riêng, chúng ta phải tìm hiểu về thời đại và tiểu
sử của con nguời hay của vị thánh ấy. Muốn tìm hiểu về
Thánh Phao-lô, một vị thánh nổi tiếng, chúng ta phải tìm
hiểu về thời đại và tiểu sử của Ngài.
4.2 Thời đại của Thánh Phao-lô: Đức Thánh Cha Bênê-
đictô XVI, trong Bài Huấn Đức của buổi triều yết chung
ngày thứ tư 2 tháng 7 năm 2008, cũng là bài Giáo lý thứ
nhất về Thánh Phao-lô mang tựa đề Thế Giới và Thời Đại
của Thánh Phao-lô đã phát biểu rằng: «Thánh Phao-lô đã
được diễn tả như một “người của ba nền văn hóa” kể cả
nguồn gốc Do-thái của ngài, ngôn ngữ Hy-lạp, và đặc
quyền công dân Rô-ma của ngài, như tên gọi gốc La-tinh
của ngài làm chứng.» Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI
nói thêm về Thánh Phao-lô như thề này: «Như chúng ta
biết, Thánh Phao-lô là một người Do-thái, và như thế là
một phần tử của một thiểu số về văn hóa trong Đế quốc
Rô-ma. Đồng thời ngài cũng nói tiếng Hy-lạp, ngôn ngữ
của nền văn hóa Hy-lạp rộng hơn, và là một công dân Rô-
ma. Việc rao giảng Đức Ki-tô Phục Sinh của Thánh Phao-
lô, trong khi đặt nền tảng trên Do-thái giáo, được đánh dấu
bằng viễn tượng phổ quát và được dễ dàng nhờ sự quen
thuộc của ngài với ba nền văn hóa. Như thế ngài có thể rút
ra từ sự phong phú tinh thần của nền triết học đương thời,
40
đặc biệt là trường phái Khắc Kỷ, trong khi rao giảng Tin
Mừng. Cuộc khủng hoảng của tôn giáo theo truyền thống
Hy-lạp – Rô-ma ở thời đại của Thánh Phao-lô cũng thuận
lợi cho một quan tâm lớn lao hơn về một cảm nghiệm cá
nhân về Thiên Chúa. Như chúng ta thấy trong bài giảng
của ngài trước Areopagus ở A-ten (x. Cv 17,22 tt), Thánh
Phao-lô đã có thể dựa vào những dòng tư tưởng này trong
bài trình bày Tin Mừng của ngài. Dựa vào khung cảnh văn
hóa rộng rãi này, Thánh Phao-lô đã khai triển các giáo
huấn của ngài, mà chúng ta sẽ khám phá trong các bài
Giáo Lý của Năm Thánh Phao-lô này.
Như vậy có thể nói là thời đại của Thánh Phao-lô có những
đặc điểm sau đây:
(a) Vê mặt chính trị thì đây là «thời của cơ cấu chính trị -
hành chánh của Đế quốc Rô-ma, là cơ cấu đảm bảo sự bình
an và yên ổn từ Anh quốc cho đến miền Nam Ai-cập,
thống nhất lãnh thổ với một chiều kích chưa từng thấy. Ở
không gian này, một người có thể đủ tự do và an toàn để di
chuyển, được hưởng giữa những tiện nghi khác là một hệ
thống đường xá ngoại hạng, và tìm thấy ở bất cứ nơi nào
mình đến những đặc tính văn hóa căn bản mà không
phương hại đến những giá trị địa phương, được tiêu biểu,
trong mọi trường hợp, một công trình thống nhất chung
“super partes,” đến nỗi triết gia Phi-lô người Do-thái ở A-
léc-xan-dri-a, đồng thời với Thánh Phao-lô, đã ca tụng
Hoàng Đế Au-gus-tô bởi vì ông “đã đem tất cả mọi dân
man rợ lại với nhau trong sự hòa hợp … trở thành một
người bảo vệ hòa bình” (Legatio to Caium, § § 146-147).
41
(b) Vê mặt văn hóa thì đây là thời đại của «nền văn hóa
Hy-lạp, hay đúng hơn là văn hóa cổ Hy-lạp (Hellenistic),
là nền văn hóa mà thời hậu A-léc-xan-der Đại Đế đã trở
thành di sản chung ít ra của vùng Đông Địa Trung Hải và
Trung Đông, mặc dù chính nền văn hóa này đã hội nhập
nhiều yếu tố của các nền văn hóa của những dân tộc được
truyền thống coi là man di», với kho tàng thần thoại vô
cùng phong phú (đa thần và mỗi thần có đền/miếu thờ và
cúng lễ khác nhau) và xu huớng tìm kiếm sự minh triết
(hiểu biết, khôn ngoan) và đề cao tài hùng biện trong khoa
ăn nói. Cũng trong bài Giáo lý thứ nhất về Thánh Phao-lô
với chủ đề «Thế Giới và Thời Đại của Thánh Phao-lô»
ngày 11.10.2008 vừa nhắc đến ở trên, Đức Thánh Cha Bê-
nê-đic-tô XVI, đã lưu ý rằng: «Chúng ta phải đặc biệt nhắc
đến triết thuyết Khắc Kỷ, là triết lý nổi bật trong thời
Thánh Phao-lô và cũng ảnh hưởng đến Ki-tô giáo, dù chỉ
một phần nào..... Chúng ta tìm thấy nơi các triết gia Khắc
Kỷ, những giá trị cao quý về đề tài nhân loại và sự khôn
ngoan, là những điều được Ki-tô giáo đón nhận một cách
tự nhiên. Như một học giả về đề tài này đã viết cách tuyệt
tác, “Thuyết Khắc Kỷ … công bố một ý tưởng mới, là ý
tưởng áp đặt trên con người nhiệm vụ đối với đồng loại,
đồng thời giải thoát họ khỏi tất cả mọi ràng buộc thể lý
cùng dân tộc và làm cho họ thành một thực thể tinh thần
thuần túy” (M. Pohlenz, La Stoa, I, Florence 2, 1978, pp.
565ff).»
(c) Còn vê mặt tôn giáo thì đây là thời khởi đầu của Ki-tô
giáo: Như chúng ta biết Thánh Phao-lô «xuất thân từ một
nền văn hóa rất đặc biệt và giới hạn, chắc chắn là thiểu số,
42
đó là nền văn hóa và truyền thống của dân Ít-ra-en. Trong
thế giới ngày xưa và nhất là ở trọng tâm của Đế quốc Rô-
ma, như các học giả cho chúng ta biết, thì có chừng 10%
tổng số dân chúng là người Do-thái. Vào đầu thế kỷ thứ
nhất tại thành Rô-ma này, tỷ lệ đó còn ít hơn, tối đa là 3%
dân số thành phố. Như vẫn còn xảy ra ngày nay, niềm tin
và cách sống của họ phân biệt họ cách rõ ràng với môi
trường chung quanh, và việc ấy có thể đưa đến hai hậu
quả: hoặc là bị chế diễu, có thể đi đến việc kỳ thị, hoặc
được thán phục, là điều được diễn tả dưới những hình thức
cảm thông khác nhau như trường hợp những dân ngoại
“kính sợ Thiên Chúa” hoặc “tòng giáo” liên hệ với hội
đường và chia sẻ đức tin vào Thiên Chúa của dân Ít-ra-en.
Cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi chính Thánh Phao-
lô cũng là người chịu hai cách đánh giá trái ngược nhau mà
tôi đã đề cập đến. Có một điều chắc chắn là tính cách đặc
thù của nền văn hóa và tôn giáo của Do-thái đã tìm được
chỗ đứng dễ dàng trong một thực thể có mặt khắp nơi như
là Đế Quốc Rô-ma. Chỗ đứng khó khăn và đau đớn hơn là
của một nhóm những người, Do-thái hay Dân Ngoại, là
những người tin chắc chắn vào con người Chúa Giê-su
thành Na-da-rét, đến độ họ trở nên khác biệt với cả đạo
Do-thái lẫn hình thức lương giáo thịnh hành.» (ĐTC Bê-
nê-đic-tô XVI, bài Giáo lý thứ nhất về Thánh Phao-lô
mang tựa đề «Thế Giới và Thời Đại của Thánh Phao-lô»
ngày 2.7.2008).
44
22,3). Ngài cũng học một nghề thủ công và phổ thông, là
đan lều (x. Cv 18,3), mà sau này giúp ngài tự lực cánh sinh
không thành gánh nặng cho Hội Thánh (x. Cv 20,34; 1 Cr
4,12; 2 Cr 12,13).»
Tiểu sử của Thánh Phao-lô một phần nào được biểu lộ qua
biểu đồ dưới đây:
Sự Kiện - Niên Biểu và Tác Phẩm có liên quan và của
Thánh Phao-lô:
Sự kiện Niên Biểu Tác
phẩm
Chúa Giê-su sinh ra 6 trước
CN
Phao-lô sinh ra 8 sau tại Tác-xô
CN
Gio-an Tẩy Giả rao giảng 27
Sứ vụ công khai của Chúa 28-30
Giê-su
Chúa Giê-su bị đóng đinh và 30
phục sinh
Stêphanô tử đạo. Các Ki-tô 33
hữu gốc Hy lạp và Do thái
bị bách hại.
Phao-lô trở lại, 3 năm ở Đa- 33 (36)
mát.
Phao-lô ở Tác-xô 37 (40)
Phao-lô với Bar-na-ba ở An- 45
ti-ốt
Hành trình truyền giáo I của 46-49
Phao-lô
45
Công đồng Giê-ru-sa-lem 49
51 1 Tx
Hành trình truyền giáo II 50-52
của Phao-lô
Hành trình truyền giáo III 54-58 54 Gl
của Phao-lô
55 1 Cr
56 Pl
56- 2 Cr
57
Phao-lô bị tù ở Xê-da-rê 58-60 58 Rm
Phao-lô đến Rô-ma 60-61
Phao-lô bị tù ở Rô-ma 61-63 62 Plm.
Cl
Phê-rô và Phao-lô tử đạo 64 (67) 64 Mc
trong cuộc bách hại của Nê-
rô ở Rô-ma
Chiến tranh giữa người Do 67-70 66- Gc ?
thái và Rô-ma 70
Đền thờ Giê-ru-sa-lem bị 70 70 Ep,
phá hủy 2 Tx,
Mt
85 (90) Lc/Cv,
Ga/Kh,
Cuộc bách hại của Đô-mi- 90-96 Thư Mv
xi-a-nô 2 Pr
Cuôc nổi dậy của người Do- 132-
thái dưới thời Bar Kochbah 135
Giê-ru-sa-lem bị phá bình 135
46
địa
47
Chúa: gian nan, khốn quẫn, lo âu, đòn vọt, tù tội, loạn ly,
nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực
kiên trì chịu đựng. Chúng tôi còn chứng tỏ điều đó bằng
cách ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu,
bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả
dối, bằng lời chân lý, bằng sức mạnh của Thiên Chúa.
Chúng tôi lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và tự vệ,
khi vinh cũng như khi nhục, lúc được tiếng tốt cũng như
khi mang tiếng xấu. Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực
chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ
thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết,
nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt,
nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền,
nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ; coi như nghèo túng,
nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu
có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất
cả.» (2 Cr 6,3-10).
(d) Một cuộc đời tận hiến cho việc truyền giáo được thể
hiện qua 3 hành trình truyền giáo: Theo sách Công Vụ
Tông Đồ, Thánh Phao-lô có 3 hành trình truyền giáo, thêm
vào đó, chuyến cuối cùng là bị giải từ Giê-ru-sa-lem về
Rô-ma để thụ án do chính quyền tố cáo.
- Hành trình thứ nhất (khoảng từ năm 45-49) được ghi lại
trong Công Vụ Tông Đồ 13,1 - 14,28. Phao-lô và Bar-na-
ba rời tàu từ An-ti-o-ki-a (vùng Sy-ri-a) qua Cy-rus, qua
Per-ga ở Pam-phi-li-a, qua An-ti-ô-ki-a (vùng Pi-si-di-a),
rồi đến I-co-ni-um, Lys-tra, và Der-be trong vùng Tiểu Á.
48
Sau đó Phao-lô dự Công Đồng Giê-su-ra-lem cùng với
Bar-na-ba và trở về lại An-ti-ô-ki-a (vùng Sy-ri-a).
- Hành trình thứ hai (khoảng năm 50-52) được ghi lại
trong Cv 15,6 – 18,22. Sau khi bất đồng ý kiến với Bar-na-
ba, Phao-lô chọn Si-lô làm người đồng hành truyền giáo.
Họ rao giảng khắp vùng Sy-ri-a, Xi-li-ci-a, Tiểu Á, qua
đến Phry-gi-a và Ga-lát. Tại Tro-a bên bờ Tiểu Á, Phao-lô
có thị kiến là được tàu đưa qua Ma-cê-do-ni-a. Từ đó,
Ngài theo đường bộ đến Phi-lip-phê, Thê-xa-lo-ni-ca, Be-
ro-e-a, A-then và Cô-rin-tô. Rồi theo tàu về Ê-phê-xô ở
Tiểu Á và vào Xê-da-rê và Giê-ru-sa-lem. Sau cùng các
Ngài về lại An-ti-ô-ki-a (vùng Sy-ri-a).
49
cu-se, Rhe-gi-ô và Ro-ma, nơi Phao-lô bị quản chế và bị
giết (Lm Mát-thêu Nguyễn Khắc Hy, S.S. «Sống Năm
Thánh Phao-lô - Bài 5: Những hành trình của Thánh Phao-
lô thế nào?»).
Một số học giả Thánh Kinh cho rằng tất cả 13 thư trên là
do Phao-lô viết hay những trợ tá trực tiếp viết. Nhưng phần
lớn các học giả Thánh kinh ngày nay tin rằng chỉ có 7 thư
do chính Phao-lô viết là: Ro-ma, 1 và 2 Cô-rin-tô, Ga-lát,
Phi-lip-phê, 1 Thê-xa-lô-ni-ca và Phi-lê-mon. Ngay cả
trong số 7 thư này cũng có những cộng sự viên cùng viết
với Ngài và tên của họ được liệt kê trong những lời giới
thiệu đầu thư như thư 1 và 2 Cô-rin-tô, Phi-lip-phê, 1 Thê-
xa-lô-ni-ca và Phi-lê-mon. Còn sáu thư còn lại (2 Thê-xa-
lô-ni-ca, Ê-phê-sô, Cô-lô-xê, 1 và 2 Ti-mô-thê và Ti-tô) là
đề tài tranh luận giữa những học giả Thánh Kinh về tác
quyền, và họ gọi những thư này là Thứ Kinh (Deutero-
Pauline letters).
Về thời gian, rất khó biết chính xác, nhưng các học giả sắp
xếp những thư như sau: 1 Thê-xa-lô-ni-ca chừng 50-51; 1
và 2 Cô-rin-tô chừng 54-55; Ga-lát chừng 54-55; Phi-líp-
phê chừng 56; Rô-ma chừng 57-58; Phi-lê-mon chừng 60-
50
61; 2 Thê-xa-lô-ni-ca, Cô-lô-sê và E-phê-sô chừng giữa
thập niên 80 (và nếu thật sự Phao-lô viết những thư này thì
có thể vào giữa những năm 50); 1 và 2 Ti-mô-thê và Ti-tô
chừng giữa 60-90 (và nếu thật sự Phao-lô viết thì có thể
đầu những năm 60).
Nhìn chung, tất cả 13 thư trên đều trình bày những giáo
huấn thống nhất của một Phao-lô cương nghị, dứt khoát và
nhiệt tình trong giảng dạy (Lm Mát-thêu Nguyễn Khắc Hy,
S.S. «Sống Năm Thánh Phao-lô - Bài 3: Phao-lô viết bao
nhiêu thư và khi nào?»)
53
Xin ghi nhật ký để chuẩn bị chia sẻ vào lần học tới với các
anh chị em khác.
54
sứ mạng cao trọng mà Người đã giao cho Thánh Phao-lô
và mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau cầu xin
Chúa ban cho chúng ta sức mạnh của Thánh Thần để thực
thi sứ mạng ấy.
55
Chúa nâng đỡ con, xin dâng lời cảm tạ. Cho đời con vững
một niềm tin, xin dâng lời cảm mến. Đôi bàn tay Chúa dẫn
con đi, xin dâng lời cảm tạ. Tay hồng ân Chúa đưa con về,
xin dâng lời cảm mến. Chúa cho con Trời mới Đất mới,
đường đời con (i) đổi mới. Con sẽ ca ngợi lòng thương xót
Chúa muôn muôn đời.
1. Đời đời Người đã thương con. Đời đời Người vẫn
thương con. Thương con như gà mẹ ủ ấp con dưới cánh.
Chúa thương yêu ấp ủ con đêm ngày.
ĐK 2: Xin chân thành cảm tạ tình thương Chúa thắng oan
khiên. Xin chân thành cảm mến tình thương Chúa thắng
nguy nan. Ca tụng danh Chúa bao lẫy lừng, xin chân thành
cảm tạ. Cho toàn dân sống trong tình thương, xin chân
thành cảm mến. Đôi bàn tay Chúa rất oai phong, xin chân
thành cảm tạ. Đôi bàn tay Chúa bao nhân lành, xin chân
thành cảm mến. Khắp muôn nơi bừng sức sống mới, người
người vui đổi mới. Muôn (i) tấm lòng cùng chung nhịp
sống trong thanh bình.
2. Nhiệm mầu tình Chúa sao siêu. Loài người được Chúa
nâng niu. Nâng niu tựa con ngươi trong mắt Chúa. Chúa
nâng niu gìn giữ luôn đêm ngày.
56
ĐỀ TÀI III
CÔNG CUỘC, CHIẾN THUẬT VÀ PHƯƠNG
THẾ TRUYỀN GIÁO CỦA THÁNH PHAO-LÔ
57
2. Sai tôi đến với người than khóc, sai tôi đến với người âu
sầu. Mang Tin Mừng an ủi: Thiên Chúa đã cứu tôi.
3.2 Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan Báo Tin Mừng có
tầm quan trọng như thế nào đối với Thánh Phao-lô?
58
1,17; 9,16-23; 2 Cr 1,19; 6,3-10; 10,12-18; 11, 22-29. 32-
33; 2 Tm 4,2; Rm 15,20; 1 Tx 1,1; 2,8-9]
“Về mặt lịch sử, bối cảnh của giáo đoàn Ga-lát mà Thánh
Phao-lô viết những lời này giúp ta hiểu hơn về vai trò
Tông Đồ Dân Ngoại của ngài. Trong chuyến hành trình
đến Ga-lát lần thứ hai, khi còn dừng chân ở Ê-phê-xô,
Thánh Phao-lô đã nghe biết một số người loan tin rằng
Phao-lô không phải là Tông Đồ, và sứ mạng ngài rao giảng
không được Chúa Ki-tô hay các Tông đồ trao phó (Gl
1,1.7.12). Hơn nữa, Phao-lô rao giảng ngụy tin mừng
(không là Tin Mừng thật) (Gl 1,7) vì ông cho phép những
người theo Ki-tô giáo không cần phải giữ luật Mô-sê, như
không giữ những ngày lễ ghi trong lịch Do-thái và không
chịu cắt bì chẳng hạn (Gl 4,10; 6,12). Nhiều người còn vu
cáo ngài là người “đón gió trở cờ” hay theo cơ hội, vì có
59
lúc ngài chấp nhận phép cắt bì cho tân tòng (Gl 5,11), nay
thì dạy là không cần cắt bì để nhằm có thêm nhiều tân tòng
gia nhập đạo. Những tin đồn và vu cáo này là nguyên nhân
khiến Thánh Phao-lô viết thư khẳng định giáo huấn thần
học Ngài dạy và vai trò Tông Đồ Dân Ngoại của mình.
“Trước hết, với những người Do-thái trung thành với luật
Mô-sê mà nay tin theo Chúa Ki-tô, Thánh Phao-lô tôn
trọng những luật lệ họ giữ, và nêu rõ là Thánh Phê-rô được
sai đến với họ, “những người chịu cắt bì này” (Gl 2,7-8).
Với những người ngoại (không chịu cắt bì như người Hy-
lạp, Ro-ma, Ai-cập…), Thánh Phao-lô rao giảng rằng họ
không cần phải chịu cắt bì hay giữ tất cả luật Mô-sê khi tin
theo Đức Giê-su Ki-tô. Quyết định này không là ý kiến cá
nhân Thánh Phao-lô mà là kết quả của Công Đồng Giê-ru-
sa-lem trong đó Thánh Gia-cô-bê, Giám mục Giê-ru-sa-
lem, thay mặt các Tông Đồ công bố (Cv 15,1-21).
“Vì thế Thánh Phao-lô đã phản bác những tuyên truyền sai
lạc của những người mà ngài gọi là “kẻ phá rối” (Gl 1,7),
và khẳng định rằng ngài chính là Tông Đồ, được sai bởi
Thiên Chúa, và Tin Mừng ngài rao giảng được Thiên Chúa
mặc khải qua Đức Giê-su Ki-tô (Gl 1,1.12). Và với tính
khẳng khái, Thánh Phao-lô công bố rằng Tin Mừng ngài
nhận là từ Thiên Chúa chứ không phải từ loài người. Do
đó, nếu có ai đến rao giảng những gì nghịch lại với Tin
Mừng ngài dạy, ngay cả các Tông Đồ hay các Thiên Thần
từ trời xuống, Thánh Phao-lô cảnh báo giáo dân không
được tin theo” (Gl 1,8-9).
60
4.2 Tầm quan trọng của Công Cuộc Truyền Giáo hay
Loan Báo Tin Mừng đối với Thánh Phao-lô
Muốn hiểu Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan Báo Tin
Mừng quan trọng như thế nào đối với Thánh Phao-lô, thì
chúng ta cần nêu lên một số điểm sau đây:
(a) Trước hết là động lực thúc đẩy Thánh Phao-lô lao
mình vào Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan Báo Tin
Mừng là lòng mến Chúa yêu ngưòi.
* Trước hết là tình yêu nồng nàn đối với Chúa Giê-su Ki-
tô Phục Sinh, Đấng đã “chộp bắt” ngài trên đường Đa-mát.
Linh mục Giu-se Linh Tiến Khải, trong đề tài II: Cuộc gặp
gỡ đổi đời của Thánh Phao-lô với Chúa Ki-tô Phục Sinh đã
viết về tâm hồn Thánh Phao-lô như sau: “Sau cuộc gặp gỡ
đổi đời với Chúa Ki-tô phục sinh, Phao-lô say mê Chúa
Ki-tô chịu đóng đanh tới độ ông không còn trông thấy gì
khác ngoài Chúa Ki-tô. Phao-lô coi tất cả mọi sự trên trần
gian này là một mất mát và nhận chịu mất mát mọi sự, kể
cả mạng sống mình, miễn là có thể đem mọi người về với
Chúa Ki-tô (Pl 3,8-9). Nghĩa là Phao-lô đổi hướng đời
mình 180 độ: từ chỗ tự mãn tưởng mình toàn năng, có thể
tự cứu rỗi qua những gì mình làm, tới chỗ nhận rằng mình
tùy thuộc và tín thác hoàn toàn nơi Chúa Ki-tô; từ thái độ
tuân giữ luật lệ như nô lệ tới thái độ vâng phục của lòng
tin.”
(b) Thứ đến là lòng yêu người. Trong Tông huấn “Loan
Báo Tin Mừng” - Evangelii Nuntiandi - (số 79) được ban
hành năm 1975, Đức Thánh Cha Phao-lô VI nói về tâm
hồn của Thánh Phao-lô như sau: “Mẫu gương Truyền Giáo
61
là Tông Đồ Phao-lô đã viết những lời này trong thư gửi tín
hữu Thê-xa-lô-ni-ca, và cũng là chương trình cho tất cả
chúng ta: «Chúng tôi đã yêu mến anh em tha thiết, đến nỗi
sẵn sàng chia sẻ với anh em, không những chỉ Tin Mừng
của Thiên Chúa, mà cả chính mình chúng tôi, vì anh em đã
trở nên rất thân yêu đối với chúng tôi’ (1 Tx 2,8). Tình yêu
này là gì? Tình yêu ấy phải hơn tình yêu của một vị thầy;
đó là tình yêu của một người cha; và cũng là tình yêu của
một người mẹ. Đó chính là tình yêu mà Chúa mong mỏi
nơi mỗi người rao giảng Tin Mừng, nơi mỗi người xây
dựng Giáo Hội. Một dấu hiệu của tình yêu là quan tâm
ban phát chân lý và đưa người ta đến hợp nhất. Một dấu
hiệu khác của tình yêu là một lòng tận tụy rao giảng Đức
Chúa Giê-su Ki-tô, mà không hạn chế hay quay đầu trở
lại.»
Vì yêu mến Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh và yêu thương
con người mãnh liệt như vậy nên Thánh Phao-lô dành
trọn cuộc đời mình cho Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan
Báo Tin Mừng. Chính Thánh Phao-lô đã khẳng định quan
điểm, lập trường và chọn lựa của ngài như sau:
- “Thật ra Chúa Ki-tô không gửi tôi đi rửa tội, nhưng là để
loan báo Tin Mừng” (1 Cr 1,17);
- “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr
9,16);
- “Hãy rao giảng Lời Chúa! hãy lên tiếng, lúc thuận tiện
cũng như lúc không thuận tiện!” (2 Tm 4,2).
(c) Cũng xuất phát từ tình yêu ấy đối với Chúa Giê-su Ki-
tô mà Thánh Phao-lô đã thực hiện 3 Hành Trình Truyền
62
Giáo phi thường. Ngoài những gì chúng ta đã đọc được
trong đề tài II, chúng ta nên đọc thêm những gì linh mục
Giu-se Linh Tiến Khải viết trong Đề Tài III về Thánh
Phao-lô, nhà Truyền Giáo thời danh của Giáo Hội Ki-tô
tiên khởi như sau:
“Có thể chia hoạt động truyền giáo của Phao-lô thành ba
giai đoạn chính:
Giai đoạn thứ nhất khá tối tăm, bắt đầu từ lúc hoán cải
cho tới lúc gia nhập cộng đoàn An-ti-ô-ki-a bên Sy-ri-a.
Giai đoạn thứ hai bao gồm các hoạt động rao giảng Tin
Mừng tại An-ti-ô-ki-a, cứ điểm truyền giáo đầu tiên, nơi
Phao-lô đã trở thành nhân vật nổi bật, và sau đó được cộng
đoàn đề cử đem Tin Mừng tới cho các anh chị em ngoài
Do-thái giáo.
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn truyền giáo độc lập. Phao-lô
bôn ba ngang dọc, giảng đạo trong vùng Tiểu Á và bên
Hy-lạp, thành lập nhiều cộng đoàn Ki-tô đia phương. Đặc
biệt trong giai đoạn này Phao-lô trở thành một nhân vật rất
có uy tín trong các giáo đoàn nói tiếng Hy-lạp, và hoàn
toàn độc lập đối với truyền thống văn hóa và tôn giáo Do-
thái.
“Chúng ta có ít tin tức liên quan tới giai đoạn truyền giáo
thứ nhất. Sách Tông Đồ Công vụ chương 9 cho biết sau
cuộc gặp gỡ đổi đời với Chúa Ki-tô Phục Sinh trên đường
tới Đa-mát, Phao-lô bị mù mắt và được các người đồng
hành dẫn vào thành. Chúa Ki-tô sai Kha-na-ni-a, một Ki-tô
hữu của cộng đoàn Ki-tô Đa-mát, tới gặp Phao-lô để đặt
tay cho ông sáng mắt. Phao-lô được tràn đầy Chúa Thánh
63
Thần và lãnh nhận phép rửa tội, rồi lưu lại với các Ki-tô
hữu Đa-mát vài ngày.
“Sau đó Phao-lô bắt đầu công khai rao giảng Chúa Ki-tô
Phục Sinh trong các hội đường Do-thái tại Đa-mát và vùng
đông nam Đa-mát (Gl 1,17). Phao-lô trưng dẫn các lý
chứng vững vàng cho thấy Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế,
khiến cho người Do-thái tức giận lập mưu hạ sát ông. Họ
cho người canh giữ cửa thành nghiêm ngặt. Nhưng đang
đêm các Ki-tô hữu có nhà xây trên tường thành giúp Phao-
lô trốn thoát, bằng cách bỏ Phao-lô vào thúng và thòng
xuống bên ngoài tường thành. Sau này thánh nhân cũng
nhắc lại các chống đối gặp phải và lần chết hụt thứ nhất
này trong chương 11,32-33 thư thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-
tô.
“Từ Đa-mát Phao-lô về Giê-ru-sa-lem và lưu lại đây một
thời gian ngắn để làm quen với Kê-pha, tức Phê-rô, rồi sau
đó sang Sy-ri-a và Xi-li-ci-a, miền nam Thổ Nhĩ Kỳ ngày
nay, như thánh nhân viết trong thư gửi tín hữu Ga-lát
(1,21). Vài nét chấm phá ấy tóm gọn các sinh hoạt của 15
năm trời kể từ biến cố bị đánh ngã trên đường đi Đa-mát.
Sách Tông đồ Công Vụ cũng không thêm chi tiết nào mới
mẻ.
“Tuy nhiên cả hai tài liệu đều cho biết Phao-lô đã gặp khó
khăn trong cố gắng làm quen và sát nhập vào cộng đoàn.
Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem chẳng những không quen biết
Phao-lô mà còn tỏ ra nghi ngờ đối với ông (Gl 1,22; Cv
9,26-30). Qua đó chúng ta có thể kết luận rằng Phao-lô đã
không gặt hái nhiều thành công trong thời gian hoạt động
này.
64
“Giai đoạn truyền giáo thứ hai có nhiều tin tức hơn.
Chương 11 sách Công Vụ cho biết Bar-na-ba, là nhân vật
nổi bật của Ki-tô giáo thời khai sinh, đã giới thiệu Phao-lô
với giáo đoàn An-ti-ô-ki-a bên Sy-ri-a (Cv 11,25). An-ti-ô-
ki-a là thủ phủ của vùng này và là thành phố lớn vào hàng
thứ ba của Đế quốc Ro-ma thời đó, nghĩa là chỉ sau Ro-ma
và A-léc-xan-dri-a bên Ai-cập.
“Trong lịch sử Giáo Hội và lịch sử truyền giáo, An-ti-ô-ki-
a có địa vị quan trọng và ý nghĩa, vì là cứ điểm truyền giáo
rộng lớn đầu tiên, nơi các môn đệ chọn làm bản doanh cho
công tác rao truyền Tin Mừng cho dân ngoại (Cv 11,19 tt.),
và cũng là nơi lần đầu tiên các môn đệ Chúa Giê-su được
gọi là Ki-tô hữu (Cv 11,26). Giáo đoàn An-ti-ô-ki-a là giáo
đoàn hỗn hợp gồm các Ki-tô hữu gốc Do-thái và không Do
thái. Phao-lô đã hoạt động tại đây trong vòng một năm (Cv
11,26), và được giáo đoàn sai phái cùng với Bar-na-ba đi
truyền giáo tại đảo Xýp và các vùng đông nam của Tiểu Á,
như trình thuật trong hai chương 13-14 sách Công Vụ.
“Qua chương 2 thư gửi tín hữu Ga-lát chúng ta biết được
rằng Phao-lô cộng tác với Bar-na-ba, là thành phần của
cộng đoàn Ki-tô An-ti-ô-ki-a và gặt hái thành quả tốt trong
công tác rao truyền Tin Mừng cho các anh chị em ngoài
Do-thái giáo. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau nảy sinh ra một
vấn nạn trầm trọng liên quan tới việc gia nhập đạo của các
người ngoài Do-thái giáo. Để trở thành Ki-tô hữu họ phải
theo các điều kiện nào: chấp nhận tin vào Chúa Giê-su và
Tin Mừng của Ngài là đủ, hay phải tuân giữ luật cắt bì của
Do-thái giáo nữa?
65
“Phao-lô không phải là người đầu tiên khai mào công tác
truyền giáo trong thế giới không Do-thái. Trước ông đã có
một nhóm các Ki-tô hữu gốc Do-thái nói tiếng Hy-lạp rao
giảng Tin Mừng và thành lập cộng đoàn An-ti-ô-ki-a.
Nhưng khi từ một thói quen mục vụ truyền giáo bước sang
việc thảo luận trên bình diện thần học, tức liên quan tới
nguyên tắc do nhóm bảo thủ gồm các Ki-tô hữu gốc Do-
thái đặt ra, Phao-lô đã tỏ ra là người có hành động sáng
suốt và trung thực nhất theo tinh thần Tin Mừng giải phóng
của Chúa Ki-tô.
“Phao-lô bênh vực sự tự do của các anh chị em ngoài Do -
thái đối với luật lệ của Do-thái giáo, mà các Ki-tô hữu gốc
Do-thái vẫn tuân giữ. Cuộc tranh luận đã sôi nổi tới độ giới
lãnh đạo Giáo Hội đã phải triệu tập hội nghị tại Giê-ru-sa-
lem để thảo luận và nghiên cứu vấn đề, như trình thuật
trong chương 15 sách Công Vụ, và trong chương 2 thư gửi
tín hữu Ga-lát. Hội nghị Giê-ru-sa-lem đã là Công Đồng
Chung đầu tiên trong lịch sử Ki-tô giáo.
“Bar-na-ba và Phao-lô cùng với hai nhân vật khác của giáo
đoàn An-ti-ô-ki-a đại diện cho phe cởi mở của cộng đoàn
này tham dự Công Đồng. Sau khi nghe Bar-na-ba và Phao-
lô trình bày và thảo luận phải trái trong Công Cồng, giới
lãnh đạo Giáo Hội Ki-tô tiên khởi đã chấp nhận nguyên tắc
tự do của các Ki-tô hữu ngoài Do-thái. Hàng lãnh đạo cộng
đoàn Ki-tô Giê-ru-sa-lem thỏa thuận với phái đoàn đại diện
giáo đoàn An-ti-ô-ki-a, và phân chia công tác truyền giáo.
“Trong Gl 2,9 Thánh Phao-lô viết: “... sau khi thừa nhận
đặc sủng mà Thiên Chúa đã trao phó cho tôi, Gia-cô-bê,
Kê-pha và Gio-an đã giơ tay phải bắt tay tôi tỏ tình liên đới
66
để chúng tôi đi truyền giáo cho dân ngoại còn họ đi truyền
giáo cho các anh chị em được cắt bì”, tức tín hữu Do-thái.
“Sau vụ đụng độ công khai với Thánh Phê-rô ở An-ti-ô-ki-
a (Gl 2), Phao-lô tách rời, không đi truyền giáo với Bar-na-
ba nữa, mà hoạt động một cách độc lập với giáo đoàn An-
ti-ô-ki-a. Phao-lô trở thành tông đồ của Chúa Ki-tô, và
không phải tường trình với ai về công tác truyền giáo của
mình, như thánh nhân viết trong 1 Cr 4,4.”
(d) Hơn nữa Thánh Phao-lô chấp nhận mọi hy sinh, gian
khổ vì Chúa Giê-su Ki-tô và vì các giáo đoàn. Không gì
tốt hơn là chúng ta đọc/nghe những lời giãi bày và tổng kết
của chính Thánh Phao-lô:
- “Phần chúng tôi, chúng tôi chẳng làm gì gây cớ cho ai
vấp phạm, để không người nào có thể đàm tiếu về công
việc phục vụ của chúng tôi. Trái lại, trong mọi sự, chúng
tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của Thiên
Chúa: gian nan, khốn quẫn, lo âu, đòn vọt, tù tội, loạn ly,
nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực
kiên trì chịu đựng. Chúng tôi còn chứng tỏ điều đó bằng
cách ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu,
bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả
dối, bằng lời chân lý, bằng sức mạnh của Thiên Chúa.
Chúng tôi lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và tự vệ,
khi vinh cũng như khi nhục, lúc được tiếng tốt cũng như
khi mang tiếng xấu. Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực
chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ
thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết,
67
nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt,
nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền,
nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ; coi như nghèo túng,
nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu
có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất
cả.” (2 Cr 6,3-10).
- «Họ là người Híp-ri ư? Tôi cũng vậy! Họ là người Ít-ra-
en ư? Tôi cũng vậy! Họ là dòng giống Áp-ra-ham ư? Tôi
cũng vậy! Họ là người phục vụ Đức Ki-tô ư? Tôi nói như
người điên: tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó,
hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần suýt
chết. Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt
một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị
đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi
còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp
bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy
hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở
thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do
những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt
nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn
uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều
khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm
lo cho tất cả các Hội Thánh! Có ai yếu đuối mà tôi lại
không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại
không cảm thấy lòng sôi lên? » (2 Cr 11,22-29).
(e) Sau cùng là cái chết làm chứng cho Tin Mừng tại Ro-
ma (xem lại ở đề tài II).
68
4.3 Chiến thuật và phương thế Truyền Giáo của Thánh
Phao-lô
(a) Chiến thuật Truyền Giáo của Thánh Phao-lô
Trong Đề Tài IV trình bày về Chiến thuật Truyền Giáo của
Thánh Phao-lô linh mục Giu-se Linh Tiến Khải cho rằng
Thánh Phao-lô đã dùng những chiến thuật Truyền Giáo sau
đây:
- Thứ nhất là Thánh Phao-lô chọn một thành phố lớn làm
cứ điểm chính, rồi từ đó rao truyền Tin Mừng cho các
vùng chung quanh. Điển hình là trường hợp thành Cô-rin-
tô, nơi thánh nhân đã lưu lại truyền giáo từ năm 49 tới 52,
và đặc biệt là Ê-phê-xô trong chuyến truyền giáo thứ hai
giữa các năm 53 tới 57.
69
thứ 5 tới giờ thứ 10, tức từ 11 giờ sáng cho tới 16 giờ
chiều, là giờ trường ốc rảnh rỗi, vì dân chúng ăn trưa và
nghỉ trưa.
- Thứ bốn là tuy nhu cầu loan báo Tin Mừng Nước Trời
khắp nơi cấp bách, Thánh Phao-lô đã không vội vã bỏ nơi
này sang nơi khác. Trái lại, ngài dừng lại lâu trong thành
phố này hay thành phố nọ, để củng cố cộng đoàn Ki-tô đã
được thành lập ở đó và giúp cộng đoàn trưởng thành và tự
lập chừng nào có thể.
- Thứ năm là dù công tác rao truyền Tin Mừng chắc chắn
đã tốn kém không ít - vì Thánh Phao-lô phải thanh toán chi
phí di chuyển, thuê phòng ốc để giảng dậy và tụ tập các tín
hữu, cũng như cung cấp phương tiện sống cho chính mình
và các cộng sự viên,- Thánh Phao-lô sống theo nguyên tắc
“tự lực cánh sinh” hay “tay làm hàm nhai” (1 Tx 2,9 và 1
Cr 9,18).
70
tín nhất phải kể tới Si-la hay Sil-va-nô, Ti-mô-thê và Ti-tô.
Dĩ nhiên Thánh Phao-lô luôn là người lãnh đạo và phối trí
công tác truyền giảng Tin Mừng, nhưng thánh nhân rất trân
trọng và quý mến các cộng sự viên của mình. Đó là lý do
giải thích tại sao khi kể lại cho tín hữu nghe công tác
truyền giáo Thánh Phao-lô dùng từ “chúng tôi” số nhiều
(1 Tx 1,1; 2 Cr 1,19).
Đó chính là sáu (6) chiến thuật Truyền Giáo của Thánh
Phao-lô mà chúng ta cần học tập.
71
người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên
tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số
người. 3 Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để
cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.» (1 Cr
9,19-23)
7°) Viết Thư cho các cộng đoàn và cá nhân. Thư tín là một
hình thức tông đồ mục vụ (xem lại trong đề tài II).
8°) Các chuyến đi (hay hành trình) Truyền Giáo (xem lại ở
trên).
72
5.2 Mỗi chúng ta cần rèn luyện và cầu xin Ơn Trên để
- Có
1°) Một đời sống nội tâm sâu sắc, gắn bó mật thiết với
Chúa Giê-su Ki-tô.
2°) Một tình yêu nồng nàn đối với Chúa Giê-su Ki-tô Phục
Sinh và với tha nhân, nhất là với những người chưa biết
Chúa.
3°) Một tấm lòng cởi mở, dễ bảo dễ dậy đối với Chúa
Thánh Thần.
- Trở thành
1°) Một tông đồ nhiệt thành và có khả năng.
2°) Một chiến sĩ Phúc âm chấp nhận hy sinh, gian khổ, mất
mát vì Phúc Âm và lợi ích các linh hồn.
3°) Một tôi tớ phục vụ cộng đoàn và cán bộ giáo dân
guơng mẫu, theo tinh thần của Chúa Ki-tô và của Thánh
Phao-lô!
73
2) Trong giáo huấn về Chúa Giê-su Ki-tô, Thánh Phao-lô
nhấn mạnh những nét nào nhất? Tại sao?
3) Thánh Phao-lô nêu gương gì cho chúng ta về mối quan
hệ của ngài với Chúa Giê-su Ki-tô?
4) Chúng ta phải làm gì để tiếp nối công việc của Thánh
Phao-lô là làm cho Chúa Giê-su Ki-tô được nhận biết và
yêu mến bởi những người sống chung quanh chúng ta?
74
Hợp ý và hợp lời ca chúng ta cùng cầu nguyện và cùng hát
bài Chứng Nhân Tình Yêu.
75
chân tình, để tình người mãi còn xanh ngát hương như hoa
xuân trên cành.
76
ĐỀ TÀI IV
CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ THEO
GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ
77
1. Chúa ghi vào hồn con dấu ấn của ngài. Chúa đi vào đời
con êm ái tuyệt vời. Mấy cung đàn tơ tấu lên trìu mến.
Khúc ca cuộc đời con thơm ngát hương trời.
ĐK: Hồng ân Chúa tràn trề tháng năm, tay con nhỏ bé đón
sao cho vừa. Hồng ân Chúa vô biên vô tận, tim con nhỏ bé
nhưng hãy còn vơi.
2. Ôi ân huệ tình yêu cao quý khôn lường. Chúa dắt dìu
con đi qua tháng năm trường. Sớt chia buồn vui ủi an phù
giúp. Dẫu con là tôi tớ tây trắng khôn cùng.
3. Xin cho đời con như cây sáo của Ngài. Chúa gieo vào
giai khúc thanh khiết muôn đời. Chúa cho đầy vơi mát tươi
cuộc sống. Khi tay Ngài âu yếm ngay ngất tâm hồn
3.4 Chúng ta phải làm gì để tiếp nối công việc của Thánh
Phao-lô là làm cho Chúa Giê-su Ki-tô được nhận biết và
yêu mến bởi những người sống chung quanh chúng ta?
79
Cả cuộc đời Thánh Phao-lô sau khi trở lại là Chúa Ki-tô:
“Tôi sống nhưng không còn là tôi sống nữa, mà Chúa
Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 19b-20). Đối với Thánh Phao-
lô, Chúa Ki-tô là người mang lại ơn cứu độ cho chúng ta
qua việc tha thứ tội lỗi bởi ân sủng phong phú của Ngài:
“Trong Ngài chúng ta được ơn cứu độ, được tha thứ tội lỗi
theo sự phong phú ân sủng Ngài đổ xuống trên chúng ta.”
(Ep 1,7-8). Do đó, như Thánh Phao-lô, cả cuộc đời chúng
ta phải là một lời rao giảng Phúc âm, rao giảng Đức Ki-tô
là Chúa và là Đấng cứu độ.
Ngày nay cũng có những người học rộng biết nhiều điều
cao cả về Chúa Ki-tô, nhưng Chúa Ki-tô đã không ảnh
hưởng gì vào cuộc đời họ.
80
Trái lại nhiều người chất phác không biết những chi tiết
cao siêu ấy, nhưng họ lại biết Chúa Ki-tô với tất cả con
tim, và chân lý của Người đi vào cuộc đời họ, tác động
họ, biến đổi họ và hướng dẫn họ (x. 1 Tx 2,13). Thánh
Phao-lô thật sự biết Chúa Ki-tô theo cách ấy, biết thật sự
con người và chân lý của Chúa Ki-tô trước, rồi dần dần
học biết thêm các chi tiết về Người, nhờ đó ngài say yêu
Người, rao giảng về Người và sống chết cho Người. Thánh
Phao-lô đã học được những chi tiết về Chúa Ki-tô từ các
Tông Đồ trước ngài, từ Hội Thánh Sơ Khai, và nhất là
được chính Chúa mạc khải cho.
Qua các thư của ngài, Thánh Phao-lô tỏ ra biết chắc chắn
về cuộc sống, lời nói, cái chết và sự phục sinh của Chúa
Giê-su, nhưng không như những gì thuộc về quá khứ, mà
là những biến cố thực tại của một con người vẫn còn đang
sống. Những lời nói và hành động của Chúa Giê-su đối với
Thánh Phao-lô luôn luôn là hiện tại.
Phải, Chúa Giê-su hiện vẫn đang sống, đang nói với chúng
ta, và hướng dẫn chúng ta. Đó là cách biết đích thực về
Chúa Giê-su, không phải như một người trong quá khứ,
nhưng là Chúa đang ở với chúng ta, đang đồng hành với
chúng ta, đang chỉ cho chúng ta biết phải sống thế nào, làm
việc thế nào, yêu thương thế nào, chịu đau khổ thế nào, tha
thứ làm sao, vượt lên thử thách và khủng hoảng làm sao để
tái định hướng, tiếp tục và tiến lên trong đời sống ơn gọi
và sứ vụ của chúng ta.
81
4.3 Chúa Ki-tô là A-đam mới : Đối với Thánh Phao-lô,
Chúa Ki-tô là A-đam mới của thời cánh chung (1 Cr
15,45): A-đam cũ đầu tiên vì kiêu ngạo muốn bằng Thiên
Chúa mà phạm tội khiến nhân loại phải chết, còn A-đam
cuối cùng tự hủy chính mình, mang lấy thân phận tôi đòi,
trở nên giống người phàm, hạ mình vâng lời cho đến chết
và chết trên thập giá (Pl 2,6-8), để trở nên căn nguyên cứu
rỗi đời đời cho những ai tin.
Bởi hành động bất tuân của mình, A-đam cũ đã mang lại
cái chết. Chúa Giê-su, A-đam mới, cũng bởi hành động
vâng phục của mình, đã tiêu diệt sự chết và mang lại sự
sống (1 Cr 15,54-55). Quả thế, “Do sự bất tuân của một
người (A-đam) mà nhiều người thành tội, thì do sự vâng
phục của một người (Chúa Ki-tô) mà nhiều người được
nên công chính” (Rm 5,19).
Thánh Phao-lô dạy rằng Chúa Ki-tô trở nên người phàm để
hóa giải mối bất hòa do tội A-đam đã gây nên giữa Thiên
Chúa và con người, và cũng do chính tội riêng của chúng
ta nữa. Nhờ cái chết và phục sinh của Người, Chúa Giê-su
mang lại ơn cứu độ cho chúng ta qua việc gánh lấy tội
chúng ta: “Vì chúng ta, Thiên Chúa đã làm cho Ðấng
82
không hề biết tội là gì thành tội, để chúng ta được trở nên
sự công chính của Thiên Chúa trong Người” (2 Cr 5,21).
Chớ gì trót cả cuộc đời chúng ta trở thành lời rao giảng
Chúa Ki-tô, bằng chứng tá cuộc sống và việc làm hằng
ngày của chúng ta, trong mọi hoàn cảnh và biến cố của
cuộc đời, dù được vui mừng hay phải buồn phiền, dù thành
công hay thất bại, dù được cảm thông hay bị hiểu lầm, dù
cảm thấy hạnh phúc hay phải đau khổ:
83
5.2 Noi gương bắt chước Thánh Phao-lô, chúng ta hãy nỗ
lực hết khả năng của mình, để làm cho những người chung
quanh nhìn nhận và tôn thờ Chúa Giê-su Ki-tô như chúng
ta.
84
VII. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC
7.1 Gợi ý của người hướng dẫn
Chúng ta vừa tìm hiểu giáo huấn của Thánh Phao-lô về
Chúa Giê-su Ki-tô là
- Đấng mà ngài đã gặp trên đường Đa-mát và đã sống thân
mật trong những giờ phút cầu nguyện chiêm niệm ;
- Đấng mà ngài đã rao giảng không biết mệt mỏi để làm
cho người ta đón nhận yêu mến và tôn thờ Người, vì
Người là Thiên Chúa Ngôi Hai làm người.
Chớ gì mỗi anh chị em chúng ta xây đắp một tương quan
mật thiết với Đấng đã chết và đã phục sinh vinh hiển và
hiện đang sống trong tâm hồn và cuộc đời chúng ta để
chúng ta càng ngày càng thuộc về Người và nên giống
Người.
Chúng ta cùng nhau dâng lên Người những tâm tình yêu
mến của chúng ta.
85
để lòng con được trống rỗng cho Chúa đổ đầy.
Xin cho con được chết đi chính mình,
để con chỉ sống vì Chúa.
Xin hãy dùng con như Ý Ngài.
Xin giúp con đừng chú ý tới bản thân mình,
mà chỉ muốn hành động như có Chúa đang ở trong con.
Lạy Chúa, con là của Chúa,
con muốn được sống trong Chúa.
Con muốn làm theo Thánh Ý Chúa.
Xin ban cho con sức mạnh để gạt bỏ thế gian ra ngoài
và để chính Chúa hoạt động trong con.
Xin làm cho con nên mạnh mẽ để con thoát khỏi sức mạnh
của ma quỷ hằng làm cho con sao lãng công việc của
Chúa.
Ngay khi con lo lắng là lúc con thôi nhìn Chúa mà nhìn
vào chính mình.
Xin đừng để con muốn người khác phải vội biến đổi,
nhưng là chính con cần phải thay đổi những gì Chúa đã tỏ
cho con biết.
Con thờ lạy Chúa, con yêu mến Chúa.
Ngay giờ phút này xin Chúa hãy đến và ngự vào lòng con.
Amen.
86
khắp thế giới cho mọi người, Ngài đã chết trong đau
thương để ta sống bình an.
PK 1: Còn tình yêu nào cao vời vợi bằng tình Chúa đã
thương ta. Dù rằng đất trời mãi đổi thay, nhưng tình Chúa
vẫn yêu ta đến muôn muôn đời.
PK 2: Ngài hằng mong chờ luôn mời gọi người người sống
yêu thương nhau. Để tình yêu Ngài mãi tràn lan trong tình
chúng ta yêu nhau sống vui an bình.
87
ĐỀ TÀI V
GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ
VỀ HỘI THÁNH
88
vẹn ngàn tiếng hát đầy vơi. Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời.
Lời Ngài hạnh phúc cho đời con.
2. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài gọi con trong cuộc
sống. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài từng theo bước
đời con. Xin cho con biết sẵn sàng chờ đợi và vâng nghe
theo Chúa. Xin cho con biết sẵn sàng thực hành Lời Chúa
đã truyền ban.
II. CHIA SẺ KHÁM PHÁ / CẢM NGHIỆM / QUYẾT
TÂM / THAY ĐỔI LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI IV LÀ
CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ THEO GIÁO HUẤN CỦA
THÁNH PHAO-LÔ
Bạn muốn chia sẻ khám phá, cảm nghiệm, quyết tâm hay
thay đổi gì mới hoặc muốn nêu ý kiến hay thắc mắc gì liên
quan tới Đề Tài IV về Chúa Giê-su Ki-tô theo giáo huấn
của Thánh Phao-lô mà bạn đã học lần trước, xin mời bạn
chia sẻ hay phát biểu.
4.1 Không chỉ là người rao giảng Tin Mừng, Thánh Phao-
lô còn là một bậc thầy chuyên về công việc dậy dỗ,
khuyên nhủ, chỉ bảo các Ki-tô hữu, với những Giáo
Huấn vừa sâu sắc vừa hợp thời. Đó chính là điều đáng
chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu và học hỏi về Thánh Phao-
lô, sau khi chúng ta đã biết qua về cuộc trở lại hay đổi đời
diệu kỳ và về thân thế sự nghiệp lẫy lừng của ngài. Thật
vậy, Thánh Phao-lô đã đóng góp rất lớn cho Ki-tô giáo
trong việc đào sâu và trình bày Giáo Lý Đức Tin. Do đó,
sau khi chúng ta đã tìm hiểu Đức Giê-su Ki-tô theo giáo
huấn của Thánh Phao-lô (trong đề tài III), thì chúng ta
không thể không tìm hiểu về các giáo huấn khác của ngài.
Trong các Giáo huấn của Thánh Phao-lô thì chúng ta nên
đặc biệt quan tâm đến một số Giáo huấn quan trọng và cần
thiết cho đời sống Đức Tin ngày hôm nay, như:
- Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Hội Thánh: Hội Thánh
là Hội Thánh của Thiên Chúa và Hội Thánh là Thân Thể
Chúa Ki-tô,
- Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Thánh Thần,
- Giáo huấn của Thánh Phao-lô về các ơn huệ của Thần
Khí hay đặc sủng,
- Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Thánh Thể,
- Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Đức Ái,
90
- Giáo huấn của Thánh Phao-lô về sự Phục Sinh của Chúa
Giê-su và sự sống lại của loài người,
- Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Thân Xác và về Hôn
Nhân Gia Đình,
- Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Ơn trở nên Công Chính,
Trong các Giáo huấn quan trọng nêu trên của Thánh Phao-
lô, trước tiên chúng ta hãy tìm hiểu Giáo huấn về Hội
Thánh: Hội Thánh là Hội Thánh của Thiên Chúa và Hội
Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô.
(a’) Bối cảnh của Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Hội
Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô là sự chia rẽ, bè phái xẩy
ra trong cộng đoàn Ki-tô hữu Cô-rin-tô mà Thánh Phao-lô
nghe biết từ người nhà của bà Khơ-lô-ê:
“12 Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như:
"Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông A-pô-lô, tôi
thuộc về ông Kê-pha, tôi thuộc về Đức Ki-tô." 13 Thế ra
Đức Ki-tô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải Phao-lô đã
91
chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em
đã chịu phép rửa nhân danh Phao-lô sao?” (1 Cr 1,12-13).
(b) Nội dung của Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Hội
Thánh gồm 2 nội dung đáng chúng ta lưu ý. Thứ nhất là
Thánh Phao-lô luôn xem Hội Thánh ở bất cứ địa phương
nào là Hội Thánh của Thiên Chúa. Thứ hai là Thánh
Phao-lô quan niệm và trình bày Hội Thánh là Thân Thể
Chúa Ki-tô.
- Giải thích chữ Hội Thánh của Thiên Chúa, nhà chú
giải William Barclay viết những dòng như sau: «Phao-lô
nói về Hội Thánh Chúa tại Cô-rin-tô. Đây không phải là
Hội Thánh của Cô-rin-tô mà là Hội Thánh của Thiên Chúa.
Theo Phao-lô, một cộng đoàn riêng lẻ dầu bất cứ ở đâu vẫn
92
là một thành phần thuộc Hội Thánh duy nhất của Thiên
Chúa. Ông không muốn nói về Hội Thánh của một xứ nào,
một quốc gia nào, cũng không đặt tên cho một Hội Thánh
bằng tên của địa phương đó. Với Phao-lô Hội Thánh là Hội
Thánh của Chúa. Nếu nghĩ về Hội Thánh như vậy, chắc
chúng ta sẽ nhớ lại Hội Thánh như là một thực tại kết hợp,
thống nhất chúng ta với nhau nhiều hơn và sẽ bớt nhìn thấy
những dị biệt có tính địa phương vẫn hay chia rẽ chúng ta»
(William Barclay, Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, NXB Tôn
giáo 2008, trang 5).
93
«18 Nhưng Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ
trong thân thể như ý Người muốn. 19 Giả như tất cả chỉ là
một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể được? 20
Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. 21 Vậy
mắt không có thể bảo tay: "Tao không cần đến mày"; đầu
cũng không thể bảo hai chân: "Tao không cần chúng
mày".
«22 Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là
cần thiết nhất; 23 và những bộ phận ta coi là tầm thường
nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ phận kém trang
nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. 24 Còn
những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng
Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để
bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. 25 Như thế,
không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo
lắng cho nhau. 26 Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ
phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì
mọi bộ phận cũng vui chung.
«27 Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi
người là một bộ phận. 28 Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã
đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các
ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được
ơn làm phép lạ, được những đặc sủng để chữa bệnh, để
giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói các thứ tiếng lạ. 29
Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng là ngôn sứ,
ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm
phép lạ, 30 ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai
cũng nói được các tiếng lạ, ai cũng giải thích được các
94
tiếng lạ sao? 31 Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em
cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi
xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.» (1 Cr
12,12-31).
95
- Cũng như một chi thể nào của thân thể bị đau thì sẽ khiến
cả thân thể bị đau, một Ki-tô nào của Hội Thánh không
mạnh khỏe sẽ làm cả Hội Thánh phải yếu đau;
- Cũng như tất cả mọi chi thể của một thân thể đều được
nuôi dưỡng bằng một dòng máu xuất phát từ trái tim, tất cả
các Ki-tô hữu của Hội Thánh đều được nuôi sống bằng
Dòng Máu Tình Yêu và Ân Sủng xuất phát từ chính Thiên
Chúa, Cha Con và Thánh Thần;
- Cũng như tất cả mọi chi thể của một thân thể đều phải
tuân theo mệnh lệnh của cái đầu là cơ quan chỉ huy, tất cả
các Ki-tô hữu của Hội Thánh đều phải thực thi mệnh lệnh
của Chúa Giê-su Ki-tô là đầu Hội Thánh và của các mục tử
hợp pháp và có năng quyền lãnh đạo Dân Chúa.
5.2 Sống mối tuơng quan ngày càng hiệp thông, đoàn kết,
liên đới, bổ trợ, tôn trọng sự khác biệt... hơn, đối với các
anh chị em Ki-tô hữu xung quanh, vì mọi người là chi thể
của nhau.
96
5.3 Sống đạo đức, thánh thiện để đóng góp vào sự lành
mạnh và thánh thiện của Thân Thể Chúa Ki-tô là Hội
Thánh.
Nếu Ngài muốn dậy dỗ một đứa trẻ, Ngài tìm một thầy
giáo để dậy bảo nó.
Nếu muốn chữa lành một người bệnh, Ngài tìm một bác sĩ
hay một nhà giải phẫu để làm công việc đó cho Ngài.
Nếu Ngài muốn kể lại một câu chuyện về mình, Ngài phải
tìm một người để kể.
97
Ngài không có chân, chỉ có đôi chân của chúng ta
Để dẫn người ta theo đường lối Ngài.
98
3) Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Thánh Thần phải được
các Ki-tô hữu sống như thế nào?
99
Chúng con còn được cha ban Thánh Thần là Đấng sẽ giúp
chúng con sống kết hiệp mật thiết với Cha và hiệp thông
sâu xa với anh chị em cùng niềm tin.
Xin cho chúng con nên một trong Tình Yêu Cha!
100
ĐỀ TÀI VI
GIÁO HUẤN CỦA
THÁNH PHAO-LÔ VỀ THÁNH THẦN
101
PK 1: Chúa hỡi! Khấn xin ngự đến đổ tuôn muôn ơn phù
giúp chúng con. Xin thương soi dẫn nhân tâm nương theo
Thần Khí bước trong bình an.
PK 2 : Hãy đến! Thánh Linh từ ái suối ơn mát trong là
Đấng ủi an. Xin thương nâng đỡ ủi an con chiên lạc hướng
khổ đau lầm than.
PK 3: Hỡi Đấng chí công quyền phép thấu xuyên tâm tư
hồn xác chúng con. Xin thương tuyên án khoan dung ai
nương tựa Chúa biết luôn cậy tin.
102
IV. HỌC HỎI
[Sách Thánh cần đọc: Rm 1,4; 15,13.18-19; 1 Cr 2,4-5;
Ep 3,16; 1 Tx 1, 4-5; 2 Tx 1,7 ]
4.1 Sau Giáo huấn về Hội Thánh là Hội Thánh của Thiên
Chúa và Hội Thánh là Thân Mình Chúa Ki-tô, chúng ta
nên tìm hiểu một giáo huấn quan trọng và sâu sắc khác
của Thánh Phao-lô: Đó là giáo huấn về Chúa Thánh Thần
là Ngôi Ba Thiên Chúa.
4.2 Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Thánh Thần cần được
chúng ta tìm hiểu cho đến nơi đến chốn, vì Chúa Thánh
Thần đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống Hội
Thánh cũng như trong đời sống Đức Tin của mỗi người tín
hữu.
Đọc cuộc đời và các hoạt động Thánh Phao-lô, chúng ta
không thể không thấy dáng dấp, chân dung của Chúa
Thánh Thần. Riêng trong các Thư Thánh Phao-lô cho
chúng ta thấy rõ hơn vai trò của Chúa Thánh Thần trong
đời sống các Ki-tô hữu.
103
2 Tx là thư đệ nhị Phao-lô bị đặt vấn đề về tác giả, chúng
ta không dùng đến (vì chỉ muốn làm việc trên những bản
văn chắc chắn của Phao-lô), thì còn 1 Tx 1,5; 1 Cr 2,4-5 và
Rm 15,19 theo thứ tự thời gian soạn thảo các thư. Vậy
chúng ta hãy tập trung vào ba bản văn này để tìm hiểu mầu
nhiệm Thánh Thần theo kinh nghiệm của Phao-lô.
104
khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích
cho anh em.»
Cho dù ngay từ đầu Phao-lô bày tỏ niềm vui khi thấy các
tín hữu không những gắn bó với Tin Mừng, mà còn có một
đời sống gương mẫu (1,2-3), giọng điệu của ông trong cc 4
và 5 là giọng trấn an: eidotes (“vì [chúng tôi] biết”) (c4),
hoti (“vì”) (c5). Cũng như toàn thể bức thư, câu nói ở đây
của Phao-lô nhằm khuyến khích, khẳng định, củng cố các
ki-tô hữu (x 3,2), bởi vì đức tin của họ còn non trẻ mà kẻ
thù thì hùng mạnh (2,14). Phao-lô đang làm công việc
paraklêsis, an ủi và khuyến khích (như ở 2,3.12, xem thêm
4,18; 5,11). Tuy nhiên, việc khuyến khích này không chỉ
mang tính luân lý suống, nhưng quy chiếu về công trình
cứu độ (như Phao-lô cũng sẽ làm cho người Cô-rin-tô: 1
Cr 2,1-5 và cho người Ga-lát Gl 3,1-6).
105
(c) Kết luận
Kinh nghiệm về Thánh Thần là một kinh nghiệm đức tin,
nghĩa là không thể đưa ra cho các khoa học gia phân tích.
Đó là một kinh nghiệm chỉ dành cho những ai tin, một điều
được sống chỉ hiểu được trong đức tin và cho đức tin. Và
bởi vì là một kinh nghiệm đức tin, kinh nghiệm về Thánh
Thần này luôn luôn là một việc phân định, một việc nhận
biết mội sự hiện diện đang hoạt động mà không lệ thuộc
con người. Ý thức về chính kinh nghiệm Thánh Thần luôn
luôn là hoa trái của việc đọc trong đức tin các biến cố đã
qua. Biến cố thô trở thành biến cố mang ơn cứu độ của
Thiên Chúa, “hiển ngự”. Đọc với đức tin trong cầu nguyện
hoặc trong suy gẫm, thầy biến cố biến thành một cuộc hiển
linh thực sự của Chúa Thánh Thần, Phao-lô đã cố gắng
diễn tả điều đã xẩy ra trong thời gian và cho biết phải hiểu
như thế nào. Ở đây điều ông nhận ra và khẳng định đầu
tiên về pneuma là phải xác định như là dynamis. Đây là
một sự kiện trung tâm trong kinh nghiệm của Thánh Tông
Đồ về Thánh Thần.
106
«4 Tôi nói (ho logos mou), tôi giảng (to kêrygma mou) mà
chẳng dùng lời lẽ khôn khéo (en sophias logois) hấp dẫn,
nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và
quyền năng (en apodeixei pneumatos kai dynameôs). 5 Có
vậy (hina, “để”, nghĩa hậu quả) đức tin của anh em (hê
pistis hymôn) mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người
phàm (en sophia anthrôpôn), nhưng dựa vào quyền năng
Thiên Chúa (en dymamei theou).”
Dân Cô-rin-tô đã đi đến chỗ giảm thiểu Tin Mừng vào
hàng một xác tín tôn giáo, chắc chắn là đặc biệt, nhưng chỉ
được coi như thuộc bình diện sự khôn ngoan thế gian. Họ
đảo ngược quan hệ nguyên thủy Thiên Chúa - con người
thành con người - Thiên Chúa (2,5), để rồi phê phán các
nhà rao giảng như phê phán các nhà hùng biện hoặc các
triết gia, có giá trị tùy tài thuyết phục.
Khi viết cho người Cô-rin-tô, theo thói quen (1 Tx 1,5; Gl
3,1tt) Phao-lô mời các người nhận thư trở về nguồn. Bằng
cách nhắc lại cho họ nhớ cách thức biến cố lời cứu độ đã
đến với họ, ông nói lên lời chứng không những về cách
thức ông quan niệm thừa tác vụ của ông, nhưng còn cả
cách thức ông hiểu biến cố Lời, trên đó xây dựng đức tin
của một cộng đoàn. Đây là một minh chứng về Thánh
Thần và quyền năng, chứ không phải thuyết phục về khôn
ngoan, hầu cho đức tin được đặt không phải trên sự khôn
ngoan loài người, nhưng trên quyền năng của Thiên Chúa
(2,4-5). Kinh nghiệm ở Thê-xa-lô-ni-ca đã hướng dẫn
Phao-lô ghi nhận kinh nghiệm ở Cô-rin-tô: vẫn là Thánh
Thần và quyền năng.
107
(b) Phân tích 1 Cr 2,4-5
* Tôi nói, tôi giàng
* Quyền năng
108
bởi vì cộng đoàn Rôma không do ông sáng lập, ông phải
chuẩn bị miền đất bằng cách viết một bức thư cho họ (R,
15.14).
Thế là với tâm hồn thanh thản, Phao-lô tổng kết một chút
những năm đã qua. Thư Rm ở tại ngã ba đường nơi tư
tưởng và công việc của ông hòa trộn rất hài hòa với nhau,
vì ở đây ông không phải sửa chữa các tệ đoan hoặc tự vệ
chống lại đối thủ nào. Tuy vậy, kinh nghiệm đầu đời tông
đồ, «Thánh Thần là quyền năng», được ghi nhận trong thư
1 Tx vẫn theo Phao-lô cho tới bản văn về cuối đời là Thư
Rm. Bản văn trong đó Phao-lô ghi lại kinh nghiệm về
Thánh Thần như sau :
«18 Thật thế, tôi đâu dám nhắc đến chuyện nào khác, ngoài
những gì Đức Ki-tô đã dùng tôi mà thực hiện (kateir-
gasato) để đưa các dân ngoại về vâng phục, thực hiện
bằng lời nói việc làm (logộ kai ergộ), 19 bằng sức mạnh
của những dấu lạ điềm thiêng (en dynamei sêmeiôn kai
teratôn), bằng quyền năng của Thánh Thần (en dynamei
pneumatos). Như vậy, từ Giê-ru-sa-lem, đi vòng đến tận
miền Ilyri, tôi đã làm tròn (peplêrôkenai) sứ mạng loan
báo Tin Mừng Đức Ki-tô.»
Bản văn này nằm trong phần kết thư nói về các dự định về
các cuộc hành trình (15,14-33). Một lần nữa, Phao-lô biện
minh cho việc ông viết cho người Rô-ma bằng cách nhắc
họ nhớ rằng ông là tông đồ của Đức Giê-su Ki-tô (15,16),
rồi trình bày cách ông hiểu thừa tác vụ của ông (15,17-21).
Đoạn văn trên không thuộc phần giáo lý, nhưng ta dễ dàng
ghi nhận rằng ở đây củng như ở 1 Tx 1,5 và 1 Cr 2,1-5,
Phao-lô đi quá phần tường thuật về những sự kiện. Ông
109
đặc biệt nêu bật cách thức ông hiểu và giải thích hoạt động
tông đồ của ông bằng cách đặt hoạt động này trong công
trình của Thiên Chúa (15,17), và mời chúng ta nhận ra ở
đó tính cách qui Kitô và vai trò của Thánh Thần (15.19).
Ghi chú : Theo cách kết cấu văn chương của Phao-lô, có
thể quy quyền năng của Thánh Thần (en dymamei
pneumatos) cho lời nói (logộ) và sức mạnh của những dấu
lạ điềm thiêng (en dynamei sê meiôn kai teratôn) cho việc
làm (ergộ): đây là phép chuyển hoán hay đối xứng
(chiasm) như sau:
a- logộ (lời nói)
b- ergộ (việc làm)
b’- en dynamei sêmeiôn kai teratôn (sức mạnh của
những dấu lạ điềm thiêng)
a’- en dynamei pneumatos (quyền năng của Thánh Thần)
110
* tôi đã làm tròn (peplêrôkenai) sứ mạng loan báo Tin
Mừng Đức Ki-tô.
5.2 Thường xuyên cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng
hướng dẫn trong mọi tình huống của cuộc sống hằng ngày,
để có được đời sống Ki-tô hữu trưởng thành, xác tín và dấn
thân cho công cuộc xây dựng cộng đoàn Hội Thánh và mở
mang Nước Trời.
5.3 Thường xuyên cầu xin Chúa Thánh Thần canh tân
Cộng đoàn Hội Thánh và Thế Giới để Nước Thiên Chúa
hiển trị.
111
Xin ghi nhật ký để chuẩn bị chia sẻ vào lần học tới với các
anh chị em khác.
112
Lạy Chúa Thánh Thẩn, tình yêu hằng hữu của Chúa Cha
và Chúa Con, xin đoái thương ban cho con:
Hoa quả Bác Ái, giúp con kết hợp với Chúa qua
tình yêu.
Hoa quả Hoan Lạc, đổ đầy trên con niềm an ủi chí
thành.
Hoa quả Bình An, nẩy sinh trong con một tâm hồn
yên tịnh.
Hoa quả Nhẫn Nại, cho phép con chịu đựng cách
khiêm nhường mọi trái ngược với ước muốn của
riêng con.
Hoa quả Nhân Hậu, hướng dẫn con đáp ứng nhu
cầu thiếu thốn của tha nhân.
Hoa quả Từ Tâm, làm cho con có lòng nhân từ đối
với mọi người.
Hoa quả Khoan Dung, giúp con biết quan tâm đến
những người bị bỏ rơi.
Hoa quả Hiền Hòa, làm lắng dịu những cơn bốc
đồng giận dữ trong con; chận đứng những sự cằn
nhằn, đè nén, những phản ứng quá độ trong mối
quan hệ với tha nhân.
Hoa quả Trung Tín, cho con nên bình tĩnh, thành
thật, trung thành giống Chúa.
Hoa quả Khiêm Tốn, giúp con chỉnh đốn cách cư
xử bên ngoài của con.
Hoa quả Tiết Độ và hoa quả Trong Sạch giữ gìn
thân xác con xứng đáng đền thờ của Chúa.
Lạy Chúa, xin gìn giữ trái tim con được tinh tuyền nơi trần
113
gian này, để qua Chúa Giêsu con đáng được nhìn thấy
Thiên Chúa của con muôn đời trong vinh quang. Amen.
3. Sai tôi đến với người đau yếu, sai tôi đến với người thất
vọng. Mang Tin Mừng Chân Lý: Thiên Chúa đã cứu tôi.
114
ĐỀ TÀI VII
GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ
VỀ CÁC ÂN HUỆ CỦA THẦN KHÍ
HAY ĐẶC SỦNG
2. Người sẽ ghi trong trái tim chính lề luật tình mến Chúa
truyền ban.
3. Người đốt lên trong trái tim ánh lửa hồng bừng cháy của
niềm tin.
4. Nguyện Chúa ban cho chúng con chính thần lực dìu dắt
giữa trần gian.
3.2 Giáo huấn của Thánh Phao-lô về các ân huệ của Thần
Khí hay đặc sủng phải được chúng ta hiểu như thế nào?
116
3.3 Giáo huấn của Thánh Phao-lô về các ân huệ của Thần
Khí hay đặc sủng phải được chúng ta sống như thế nào?
4.1 Gắn liền với giáo huấn về Thánh Thần, Thánh Phao-lô
có giáo huấn về các ân huệ của Thánh Thần hay đặc sủng.
Các đặc sủng của Thánh Thần làm cho Hội Thánh Chúa
Ki-tô trở nên dồi dào, phong phú, duyên dáng và mỹ miều,
như tân nương chờ đón lang quân là chính Chúa Ki-tô.
117
(2°) Bản văn của Thánh Phao-lô về các ân huệ của
Thần Khí hay đặc sủng
“1 Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết
gì về các ân huệ thiêng liêng. 2 Anh em biết rằng khi còn là
người ngoại, anh em bị lôi cuốn mãnh liệt vào việc thờ
cúng các ngẫu tượng câm. 3 Vì thế, tôi nói cho anh em
biết: chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại
nói: "Giê-su là đồ khốn kiếp!"; cũng không ai có thể nói
rằng : "Đức Giê-su là Chúa", nếu người ấy không ở trong
Thần Khí.
[Đặc sủng tuy nhiều, nhưng chung một gốc]
4 Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần
Khí. 5 Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một
Chúa. 6 Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có
một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. 7 Thần Khí
tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. 8
Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng
dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình
bày. 9 Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin ; kẻ thì cũng
được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng
để chữa bệnh. 10 Người thì được ơn làm phép lạ, người thì
được ơn nói tiên tri ; kẻ thì được ơn phân định thần khí ;
kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ ; kẻ khác nữa lại
được ơn giải thích các tiếng lạ. 11 Nhưng chính Thần Khí
duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho
mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người” (1 Cr 12,1-11).
118
(a) Tất cả các đặc sủng đều đến từ Thiên Chúa.
(b) Trong bảng liệt kê các đặc sủng Thánh Phao-lô sắp xếp
theo thứ tự quan trọng:
- trước hết là “lời nói khôn ngoan” và “lời nói có tri thức”
[khôn ngoan là sự hiểu biết về những việc thuộc về con
người và thần linh, cùng các nguyên nhân của chúng;
tri thức là sự hiểu biết phải làm gì trong một hoàn cảnh
nhất định nào đó]
- kế đến là lòng tin,
- rồi tới các ân sủng chữa bệnh (phép lạ),
- các đặc sủng ngôn sứ,
- các đặc sủng phân định Thần Khí và
- cuối cùng là các đặc sủng nói tiếng lạ.
5.2 Phát huy các đặc sủng mà mỗi người đã lãnh nhận
“cách nhưng không” do tình thương và lòng quảng đại của
Thiên Chúa bắng cách đem ra phục vụ cộng đoàn Hội
Thánh.
5.3 Tha thiết cầu xin Chúa Thánh Thần ban nhiều ân huệ
của Người, nhất là đức ái, cho các tín hữu.
119
VI. CHUẨN BỊ ĐỀ TÀI VIII: GIÁO HUẤN CỦA
THÁNH PHAO-LÔ VỀ ĐỨC ÁI
6.1 Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Nhờ đề tài VII về giáo huấn của Thánh Phao-lô về các ôn
huệ của Thần Khí hay đặc sủng bạn có khám phá, cảm
nghiệm, quyết tâm hay thay đổi gì mới?
Xin ghi nhật ký để chuẩn bị chia sẻ vào lần học tới với các
anh chị em khác.
120
Chúng ta cũng hãy tha thiết khẩn cầu xin Chúa ban thêm
nhiều ân huệ của Thánh Thần cho Hội Thánh Việt Nam để
Hội Thánh Việt Nam được canh tân đổi mới cách mạnh mẽ
hầu làm vinh danh Chúa và đem nhiều linh hồn về với
Chúa.
1. Xin đến dạy con cho được biết Chúa Cha yêu dấu.
Biết Đấng Cứu Thế chính là Đức Giêsu Kitô.
2. Đến kết giao ước cho làm con Chúa Cha nhân ái.
121
Cho tâm hồn con biết kêu khấn Danh Cha miệt mài.
3. Xin đến tẩy rửa, cho hồn xác con được đổi mới.
Chúa chính nguồn ánh sáng, soi chiếu con trên đường đời.
4. Xin đến bênh đỡ cho được sống vui mừng hạnh phúc.
Cho con từ giã sống bình an trong uy quyền Ngài.
5. Xin quy tụ hết muôn dân nước cho thành hội thánh.
Nên thân mình Chúa sống kiên vững tin yêu một lòng.
6. Xin đến thêm sức cho con sống chiêm nhận luôn mãi.
Đi khắp mọi nơi rao truyền Chúa Giêsu tuyệt vời.
122
ĐỀ TÀI VIII
GIÁO HUẤN CỦA
THÁNH PHAO-LÔ VỀ ĐỨC ÁI
123
1. Nài xin tha thiết Thượng đế muôn tình lân ái. Xin hãy
đổ đầy linh hồn tình yêu thiết tha. Yêu Chúa hết lòng, hết
sức, hết cả trí khôn. Cùng yêu anh em như Chúa mến yêu
chúng con.
2. Nguyện xin Thiên Chúa đoàn kết muôn người một ý.
Xin hãy duy trì trí lòng hòa hợp mến yêu. Diệt tan căm thù,
chia rẽ, oán hờn, ghét ghen. Gìn giữ Đức Ái: yêu Chúa
mến thương anh em.
II. CHIA SẺ KHÁM PHÁ / CẢM NGHIỆM / QUYẾT
TÂM / THAY ĐỔI LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI VII VỀ
GIÁO HUẤN CỦA CÁC ƠN HUỆ CỦA THẦN KHÍ
HAY ĐẶC SỦNG
Bạn muốn chia sẻ khám phá, cảm nghiệm, quyết tâm hay
thay đổi gì mới hoặc muốn nêu ý kiến hay thắc mắc gì liên
quan tới đề tài VII là giáo huấn của Thánh Phao-lô về các
ân huệ của Thần Khí hay đặc sủng mà bạn đã học lần
trước, xin mời bạn chia sẻ hay phát biểu.
124
IV. HỌC HỎI
[Sách Thánh cần đọc: Ga 13,34-35; 1 Cr 13,1-13]
125
thì tôi cũng chẳng là gì. 3 Giả như tôi có đem hết gia tài cơ
nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu
đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. 4
Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương,
không vênh vang, không tự đắc, 5 không làm điều bất
chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận
thù, 6 không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy
điều chân thật. 7 Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả,
hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. 8 Đức mến không bao giờ
mất được. Ơn nói tiên tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các
tiếng lạ chăng ? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết ư ? Rồi cũng
chẳng còn. 9 Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên
tri cũng có hạn. 10 Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có
hạn sẽ biến đi. 11 Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói
năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ
con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả
những gì là trẻ con. 12 Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như
trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây
giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết
hết, như Thiên Chúa biết tôi. 13 Hiện nay đức tin, đức cậy,
đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức
mến” (1 Cr 13,1-13).
126
nghiên cứu, chúng ta cũng chưa thể khám phá hết được…
Không có chương nào trong cả Kinh Thánh đòi hỏi con
người thánh thiện phải tự xét mình cho bằng 1 Cr 13 này.»
(3/1) Trong các câu 1-3, Phao-lô bắt đầu bằng lời tuyên
bố: dầu con người được bất cứ loại ân huệ nào, nhưng ân
huệ ấy sẽ vô dụng nếu không có tình yêu thương đi kèm.
(a) Ân huệ nói các thứ tiếng
rất đáng được mong muốn, nhưng chẳng hơn gì tiếng ồn ào
(trống, kèn) nếu không có tình yêu thương.
(b) Ơn nói tiên tri
tương ứng gần gũi với ơn giảng dậy.
(c) Ơn trí thức
Cơ nguy thường trực của người nổi tiếng về tri thức là lòng
hiếu danh. Người học thức thường gặp nguy cơ trầm trọng
là nuôi dưỡng tinh thần khinh dể người khác. Chỉ có sự
hiểu biết có lửa tình yêu mới thật sự cứu người.
(d) Một đức tin thành khẩn, nhiệt tình
lắm lúc đức tin có thể trở thành tàn nhẫn.
(e) Làm việc bố thí, phân phát gia tài
cho kẻ nghèo. Trên đời này không gì đáng xấu hổ hơn là
làm phước mà không có tình thương. Bố thí như một bổn
phận gây khó chịu, bố thí với thái độ khinh bỉ, như một kẻ
đứng trên cao ném xuống một chút của thừa cho một con
chó, bố thí kèm theo bài diễn thuyết về đạo đức, luân lý,
thì hoàn toàn không phải là làm việc thiện – đó là sự kiệu
ngạo, mà kiêu ngạo bao giờ cũng tàn nhẫn, vì kẻ kiêu ngạo
chẳng có chút yêu thương.
127
f) Nộp thân xác để chịu đốt
Có thể Phao-lô nghĩ đến các Ki-tô hữu trải qua cơn bách
hại. Nếu động cơ thúc đầy một người phó mạng sống mình
vì danh Chúa lại là động cơ do kiêu ngạo, khoe mình, tự
cao tự đại, thì ngay đến việc tử đạo của người ấy cũng
chẳng giá trị gì. Thiết tưởng chúng ta không nên bi quan
hay cay cú khi nhớ lại nhiều việc làm thoạt nhìn có vẻ như
một hy sinh, nhưng chỉ là sản phẩn của lòng kiêu ngạo chứ
không phải là sự dâng hiến do yêu thương.
(3/2) Trong các câu 4-7, Phao-lô liệt kê 15 đặc điểm của
tình yêu Ki-tô giáo:
(a) Yêu thương là nhẫn nhục
tức kiên nhẫn, nhịn nhục đối với con người như chính
Chúa đối với chúng ta (chứ không phải lòng kiên trì chịu
đựng hoàn cảnh).
(b) Yêu thương là nhân từ, tử tế
có nghĩa là «ngọt ngào, êm dịu với tất cả», là «phước
hạnh» của tình yêu thương. Nhiều Ki-tô hữu rất tốt nhưng
không nhân từ, tử tế (thái độ hay chỉ trích, chê bai hoặc
khắt khe).
(c) Yêu thương là không ghen tương
Có 2 loại ghen tỵ. Có loại thèm khát của cải người khác,
loại ghen tị này rất khó tránh vì sự thèm muốn đó gắn liền
với bản tính con người ; loại thứ hai tệ hơn nhiều, nó
nghiến ngầm ngay sự kiện kẻ khác có cái mà chính mình
không có. Muốn được cái kẻ khác có, không gì tai hại bằng
muốn kẻ khác đừng có cái mà họ đang có. Một tâm hồn
128
bần tiện nhất cũng không thể sa vào điều gì thấp kém hơn
thế.
(d) Yêu thương là chẳng vênh vang
Trong tình yêu thương có đức tính giấu mặt. Tình yêu
thương chân chính bao giờ cũng cảm thấy tính cách chẳng
ra gì của mình hơn là công lao thành tích của mình. Người
thật sự yêu thương chẳng bao giờ nghĩ việc mình yêu
thương là điều phi thường. Yêu thương là giữ thái độ
khiêm hạ, ví ý thức chẳng bao giờ tặng được cho người
mình yêu thương một món quà hoàn toàn vừa ý.
(e) Yêu thương là chẳng tự đắc
Người thật sự vĩ đại không bao giờ nghĩ đến tính cách
quan trọng của mình. Chẳng ai thích con người tự cho là
mình quan trọng.
(f) Yêu thương chẳng làm điều bất chính
nghĩa là không có những hành động trắng trợn, tàn nhẫn
mà có những hành động đẹp đẽ, lịch lãm và duyên dáng.
(g) Tình yêu thương chẳng tìm tư lợi
nghĩa là không nằng nặc đòi cho được các quyền lợi của
riêng mình. Nói cho cùng trên đời này chỉ có hai hạng
người : những người luôn nghĩ đến quyền lợi của mình và
những người luôn nghĩ đến bổn phận; những người cứ
nằng nặc đòi đặc quyền và những người luôn nhớ đến bổn
phận, trách nhiệm; những kẻ chỉ nghĩ đến những gì cuộc
đời mắc nợ mình và những người không bao giờ quên
mình mắc nợ cuộc đời. Có lẽ chiếc chỉa khóa giải đáp mọi
bài toán cho các vấn đề đang vây quanh chúng ta ngày nay,
ấy là con người nghĩ đến quyền lợi ít hơn, nhưng quan tâm
nhiều hơn về nghĩa vụ của mình. Khi chúng ta bắt đấu nghĩ
129
tới «địa vị» của mình, chính là lúc chúng ta bị trôi lạc khỏi
tình yêu thương của một Ki-tô hữu.
(h) Tình yêu thương chẳng nóng giận
tức không bao giờ tức giận người khác. Người chế ngự
được tính nóng giận của mình sẽ vùng lên và có thể làm
chủ bất cứ việc gì.
(i) Tình yêu thương chẳng chất chứa trong trí nhớ bất cứ
việc sai quấy nào người khác đã làm cho mình
Có thể hiểu là tình yêu thương không muốn hận thù.
(k) Tình yêu thương không mừng khi thấy sự gian ác,
đúng hơn là chẳng vui về bất cứ việc gì sai quấy. Ở đây có
ý đề cập đến sự vui thích tinh quái chúng ta thường có khi
nghe người khác mắc lầm lỗi nào đó. Bản tính con người
thích nghe về những bất hạnh của người khác hơn là về
những điều may mắn của họ. Khóc với kẻ khóc bao giờ
cũng dễ hơn là vui với kẻ vui. Chúng ta thích nghe câu
chuyện chê bai kẻ khác hơn là câu chuyện nhằm khen ngợi
kẻ khác. Tình yêu thương Ki-tô hữu không có sự tinh quái,
ấy là vui mừng khi nghe một chuyện xấu, chuyện bất hạnh
của người khác.
(l) Tình yêu thương vui khi thấy điều chân thật
Việc này không dễ dàng nhu thoạt nghe. Nhiều khi chúng
ta không dứt khoát muốn cho chân lý chiến thắng, nhất là
sự thật, chính là điều cuối cùng chúng ta cần phải nghe.
Tình yêu thương Ki-tô hưu không hề muốn che giấu sự
thật, đối diện vớu sự thật là can đảm. Chẳng việc việc gì
giấu được mãi, vì thế chúng ta phải vui mừng khi được biết
sự thật.
130
m) Tình yêu thương tha thứ tất cả, có nghĩa là tình yêu
thương «che đậy mọi sự» tức là chẳng bao giờ lôi các lỗi
lầm của kẻ khác ra ánh ánh sáng. Trái lại tình yêu thương
tìm cách dàn xếp êm đẹp và kín đáo mọi việc hơn là đem
phơi bày quở trách. Càng có lý hơn nữa, tình yêu thương
chịu đựng sỉ nhục, chửi mắng, bạc đãi. Đó là loại tình yêu
thương vốn có trong lòng Chúa Giê-su.
(n) Tình yêu thương tin tưởng tất cả
Đặc điểm này của tình yêu thương gồm 2 phương diện:
(1o) Trong mối liên hệ với Chúa, đó là tình yêu thương,
bắt ngay lấy Lời Chúa, tin tuyệt đối vào các lời hứa của
Ngài, nhận tất cà những lời hứa bắt đầu bằng «hễ ai» và
nói «câu đó ám chỉ tôi». Đó là tình yêu thương bắt nguồn
từ đức tính «đánh cuộc với đời sống rằng có một Chúa».
(2o) Trong mối liên hệ với đồng bào, đó là tình yêu thương
luôn luôn tin vào điều tốt nhất nơi kẻ khác. Chúng ta
thường khiến kẻ khác trở thành như điều chúng ta tin về
họ. Nếu chúng ta hành động chứng tỏ không tin cậy họ,
nếu nghi ngờ họ, ta sẽ khiến họ trở thành người không
đáng tin cậy. Nếu chúng ta hành động chứng tỏ mình tuyệt
đối tin cậy họ, và nếu họ không cố ý đánh mất danh dự,
chúng ta đã biến họ thành người đáng tin cậy. Tình yêu
thương có thể khiến kẻ vô lại thành người cao thượng, nếu
chúng ta tin tưởng vào những gì tốt nhất nơi họ.
(o) Tình yêu thương hy vọng tất cả
Chúa Giê-su tin chẳng có một người nào là hoàn toàn tuyệt
vọng.
(p) Tình yêu thương kiên trì chịu đựng mọi sự
131
bằng tinh thần dũng cảm, tin vào chiến thắng, không có
nghĩa là khoanh tay bó gối thụ động mà là vừa chịu đựng,
vừa cố gắng để thắng, để lật ngược thế cờ.
Ghi chú
Còn một điều nữa cần nói đây. Khi suy nghĩ về các đặc
điểm của tình yêu thương như Phao-lô mô tả trên, chúng ta
có thể thấy rõ chúng ta được thực hiện, được biến thành
hành động, được nhập thể trong đời sống của chính Chúa
Giê-su!
(3/3) Trong các câu 8-13, Phao-lô nêu lên ba điểm cuối
cùng nói về tình yêu thương của Ki-tô hữu:
(a) Ông nhấn mạnh tính cách trường tồn tuyệt đối của tình
yêu thương. Sau khi mọi điều người ta dùng để tự tôn vinh
và hãnh diện đều qua đi, chỉ tình yêu thương còn lại.
(b) Ông nhấn mạnh tính cách trọn vẹn tuyệt đối của tình
yêu thương. Mọi sự việc chỉ được nhìn thấy như những
hình ảnh trong một tấm gương (thấy lờ mờ). Con đường
yêu thương sẽ đưa chúng ta đến ngày cuối củng, khi tấm
màn được vén lên và chúng ta sẽ thấy mặt đối mặt, được
biết mọi sự như cách chúng ta phải biết. Nếu không có tình
yêu thương, chúng ta sẽ chẳng bao giờ đạt đến ngày đó vì
Thiên Chúa là tình yêu và chì người có tình yêu thương
mới có thể thấy được Thiên Chúa.
(c) Ông nhấn mạnh tính cách ưu việt tuyệt đối của tình yêu
thương. Tuy đức tin và hy vọng đều hết sức quan trọng,
nhưng tình yêu thương còn quan trọng hơn. Đức tin không
có tình yêu thương thì lạnh nhạt, hy vọng không có tình
132
yêu thương thì buồn tẻ. Tình yêu thương là ngọn lửa đun
nóng đức tin và là ánh sáng đem hy vọng đến đích chắc
chắn.
5.2 Tha thiết cầu xin Chúa Thánh Thần ban Đức Ái cho
mình và cho những người khác, nhất là những người có
liên hệ mật thiết.
133
1) Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về Thánh Thể quan trọng
như thế nào?
2) Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về Thánh Thể phải được
hiểu như thế nào?
3) Giáo Huấn của Thánh Phao-lô về Thánh Thể phải được
các Ki-tô hữu chúng ta sống như thế nào trong đời sống
cộng đoàn?
134
7.2 Cùng cầu nguyện:
[Mỗi người cầu nguyện trong thinh lặng]
135
ĐỀ TÀI IX
GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ
VỀ THÁNH THỂ
136
PK 1: Còn tình yêu nào cao vời vợi bằng tình Chúa đã
thương ta. Dù rằng đất trời mãi đổi thay, nhưng tình Chúa
vẫn yêu ta đến muôn muôn đời.
PK 2: Ngài hằng mong chờ luôn mời gọi người người sống
yêu thương nhau. Để tình yêu Ngài mãi tràn lan trong tình
chúng ta yêu nhau sống vui an bình.
137
IV. HỌC HỎI
[Sách Thánh cần đọc: 1 Cr 11,17-22.23-34; Mt 26,26-
29; Mc 14,22-25, Lc 22,14-20]
138
của mình trước, và như thế, kẻ thì đói, người lại say. 22
Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh
dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người
không có của? Tôi phải nói gì với anh em? Chẳng lẽ tôi
khen anh em sao? Về điểm này, tôi chẳng khen đâu!” (1 Cr
11,17-22).
139
chúng ta đã không bị xét xử. 32 Nhưng khi Chúa xét xử là
Người sửa dạy chúng ta, để chúng ta khỏi bị kết án cùng
với thế gian.
«33 Cho nên, thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh
em hãy đợi nhau. 34 Ai đói, thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến
họp mà hoá ra để bị kết án. Về các vấn đề khác, tôi sẽ liệu
khi nào đến thăm anh em.»
(b) Các bản văn của Tin Mừng Nhất Lãm về Thánh Thể
1o) Bản văn của Thánh Mát-thêu (26,26-29)
«26 Cũng trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời
chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: "Anh em cầm
lấy mà ăn, đây là mình Thầy." 27 Rồi Người cầm lấy chén,
dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: "Tất cả anh em hãy
uống chén này, 28 vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ
ra cho muôn người được tha tội. 29 Thầy bảo cho anh em
biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của
cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu
mới trong Nước của Cha Thầy.»
140
cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên
Chúa.»
3o) Bản văn của Thánh Lu-ca (22,14-20)
«14 Khi giờ đã đến, Đức Giê-su vào bàn, và các Tông Đồ
cùng vào với Người. 15 Người nói với các ông: "Thầy
những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh
em trước khi chịu khổ hình. 16 Bởi vì, Thầy nói cho anh em
hay, Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho
đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa."
«17 Rồi Người nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói: "Anh
em hãy cầm lấy mà chia nhau. 18 Bởi vì, Thầy bảo cho anh
em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm của cây
nho nữa, cho đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến."
«19 Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho
các ông và nói: "Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh
em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy." 20 Và tới
tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói:
"Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra
vì anh em.»
17 Nhân lúc đưa ra các chỉ 26 Cũng trong 22 Cũng đang 14 Khi giờ đã đến,
thị này, tôi chẳng khen anh bữa ăn, Đức bữa ăn, Đức Đức Giê-su vào bàn,
em đâu, vì những buổi họp Giê-su cầm Giê-su cầm và các Tông Đồ cùng
của anh em không đem lại lấy bánh, lấy bánh, vào với Người. 15
lợi ích gì, mà chỉ gây hại. 18 dâng lời chúc dâng lời chúc Người nói với các
Thật thế, trước tiên tôi nghe tụng, rồi bẻ tụng, rồi bẻ ông: "Thầy những
rằng khi họp cộng đoàn, anh ra, trao cho ra, trao cho khát khao mong mỏi
em chia rẽ nhau, và tôi tin là môn đệ và các ông và ăn lễ Vượt Qua này
141
điều ấy có phần nào đúng. 19 nói: "Anh em nói: "Anh em với anh em trước khi
Những sự chia rẽ giữa anh cầm lấy mà hãy cầm lấy, chịu khổ hình. 16 Bởi
em, thế nào cũng có, nhưng ăn, đây là đây là mình vì, Thầy nói cho anh
nhờ vậy mới rõ ai là người mình Thầy." Thầy." 23 Và em hay, Thầy sẽ
đạo đức chắc chắn. 20 Khi 27 Rồi Người Người cầm không bao giờ ăn lễ
anh em họp nhau, thì không cầm lấy chén, chén rượu, Vượt Qua này nữa,
phải là để ăn bữa tối của dâng lời tạ dâng lời tạ cho đến khi lễ này
Chúa. 21 Thật vậy, mỗi ơn, trao cho ơn, rồi trao được nên trọn vẹn
người lo ăn bữa riêng của môn đệ và cho các ông, trong Nước Thiên
mình trước, và như thế, kẻ nói: "Tất cả và tất cả đều Chúa."
thì đói, người lại say. 22 Anh anh em hãy uống chén 17 Rồi Người nhận lấy
em không có nhà để ăn uống uống chén này. 24 Người chén, dâng lời tạ ơn
sao? Hay anh em khinh dể này, 28 vì đây bảo các ông: và nói: "Anh em hãy
Hội Thánh của Thiên Chúa là máu Thầy, "Đây là máu cầm lấy mà chia
và làm nhục những người máu Giao Thầy, máu nhau. 18 Bởi vì, Thầy
không có của? Tôi phải nói Ước, đổ ra Giao Ước, đổ bảo cho anh em biết,
gì với anh em? Chẳng lẽ tôi cho muôn ra vì muôn từ nay, Thầy không
khen anh em sao? Về điểm người được người. còn uống sản phẩm
này, tôi chẳng khen đâu! tha tội. của cây nho nữa, cho
23 Thật vậy, điều tôi đã lãnh 25 Thầy bảo đến khi Triều Đại
nhận từ nơi Chúa, tôi xin 29 Thầy bảo thật anh em: Thiên Chúa đến."
truyền lại cho anh em: trong cho anh em chẳng bao giờ 19 Rồi Người cầm lấy
đêm bị nộp, Chúa Giê-su biết: từ nay, Thầy còn bánh, dâng lời tạ ơn,
cầm lấy bánh, 24 dâng lời Thầy không uống sản bẻ ra, trao cho các
chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và còn uống thứ phẩm của cây ông và nói: "Đây là
nói: "Anh em cầm lấy mà sản phẩm này nho nữa, cho mình Thầy, hiến tế vì
ăn, đây là Mình Thầy, hiến của cây nho, đến ngày anh em. Anh em hãy
tế vì anh em; anh em hãy cho đến ngày Thầy uống làm việc này, mà
làm như Thầy vừa làm để Thầy cùng thứ rượu mới tưởng nhớ đến Thầy."
tưởng nhớ đến Thầy." 25 anh em uống trong Nước 20 Và tới tuần rượu
Cũng thế, cuối bữa ăn, thứ rượu mới Thiên Chúa." cuối bữa ăn, Người
Người nâng chén và nói: trong Nước cũng làm như vậy và
"Đây là chén Máu Thầy, của Cha nói: "Chén này là giao
Máu đổ ra để lập Giao Ước Thầy." ước mới, lập bằng
Mới; mỗi khi uống, anh em máu Thầy, máu đổ ra
hãy làm như Thầy vừa làm vì anh em.”
để tưởng nhớ đến Thầy." 26
Thật vậy, cho tới ngày Chúa
đến, mỗi lần ăn Bánh và
uống Chén này, là anh em
loan truyền Chúa đã chịu
chết.
142
27 Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh
hay uống Chén của Chúa
cách bất xứng, thì cũng
phạm đến Mình và Máu
Chúa.
28 Ai nấy phải tự xét mình,
rồi hãy ăn Bánh và uống
Chén này. 29 Thật vậy, ai ăn
và uống mà không phân biệt
được Thân Thể Chúa, là ăn
và uống án phạt mình. 30 Vì
lẽ đó, trong anh em, có
nhiều người ốm đau suy
nhược, và cũng có lắm
người đã chết.31 Giả như
chúng ta tự xét mình, thì
chúng ta đã không bị xét xử.
32 Nhưng khi Chúa xét xử là
Người sửa dạy chúng ta, để
chúng ta khỏi bị kết án cùng
với thế gian.
33 Cho nên, thưa anh em, khi
họp nhau để dùng bữa, anh
em hãy đợi nhau. 34 Ai đói,
thì ăn ở nhà, kẻo anh em
đến họp mà hoá ra để bị kết
án. Về các vấn đề khác, tôi
sẽ liệu khi nào đến thăm anh
em.
143
2o) Hành động và lời truyền phép của Chúa Giê-su tức
hành động và lời nói làm nên Bí Tích Thánh Thể được nêu
lên trong cả 4 đoạn văn của Phao-lô, Mát-thêu, Mác-cô và
Lu-ca: "Chúa Giê-su cầm lấy bánh, 24 dâng lời chúc tụng tạ
ơn, rồi bẻ ra và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình
Thầy, hiến tế vì anh em" và "Đây là chén Máu Thầy, Máu
đổ ra để lập Giao Ước Mới." Như vậy cốt yếu của Mầu
Nhiệm hay Bí Tích Thánh Thể là sự hiến tế thập giá của
Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, vì con người, vì chúng ta!
Và đồng thới là Lễ Tạ Ơn đối với Thiên Chúa là Cha,
Đấng yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một ... (Ga 3,16).
3o) Từ Giao Ước cũng được nêu lên trong cả 4 đoạn văn
của Phao-lô, Mát-thêu, Mác-cô và Lu-ca. Đây là Giao Ước
Mới, thay thế Giao Ước Cũ giữa Thiên Chúa và dân Ít-ra-
en.
4o) Lệnh truyền của Chúa Giê-su về việc làm lại việc
Người làm: "Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến
Thầy" chúng ta chỉ tìm thấy trong hai đoạn văn của Phao-
lô (1 Cr 11, 25) và Lu-ca (22,19).
5o) Bữa Tiệc Cánh Chung được Chúa Giê-su nhắc đến
trong ba đoạn văn của Mát-thêu (26,29), Mác-cô (14,25)
và Lu-ca (22,15.18).
6o) Trong đoạn văn của Lu-ca, chúng ta thấy trước Bữa Ăn
Thánh Thể là Bữa Ăn Vượt Qua của Cựu Ước (xem Xh
12,1-28). Trong bản văn Lu-ca trong Bữa Ăn Vượt Qua
144
còn có một chi tiết trong lời nói của Chúa Giê-su: "Anh em
hãy cầm lấy mà chia nhau” thay vì "cầm lấy mà ăn, mà
uống"!
7o) Trong đoạn văn của Phao-lô, chúng ta thấy phần đầu (1
Cr 11, 17-22) và phần cuối (1 Cr 11, 27-34) là hai văn
đoạn không có trong ba bản văn Phúc Âm. Phần đầu có thể
được xem là nguyên do hay cơ hội khiến Phao-lô phải
nhắc đến sự kiện Chúa Giê-su lập Bí Tích Thánh Thể. Còn
phần cuối là những lời cảnh báo của Phao-lô về những vi
phạm của một số Ki-tô hữu Cô-rin-tô trong các buổi cử
hành Thánh Thể. Cũng trong đoạn văn này chúng ta thấy
Phao-lô nói lên ý nghĩa của việc tham dự Thánh Thể:
"Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và
uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết."
(1 Cr 11, 26).
8o) Ngoài ra, phần đầu đoạn văn của Phao-lô (1 Cr 11, 17-
22) còn cho chúng ta thấy một sinh hoạt rất đặc biệt của
người thời xưa: Đó là "tập tục nhiều người tụ tập lại để ăn
bữa chung với nhau và có một loại tiệc đặc biệt là eranos,
mỗi người đem theo phần ăn riêng của mình, tất cả góp lại
để làm một bữa ăn chung. Hội Thánh sơ khai cũng có thói
quen đó. Các Ki-tô hữu có một bữa ăn gọi là a-ga-pê, bữa
tiệc yêu thương. Khi đến dự, mỗi người đem thức ăn tới để
chung mọi thứ lại rồi cùng ngồi ăn chung với nhau. Đây là
một tập tục tốt... một phuơng thức nhằm kiến tạo và nuôi
dưỡng sự hiệp thông thật sự giữa các Ki-tô hữu. Nhưng
giáo đoàn có kẻ giầu, người nghèo, có người đem đến
145
nhiều thức ăn, nhưng cũng có nhiều nô lệ vốn chẳng có gì
để góp phần cả. Quả thật, với một người nô lệ nghèo khổ
thì bữa tiệc yêu thương chính là bữa ăn đầy đủ nhất trong
tuần. Nhưng tại Cô-rin-tô, nghệ thuật chia sẻ cho nhau đã
bị đánh mất, người giầu đã không chia thức ăn của mình,
nhưng tụ tập thành một nhóm riêng, ăn uống hối hả như sợ
phải chia phần cho kẻ khác, trong khi số người nghèo thì
hầu như chẳng có gì mà ăn cả. Hậu quả trong bữa mà lẽ ra
việc phân chia giai cấp xã hội bị xóa sổ, lại càng mài nhọn,
gây nên tình trạng trầm trọng thêm. Đáng lẽ phải là cơ hội
thông hiệp, lại thoái hóa để trở thành những điều gây phân
chia giai cấp. Cho nên Phao-lô đã không ngần ngại quở
trách không tiếc lời."
(William Barclay, Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, NXB Tôn
giáo, 2008, trang 87-88).
Nội dung 1 Cr Mt Mc Lc
11,17-34 26,26-29 14,22-25 22,14-20
146
8. Tội phạm đên Thánh Thể X O O O
(e) Tội phạm đến Thánh Thể theo giáo huấn của Thánh
Phao-lô
Thánh Phao-lô cảnh báo:
"Vì thế, bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách
bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy
phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này." (1
Cr 11,27-28).
Chính Thánh Phao-lô giải thích ăn Bánh và uống Chén của
Chúa cách bất xứng là không phân biệt được Thân Thể
Chúa. Câu này có thể được hiểu theo 2 nghĩa như sau:
* Nghĩa thứ nhất là người ăn Bánh và uống Chén mà
không hiểu rõ ý nghĩa, không ý thức được tính quan trọng
của việc mình làm, không lãnh hội thấu đáo tính cách
thánh thiêng của sự việc. Cũng có thể hiểu là người ăn
Bánh và uống Chén mà không có lòng tôn kính, không ý
thức được tình yêu thương và phần trách nhiệm việc làm
đó sẽ áp đặt trên người ấy.
* Nghĩa thứ hai là người ăn Bánh và uống Chén mà không
biết rằng Hội Thánh là Thân Thể Chúa Ki-tô (12,12) vì thế
không kể gì đến anh chị em minh trong buổi lễ cử hành
Thánh Thể. Nói cách khác là người không hiểu Thân Thể
Chúa Ki-tô là cộng đoàn tín hữu, nên kỳ thị anh em mình,
nhìn anh em mình bằng con mắt đố kỵ như không phải là
một người trong anh em. Vì thế tất cả những ai có lòng hận
thù, cay đắng, đố kỵ anh em mình sẽ ăn và uống cách
không xứng đáng nếu còn giữ tinh thần đó trong lòng mà
đến bàn tiệc của Chúa.
147
4.3 Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Thánh Thể phải
được hiểu như thế nào?
[Xem phần ỨNG DỤNG]
5.2 Ở đây chúng ta được mời gọi áp dụng giáo huấn của
Thánh Phao-lô về Thánh Thể chủ yếu bằng hai cách sau
đây:
148
anh chị em trong cộng đoàn, nhất là với những người túng
thiếu, cần sự chia sẻ của chúng ta (lương thực vật chất, mối
quan tâm, thời gian, sự yêu thương, chăm sóc), thì chúng ta
mới cử hành Bữa Tối của Chúa một cách xứng đáng. Nói
vắn gọn: Thánh Thể đòi hỏi sự tương trợ và chia sẻ. Chính
Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI, trong buổi triều yết
dành cho hai tổ chức từ thiện của Bénélux «Pro Petri
Sede» và của Bỉ «Etrennes Pontificales» sáng 27.2.2009
vừa qua, đã phát biểu như sau: «Năm Thánh Phao-lô cho
chúng ta cơ hội, -nhờ suy niệm lời Thánh Tông Đố Dân
Ngoại-, ý thức lại một cách sống động hơn về sự kiện Hội
Thánh là một Thân Thể mà trong Thân Thể ấy chỉ có một
sự sống duy nhất luân chuyển là sự sống của Chúa Ki-tô.
Vì thế mỗi chi thể của Hội Thánh gắn liền, cách rất sâu
sắc, với tất cả các chi thể khác và không thể không biết
đến nhu cầu của những chi thể kia». Đức Thánh Cha nói
thêm: «Được nuôi dưỡng bằng cùng một Tấm Bánh
Thánh, các Ki-tô hữu không thể thờ ơ khi thiếu bánh trên
bàn ăn của nhân loại. Năm nay các con đã chấp nhận lằng
nghe tiếng gọi mở rộng tâm hồn trước các nhu cầu của
những người túng thiếu, với mục đích làm cho các chi thể
của Thân Thể Chúa Ki-tô đang bị nỗi khổ dày vò, được an
ủi và trở nên những chi thể sống động và tự do hơn để làm
chứng cho Tin Mừng» (Bản tin Zenit ngày 27.2.2009).
149
6.1 Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Nhờ đề tài IX bạn đã có dịp tìm hiểu Giáo Huấn của Thánh
Phao-lô về Thánh Thể, bạn có khám phá , cảm nghiệm,
quyết tâm hay thay đổi gì mới?
Xin ghi nhật ký để chuẩn bị chia sẻ vào lần học tới với các
anh chị em khác.
150
sẻ những gì chúng ta có -hay đúng hơn chúng ta đã nhận
được từ Thiên Chúa- với những anh chị em cần đến những
thứ ấy để có đời sống xứng đáng hơn với phẩm giá làm
người và làm con Chúa.
151
7.3 Cùng hát
TA LÀ BÁNH HẰNG SỐNG
ĐK: Ta là Bánh Hằng Sống, là Bánh ban xuống bởi trời.
Ta là Bánh Trường Sinh, ai ăn sẽ sống muôn đời.
1.2.3 Đây Mình Ta chính là của ăn, và Máu Ta thật là của
uống.
1. Người ăn Bánh này không còn đói khát chi, người
uống Máu này sẽ được trường sinh.
2. Người không lãnh nhận ăn Thịt uống Máu Ta, sẽ chết
hao mòn muôn đời trầm luân.
3. Dù cho đất trời theo ngày tháng biến thay, Lời Chúa
ban truyền muôn đời không phai.
152
ĐỀ TÀI X
GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ VỀ
SỰ PHỤC SINH CỦA CHÚA GIÊ-SU KI-TÔ
VÀ SỰ SỐNG LẠI CỦA LOÀI NGƯỜI
153
1.2 Cùng hát
CON ĐƯỜNG CHÚA ĐÃ ĐI QUA
1/ Lạy Chúa, con đường nào Chúa đã đi qua, con đường
nào Ngài ra pháp trường, mão gai nào hẳn sâu trên trán.
Lạy Chúa, Thánh giá nào Ngài vác trên vai, đau thương
nào phủ kín tâm tư, đường tình đó Ngài dành cho con.
ĐK.- Lạy Chúa xin cho con bước đi theo Ngài, xin cho con
cùng vác với Ngài thập giá trên đường đời con đi.
Lạy Chúa xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con
cùng chết với Ngài, để được sống với Ngài vinh quang.
2/ Lạy Chúa, lưỡi đòng nào đâm thấu con tim, đinh nhọn
nào còn loang máu đào, sỉ nhục nào còn vương trên mắt.
Lạy Chúa, những bước nào gục ngã đau thương, bao roi
đòn hằn vết thê lương, đường tình đó Ngài dành cho con.
155
“Nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của
chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống
rỗng” (1Cr 15,14)
Vì thế cho nên chúng ta cần tìm hiểu, nghiên cứu và học
hỏi và ứng dụng giáo huấn này trong đời sống đức tin của
mỗi người chúng ta.
156
2 Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát, nếu anh em
giữ đúng như tôi đã loan báo, bằng không thì anh em có
tin cũng vô ích.
3 Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi
đã lãnh nhận, đó là : Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta,
đúng như lời Thánh Kinh, 4 rồi Người đã được mai táng,
và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Thánh Kinh. 5
Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai.
6 Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một
lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một
số đã an nghỉ. 7 Tiếp đến, Người hiện ra với ông Gia-cô-
bê, rồi với tất cả các Tông Đồ. 8 Sau hết, Người cũng đã
hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh
non.” (1 Cr 15,1-11).
157
anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. 18 Hơn nữa,
cả những người đã an nghỉ trong Đức Ki-tô cũng bị tiêu
vong. 19 Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời
này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết
mọi người.
20 Nhưng không phải thế ! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi
chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. 21 Vì
nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ
một người mà kẻ chết được sống lại. 22 Quả thế, như mọi
người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người
nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho
sống. 23 Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình : mở
đường là Đức Ki-tô, rồi khi Đức Ki-tô quang lâm thì đến
lượt những kẻ thuộc về Người. 24 Sau đó mọi sự đều hoàn
tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền
thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên
Chúa là Cha.
25 Thật vậy, Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi
Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. 26 Thù địch
cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, 27 vì Thiên Chúa đã đặt
muôn loài dưới chân Đức Ki-tô. Mà khi nói muôn loài, thì
dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Ki-
tô. 28 Lúc muôn loài đã quy phục Đức Ki-tô, thì chính
Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài
phải quy phục Người ; và như vậy, Thiên Chúa có toàn
quyền trên muôn loài.
29 Chẳng vậy, những người chịu phép rửa thế cho kẻ chết
thì được gì ? Nếu tuyệt nhiên kẻ chết không trỗi dậy, thì tại
sao người ta lại chịu phép rửa thế cho kẻ chết ? 30 Và
158
chính chúng tôi, tại sao hằng giờ chúng tôi liều mình
đương đầu với hiểm hoạ ? 31 Thưa anh em, mỗi ngày tôi
phải đối diện với cái chết : tôi có hãnh diện về anh em
trong Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, thì mới quả quyết
như vậy. 32 Nếu vì những lý do phàm trần mà tôi đã chiến
đấu với thú dữ tại Ê-phê-xô, thì điều đó nào có ích gì cho
tôi ? Nếu kẻ chết không trỗi dậy, thì chúng ta cứ ăn cứ
uống đi, vì ngày mai chúng ta sẽ chết. 33 Anh em chớ có
lầm : Chơi với kẻ xấu, người tốt cũng ra xấu. 34 Đừng say
sưa nữa mới phải phép, và chớ phạm tội : một số người
quả không biết gì về Thiên Chúa. Tôi nói như vậy để anh
em phải xấu hổ.” (1 Cr 15,12-34).
159
sống lại cũng vậy : gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì
bất diệt; 43 gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh
quang ; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ,
44 gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân
thể có thần khí.
Nếu có thân thể có sinh khí, thì cũng có thân thể có thần
khí. 45 Như có lời đã chép : con người đầu tiên là A-đam
được dựng nên thành một sinh vật, còn A-đam cuối cùng là
thần khí ban sự sống. 46 Loài xuất hiện trước không phải là
loài có thần khí, nhưng là loài có sinh khí ; loài có thần
khí chỉ xuất hiện sau đó. 47 Người thứ nhất bởi đất mà ra
thì thuộc về đất ; còn người thứ hai thì từ trời mà đến . 48
Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra ; còn
những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến.
49 Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi
đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng
từ trời mà đến.
50 Thưa anh em, điều tôi muốn nói là xác thịt và khí huyết
không thể thừa hưởng Nước Thiên Chúa được, cũng như
cái hư nát không thể thừa hưởng sự bất diệt được. 51 Đây
tôi nói cho anh em biết mầu nhiệm này : không phải tất cả
chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi
52 trong một giây lát, trong một nháy mắt, khi tiếng kèn
cuối cùng vang lên. Vì tiếng kèn sẽ vang lên, và những kẻ
chết sẽ trỗi dậy mà không còn hư nát ; còn chúng ta, chúng
ta sẽ được biến đổi. 53 Quả vậy, cái thân phải hư nát này
sẽ mặc lấy sự bất diệt ; và cái thân phải chết này sẽ mặc
lấy sự bất tử.
160
Khải hoàn ca
“54 Vậy khi cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt,
khi cái thân phải chết này mặc lấy sự bất tử, thì bấy giờ sẽ
ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây : Tử thần đã bị chôn
vùi. Đây giờ chiến thắng ! 55 Hỡi tử thần, đâu là chiến
thắng của ngươi ? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi ?
56 Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội lỗi có mạnh cũng tại
có Lề Luật. 57 Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho
chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng
ta.
58 Bởi vậy, anh em thân mến, anh em hãy kiên tâm bền chí,
và càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của
Chúa, vì biết rằng : trong Chúa, sự khó nhọc của anh em
sẽ không trở nên vô ích.» (1 Cr 15,35-58).
161
(đ) Sự phục sinh của Chúa Giê-su chứng minh chân lý
mạnh hơn ngụy lý; điều thiện mạnh hơn điều ác; tình
thương mạnh hơn thù hận; sự sống mạnh hơn sự chết.
V. ỨNG DỤNG
5.1 Cầu xin Thiên Chúa ban cho chúng ta một lòng tin
vững mạnh vào sự Phục Sinh từ cõi chết của Chúa Giê-su
Ki-tô, Con Một yêu dấu của Cha.
5.2 Tin vào sự Phục Sinh từ cõi chết của Chúa Giê-su Ki-
tô, thúc đẩy chúng ta sống gắn bó mặt thiết với Người ở
đời này để ở đời sau chúng ta được ở với Người.
5.3 Tin có sự Sống Lại và sự Sống Đời Sau của loài người
nói chung, của bản thân mỗi người nói riêng thì chúng ta
sẽ chọn cách sống phù hợp: quý trọng thân xác, trau dồi
162
nhân đức, hy sinh hãm mình, phục vụ tha nhân một cách
yêu thương và khiêm nhường.
163
Chúng ta đã thấy được tầm quan trọng của sự phục sinh
của Chúa Giê-su Ki-tô trong Giáo lý Ki-tô giáo, trong lời
giảng dậy của Hội Thánh. Chúng ta cũng cảm nghiệm
được niềm hy vọng vào sự sống lại và sự sống đời sau của
mỗi người chúng ta. Vì thế chúng ta hãy dâng lên Chúa lời
cảm tạ tri ân và hãy khẳng định lòng tin son sắt của chúng
ta vào chân lý Phúc âm về sự sống lại. Chúng ta cũng hãy
quyết tâm sống hy sinh, từ bỏ, trong sạch, phục vụ để xác
hồn chúng ta được thánh thiện.
- Lạy Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh, chúng con xác tín rằng
linh hồn chúng con là bất tử bất diệt, thân xác chúng con
được dựng nên để chờ đợi ngày sống lại trong ngày sau
hết. Xin Chúa ban cho chúng con ơn bền chí kiên vững
trong cuộc lữ hành trần thế này, để chúng con được hát ca
chúc tụng Chúa trong Nước Trời.
164
7.3 Cùng hát bài
NÀO TA HÃY MỪNG VUI
ĐK: Nào ta hãy mừng vui. Chúa chiến thắng tử thần rồi.
Nguồn sống mới chiếu sáng tuyệt vời. Hal-le-lu-ia.
Nào ta hãy mừng vui. Chúa đã sống lại rạng ngời, và Máu
Thánh xoá hết tội đời. Hal-le-lu-ia.
1. Thánh giá Chúa vươn cao dâng lễ hy sinh. Cho nhân thế
muôn đời sống trong an bình.
2. Sức sống đã khai nguyên trong những thương đau. Ân
thiêng đã khơi nguồn giữa bao khổ sầu.
165
ĐỀ TÀI XI
GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ
VỀ THÂN XÁC VÀ VỀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
166
1.2 Cùng hát
CHÚA KHÔNG LẦM
1. Chúa không lầm khi Ngài dựng nên con.
Dù lời ngài con không giữ tròn.
Vì Chúa đã biết từ ngàn xưa:
Rằng thân con bởi tro bụi,
và được cưu mang trong tội lỗi.
167
người mà bạn đã học lần trước, xin mời bạn chia sẻ hay
phát biểu.
168
4.2a Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Thân Xác phải
được hiểu như thế nào ?
(a) Bối cảnh của giáo huấn của Thánh Phao-lô về Thân
Xác
Các tín hữu Cô-rin-tô đã có một đời sống tính dục buông
thả, nào là tội loạn luân (1 Cr 5), nào là tội tà dâm (1 Cr
6,12-20). Sự kiện này không có gì đáng ngạc nhiên vì phần
đông anh chị em tín hữu Cô-rin-tô đều là những người tân
tòng, họ vừa trở lại từ một môi trường nổi tiếng là “tội lỗi”
là thành phố Cô-rin-tô thời đầu Công Nguyên.
(b) Ý nghĩa của Thân Xác theo giáo huấn của Thánh
Phao-lô
Theo Thánh Phao-lô thì thân xác của con người hay đúng
hơn của người Ki-tô hữu có 4 ý nghĩa cốt yếu sau đây:
1°) Thân xác con người là để phụng sự Thiên Chúa:
«Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà
để phụng sự Chúa, vì Chúa làm chủ thân xác.» (1 Cr 6,13).
2°) Thân xác con người là thân thể Chúa Ki-tô: « 15 Nào
anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể
của Đức Ki-tô sao? Tôi lại lấy phần thân thể của Đức Ki-
tô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời
nào! 16 Anh em chẳng biết rằng ăn ở với người kỹ nữ là
nên một thân xác với người ấy sao? Thật thế, có lời chép
rằng cả hai sẽ thành một xương một thịt. 17 Ai đã kết hợp
với Chúa, thì nên một tinh thần với Người.» (1 Cr 6,15-
17).
3°) Thân xác con người là Đền thờ Chúa Thánh Thần:
169
«19 Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là
Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự
trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho
anh em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, 20 vì
Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em.» (1 Cr
6,19-20).
4°) Thân xác con người là để chờ ngày được phục sinh:
«14 Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại; chính
Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho
chúng ta sống lại.» (1 Cr 6,14).
170
vợ đối với chồng cũng vậy. 4 Vợ không có quyền trên thân
xác mình, nhưng là chồng; cũng vậy, chồng không có
quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ. 5 Vợ chồng đừng từ
chối nhau, trừ phi hai người đồng ý sống như vậy trong
một thời gian, để chuyên lo cầu nguyện; rồi hai người lại
ăn ở với nhau, kẻo vì hai người không tiết dục nổi mà Xa-
tan lợi dụng để cám dỗ. 6 Điều tôi nói đó là một sự nhân
nhượng chứ không phải là một mệnh lệnh. 7 Tôi ước muốn
mọi người đều như tôi; nhưng mỗi người được Thiên Chúa
ban cho đặc sủng riêng, kẻ thế này, người thế khác. 8 Với
những người độc thân và quả phụ, tôi nói thế này: họ cứ ở
vậy như tôi thì tốt cho họ. 9 Nếu không tiết dục được, họ cứ
kết hôn, vì thà kết hôn còn hơn là bị thiêu đốt.
10 Còn với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không
phải tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng, 11 mà nếu
đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hoà với
chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ.»
171
Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc
bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh
tuyền. 28 Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân
thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. 29 Quả vậy, có ai ghét
thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và
chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Ki-tô nuôi nấng và
chăm sóc Hội Thánh, 30 vì chúng ta là bộ phận trong thân
thể của Người. 31 Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì
thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình,
và cả hai sẽ thành một xương một thịt. 32 Mầu nhiệm này
thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh. 33
Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình,
còn vợ thì hãy kính sợ chồng.»
172
2°) Tính không thể tháo gỡ của Hôn Nhân: Cả chồng cả vợ
không được bỏ người phối ngẫu. Có thể ly thân tức là sống
tách ra nhưng không được lấy người khác (1 Cr 7, 4-5.10-
11.39 xem Rm 7,2-3).
3°) Tính duy nhất của Hôn Nhân: “nhất phu nhất phụ”
(xem Rm 7,2-3).
4°) Sự thánh thiện của Hôn Nhân: được biểu thị qua
* Mục tiêu của Hôn Nhân: sinh sản và giáo dục con cái
con cái (nhân bản /đức tin) là việc tiếp nối công trình của
Đấng Tạo Hóa, tiếp diễn và mở rộng gia đình con cái
Thiên Chúa.
* Tính biểu tượng thánh thiêng của Hôn Nhân Ki-tô giáo:
- Hôn Nhân, một biểu tượng: “22 Người làm vợ hãy tùng
phục chồng như tùng phục Chúa, 23 vì chồng là đầu của vợ
cũng như Đức Ki-tô là đầu của Hội Thánh, chính Người là
Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. 24 Và như
Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải
tùng phục chồng trong mọi sự như vậy.” (Ep 5,22-24)
- Hôn Nhân, một Bí Tích: Giáo hội đặt hôn nhân trong số 7
bí tích Chúa Giê-su Ki-tô thiết lập.
- Tính ưu việt của khiết tịnh hoàn hảo: đời sống khiết tịnh
vì Chúa ưu việt hơn đời sống vợ chồng, vì người sống
khiết tịnh được giải phóng khỏi những lo toan trần thế và
những trở ngại đủ loại đi kèm theo hôn nhân.
173
* bình đẳng về quyền lợi: Người phụ nữ không còn là đồ
vật của đàn ông, nhưng là bạn đời: người vợ bình đẳng với
người chồng trong mọi quyền lợi chính yếu, người chồng
cũng có những bổn phận đối với vợ y như bổn phận của
người vợ đối với chồng, và điều đó có được nhờ sự cho đi
không lấy lại, vốn nối kết người này với người kia. Mỗi
người không còn thuộc về riêng mình, nhưng thuộc về
người mình đã trao hiến: “3 Chồng hãy làm tròn bổn phận
đối với vợ, và vợ đối với chồng cũng vậy. 4 Vợ không có
quyền trên thân xác mình, nhưng là chồng; cũng vậy,
chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ. 5
Vợ chồng đừng từ chối nhau, trừ phi hai người đồng ý
sống như vậy trong một thời gian, để chuyên lo cầu
nguyện; rồi hai người lại ăn ở với nhau, kẻo vì hai người
không tiết dục nổi mà Xa-tan lợi dụng để cám dỗ.... 10 Còn
với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải
tôi, mà là Chúa: vợ không được bỏ chồng, 11 mà nếu đã bỏ
chồng, thì phải ở độc thân hoặc phải làm hoà với chồng; và
chồng cũng không được rẫy vợ.” (1 Cr 7,3-5.10-11)
* phẩm trật các vai trò: “Nhưng tôi muốn anh em biết rằng
thủ lãnh của người nam là Đức Ki-tô, thủ lãnh của người
nữ là người nam, và thủ lãnh của Đức Ki-tô là Thiên
Chúa.... 8 Thật vậy, không phải người nam tự người nữ mà
có, nhưng người nữ tự người nam. 9 Cũng chẳng phải
người nam được dựng nên vì người nữ, nhưng người nữ vì
người nam. 11 Tuy nhiên, trong Chúa, không nam thì chẳng
có nữ, và không nữ thì chẳng có nam. 12 Thật thế, như
người nữ tự người nam mà có, thì người nam cũng bởi
174
người nữ mà sinh ra, và mọi sự đều tự Thiên Chúa mà có.”
(1 Cr 11,3.8-9.11-12).
2°) Tránh tội gian dâm làm hoen ố thân xác: «Anh em hãy
tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài
thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân
xác mình.» (1 Cr 6,18).
175
3°) Tránh gương mù gương xấu: Phải đau buồn về tình
trạng tội lỗi trong cộng đoàn và loại trừ người phạm tội
loạn luân ra khỏi cộng đoàn, để tránh gây gương mù gương
xấu cho người khác (1 Cr 5,2).
5.2 Liên quan tới giáo huấn về Hôn Nhân Gia Đình
1°) Kính trọng gia đình là quà tặng của Thiên Chúa.
2°) Làm nổi bật những tính chất của hôn nhân gia đình Ki-
tô giáo: yêu thương, tha thứ, gắn bó, thủy chung, phò sự
sống, thánh thiện.
3°) Làm cho gia đình chúng ta thành Hội thánh nhỏ, Hội
thánh tại gia với sứ mạng truyền giáo.
176
2) Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Ơn được nên công
chính phải được hiểu như thế nào?
3) Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Ơn được nên công
chính phải được các Ki-tô hữu sống như thế nào?
177
được chữa lành".
Con ca ngợi Chúa vì Chúa muốn con được trọn vẹn.
Con cảm tạ Chúa vì Chúa quá thân thiện, quá yêu thương
và quan tâm đến nhu cầu của con.
Chúa muốn chữa lành con về tâm linh, tâm lý, tình cảm,
mối quan hệ và thể xác của con.
Con ca ngợi Chúa là Thiên Chúa quyền năng đã ban Thánh
Thần cho con.
Con xin thành tâm thống hối ăn năn và nhận Chúa Giê-su
là Đấng Cứu độ của con. Ngài là nguồn Nước Hằng sống
cung cấp cho con nhờ sự chết và sự sống lại của Ngài.
Lạy Chúa Giê-su, hôm nay con mời Chúa bước vào cuộc
đời con, vào căn nhà tâm linh của con, xin ánh sáng Phục
sinh của Chúa chiếu soi vào những nơi tăm tối trong tâm
hồn con, để nhờ Ánh sáng của Chúa con được thanh tẩy và
chữa lành.
Lạy Chúa, xin chữa lành mối quan hệ của con với Chúa:
do tội lỗi, do thiếu lòng tin đã làm cho mối quan hệ của
con với Chúa không khắng khít, không tốt đẹp, và xa cách.
Con muốn hàn gắn lại mối quan hệ của con với Chúa như
ngày con mới chịu phép rửa được tinh tuyền, trong sạch,
lòng hân hoan và tràn đầy ân sủng làm con cái Chúa.
Xin Chúa cắt đứt mối quan hệ của con với bóng tối như mê
tín dị đoan, bói toán, tử vi, lên đồng...
Xin Chúa chữa lành quan hệ bị sứt mẻ hay đỗ vỡ của con
với ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, họ
hàng, bạn bè, ông chủ, bạn làm ăn, chủ chiên, người trong
cộng đoàn, trong hội đoàn, trong nhóm nhỏ. Con xin tha
thứ cho người làm con buồn lòng, đau khổ và chúc lành
178
cho người đó, nếu như con đã chúc dữ, nguyền rủa họ, xin
nhờ Danh Chúa bẻ gẫy và vô hiệu hóa những lời chúc dữ,
nguyền rủa đó.
Xin Chúa bẻ gẫy và làm vô hiệu hóa những lời nguyền rủa,
chúc dữ trên con bất cứ đến từ ai.
Xin Chúa chữa lành mặt tâm lý của con như: luôn có ý
nghĩ xấu về người khác, mặc cảm sợ hãi, lo lắng, mặc cảm
bị ghét bỏ, bị thua kém, tư tưởng và ước muốn thiếu trong
sạch. Xin Nước và Máu từ cạnh sườn Chúa tẩy rửa tâm trí
con.
Xin Chúa chữa lành những tật xấu của con: tật nói xấu,
ganh tỵ, chia rẽ, nóng nảy, giận hờn, khoe khoang, nói tục,
cờ bạc, rượu chè, hút sách, tham ăn, gian lận, thèm muốn
vợ chồng người... Xin Chúa cắt bỏ những tật xấu ấy khỏi
con người con.
Xin Chúa giúp con hoàn toàn tha thứ được cho người làm
con đau khổ nhất. Xin cho con không còn nhớ tới chuyện
đau khổ ấy, và lấy ra khỏi tiềm thức của con.
Con cảm tạ, ngợi khen Chúa Giêsu đã chữa lành cho con.
Xin Chúa đổ tràn Thánh Thần trên con, trong con. Xin đổ
Thần Khí khôn ngoan vào tâm trí con, Thần Khí yêu
thương vào trái tim con, Thần Khí trong sạch vào đôi mắt
con, Thần Khí hiểu biết vào đôi tai con, Thần Khí bình an
và hoan lạc trong tâm hồn con. Con chúc tụng, ngợi khen
và cám ơn Chúa. Amen.
Sáng danh Đức Chúa Cha, và Đức Chúa Con và Đức Chúa
Thánh Thần.
Như đã có trước vô cùng và bây giờ và hằng có và đời đời
179
chẳng cùng. Amen.
(Trích tập “GIỜ BÊN CHÚA” của Hội Thánh Linh
Seattle, WA/USA)
180
ĐỀ TÀI XII
GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAO-LÔ
VỀ ƠN ĐƯỢC NÊN CÔNG CHÍNH
181
khắp thế giới cho mọi người, Ngài đã chết trong đau
thương để ta sống bình an.
PK 1: Còn tình yêu nào cao vời vợi bằng tình Chúa đã
thương ta. Dù rằng đất trời mãi đổi thay, nhưng tình Chúa
vẫn yêu ta đến muôn muôn đời.
PK 2: Ngài hằng mong chờ luôn mời gọi người người sống
yêu thương nhau. Để tình yêu Ngài mãi tràn lan trong tình
chúng ta yêu nhau sống vui an bình.
182
3.3 Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Ơn được nên công
chính phải được các Ki-tô hữu sống như thế nào?
183
«38 Thưa anh em, xin biết cho điều này: chính nhờ Đấng ấy
mà ơn tha tội được loan báo cho anh em ; 39 và trong khi
anh em không thể được giải thoát khỏi tội lỗi mà trở nên
công chính nhờ tuân giữ Luật Mô-sê, thì nhờ Người, mọi
kẻ tin đều được nên công chính» (Cv 13,38-39).
- «15Chúng ta bẩm sinh là người Do-thái chứ không phải
hạng người tội lỗi xuất thân từ dân ngoại. 16Tuy nhiên, vì
biết rằng con người được nên công chính không phải nhờ
làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giê-su
Ki-tô, nên chúng ta cũng tin vào Đức Ki-tô Giê-su, để
được nên công chính, nhờ tin vào Đức Ki-tô, chứ không
phải nhờ làm những gì Luật dạy. Quả thế, không phàm
nhân nào sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật
dạy. 17 Nhưng nếu khi tìm cách nên công chính trong Đức
Ki-tô mà chúng ta vẫn bị liệt vào hàng tội lỗi, thì chẳng
hóa ra Đức Ki-tô là người phục vụ tội lỗi sao? Không phải
thế! 18 Thật vậy, nếu tôi xây lại những gì tôi đã phá, thì tôi
tỏ ra mình là kẻ phạm pháp. 19Quả thế, tại vì Lề Luật mà
tôi đã chết đối với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Tôi
cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá. 20Tôi
sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống
trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin
vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì
tôi. 21Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu,
vì nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hoá ra
Đức Ki-tô đã chết vô ích.» (Gl 2,15-21).
(2o) Thiên Chúa ban ơn được nên công chính một cách
nhưng không «21Nhưng ngày nay, sự công chính của
184
Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Mô-
sê. Điều này, sách Luật và các ngôn sứ làm chứng. 22Quả
thế, người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính
nhờ lòng tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Tất cả những ai tin đều
được như thế, bất luận là ai. 23Thật vậy, mọi người đã
phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, 24nhưng
họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban
không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức
Ki-tô Giê-su. 25Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội
nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy,
Thiên Chúa cho thấy Người là Đấng Công Chính. Trước
kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Người đã bỏ qua các
tội lỗi người ta phạm. 26Nhưng bây giờ, Người muốn cho
thấy rằng Người vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ
tin vào Đức Giê-su được nên công chính. 27Vậy thì hãnh
diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện! Dựa vào luật
nào mà hãnh diện? Vào việc làm chăng? Không, nhưg dựa
vào lòng tin. 28Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta
được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những
gì Luật dạy. 29Hay là Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của
người Do-thái thôi? Thiên Chúa không là Thiên Chúa của
các dân ngoại nữa sao? Có chứ! Người cũng là Thiên
Chúa của các dân ngoại nữa, 30vì chỉ có một Thiên Chúa,
Đấng làm cho người được cắt bì nên công chính vì họ tin,
và làm cho người không được cắt bì nên công chính cũng
bởi họ tin. 31Vậy có phải là chúng ta dựa vào đức tin mà
hủy bỏ Lề Luật chăng? Không phải thế! Trái lại, chúng ta
củng cố Lề Luật.» (Rm 3,21-31).
185
(3o) Tin Mừng là sức mạnh cứu độ và là mạc khải sự
công chính của Thiên Chúa «16Vâng, tôi không hổ thẹn vì
Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa
dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do-
thái, sau là người Hy-lạp. 17Vì trong Tin Mừng, sự công
chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin để đưa
đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức
tin sẽ được sống.» (Rm 1,16-17).
(4o) Được giải thoát khỏi Lề Luật cũ, người tín hữu
được ơn được nên công chính và được làm con cái
Thiên Chúa «23Trước khi đức tin đến, chúng ta bị Lề Luật
giam giữ, cho tới khi đức tin được mạc khải. 24Như thế Lề
Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Ki-
tô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin. 25Nhưng
khi đức tin đến, thì chúng ta không còn ở dưới quyền giám
hộ nữa. 26Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con
cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô» (Gl 3,23-26).
(5o) Người tín hữu được nên công chính cũng có nghĩa
là người ấy được thánh hóa và cứu dộ
Ơn được nên công chính nhắm mục đích làm cho tín hữu
thông phần vào một phẩm tính khác của Thiên Chúa: đó là
sự thánh thiện: “Thiên Chúa đã chọn anh em ngay từ lúc
khởi đầu, để cứu độ anh em nhờ Thần Khí Thánh Hóa và
nhờ lòng tin vào chân lý” (2 Tx 2,13). Sự thánh thiện nằm
ở chỗ tín hữu, nhờ tác động của Thần Khí, thanh luyện
mình dần dần khỏi tội lỗi và kết hiệp mỗi ngày một hơn
với Thiên Chúa chí thánh. Sự công chính đi liền với sự
thánh thiện và phúc cứu độ: “Phần anh em, chính nhờ
186
Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Ki-tô
Giê-su, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự
khôn ngoan xuất phát từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho
anh em trở nên công chính, đã thánh hóa và cứu chuộc
anh em…” (1 Cr 1,30).
5.2 Thứ hai là thể hiện lòng tin sâu sắc, cá vị, dấn thân
vào Chúa Giê-su Ki-tô
tức thể hiện mối tương quan liên-ngôi-vị với Chúa Ki-tô,
phó thác thân mình và cuộc đời của mình cho Người. Đức
187
tin là thái độ nội tâm, nhưng được biểu lộ ra bên ngoài
bằng lời tuyên xưng trên môi miệng trong bí tích Thánh
Tẩy. Hậu quả của đức tin, tức cũng là của bí tích Thánh
Tẩy, là tạo nên những tương quan mới giữa người tín hữu
với Chúa Ki-tô, với Chúa Thánh Thần và với Chúa Cha.
5.4 Thứ bốn là cố gắng trở nên một với Chúa Ki-tô Giê-
su
Thánh Phao-lô nói: «Bất cứ ai trong anh em được thanh
tẩy để thuộc về Đức Ki-tô…đều mặc lấy Đức Ki-tô… Mà
nếu anh em thuộc về Đức Ki-tô thì anh em là dòng dõi ông
Áp-ra-ham, những người thừa kế theo lời hứa.» (Gl 3,27-
29; Rm 7,4). Người ta có thể nói tới một sự đồng hóa với
Đức Ki-tô, vì người tín hữu được Chúa Cha hoạch định là
nên “đồng hình đồng dạng với Con của Người” (Rm
8,29).
188
Xin ghi nhật ký để chuẩn bị chia sẻ vào lần học tới với các
anh chị em khác.
189
cách nhưng không, nghĩa là không phải do công lao gì của
chúng ta cả mà hoàn toàn do Lòng Thương của Người mà
thôi. Chúng ta hãy dâng lời tạ ơn Thiên Chúa.
190
PK 1: Vì tình yêu bao la Chúa nâng đỡ con như phượng
hoàng tung đôi cánh. Chúa dắt dìu con đi trong ánh sáng
Người hạnh phúc nào hơn.
PK 2: Dù đời con thương đau sống bên Chúa con luôn cậy
trông nơi Danh Chúa. Chúa đoái nhìn xem con trong lúc
vui sầu an ủi nào hơn.
191
ĐỀ TÀI XIII
LINH ĐẠO KI-TÔ HỮU THEO GIÁO HUẤN
CỦA THÁNH PHAO-LÔ
192
PK 1: Vì tình Cha ôi quý trọng thay. Muôn ơn lành chan
chứa trời mây. Từng cao xanh lừng tiếng ngàn dân. Hát
khúc ca tạ ơn.
PK 2: Bầu trời long lanh ánh ngàn sao. Mây lưng trời
sương tuyết ngàn cao. Rền vang lên nhạc khúc hoà ca.
Kính đáp ân tình Cha.
3.2 Linh đạo hay cách sống hay con đường nên thánh của
Ki-tô hữu theo Thánh Phao-lô phải được hiểu như thế
nào?
193
3.3 Linh đạo hay cách sống hay con đường nên thánh của
Ki-tô hữu theo Thánh Phao-lô phải được sống như thế
nào ?
IV. HỌC HỎI
[Sách Thánh cần đọc: Gl 2,16.20; 5,16-23; Rm 3,22.26;
5,5; 6,4; 7,6; 8,2-3.14-17; 10,9; 15,9; Pl 3,12; Tt 3,5; 1
Cr 3,9-11; 10,14-16 ; 2 Cr 1,21; 4,10-12; 5,5 ; Cv 9,17; 1
Tx 1,5 ; Ep 1,17-20 ; 2,18-21; 3,16; 5, 25-32; 2 Tm 1,7 ;
Hs 2, 4-5; Is 54,5; 62,5; Gr 2,2-23; Ed 16]
(2o) Có nhiều định nghĩa về linh đạo hay cách sống hay
con đường nên thánh của Ki-tô hữu.
Sau đây là một vài định nghĩa có thể giúp chúng ta hiểu rõ
hơn:
a) «Trong kinh nghiệm của tôi, định nghĩa tốt nhất và
chính xác nhất của linh đạo đơn giản chỉ là “tôi đối phó thế
nào với cuộc sống.» (Gerard Broccolo, Vital Spiritualities).
b) «Trong nghĩa thông thường nhất, linh đạo là những con
đường (cách) và mô hình nhờ đó một người, bằng trí tuệ,
cảm xúc và thể lý, liên hệ được với cái là thực nhất và quí
194
giá nhất cho người ấy.» (James Nelson, The Intimated
Connection).
c) «Trong nghĩa rộng, linh đạo có thể được miêu tả là con
đường nên thánh… nhưng khi các phương thế kết hiệp với
Thiên Chúa trở nên cụ thể thì xuất hiện nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Một cách tiếp cận đặc biệt để kết hiệp với
Thiên Chúa được gọi là linh đạo.» (George Lane, Christian
Spirituality).
d) «… Linh đạo không được miêu tả một cách thỏa đáng là
xây dựng mối tương quan cá nhân với Thiên Chúa: một
não trạng “Chúa Giê-su và tôi”. Có lẽ sự canh tân cơ bản
nhất của Công Đồng Va-ti-ca-nô II là “chiều kích cộng
đoàn” của mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa là
Đấng muốn cứu rỗi chúng ta không phải với tư cách cá
nhân mà với tư cách cộng đoàn: “Tuy nhiên, Thiên Chúa
không muốn thánh hóa và cứu rỗi loài người cách riêng rẽ,
thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn qui tụ họ thành một dân
tộc để họ nhận biết chính Ngài trong chân lý, và phụng sự
Ngài trong thánh thiện.» (Ánh sáng muôn dân, 2)
(Katherine Dyckman & Pat Carroll, Inviting the Mystic,
Supporting the Prophet).
e) «Linh đạo là cách chúng ta đáp lại cuộc sống như thế
nào với tất cả sự thật của mình.» (Jean Hunter đồng ý với
Jen Galbraith).
f) «... Các bản văn Thánh Kinh là những lời đáp lại sự hiện
diện khai mào và mầu nhiệm của Thiên Chúa trong quá
trình cuộc sống con người.» (Michael Fishbane, Text and
Texture).
195
g) «Linh đạo Thánh Kinh mời gọi chúng ta, từng cá nhân
cũng như với tư cách cộng đoàn, đưa bản văn Thánh Kinh
vào trong tiến trình trở nên chính chúng ta, một tiến trình
cực nhọc, lâu dài và khổ đau, là một phần của mầu nhiệm
hình thành của Nước Thiên Chúa. Chúng ta phải để cho
Lời Chúa thấm sâu vào sự tự vệ của chúng ta, thách đố
chúng ta một cách quyết liệt, để chúng ta trở lại và đi vào
cuộc sống mới. Nhưng tiến trình này cũng đòi hỏi chúng ta
từ bỏ chính mình. Có nghĩa là một phần của chúng ta phải
chết đi.» (Karen Barta, Gospel of Mark).
4.2 Linh đạo Ki-tô hữu theo Thánh Phao-lô phải được
hiểu như thế nào?
Linh mục Norbertô Nguyễn Văn Khanh, ofm, đã dành
Chương XIII là chương cuối của cuốn Sách THÁNH
PHAO-LÔ CUỘC ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG (2008), từ
trang 181 đến hết trang 205, cho chủ đề “Linh Đạo Ki-tô
hữu theo Thánh Phao-lô”.
Thiết nghĩ khó có ai có thể viết một bài đầy đủ hơn chương
XIII này, nên tôi sẽ rút gọn chương này làm nội dung cho
phần trình bày này.
Trước hết chúng ta hãy ghi nhận ý kiến xác đáng của cha
Norbertô Nguyễn Văn Khanh trong câu nói này:
“Khi nói đến đời sống thiêng liêng, chúng ta không chỉ
nghĩ tới đời sống nội tâm, liên hệ đến phần tâm linh, mà tới
đời sống cụ thể của con người toàn diện gồm linh hồn và
thể xác, cá nhân và cộng đoàn, một đời sống được linh
196
hoạt bởi tinh thần Ki-tô hữu hay chính xác và sâu xa hơn,
bởi Thần Khí của Thiên Chúa” (sđd, trang 181).
Linh đạo Ki-tô hữu theo giáo huấn của Thánh Phao-lô gồm
3 giai đoạn:
- Trước hết là bước vào đời sống mới,
- kế đến là gia nhập cộng đoàn các tín hữu và
- sau cùng là sống đời Ki-tô hữu như thế nào?
(c) Niềm tin ấy được diễn tả qua một công thức cơ bản:
“Đức Giê-su là Chúa” (Rm 10,9a): Có nghĩa là tuyên xưng
Vương Quyền của Đức Giê-su trên vũ trụ; cũng đồng
197
nghĩa với việc tin rằng “Thiên Chúa đã làm cho Người
sống lại từ cõi chết.” (Rm 10,9b; 4,24).
(d) Đức tin là thái độ nội tâm, nhưng được biểu lộ ra nên
ngoài bằng lời tuyên xưng trên môi miệng trong bí tích
Thánh Tẩy. Hậu quả là tạo nên những tương quan mới
giữa người tín hữu với Đức Ki-tô, với Chúa Thánh Thần
và với Chúa Cha.
(b) Nhờ đức tin và bí tích Thánh Tẩy, người tín hữu
thuộc về Đức Ki-tô: “27 Quả thế, bất cứ ai trong anh em
được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức
Ki-tô. 28 Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp,
nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em
chỉ là một trong Đức Ki-tô. 29 Mà nếu anh em thuộc về
Đức Ki-tô, thì anh em là dòng dõi ông Áp-ra-ham, những
người thừa kế theo lời hứa” (Gl 3,27-29; Rm 7,4).
(c) Người ta có thể nói đến một sự đồng hóa với Đức Ki-
tô. Chúa Cha đã tiền định cho các tín hữu nên đồng hình
đồng dạng với Con của Người (Rm 8,29), nhưng điều đó
cũng đòi hỏi mỗi người phải nỗ lực vươn tới không ngừng,
như một vận động viên chạy đua nơi thao trường (Pl 3,12-
14).
198
(d) Nhờ đức tin và bí tích Thánh Tẩy, người Ki-tô hữu
được thông phần vào tình trạng chịu đóng đinh, chịu chết,
mai táng và sống lại của Đức Ki-tô: “ 3 Anh em không biết
rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc
về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái
chết của Người sao? 4 Vì được dìm vào trong cái chết của
Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi
thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ
quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng
được sống một đời sống mới. 5 Thật vậy, vì chúng ta đã
nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết,
thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại
như Người đã sống lại.” (Rm 6,3-5).
(c) Khi nhận bí tích Thánh Tẩy, người tín hữu lãnh
nhận Chúa Thánh Thần. Chính Người là đối tượng của
lời hứa mà Thiên Chúa đã tuyên bố với Áp-ra-ham ngày
199
xưa: “Như thế là để nhờ Đức Giê-su Ki-tô, các dân ngoại
cũng được hưởng phúc lành dành cho ông Áp-ra-ham, và
để nhờ đức tin, chúng ta nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa
tức là Thần Khí.” (Gl 3,14).
(b) Việc tín hữu được “đến cùng Thiên Chúa” giả định
một tương quan đặc biệt: tương quan con cái đối với Cha
200
mình. Thiên Chúa cho chúng ta làm em của Đức Giê-su và
được ơn làm con (Rm 8,29; Ep 1,5). Ơn ấy gắn liền với sự
hiện diện của Chúa Thánh Thần: “14 Quả vậy, phàm ai
được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái
Thiên Chúa. 15 Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận
Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như
xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ
đó chúng ta được kêu lên: "Áp-ba! Cha ơi! 16 Chính Thần
Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con
cái Thiên Chúa. 17 Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà
được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với
Đức Ki-tô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng
ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.” (Rm 8,14-
17).
(d) Ơn làm con đã được ban ngay bây giờ cho người tín
hữu, nhưng nó không ngừng phát triển cho tới mức viên
mãn ở đời sau, vì “chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân
huệ mở đầu, nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn
quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta
nữa.” (Rm 8,23).
201
(a) Hậu quả của đức tin, dưới một góc độ khác, là người
tín hữu được “trở nên công chính” trước mặt Thiên
Chúa: “38 Vậy thưa anh em, xin biết cho điều này: chính
nhờ Đấng ấy mà ơn tha tội được loan báo cho anh em; và
trong khi anh em không thể được giải thoát khỏi tội lỗi mà
trở nên công chính nhờ tuân giữ Luật Mô-sê, 39 thì nhờ
Người, mọi kẻ tin đều được nên công chính.” (Cv 13,38-
39).
Và: “Trái lại người nào không dựa vào việc làm nhưng tin
vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính,
thì lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công
chính.” (Rm 4,5).
(b) Thiên Chúa “công chính hóa” người tín hữu không
phải bằng một lời tuyên bố bên ngoài, nhưng biến đổi họ
tận tâm can, làm cho họ nên “một thụ tạo mới.”
(c) Người tín hữu, từ hoàn cảnh tội lỗi, được trở nên
“công chính” nghĩa là được tha thứ tội lỗi: “Thật vậy,
cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên
Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người
duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ
thành người công chính” (Rm 5,19).
(d) Được giải phóng khỏi tội lội, người tín hữu cũng
được giải phóng khỏi sự chết đời đời và sẽ được tham gia
vào sự sống lại của Đức Ki-tô” (Rm 8,11).
202
(e) Ơn được trở nên công chính nhắm làm cho người tín
hữuthông phần vào một phẩm chất khác của Thiên
Chúa: đó là sự thánh thiện: “Thiên Chúa đã chọn anh
em ngay từ lúc khởi đầu, để cứu độ anh em nhờ Thần Khí
thánh hóa và nhờ lòng tin vào chân lý” ( 2 Tx 2,13). Sự
thánh thiện nằm ở chỗ, nhờ tác động của Thần Khí, người
tín hữu thanh luyện mình dần đần khỏi tội lỗi và kết hiệp
một ngày một sâu sắc hơn với Thiên Chúa chí thánh. Sự
công chính đi liền với sự thánh thiện và phúc cứu độ:
“Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được
hiện hữu trong Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã trở nên sự khôn
ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan xuất phát từ Thiên
Chúa, Đấng làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh
hóa và cứu cuộc anh em…” (1 Cr 1,30).
203
(a) Thánh Phao-lô dùng nhiều hình ảnh bổ túc cho nhau
để diễn tả bản chất sâu xa của cộng đoàn các tín hữu là
Giáo hội: thửa ruộng (1 Cr 3,9), cây trồng (1 Cr 3,6), ngôi
nhà (1 Cr 3,9-11; Ep 2,20-21), tương quan vợ chồng (Ep 5,
25-32).
(b) Hình ảnh thường được dùng nhất là “thân mình của
Đức Ki-tô”. Hình ảnh và kiểu nói này xuất hiện trước hết
trong thư 1 Cô-rin-tô (6,12-20; 10,14-17; 12,12-27), sau đó
trong thư Rô-ma (12,4-5), trong các thư Cô-lô-xê (3,15) và
Ê-phê-xô (2,16);
(c) Giáo hội là thân mình Đức Ki-tô (Cl 1,24); các Ki-tô
hữu là chi thể của nhau (Ep 4,25) và của Chúa Ki-tô (Ep
5,20). Trong thư Ga-lát, Thánh Phao-lô nhấn mạnh sự hiệp
nhất của các Ki-tô hữu: “Không còn chuyện phân biệt Do-
thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà;
nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô (Gl 3,28).
Trong thư 1 Cr Thánh Phao-lô dùng hình ảnh “thân mình
Đức Ki-tô” để làm sáng tỏ bản chất của sự hiệp nhất ấy (1
Cr 12,4-11).
(d) Đức Ki-tô đóng vai là đầu của Thân Thể (Nhiệm
Thể): “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của
Hội Thánh” (Cl 1,18), “Đức Ki-tô là đầu của Hội Thánh,
chính Người là Đấng Cứu Chuộc Hội Thánh, thân thể
Người” (Ep 5,23).
204
(e) Các Ki-tô hữu được “nên một” với Đức Ki-tô, thì
cũng “nên một” với nhau (1 Cr 12,12-27; Rm 12,4-5).
Các chi thể trong nhiệm thể sống được nhờ liên kết với đầu
và lớn lên được nhờ sự liên kết đó mỗi ngày một chặt chẽ
hơn: “15 Nhưng, sống theo sự thật và trong tình bác ái,
chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Ki-
tô vì Người là Đầu. 16 Chính Người làm cho các bộ phận
ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ
mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động
theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn
thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái. (Ep 4,15-
16)
(g) Thánh Phao-lô còn dùng một hình ảnh khác rất có ý
nghĩa là tương quan vợ chồng. Trong cựu ước Ít-ra-en đã
được Thiên Chúa đối xử như một người vợ, một người vợ
bất trung (Hs 2, 4-5; Is 54,5; 62,5; Gr 2,2-23; nhất là Ed 16
và Diệu Ca). Đức Giê-su cũng đã tự xem mình là lang
quan cộng đoàn của mình (Mc 2,19-20) Gio-an Tẩy Gỉa
cũng đã triển khai (Ga 3,29). Sau này trong sách Khải
Huyền Giáo hội được gọi là “Hiền Thê của Con Chiên”
(Kh 21,2.9;22,17).
“22 Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục
Chúa, 23 vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Ki-tô là đầu
của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội
Thánh, thân thể của Người.24 Và như Hội Thánh tùng phục
Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong
mọi sự như vậy.
205
25Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-
tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; 26 như
vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước
và lời hằng sống, 27 để trước mặt Người, có một Hội Thánh
xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ
một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. 28
Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình.
Yêu vợ là yêu chính mình. 29 Quả vậy, có ai ghét thân xác
mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc
thân xác mình, cũng như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc
Hội Thánh,30 vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của
Người. 31 Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người
đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ
thành một xương một thịt. 32 Mầu nhiệm này thật là cao cả.
Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh. 33 Vậy mỗi người
trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy
kính sợ chồng. (Ep 5,22-33).
(2o) Một kiểu nói độc đáo: Trong Đức Ki-tô Giê-su
(a) Thánh Phao-lô thường nói trong Đức Ki-tô Giê-su
hay trong Đức Ki-tô và không bao giờ nói trong Đức Giê-
su hay trong Đức Giê-su Ki-tô (như Gio-an). Đó là chứng
cớ hiển nhiên cho thấy Phao-lô không nhìn Đức Giê-su
trong tư cách cá nhân, nhưng theo chức năng Mê-si-a của
Người, trong tư cách là A-đam mới.
(b) Kiểu nói trong Đức Ki-tô Giê-su rõ ràng liên hệ đến
thần học của Thánh Tông Đồ về Thân Thể Mầu Nhiệm:
206
- “Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa
trong Đức Ki-tô Giê-su” (en Khristô Iesu). Quả thế, bất cứ
ai trong anh em được thanh tẩy trong Đức Ki-tô” (eis
Khriston), đều mặc lấy Đức Ki-tô. Không còn chuyện phân
biệt Do Thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn
bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Ki-tô” (Gl
3,26-27).
- “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào
nước trong Đức Ki-tô Giê-su” (eis Khriston Iesoun), là
chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì
được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta cùng
được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã
được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của
Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới.
Thật vậy, vì chúng ta đã nên một thân cây với Đức Ki-tô,
nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên
một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại”
(Rm 6,3-5).
- “Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng
nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi
người phải chết trong A-đam, thì mọi người cũng được
Thiên Chúa cho sống lại trong Đức Ki-tô” ( 1 Cr 15,21-
22).
207
hợp này kiểu nói trong Đức Ki-tô Giê-su nói lên tương
quan sống động giữa các Ki-tô hữu với Đức Ki-tô và với
nhau trong cùng một Nhiệm Thể duy nhất.
* Trong một số ít trường hợp theo nghĩa nhẹ, kiểu nói
trong Đức Ki-tô Giê-su có nghĩa theo tinh thần Phúc âm
hay tinh thần Ki-tô giáo.
Vậy chúng ta có thể kết luận là trong Đức Ki-tô Giê-su là
kiểu nói ám chỉ Giáo hội với tư cách là Nhiệm Thể của
Chúa Ki-tô.
208
biểu lộ qua việc noi gương lối sống của Chúa. Thánh
Phao-lô nhiều lần diễn tả bổn phận noi gương Chúa một
cách cụ thể: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước
Đức Ki-tô (1 Cr 11,4; 4,16; 1 Tx 1,6; 2 Tx 3,7). Người mời
gọi họ hãy sống xứng đáng với Chúa (Cl 1,10; 2,6; Ep
4,1). Sự noi gương này chính là sự đồng hóa với Đức Ki-
tô, tức với cái chết và sự sống lại của Người: “10 Chúng tôi
luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giê-
su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân
mình chúng tôi. 11 Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái
chết đe dọa vì Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su
cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi. 12
Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì
lại hoạt động nơi anh em.” (2 Cr 4,10-12).
(b) Ngay từ bây giờ Thần Khí biến đổi các Ki-tô hữu
thành những con cái của Chúa Cha và những người em
của Đức Ki-tô (Gl 4,6). Tất nhiên họ không phải là những
người con theo bản tính, nhưng theo ơn được nhận: tuy
nhiên ơn dưỡng tử này này cũng không phải là một tương
209
quan pháp lý, nhưng biến chúng ta nên đồng hình đồng
dạng với Đức Ki-tô, để rồi Đức Ki-tô trở nên anh trưởng
giữa một đàn em đông đảo (Rm 8,29). Thần Khí vừa là
nguyên lý tạo nên sự biến đổi đồng thời là chứng cớ bảo
đảm cho sự chân thật: “Chính Thần Khí chứng thực cho
trần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa”
(Rm 8,16).
(c) Bởi đó người Ki-tô hữu phải từ bỏ lối sống “theo xác
thịt” nghĩa là theo những thúc đầy của con người tự nhiên,
để sống theo Thần Khí (Gl 5,25). Phao-lô nêu ra một số
hành vi cụ thể của hai lối sống đối lập ấy trong thư gửi tín
hữu Ga-lát: “16 Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo
Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thỏa mãn đam
mê của tính xác thịt nữa. 17 Vì tính xác thịt thì ước muốn
những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước
muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình
địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em
muốn. 18 Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh
em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa. 19 Những việc do tính
xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng
đãng, 20 thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông,
nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, 21 ganh tỵ, say sưa,
chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo
trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các
điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa. 22
Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an,
nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, 23 hiền hoà, tiết độ.
210
Không có luật nào chống lại những điều như thế.” (Gl
5,16-23).
(d) Ngoài ơn trọng đại là biến đổi các Ki-tô hữu thành
con cái Thiên Chúa, Thần Khí còn là nguyên lý của sự
khôn ngoan (1 Cr 10,14-16; Ep 1,17-20), của sức mạnh
nội tâm (Rm 8,14-16; Ep 3,16; 2 Tm 1,7) và nhất là của
tình yêu (Rm 5,5).
(e) Thần Khí đích thực là nguồn sự sống cho các tín
hữu. Chính người là sức mạnh nhờ đó Chúa Cha đã cho
Đức Giê-su trỗi dậy từ cõi chết (Rm 1,4). Nay Người
không ngừng hoạt động nới các tín hữu để giúp họ thực
hiện cuộc sống công chính và thánh thiện (Rm 8,10-11):
cuộc sống này tuy còn bất toàn, bao lâu con người còn
sống trên trần gian, nhưng sẽ triển nở thành sự sống đời
đời (Gl 6,8; Rm 6,22). Bây giờ các tín hữu mới thu lượm
hoa trái đầu mùa; mai sau sẽ là mùa màng chan chứa (2 Cr
1,22; 5,5; Rm 8,23; Ep 1,14).
(f) Được khắc ghi dấu ấn của Thần Khí trong ngày chịu
phép Thánh Tầy (Ep 1,13), được Thần Khí giải khát và
nuôi sống (1 Cr 12,13), được trở nên đền thờ của Người (1
Cr 6,9) người tín hữu có bổn phận là lắng nghe tiếng
Người, đứng dập tắt sự thúc đầy của Nguời (1 Tx 5,19).
Tất cả đời sống và nền tảng luân lý của Ki-tô hữu có thể
được tóm tắt trong một câu: “Nếu chúng ta sống nhờ Thần
Khí, thì cũng hãy nhở Thần Khí mà tiến bước” (Gl 5,25).
211
(3o) Đến với Chúa Cha khởi điểm và cùng đích
(a) Chúng ta biết điều mà Thiên Chúa nhắm trong công
trình sáng tạo và cứu chuộc của Người là đặt để Con
Một của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đảo
(Rm 8, 29; Ep 1,5). Chương trình ấy đã được thực hiện qua
Mầu Nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa (Gl 4,6-7).
(b) Hậu quả là các tín hữu được trở thành con cái của
Chúa Cha nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô (Gl 3,26): tương
quan ấy không ngừng phát triển cho tới ngày Đức Ki-tô và
mọi chi thể của Người xuất hiện trong vinh quang (Rm
8,19-23; Cl 3,4). Mọi tín hữu đều vững tin rằng họ sẽ được
dẫn vào trong tình thân ái của Chúa Cha: “Thật vậy, nhờ
Người (Đức Ki-tô) cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong
một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.” (Ep
2,18).
(c) Đối với các Ki-tô hữu Thiên Chúa là người Cha: Cha
của Đức Giê-su Ki-tô và Cha của họ. Chính Người có sáng
kiến đặt ra chương trình vĩ đại ấy, và chỉ với mục đích là
đổ tràn trên chúng ta nguồn vinh quang chan chứa của
Người. Người là nguồn gốc mọi ân huệ ban xuống cho con
người một cách nhưng không.
212
một lễ phẩm được Người vui nhận (Rm 12,1; 15,16; Pl
4,18).
(b) Mặc dầu Phao-lô vẫn luôn luôn ý thức thân phận tội
lỗi và hèn yếu của mình (1 Tm 1,15; 2 Cr 4, 7; 11,29-30),
nhưng ý nghĩ về tình yêu cứu chuộc của Thiên Chúa được
biểu lộ ra nơi lễ tế của Đức Ki-tô luôn tạo ra nơi vị tông đồ
một niềm tin tưởng không bao giờ phai nhạt: cuộc chiến
thắng của Đức Ki-tô trên sự tội và sự chết chẳng bảo đảm
cho các Ki-tô hữu là họ cũng sẽ chiến thắng như Người và
nhờ Người sao? (1 Cr 15,57). Vì thế mà tâm tình tri ân và
cảm tạ được Người nhắc đi nhắc lại:
- “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như
vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su”
(1 Tx 5,18).
- “Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự hãy nhân danh Đức
Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là
Cha” (Ep 5,20).
- “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh
Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha”
(Cl 3,17).
- “Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van
xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những
điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4,6).
213
- “Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui
mừng trong mọi cơn gian khốn khó” (2 Cr 7,4).
- “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc
lại: vui lên anh em” (Pl 4,4).
- “Anh em hãy vui mừng luôn mãi” (1 Tx 5,16).
- “Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt trên mọi hiểu
biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp vời Đức Ki-tô
Giê-su” (Pl 4,4).
- “Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng
là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần”
(Rm 14,17).
(b) Các tác giả khác của Tân Ước dùng một hình ảnh gợi
hình hơn: chúng ta đang sống vào “những ngày cuối
cùng” (Cv 2,17; 1 Pr 1,20; 1 Ga 2,18: giờ cuối cùng).
Còn các ngôn sứ xưa dùng kiểu nói “Thời cuối cùng” (Is
2,2; Mi 4,1 v.v…). Thánh Phao-lô dùng kiểu nói này một
đôi lần (1 Tm 4,1; 2 Tm 3,1). Kiểu nói này ám chỉ một
214
tương lai xa xôi, nhưng là thời gian hiện tại, thời gian hoạt
động của Đấng Cứu thế.
(c) Thời gian hiện tại là thời gian mà Nhiệm Thể Chúa
Ki-tô đang phải lớn lên cho đến ngày đạt tới mức mà
Thiên Chúa đã ấn định (Ep 4,15-16), Mỗi cá nhân Ki-tô
hữu phải lớn lên và ngôi đền thờ Giáo hội cũng phải vươn
tới chỗ hoàn tất (Cl 2,19; Ep 4,16). Cuộc khải hoàn của
Đức Ki-tô sẽ được mở rộng tới muôn loài, muôn vật; rồi
chính Đức Ki-tô lại trao toàn quyền lại cho Thiên Chúa. (1
Cr 15,25-28).
4.3 Linh đạo hay cách sống hay con đường nên thánh
của Ki-tô hữu theo Thánh Phao-lô phải được sống như
thế nào ?
215
V. ỨNG DỤNG [SỐNG LINH ĐẠO]
Sống giáo huấn của Thánh Phao-lô về Ơn được nên công
chính không thể không thực hiện 4 điều quan trọng dưới
đây:
5.1 Thứ nhất là tăng cường đời sống đức tin là cửa ngõ
dẫn đưa chúng ta vào cuộc sống mới, cuộc sống của kẻ tin.
5.2 Thứ hai là thiết lập mối quan hệ thâm sâu, mật thiết
với Chúa Giê-su Ki-tô là Chúa, là Thầy, là Lẽ Sống và
Mục Đích đời người tín hữu.
5.3 Thứ ba sống dưới sự soi sáng, hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần để trở thành một tạo vật mới.
5.4 Thứ bốn là sống tình con thảo với Chúa Cha là Cha
Chúa Giê-su Ki-tô và là Cha mọi người.
216
6.2 Câu hỏi gợi ý tìm hiểu
1) Ngoài các giáo huấn quan trọng về Ki-tô giáo, Thánh
Phao-lô còn để lại di sản quý giá nào cho Hội Thánh và các
Ki-tô hữu?
2) Phong cách lãnh đạo hay phục vụ (Chúa Ki-tô và Hội
Thánh) của Thánh Phao-lô gồm những yếu tố quan trọng
nào?
3) Phong cách lãnh đạo hay phục vụ (Chúa Ki-tô và Hội
Thánh) của Thánh Phao-lô có những đặc điểm gì?
4) Làm thế nào để chúng ta học được phong cách lãnh đạo
hay phục vụ (Chúa Ki-tô và Hội Thánh) của Thánh Phao-
lô?
217
7.2 Cùng cầu nguyện
Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Ki-tô Giê-su và là Cha
của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng
Cha vì Cha đã ban cho Hội Thánh Cha một người con ưu
tú là Phao-lô, một môn đệ xuất sắc noi gương cho chúng
con bắt chước Chúa Ki-tô, một Tông Đồ Nhiệt Thành đã
đóng góp bao nhiêu công sức cho Công Cuộc Loan Báo
Tin Mừng cho Dân Ngoại và xây dựng Hội Thánh thời
khởi đầu. Xin Cha ban cho chúng con lòng mến Chúa yêu
người nồng nàn và tâm hồn cháy bỏng lửa Truyền Giáo
của Thánh Phao-lô. Chúng con xin vì Danh Chúa Giê-su
Ki-tô, Con Chúa, Chúa chúng con. A-men.
ĐK: Tình yêu Chúa cao vời biết bao nào con biết đáp đền
thế nào, để cho cân xứng Chúa ơi. Để cho cân xứng Chúa
ơi.
PK 1: Ôi tình yêu thương Chúa cao vời, tình yêu thương
Chúa muôn đời. Người yêu con tự ngàn xưa. Từ khi chưa
có đồi non, từ khi chưa có trời cao, chưa có vầng trăng với
ngàn sao. Gọi con giữa muôn muôn người, tìm con giữa
nơi bùn nhơ.
PK 2: Ôi vì thương con Chúa quên mình, vì yêu nên hiến
thân mình gọi con nên bạn tình Cha. Dù bao sóng gió hiểm
nguy, dìu con trên bước đường đi, ơn Chúa ngày đêm ấp ủ
con. Vì con Chúa quên thân mình, đời con dám mơ gì hơn.
218
ĐỀ TÀI XIV (TỔNG HỢP)
LÃNH ĐẠO THEO PHONG CÁCH
THÁNH PHAO-LÔ
219
ĐK: Này đây Chúa ơi con hiến dâng cho Ngài, niềm tin
tâm tư cùng trái tim nồng cháy. Từ đây hăng say theo bước
chân của Ngài trung kiên làm chứng nhân Nước Trời thắp
lên hạnh phúc cho muôn người.
PK 2: Xin cho con suốt một tình yêu cho đi là lẽ sống. Xin
cho con biết trung thành hoàn tất những bước chân đẹp
xinh. Nguyện một đời con tìm đến, đến với hết những ai
chân tình, để tình người mãi còn xanh ngát hương như hoa
xuân trên cành.
3.2 Phong cách lãnh đạo hay phục vụ (Chúa Ki-tô và Hội
Thánh) của Thánh Phao-lô gồm những yếu tố quan trọng
nào?
220
3.3 Phong cách lãnh đạo hay phục vụ (Chúa Ki-tô và Hội
Thánh) của Thánh Phao-lô có những đặc điểm gì?
3.4 Làm thế nào để chúng ta học được phong cách lãnh
đạo hay phục vụ (Chúa Ki-tô và Hội Thánh) của Thánh
Phao-lô?
4.1 Phong cách lãnh đạo hay phục vụ của Thánh Phao-
lô
Ngoài các Giáo Huấn quan trọng về Ki-tô giáo, Thánh
Phao-lô còn để lại cho Hội Thánh và các Ki-tô hữu một di
sản vô cùng quý giá. Đó là phong cách lãnh đạo hay phục
vụ (Chúa Ki-tô và Hội Thánh) mang đậm nét Phao-lô.
Chúng ta gọi là phong cách lãnh đạo của Thánh Phao-lô
và chúng ta sẽ nghiên cứu trong đề tài cuối cùng này.
4.2 Các yếu tố làm nên phong cách lãnh đạo hay phục
vụ của Thánh Phao-lô
Để có cái nhìn tổng hợp về phong cách lãnh đạo hay phục
vụ (Chúa Ki-tô và Hội Thánh) của Thánh Phao-lô, chúng
ta có thể nêu lên một số yếu tố quan trọng sau đây là
những yếu tố làm nên phong cách lãnh đạo ấy:
(1°) Yếu tố quan trọng thứ nhất trong phong cách lãnh
đạo hay phục vụ (Chúa Ki-tô và Hội Thánh) của Thánh
221
Phao-lô là Thánh Phao-lô ý thức và xác tín rằng ngài được
Thiên Chúa gọi và chọn cho một sứ mạng đặc biệt:
«Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn
trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người.
Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để
tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân
ngoại» (Gl 1,15-16).
(2°) Yếu tố quan trọng thứ hai trong phong cách lãnh
đạo hay phục vụ (Chúa Ki-tô và Hội Thánh) của Thánh
Phao-lô là Thánh Phao-lô đã chấp nhận sự thay đổi mà
Chúa Thánh Thần đòi hỏi nơi ngài. Có thể nói là ngài đã
thay đổi 180 độ, từ một kẻ bách hại triệt để trở nên người
sống và rao giảng Tin Mừng một cách nhiệt thành không
biết mệt mỏi:
«Phần chúng tôi, chúng tôi chẳng làm gì gây cớ cho ai vấp
phạm, để không người nào có thể đàm tiếu về công việc
phục vụ của chúng tôi. Trái lại, trong mọi sự, chúng tôi
luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của Thiên
Chúa: gian nan, khốn quẫn, lo âu, đòn vọt, tù tội, loạn ly,
nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực
kiên trì chịu đựng. Chúng tôi còn chứng tỏ điều đó bằng
cách ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu,
bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả
dối, bằng lời chân lý, bằng sức mạnh của Thiên Chúa.
Chúng tôi lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và tự vệ,
khi vinh cũng như khi nhục, lúc được tiếng tốt cũng như
khi mang tiếng xấu. Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực
chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ
222
thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết,
nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt,
nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền,
nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ; coi như nghèo túng,
nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu
có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất
cả.» (2 Cr 6,3-10).
(4°) Yếu tố quan trọng thứ bốn trong phong cách lãnh
đạo (phục vụ) của Thánh Phao-lô là Thánh Phao-lô đã đi
đó đi đây để rao giảng Tin Mừng và thiết lập các cộng
đoàn:
“Thật ra Chúa Ki-tô không gửi tôi đi rửa tội, nhưng là để
loan báo Tin Mừng.” (1 Cr 1,17)
“Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng.”
(1 Cr 9,16)
“Hãy rao giảng Lời Chúa! hãy lên tiếng, lúc thuận tiện
cũng như lúc không thuận tiện!” (2 Tm 4,2)
(5°) Yếu tố quan trọng thứ năm trong phong cách lãnh
đạo phục vụ (Chúa Ki-tô và Hội Thánh) của Thánh
223
Phao-lô là Thánh Phao-lô đã viết nhiều thư cho các cộng
đoàn và một số cá nhân để trình bày Giáo lý Ki-tô giáo
cũng như để khích lệ, uốn nắn, chấn chỉnh các tín hữu
trong đời sống luân lý và tâm linh.
Đọc trong Tân Ước, ta thấy có 13 thư mang tên tác giả
Phao-lô gởi cho các giáo đoàn hay cá nhân theo thứ tự: Rô-
ma, 1 và 2 Cô-rin-tô, Ga-lát, E-phê-sô, Phi-lip-phê, Cô-lô-
sê, 1 và 2 Thê-xa-lô-ni-ca, 1 và 2 Ti-mô-thê, Ti-tô, và Phi-
lê-mon. Một số học giả Thánh Kinh cho rằng tất cả 13 thư
trên là do Phao-lô viết hay những trợ tá trực tiếp viết.
Nhưng phần lớn các học giả Thánh kinh ngày nay tin rằng
chỉ có 7 thư do chính Phao-lô viết là: Ro-ma, 1 và 2 Cô-
rin-tô, Ga-lát, Phi-lip-phê, 1 Thê-xa-lô-ni-ca và Phi-lê-
mon. Ngay cả trong số 7 thư này cũng có những cộng sự
viên cùng viết với Ngài và tên của họ được liệt kê trong
những lời giới thiệu đầu thư như thư 1 và 2 Cô-rin-tô, Phi-
lip-phê, 1 Thê-xa-lô-ni-ca và Phi-lê-mon. Còn sáu thư còn
lại (2 Thê-xa-lô-ni-ca, Ê-phê-sô, Cô-lô-sê, 1 và 2 Ti-mô-
thê và Ti-tô) là đề tài tranh luận giữa những học giả Thánh
Kinh về tác quyền, và họ gọi những thư này là Thứ Kinh
(Deutero-Pauline letters).
Các thư của Thánh Phao-lô là một kho tàng phong phú và
vô giá về Giáo lý Ki-tô giáo với những giáo huấn quan
trọng mà chúng ta đã tìm hiểu: về Hội Thánh, về Thánh
Thể, về Thánh Thần, về các ân huệ của Thần Khí hay đặc
sủng, về Đức Ái, về sự phục sinh của Chúa Giê-su và sự
sống lại của loài người, về Thân xác và Hôn Nhân Gia
Đình, về Ơn được nên công chính.
224
(6°) Yếu tố quan trọng thứ sáu trong phong cách lãnh
đạo hay phục vụ (Chúa Ki-tô và Hội Thánh) của Thánh
Phao-lô là Thánh Phao-lô đã phát huy khả năng của các
cộng sự viên. Trong số các cộng sự viên đắc lực và thân tín
nhất phải kể tới Si-la hay Sil-va-nô, Ti-mô-thê và Ti-tô. Dĩ
nhiên Thánh Phao-lô luôn là người lãnh đạo và phối trí
công tác truyền giảng Tin Mừng, nhưng thánh nhân rất trân
trọng và quý mến các cộng sự viên của mình.
Đó là lý do giải thích tại sao khi kể lại cho tín hữu nghe
công tác truyền giáo, Thánh Phao-lô dùng từ “chúng tôi”
là ngôi thứ nhất số nhiều, chứ không dùng từ “tôi” là ngôi
thứ nhất số ít, ví dụ trong 1 Tx 1,1 và 2 Cr 1,19.
4.3 Đặc điểm của phong cách lãnh đạo hay phục vụ của
Thánh Phao-lô
Nếu nghiên cứu kỹ hơn về phong cách lãnh đạo hay phục
vụ (Chúa Ki-tô và Hội Thánh) của Thánh Phao-lô, chúng
ta sẽ tìm ra những đặc điểm sau đây:
(1°) Đặc điểm thứ nhất trong phong cách lãnh đạo hay
phục vụ (Chúa Ki-tô và Hội Thánh) của Thánh Phao-lô là
Thánh Phao-lô phục vụ hết linh hồn, hết trí khôn, hết
sức mình.
- «Họ là người Híp-ri ư? Tôi cũng vậy! Họ là người Ít-ra-
en ư? Tôi cũng vậy! Họ là dòng giống Áp-ra-ham ư? Tôi
cũng vậy! Họ là người phục vụ Đức Ki-tô ư? Tôi nói như
người điên: tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó,
hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần suýt
chết. Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt
một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm
225
tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn
hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao
nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm
do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành
phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những
kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc,
thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và
chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có
nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả
các Hội Thánh! Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy
mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy
lòng sôi lên? » (2 Cr 11,22-29).
(2°) Đặc điểm thứ hai trong phong cách lãnh đạo hay
phục vụ (Chúa Ki-tô và Hội Thánh) của Thánh Phao-lô là
Thánh Phao-lô hết sức quý trọng và yêu thương các tín
hữu, nhất là các cộng sự và các ân nhân của cộng đoàn.
- “Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ
của Đức Ki-tô Giê-su, và ông Xốt-thê-nê là người anh em
của chúng tôi, kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-
rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Ki-tô
Giê-su, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những
ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức
Giê-su Ki-tô, là Chúa của họ và của chúng ta. Xin Thiên
Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho
anh em ân sủng và bình an.
Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ
Người đã ban cho anh em nơi Đức Ki-tô Giê-su. Quả vậy,
trong Đức Ki-tô Giê-su, anh em đã trở nên phong phú về
226
mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và
hiểu biết mầu nhiệm của Người. Thật thế, lời chứng về
Đức Ki-tô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, khiến
anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi
ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh
quang của Người. Chính Người sẽ làm cho anh em nên
vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được
anh em trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-
tô. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh
em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giê-su Ki-
tô, Chúa chúng ta” (1 Cr 1,1-9).
- «Chúng tôi đã yêu mến anh em tha thiết, đến nỗi sẵn sàng
chia sẻ với anh em, không những chỉ Tin Mừng của Thiên
Chúa, mà cả chính mình chúng tôi, vì anh em đã trở nên rất
thân yêu đối với chúng tôi’ (1 Tx 2,8).
(3°) Đặc điểm thứ ba trong phong cách lãnh đạo hay phục
vụ (Chúa Ki-tô và Hội Thánh) của Thánh Phao-lô là Thánh
Phao-lô luôn thẳng thắn, trung thực trong lời ăn tiếng
nói và cách ứng xử.
“Nhưng khi ông Kê-pha đến An-ti-ô-khi-a, tôi đã cự lại
ông ngay trước mặt, vì ông đã làm điều đáng trách . Thật
vậy, ông thường dùng bữa với những người gốc dân ngoại
trước khi có những người của ông Gia-cô-bê đến ; nhưng
khi những người này đến, ông lại tránh né và tự tách ra, vì
sợ những người được cắt bì. Những người Do-thái khác
cũng theo ông mà giả hình giả bộ, khiến cả ông Ba-na-ba
cũng bị lôi cuốn mà giả hình như họ.
227
Nhưng khi tôi thấy các ông ấy không đi đúng theo chân lý
của Tin Mừng, thì tôi đã nói với ông Kê-pha trước mặt mọi
người : "Nếu ông là người Do-thái mà còn sống như người
dân ngoại, chứ không như người Do-thái, thì làm sao ông
lại ép người dân ngoại phải xử sự như người Do-thái ?"
(Gl 2,11-14).
(4°) Đặc điểm thứ bốn trong phong cách lãnh đạo hay
phục vụ (Chúa Ki-tô và Hội Thánh) của Thánh Phao-lô là
Thánh Phao-lô luôn khiêm nhường tự hạ, xem mình là
kẻ bất xứng, tội lỗi, hèn kém, bách hại anh em Ki-tô
hữu và Đạo Chúa.
- “Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia
trong đạo Do-thái : tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những
muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa. Trong việc giữ
đạo Do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi
với tôi : hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền
thống của cha ông” (Gl 1,13-14).
- “Phải tự hào ư ? Nào có ích gì ! Dù thế, tôi cũng xin nói
về những thị kiến và mặc khải Chúa đã ban cho tôi. Tôi
biết có một người môn đệ Đức Ki-tô, trước đây mười bốn
năm đã được nhắc lên tới tầng trời thứ ba -có ở trong thân
xác hay không, tôi không biết, có ở ngoài thân xác hay
không, tôi cũng không biết, chỉ có Thiên Chúa biết. Tôi
biết rằng người ấy đã được nhắc lên tận thiên đàng -trong
thân xác hay ngoài thân xác, tôi không biết, chỉ có Thiên
Chúa biết-, và người ấy đã được nghe những lời khôn tả
mà loài người không được phép nói lại. Về một người như
thế, tôi sẽ tự hào ; còn về bản thân tôi, tôi chỉ tự hào về
228
những yếu đuối của tôi. Quả vậy, nếu muốn tự hào, thì tôi
cũng không phải là người điên, vì tôi nói sự thật. Nhưng
tôi không làm thế, kẻo người ta đánh giá tôi quá cao, so
với điều họ thấy nơi tôi hoặc nghe tôi nói.
Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường
tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm
vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi
khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi
nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi : "Ơn của
Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ
trọn vẹn trong sự yếu đuối." Thế nên tôi rất vui mừng và tự
hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô
ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình
yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì
Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.» (2 Cr
12,1-10).
4.4 Làm thế nào để chúng ta học được phong cách lãnh
đạo hay phục vụ (Chúa Ki-tô và Hội Thánh) của Thánh
Phao-lô?
[Xem phần ỨNG DỤNG]
229
5.2 Việc thứ hai là chúng ta siêng năng đọc lại các thư của
ngài để nhận ra 6 yếu tố quan trọng và 4 đặc điểm của/
trong phong cách lãnh đạo của Thánh Phao-lô mà phác họa
lại trong tâm trí và cung cách phục vụ của chúng ta.
- 6 yếu tố quan trọng của/trong phong cách lãnh đạo
của Thánh Phao-lô:
(a) ý thức và xác tín về ơn gọi
(b) chấp nhận để Thánh Thần biến đổi
(c) chọn Chúa Giê-su là Chúa là Vua của mình và sống
mật thiết với Người
(d) đi khắp đó đây để rao giảng Tin Mừng và thiết lập cộng
đoàn
(đ) dùng thư tín trong việc giảng dậy và truyền giáo
(e) phát huy hết khả năng của các cộng sự.
230
Chúng ta hãy đọc/nghe lại một đoạn tự thuật của Thánh
Phao-lô, để ngưỡng mộ và noi gương ngài:
«Họ là người Híp-ri ư? Tôi cũng vậy!
Họ là người Ít-ra-en ư? Tôi cũng vậy!
Họ là dòng giống Áp-ra-ham ư? Tôi cũng vậy!
Họ là người phục vụ Đức Ki-tô ư? Tôi nói như người điên:
tôi còn hơn họ nữa!
Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì
chịu đòn, bao lần suýt chết.
Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một;
ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu;
một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi!
Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình,
gặp bao nguy hiểm trên sông,
nguy hiểm do trộm cướp,
nguy hiểm do đồng bào,
nguy hiểm vì dân ngoại,
nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi,
nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em.
Tôi còn phải vất vả mệt nhọc,
thường phải thức đêm,
bị đói khát,
nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng.
Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của
tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!
Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối?
Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên?»
(2 Cr 11,22-29).
231
6.2 Cùng cầu nguyện
Lạy Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su Ki-tô và là Cha
của chúng con, chúng con ngợi khen, cảm tạ và chúc tụng
Cha, vì Cha đã dùng Tông Đồ Phao-lô trong việc rao giảng
Tin Mừng Cứu Độ cho dân ngoại. Nhờ cuộc sống, hoạt
động và các thư của ngài mà Danh Cha được cả sáng giữa
các cộng đồng nhân loại và Giáo hội Cha được xây dựng
khắp nơi nơi.
Cùng với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là Mẹ Đức Giê-su Ki-tô
và là Mẹ chúng con, cùng với Thánh Phao-lô và các Thánh
Tông Đồ, chúng con hát ca tình thương của Cha, tấm lòng
của Cha.
1. Trong trái tim Chúa yêu muôn đời, con xin được một
chỗ nghỉ ngơi, nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi, như nước mưa tan
trong biển khơi.
Nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi, những ước mơ con có trong đời,
nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi là tình con trong khối tình Người.
ĐK: Trái tim hồng Thiên Chúa trái tim Người CHA. Mãi
muôn đời yêu dấu chúng con gần xa.
Tháng năm đời con sống chứa chan lời ca.
Có ân tình Thiên Chúa trái tim nở hoa.
232
2. Trong trái tim Chúa như nôi hồng, con xin được như bé
ngủ mơ, một giấc mơ, nghìn giấc mơ, những giấc mơ ấm
êm tuổi thơ.
Nhỏ bé thôi, nhỏ bé thôi, những giấc mơ con có trong đời,
là sống vui, là hát vui, là trẻ thơ trong mái nhà Người.
3. Trong trái tim Chúa bao ân cần, con xin được say nếm
hồng ân, là trái ngon, là trái ngon, những trái ngon dưỡng
nuôi đời con.
Là bánh thơm, là sữa thơm giúp con mau chân bước lên
trời, là đóa hoa, là tiếng ca, gọi lòng con mau bước về nhà.
4. Trong trái tim Chúa bao dịu dàng, con xin được nghe
Chúa bảo ban, dậy dỗ con, dậy dỗ con, dậy dỗ con biết
sống sao thắm tươi tình son.
Tìm bước theo đường mến yêu, biết dâng trao, biết thứ tha
nhiều. Cùng Chúa đi, cùng Chúa đi, hòa niềm vui chung
với mọi người.
233
PHẦN THỨ HAI
CÁC BÀI ĐỌC THÊM
234
BÀI ĐỌC THÊM I
Một trong các đề tài được thánh Phaolô đề cập tới nhiều
lần trong các thư, đó là kinh nghiệm cuộc gặp gỡ đổi đời
với Chúa Kitô phục sinh. Tuy nó quan trọng, nhưng thánh
Phaolô không trình thuật tỉ mỉ các phản ứng tâm lý và các
chi tiết diễn biến bề ngoài. Phaolô chỉ nêu bật lòng thương
xót của Chúa Kitô đối với ngài (1 Cr 7,25), là người không
xứng đáng được Chúa thương như vậy, vì đã bắt bớ các
kitô hữu. Nhưng Chúa Kitô đã xót thương và ”sau cùng
cũng hiện ra với ngài là kẻ sinh sau đẻ muộn”, như thánh
nhân viết trong chương 15,8 thư thứ nhất gửi tín hữu
Côrintô.
Khi tranh luận với các tông đồ giả len lỏi trong cộng đoàn
để đánh phá công cuộc truyền giáo bằng cách phao đồn
thánh nhân không phải là tông đồ thật, Phaolô đã phân
trần: ”Có phải tôi là người đã không được trông thấy Chúa
Giêsu hay sao?” (9,1). Trong phần tự biện minh cho ơn gọi
tông đồ và sứ mệnh của mình, chương 1 thư gửi tín hữu
Galát, Phaolô minh xác rằng Tin Mừng mà ngài rao giảng
cho họ đã được chính Chúa Giêsu Kitô mạc khải cho ngài,
chứ thánh nhân không học hỏi từ con người (Gl 1,12).
Chính Thiên Chúa Cha đã có sáng kiến mạc khải Đức
Giêsu Con Ngài cho thánh nhân, để thánh nhân rao truyền
cho các anh chị em ngoài Do thái giáo (Gl 1,15-16).
235
Kinh nghiệm được mạc khải, được soi sáng này, thánh
Phaolô diễn tả bằng một hình ảnh tuyệt đẹp khi viết trong
thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô: ”Và Thiên Chúa là Đấng
đã phán ”ánh sáng hãy bừng lên trong bóng tối”, đã khiến
cho ánh sáng chiếu soi trong tâm lòng chúng ta, để chúng
ta cũng khiến cho sự hiểu biết vinh quang Thiên Chúa
phản ánh nơi gương mặt của Chúa Kitô, rạng ngời lên” (2
Cr 4,6). Sau cùng trong thư gửi tín hữu Philiphê, Phaolô
tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa của ngài (Pl 3,8),
Đấng đã dùng sức mạnh mà giơ tay túm lấy thánh nhân (Pl
3,12). Nói cách khác, thánh Phaolô muốn khẳng định rằng
kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh trên đường tới
thành Damasco khiến cho thánh nhân xác tín mình là
người được hay bị Chúa Kitô chiếm hữu.
Qua đó chúng ta thấy trình thuật cuộc gặp gỡ đổi đời của
Phaolô rất khác xa với lược đồ cổ điển của biến cố hoán
cải được hiểu trong nghĩa cá nhân và luân lý, bởi vì Phaolô
không phải là một người bê tha tội lỗi tìm lại đường ngay
nẻo chính, sau khi đã đi theo con đường sự dữ. Phaolô lại
càng không phải là một người đã dùng sự hiểu biết và lý trí
của mình để đi tới chỗ tin nhận Thiên Chúa hay đạt được
thị kiến tôn giáo giúp hiểu biết thực tại siêu việt.
Nếu chúng ta muốn nói tới sự hoán cải của Phaolô, thì đó
là sự hoán cải, nghĩa là đổi hướng đang đi, quay ngược trở
lại 180 độ để đi đến với Chúa Kitô, Chúa Kitô phục sinh
mà thánh nhân khám phá ra với đôi mắt lòng tin. Phaolô
tin vào sự siêu việt của Đức Kitô phục sinh, Con Thiên
236
Chúa và là Đấng trung gian duy nhất, đại đồng, trao ban ơn
cứu độ cho con người.
Tóm lại, cuộc gặp gỡ đổi đời của Phaolô không phải là một
sự thay đổi cuộc sống có tính cách đạo đức luân lý và tôn
giáo, cũng không phải là một dữ kiện cá nhân, riêng tư, mà
là một biến cố có chiều kích công khai và công cộng. Thật
thế, vì khi hoán cải, khi quay về với Chúa Kitô và tin theo
Ngài, Phaolô cũng nhận lãnh lấy sứ mệnh của toàn cộng
đoàn Kitô: đó là rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa
Giêsu Kitô trên toàn thế giới.
Biến cố gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh trên đường đến thành
Damasco đã không chỉ cho tín hữu Phaolô chào đời, mà
cũng còn làm nảy sinh ra thừa sai Phaolô nữa. Thiên Chúa
238
đã mạc khải cho Phaolô biết Chúa Kitô Con Ngài, để ông
loan báo Chúa Kitô cho dân ngoại (Gl 1,16).
Kinh nghiệm cuộc gặp gỡ đổi đời của Phaolô cũng được
trình thuật trong chương 9,1-18 sách Tông Đồ Công Vụ,
nhưng mang sắc thái thê thảm và có mục đích khuyến dụ.
Chúa Kitô phục sinh vinh hiển đã chặn đường Saulô, kẻ
bách hại các kitô hữu, quật ông té xuống đất, đánh cho ông
mù mắt bằng ánh sáng thiên linh của Ngài, và mạc khải
cho ông biết Ngài là Đức Kitô mà ông đang truy lùng bắt
bớ. Câu chuyện được đặt trên miệng của Phaolô với một
vài thay đổi trong các chương 22,3-16 và 26,9-23.
Hình thái của lối văn kể chuyện cũng cho thấy tiến trình
giải thích biến cố. Các chứng từ trực tiếp cũng như gián
tiếp trong Kinh Thánh Tân Ước không cung cấp cho chúng
ta các yếu tố giúp đọc hiểu được con đường tâm lý, mà
thánh Phaolô đã theo trong cuộc gặp gỡ đổi đời đó. Đã có
các nhân tố lịch sử nào ảnh hưởng trên sự đổi đời này?
239
Đây là một cú sét tình yêu siêu việt, hay Phaolô đã phải lần
mò theo một tiến trình trưởng thành từng bước, đòi hỏi
nhiều thời gian với các đêm dài thao thức âu lo?
Không ai có thể trả lời được các câu hỏi này. Theo những
suy tư thánh Phaolô kể lại cho các tín hữu 20 năm sau đó,
chúng ta có thể nhận ra một tiến trình rõ ràng trong ý thức
là tông đồ của Phaolô. Ý thức đó đã được các kinh nghiệm
về Giáo Hội và sinh hoạt truyền giáo củng cố thêm dần dần
với thời gian.
Cũng không ai có thể xác định một cách chính xác biến cố
này đã xảy ra khi nào. Nếu giữa các năm 51-52, thánh
Phaolô đang truyền giáo tại Côrintô, thì biến cố gặp gỡ đổi
đời đã xảy ra vào khoảng năm 30. Tuy nhiên chúng ta có
thể lượng định sự thay đổi trong cuộc sống của Phaolô một
cách chắc chắn. Từ chỗ là một người biệt phái nhiệt thành
tuân giữ luật lệ Môshê và các truyền thống Do thái giáo
một cách tỉ mỉ, đến như tôn thờ cái tôi của chính mình và
chắc chắn nắm vững ơn cứu độ trong tay qua việc tuân giữ
luật lệ, Phaolô hiểu ra cái vô lý và vô ích của thái độ sống
đạo này. Ông đã kiếm tìm cho mình một con đường khác.
Và sau cùng Thiên Chúa đã thưởng cho các kiếm tìm chân
thành và kiên trì của Phaolô.
Sau cuộc gặp gỡ đổi đời với Chúa Kitô phục sinh, Phaolô
say mê Chúa Kitô chịu đóng đanh tới độ ông không còn
trông thấy gì khác ngoài Chúa Kitô. Phaolô coi tất cả mọi
sự trên trần gian này là một mất mát và nhận chịu mất mát
mọi sự, kể cả mạng sống mình, miễn là có thể đem mọi
240
người về với Chúa Kitô (Pl 3,8-9). Nghĩa là Phaolô đổi
hướng đời mình 180 độ: từ chỗ tự mãn tưởng mình toàn
năng, có thể tự cứu rỗi qua những gì mình làm, tới chỗ
nhận rằng mình tùy thuộc và tín thác hoàn toàn nơi Chúa
Kitô; từ thái độ tuân giữ luật lệ như nô lệ tới thái độ vâng
phục của lòng tin.
Khi đọc các thư của Phaolô chúng ta thấy rõ tâm lý điển
hình của một tâm hồn hoán cải: hoàn toàn gắn bó với lý
tưởng sống mới, tố cáo thái độ sống lầm lạc trước đây của
mình, xác tín mạnh mẽ rằng con đường mình đã chọn là
đúng, can đảm và kiên trì trong mọi gian lao thử thách phải
chịu vì lý tưởng sống mới ấy. Như hoa trái của một cuộc
kiếm tìm, lòng tin của Phaolô tươi mát và nồng cháy.
Nhưng đồng thời một đôi khi lòng tin đó cũng khiến cho vị
tông đồ dân ngoại có thái độ thiếu bao dung và bất công
đối với các địch thủ của ngài trong lòng tin. Phaolô không
bao giờ chấp nhận các giàn xếp lắt léo để được yên thân
hay khỏi phải gặp khó khăn đau khổ.
241
BÀI ĐỌC THÊM II
Hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của Thánh
Phaolô.
Theo Sách Công Vụ các sứ đồ, quyển sử ký ghi lại trong
giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Saolê, tên gọi Do Thái
của Phaolô, là một thanh niên phong thái và đầy nhiệt
huyết đối với Ðạo. Vừa thụ huấn xong với một thầy Rabbi
nổi tiếng trong nước, Saolê xung phong đi săn lùng những
người môn đệ của Ðức Kitô mà anh cho là một bè phái đi
ngược lại với Ðạo giáo.
Một hôm, đang trên đường đi Damascô để lùng bắt các
môn đệ của Chúa Giêsu, anh đã bị một luồng Sáng đánh
quật té xuống khỏi ngựa và từ trong ánh sáng ấy, anh đã
nhận ra tiếng nói của Chúa Giêsu: "Ta là Giêsu mà ngươi
đang bắt hại".
Từ đó, sự hăng say bách hại các Kitô hữu đã biến thành
lòng nhiệt thành phụng sự Giáo Hội của Ðức Kitô. Thiên
Chúa đã sử dụng Phaolô làm khí cụ Truyền Giảng Tin
Mừng cho Dân Ngoại, tức là các dân tộc ở ngoại Do Thái
Giáo.
Cuộc trở lại của Thánh Phaolô đã đánh dấu một khúc quan
trọng nhất trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi. Tin Mừng
không chỉ giới hạn trong ranh giới của Do Thái cũng như
lề luật Maisen, Tin Mừng còn là một nối dài của Do Thái
Giáo, nhưng chính là một Tôn Giáo mới cho mọi dân tộc,
mọi văn hóa.
242
Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của thánh Phaolô như
cao điểm của tuần lễ cầu cho hiệp nhất. Nơi thánh Phaolô,
con người đã dám vượt ra khỏi ranh giới của dân tộc, của
Ðạo Giáo của mình, để tuyên bố: Hãy trở thành Hy Lạp
với người Hy Lạp, La Mã với người La Mã, nô lệ với
người nô lệ. Giáo Hội nhận ra kiểu mẫu đích thực của hiệp
nhất. Sự hiệp nhất chỉ có thể thực hiện được, nếu mỗi
người môn đệ của Chúa Giêsu có đủ can đảm ra khỏi chính
mình. Phải chăng đó không là đòi hỏi đầu tiên của sự trở
lại?
Theo từ điển tiếng Việt của Nhà Xuất bản Khoa Học Xã
Hội, "trở lại" nghĩa là về nơi mình ra đi.
Nơi mình đã xuất phát, nơi mình đã ra đi đối với người
Kitô chúng ta là gì nếu không phải là Thiên Chúa. Như
vậy, trở lại chính là quay trở về với Thiên Chúa.
Sự quay trở lại ấy đòi hỏi một sự từ bỏ tận căn và một thái
độ sẵn sàng tuyệt đối. Chúng ta phải đọc lại sự trở lại của
Thánh Phaolô:
Phaolô là một người thanh niên hăng say với lý tưởng. Lý
tưởng của anh chính là phụng sự Chúa hết mình bằng cách
tiêu diệt những kẻ mà anh cho là Tà Ðạo. Nhưng trong
phút chốc, lần ngã ngựa đau điếng cả người hôm đó đã
buộc anh phải xoay chiều hoàn toàn: Những gì anh cho là
Tà Ðạo trước kia nay anh phải xem lại Chính Ðạo. Phaolô
phải quay ngược đường trở lại. Từ bỏ tất cả những gì mình
hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang
đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ mềm nhũn trong tay
Chúa.
Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ
243
trong tay Chúa: đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô
giáo chúng ta.
Sự trở lại đó không chỉ là sự quay về với Chúa của những
người không tín ngưỡng, của những người từ chối Giáo
Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô. Mỗi
lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa:
đó là lý tưởng của người Kitô chúng ta.
Càng đến gần với Chúa càng sẵn sàng trở nên khí cụ của
Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.
Xin Thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại
hôm nay, giúp chúng ta hiểu được sự trở lại đích thực mà
người Kitô chúng ta phải theo đuổi mỗi ngày.
244
BÀI ĐỌC THÊM III
Trong cuộc đời của Thánh Phao-lô, có cái trước và cái sau:
Đa-mát chính là ngưỡng cửa.
Trước đó, Thánh Phao-lô là một người Biệt phái và vì lòng
tin, ngài chống lại Đức Giê-su và đi lùng bắt các môn đệ
Người.
Sau đó, ngài hết lòng hết sức với Đấng đã chộp bắt ngài
giữa đường. Thánh Phê-rô, Gio-an, các môn đệ đầu tiên đã
dần dần khám phá ra con đường của Thày mình và chỉ sau
Phục sinh và Hiện xuống, các ngài mới nhận ra rằng người
bạn của mình là Con Thiên Chúa.
Các ngài giống các Ki-tô hữu ngày nay được rửa tội từ khi
mới sinh, phải khám phá ra, từ bên trong, niềm tin mà
mình đã lãnh nhận.
Còn Phao-lô thuộc hàng ngũ những kẻ trở lại, mà trong
một sớm một chiều, cuộc sống hoàn toàn bị đảo lộn.
Khác với các tác giả Tin Mừng, Phao-lô không viết một
tác phẩm mà trong đó người ta tìm thấy được tư tưởng cuối
cùng của ngài: Phao-lô đã thảo những bức thư, tùy theo
từng hoàn cảnh, và người ta nhận thấy có sự chuyển biến
trong quá trình khám phá Đức Ki-tô của Ngài trong các thư
đó.
KẺ BỊ NGUYỀN RỦA LẠI ĐƯỢC TÔN VINH
Kẻ mà Phao-lô nghĩ là bị Thiên Chúa nguyền rủa, vì đã bị
quyền bính tôn giáo và lề luật kết án, lại xuất hiện trước
mắt ngài như Đấng được Thiên Chúa tôn vinh: Như chúng
245
ta đã thấy, đó là nguồn gốc tư tưởng Phao-lô. Ngài đặt sự
xuất hiện đó trên cùng một bình diện như các biểu lộ của
Đấng Phục sinh với các môn đệ; vì sự xuất hiện đó mà
Phao-lô trở thành Tông đồ y như các môn đệ kia vậy (đọc
nhiều chỗ Phao-lô tuyên bố mình là Tông đồ theo ơn gọi :
1 Cr 15,9; 9,1; Gl 1,1…).
Điều chắc chắn là Phao-lô đã không biết Đức Giê-su trong
cuộc sống trần thế của Người. Ngay từ buổi đầu Phao-lô đã
gặp Người như Đấng phục sinh vinh hiển, như là Đức
Chúa.
LÀ ĐẤNG ĐANG ĐẾN
Phao-lô trình bày kinh nghiệm Đa-mát như một khải huyền
(Gl 1,16). Giai đoạn đầu đời sống Ki-tô hữu của Ngài là
giai đoạn tràn đầy phấn khởi và ngưỡng mộ của một con
người vừa trở lại được Đức Ki-tô chiếm hữu. Ngài đã ý
thức về đời sống của Đức Ki-tô nơi Ngài và ý thức về sự
mới mẻ của thế giới này, một cách hết sức mạnh mẽ đến
nỗi ngài chỉ còn một ước vong duy nhất: Ước gì ngày của
Chúa, ngày quang lâm mau đến, chấm dứt lịch sử. Phao-lô
bắt đầu sứ vụ của mình bằng cách sống và giúp các Ki-tô
hữu của ngài sống trong niềm trông đợi Chúa đang đến
gần.
ĐẤNG BỊ ĐÓNG ĐINH THẬP GIÁ BAN ƠN CỨU
ĐỘ
Nhưng ngày quang lâm cứ trì hoãn… Cần phải kiên trì.
Nhất là Phao-lô khám phá rõ hơn tư tưởng triết Hy lạp,
lòng khát khao sự khôn ngoan loài người của mình (1 Cr 1-
2). Chắc là ngài mang nặng dấu ấn cuộc thất bại ở A-tê-na
(Cv 17).
246
Càng ngày ngài càng nhấn mạnh đến thần học thập giá,
điều mà lúc đầu ngài vẫn để yên trong bóng tối: “Tôi đã
dứt khoát không biết điều gì ngoài Đức Giê-su Ki-tô và
Đức Ki-tô bị đóng đinh thập giá” (2 Cr 2,2).
Phao-lô ý thức rõ rệt hơn sự thiếu xót của lề luật; ý niệm
“sự công chính xuất phát từ lề luật và từ tất cả những gì mà
chúng ta thực hiện được” chẳng có thể đứng vững: chúng
ta được cứu rỗi là nhờ ân sủng, nhờ gắn bó vô điều kiện
với Đức Ki-tô, bằng đức tin và phép rửa.
A-đam mới là người đầu tiên thứ hai của một thế giới mới.
Rải rác trong các thư Cô-rin-tô, Phi-lip-phê, Ga-lát, Rô-
ma, Phao-lô cho thấy một cách cụ thể thế nào là cuộc sống
thường nhật với Đức Ki-tô, trong Đức Ki-tô, là được cứu
độ bằng thập giá.
LÀ CHÚA TỂ VŨ TRỤ VÀ LỊCH SỬ
Nhờ suy tư suốt bốn năm trường trong ngục tù, nhờ suy
niệm các bản văn Thánh Kinh, đặc biệt là sách khôn
ngoan, nhờ cuộc khủng hoảng của giáo dân Cô-lô-xê,
Phao-lô đạt tới chỗ nhận ra vai trò thực sự của Đức Ki-tô
trong vũ trụ. Người không chỉ là Đấng Cứu độ cộng đoàn;
Người là Chúa của lịch sử, là hình ảnh của Thiên Chúa vô
hình, là Trưởng tử của loài thụ sinh, là Đấng Sáng tạo vũ
trụ, nhờ Người và vì Người tất cả đã được tạo thành. Trong
Người, Thiên Chúa muốn quy tụ tất cả, Người là Đức
Chúa vì vinh quang của Chúa Cha.
247
BÀI ĐỌC THÊM IV
"Vì tôi là người hèn mọn nhất trong các tông đồ,
Và tôi cũng không đáng gọi là tông đồ nữa,
Bởi tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa."(1 Cr 15,9)
Trước khi trở lại, Phaolô phản ứng thế nào trước Tin Mừng
về Đức Kitô?
Cái tin ấy quả là một chuyện vô lý nhất, chưa từng nghe
nói đến bao giờ. Làm thế nào mà một người có lý trí như
Phaolô lại có thể tin được? Ông không thể chấp nhận.
Nhảm nhí, vô lý. Ông không phải là một người ngu. Ông
đã từng nghe nói đến nhiều tà thuyết. Ông đã từng là một
môn sinh ở trường Kinh Thánh. Thầy của ông đã chẳng là
những vị giáo sư hiểu biết tiếng tăm nhất đó sao? Thầy biệt
phái Gamaliel chẳng hạn. Phaolô đã từng học cách phân
biệt phải trái, điều hợp lý với điều vô lý, điều tin được với
điều không thể tin được. Ông cũng đã biết nhiều về thần
thoại Hy Lạp, nhưng đấy chỉ là thần thoại kia mà... Không
một người học thức nào lại không biết các thần Zeus,
Apollo...: đó chỉ là những nhân vật tưởng tượng. Mặt khác
Aristote, Socrate là những vĩ nhân nhưng cũng chỉ là con
người mà thôi...
Thế còn câu chuyện điên đầu về Giêsu Nazareth ?
Các người thất học ấy muốn gì đây ?
Không ai phủ nhận Giêsu Nazareth là một người có thật.
Ông ta sinh ra ở Bêlem và lớn lên ở Nazareth: ai cũng biết.
Đầu tiên, Giêsu lôi cuốn đám đông, chữa bệnh và làm một
248
vài chuyện lạ... Phaolô đã từng nghe nói như thế và ông
không nghi ngờ gì cả. Bạn của ông trong Hội Đồng đã
chứng kiến Giêsu làm phép lạ.
Dù sao thì Giêsu cũng không xuất thân từ một trường Kinh
Thánh, ông ta chỉ là một người rao giảng nay đây, mai đó,
với một lập trường riêng tư. Phaolô có được nghe kể lại về
những bài giảng của Giêsu. Phaolô công nhận rằng Giêsu
có kiến thức, hiểu biết sâu rộng. Dĩ nhiên những điều
Giêsu nói đều có liên quan đến lề luật. Vâng , Giêsu biết rõ
về Môsê, về các tiên tri. Giêsu có một lối nhìn vấn đề thật
độc đáo và có uy quyền. Nhưng, chỉ có thế thôi...
Tuy nhiên, khi Giêsu bắt đầu gây rối, ông ta la lối, xua
đuổi mọi người trong Đền Thờ thì ông ta đã đi quá xa rồi.
Ông ta lấy quyền gì?
Ai cho phép ông ta ?
Dĩ nhiên, Caipha có lý khi đã xử tử ông ta. Phải công nhận
rằng tử hình bằng thập giá thì hơi nặng tay đấy, nhưng
Giêsu cứ tưởng mình là ai mới được chứ ?...
Rồi, bây giờ xảy ra cái tin động trời là Giêsu đã sống lại.
Môn đệ của ông ta loan báo rằng ông ta đã chết và đã sống
lại. Có một tí gì hữu lý không chứ ? Lẽ dĩ nhiên, là Biệt
Phái, Phaolô tin rằng người ta sẽ sống lại nhưng vào ngày
tận thế kia chứ. Bụt thần thì có nhiều, nhưng Thiên Chúa
của dân Do Thái thì chỉ có một. Phaolô nhớ sách Đệ Nhị
Luật:
"Israel, này nghe đây, Chúa là Thiên Chúa,
Chúa chúng ta là một Thiên Chúa duy nhất." (Đnl 6-4).
Còn Giêsu, ông ta chỉ là một người thợ mộc Do Thái, một
người hiền lành, có uy quyền khi rao giảng. Ông ta có thể
249
là một tiên tri là quá lắm rồi. Nhưng Giêsu cũng lại là một
người gây rối.
Thật ra ông không phải là một người Do Thái đàng hoàng.
Ông ta cố tình không giữ việc kiêng cử trong ngày Hưu Lễ.
Ông ta ít đến nhà thờ trong những năm cuối cùng,
Ông ta tự cho phép tha tội cho những loại người bất xứng,
Ông ta lại còn làm loạn trong Đền Thờ.
Không,
Đó không phải là lối sống của một người Do Thái đứng
đắn.
Với tư cách là người có học, một người biệt phái mộ đạo,
Phaolô tự hứa phải ra tay tiêu diệt bọn tà đạo này. Phaolô
không thể chấp nhận cứ như thế mãi được. Ông sẽ hành
động để làm vinh danh Thiên Chúa của Israel, Thiên Chúa
chính danh và hằng sống, Thiên Chúa duy nhất và hay
ghen. Phaolô cương quyết đi đến nơi nào có tín hữu của
Giêsu. Ông sẽ đưa họ ra nơi công nghị đối đáp với ông để
xem họ sai lầm đến mức độ nào. Và nếu cần thì có thể giết
họ luôn. Giết vài trăm người để cho đạo Israel đứng vững
thì cũng là một điều đáng làm.
Có một người đáng thương bị nhóm môn đệ Giêsu lung lạc
dụ dỗ đến nỗi bị kết tội và đem ra ném đá cho chết. Phaolô
đã chứng kiến rất rõ và ông còn giữ áo cho họ rảnh tay
ném đá. Nạn nhân ấy tên là Têphanô. Anh ta muốn giảng
cho họ, các biệt phái, về lịch sử Do Thái. Anh ta còn cả
gan buộc tội họ:
"Quân cứng cổ, lòng đá, tai điếc,
Các ngươi luôn đối nghịch với Thánh Thần.
Cha ông các ngươi thế nào thì các ngươi cũng vậy,
250
Có tiên tri nào mà cha ông các ngươi không bắt bớ ?
Họ đã giết các người tiên báo
về việc giáng thế của Đấng Công Chính
Và nay, các ngươi đã nộp và giết chết Người..." (Cv 7,51-
53)
Như thế là quá lắm rồi. Tất cả bọn họ nghiến răng hăm
dọa.
Nhưng Têphanô còn nói lời lộng ngôn này nữa:
"Tôi thấy Con Loài Người ngự đến bên hữu Thiên Chúa"
(Cv 7,56)
Nói như thế thì tha làm sao được.
Họ bèn lôi Têphanô ra ngoài thành mà ném đá.
Phaolô đi theo, Phaolô đứng nhìn và đồng tình...
Giờ đây, ông đang trên đường đi Đamas,
Ông vừa nhận lệnh từ Giêrusalem và hăng say vượt 250
cây số đến Đamas,
Ông mong muốn lôi ngay bọn tà đạo về Giêrusalem...
Giêsu là Đấng Thiên Sai,
Giêsu sống lại từ cõi chết,
Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa .v.v.
Bọn tà đạo lại còn trích dẫn Kinh Thánh để chứng minh
nữa chứ:
"Người sẽ không thí bỏ hồn tôi nơi âm phủ,
Và không để Đấng Thánh của Người phải thấy mục nát "
(Cv 2,27, trích dẫn Tv 16,10)
Đó, bọn tà đạo đã dám áp dụng câu ấy cho Giêsu,
Đúng là bọn gian tà thì cái gì cũng gian được...
Thế rồi, bỗng dưng một luồng ánh sáng bao phủ lấy Phaolô
làm ông ngã ngựa.
251
Ông không còn thấy gì nữa.
Rồi ông nghe có tiếng gọi ông:
"Saolê, Saolê, sao ngươi lại bắt bớ Ta ?".
Phaolô hỏi lại:
"Thưa Ngài, Ngài là ai ?"
Tiếng nói lại âm vang:
"Ta là Giêsu mà ngươi đang bách hại. Song, ngươi hãy
chỗi dậy mà vào thành, ở đó người ta sẽ nói cho ngươi biết
ngươi phải làm gì..." (Cv 9,5-8).
Phaolô đứng dậy, ông chớp mắt mà vẫn không thấy gì.
Ông được đưa về Đamas...
Ba ngày tròn, ông như kẻ bị mù,
Ba ngày tròn ông sống lại giây phút lạ lùng vừa qua,
Ba ngày tròn, ông trở lại hồi tưởng điều ông đã gặp.
Ánh sáng ấy mạnh mẽ đến nỗi ông trở nên mù lòa...
Bây giờ thì ông đã thấy, đã gặp Đức Giêsu.
Đây là một sự kiện:
Người đã sống lại thật rồi,
Người thật là Đấng Thiên Sai,
Người là Đấng Phục Sinh,
Người đã lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa...
Điều này là một mầu nhiệm đến phi lý.
Nhưng, sự thật đúng là như vậy.
Têphanô đã nói thật mà Phaolô lại điếc,
Têphanô quả là không điên khùng chút nào.
Phaolô giờ đây mới ân hận làm sao,
Chính Phaolô cũng đã thấy Con Loài Người kia thật tỏ
tường,
Đây là sự thật không thể nào chối cãi được...
252
Ba ngày sau, có một người Do Thái thuộc cộng đoàn mới
đã đến gõ cửa và bảo:
"Saolê, người anh em, anh hãy nhìn thấy lại."
Thế là phép lạ đã xảy ra, Phaolô lại được thấy. Ông nhìn
quanh ngỡ ngàng. Người Do Thái ấy tên là Anania, ông ta
nói tiếp:
"Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã tiền định cho anh
biết Thánh Ý Người và được thấy Đấng Công Chính và
nghe tiếng xuất từ miệng Người, vì anh sẽ làm chứng tá
cho Người trước mặt mọi người về các điều anh đã thấy và
đã nghe" (Cv 13,15).
Và Phaolô đã chịu phép rửa bởi tay Anania.
Phaolô đã ghi khắc lời Anania để sau này, trong hầu hết
các lá thư của mình, ông đều nhắc lại:
"Phaolô, tông đồ của Đức Giêsu Kitô, bởi Ý Định của
Thiên Chúa."
Phaolô khởi đầu lá thư nào cũng bằng câu nói ấy.
Ông thực hành lời Anania.
Ông đi làm chứng ngay tại Đamas.
Đamas là thành phố nơi ông định đến để tiêu diệt Đạo
Chúa,
bây giờ, lại chính là nơi ông khởi công rao giảng đầu tiên.
Đây cũng là một bài học cho mỗi một chúng ta. Nếu chúng
ta muốn trở nên một môn đệ nhiệt thành, chúng ta phải
theo con đường Phaolô. Chúng ta phải trực tiếp cảm nhận
Thiên Chúa, gặp gỡ Thiên Chúa. Nhưng chúng ta cũng
phải thi hành mệnh lệnh rõ ràng của Người qua môi miệng
các vị đại diện của Người.
Đó là mầu nhiệm Hội Thánh.
253
Thiên Chúa đã hiện ra,đã gặp gỡ Phaolô, nhưng mệnh lệnh
của Người vẫn được trao qua một người đại diện là
Anania...
Phaolô rao giảng và làm chứng tại Đamas nhưng ông chỉ
gây được sự ngạc nhiên chưng hửng nơi những người đến
nghe. Ông hết sức tích cực nhưng không giúp đỡ thiết thực
được cho ai.
Không ai nghe lời ông,
không ai chấp nhận được niềm tin của ông.
Công trình của Thiên Chúa qua ông vẫn còn trở ngại.
Nếu Yuđa không một sớm một chiều mà đi đến việc phản
bội Chúa, thì Phaolô cũng không thể một sớm một chiều
trở thành vị tông đồ hữu hiệu. Nguồn ánh sáng trong ông
và sự bất lực của chính mình làm ông suy nghĩ. Ông cần
thời gian để tĩnh tâm, học hỏi và cầu nguyện. Thế là ông
rời bỏ Đamas để sang vùng Ả Rập mà sống trong thanh
vắng. Thầy của ông đã chuẩn bị 30 năm thì ông cũng phải
chuẩn bị 3 năm (Gl 1,17 )
Ba năm trời Phaolô nghiền ngẫm Thánh Kinh, đối chiếu
trực tiếp với Thần Khí Chúa để hiểu rõ Tin Mừng. Phaolô
gọi Phúc Âm của Chúa là Phúc Âm của mình.
Và ba năm trời đã cho ông có được tâm tình của Chúa
Kitô,
đã đồng hóa ông với Đức Kitô đến nỗi ông phải tuyên bố:
"Không phải tôi sống nhưng là chính Chúa Kitô sống
trong tôi..." (Cl 2,20)
Và suốt ba năm, trong bóng tối và thinh lặng, Phaolô đã
làm một điều duy nhất là:
"Quên phía sau mà lao mình tới phía trước, tôi nhắm đích
254
mà chạy đến giải thưởng của ơn kêu gọi từ trên cao Thiên
Chúa đã ban bố trong Đức Giêsu Kitô." (Cl 3,13-14)
Chúa Giêsu chuẩn bị 30 năm.
Phaolô chuẩn bị 3 năm,
Còn chúng ta ? Trước khi hành động, chúng ta rút vào
bóng tối và thinh lặng bao lâu ?
3 tháng? 3 tuần? 3 ngày? hay 3 giờ?
Sau 3 năm chuẩn bị, Phaolô lao mình tới phía trước. Ông
bỏ Ả Rập, về lại Đamas.
Giờ đây, ông đã chín chắn, đã có Chúa, đã hữu hiệu,
Chắc chắn ở Đamas, người ta không ngạc nhiên, chưng
hửng.
Người ta bàn kế bắt giết ông!
Ông được chuyển qua tường thành mà thoát chết.
Ông về Giêrusalem định liên lạc với các môn đệ Chúa,
nhưng các ông này vẫn còn e ngại Phaolô,
họ không tin Phaolô đã thực sự là tông đồ của Chúa (Cv
9,20 )
Đấy, suy tư, cầu nguyện 3 năm trời, để rồi bước ra
gặp đối phương là suýt bị giết,
gặp anh em thì lại bị nghi ngờ...
Đó là cái giá phải trả.
Và chính cái giá phải trả ấy mà Phaolô biết mình đi đúng
đường:
Con đường của Đức Kitô
chưa bao giờ là một con đường thoải mái thênh thang...
Cuối cùng rồi Phaolô cũng được chấp nhận,
Phaolô được nghe thuật lại tường tận
về cuộc sống,
255
về cái chết, và
về sự sống lại của Đức Kitô.
Đủ hành trang, lý trí,
Đủ hành trang kiến thức,
Đủ hành trang tâm tình,
Phaolô lên đường...
Ở đâu có thể đến là Phaolô đến,
Ở đâu có người cần biết Tin Mừng là có Phaolô:
Antiôkia, Cypriô, Lystra, Đerbê, Troya, Philip,
Athêna, Thêsalônika, Côrintô, Êphêsô,
trở lại Giêrusalem, lên đường đi Roma...
Người Do Thái, Hy Lạp, La Mã,
Người ngoại giáo, người tự do, kẻ nô lệ,
Ai ai cũng được ông đem Tin Mừng đến...
Sau không đầy một thế hệ, một biến cố nhỏ ở miền Yuđê,
mà một vài sử gia ghi lại vài hàng, đã trở nên đề tài tranh
luận khắp Đế quốc La Mã.
Đấy là một cuộc cách mạng,
một cuộc cách mạng không đổ máu, mà nếu máu có đổ
thì chỉ là máu của những người làm cách mạng.
Đây không phải là cách mạng
bằng Gươm Giáo nhưng là bằng truyền giáo,
không phải bằng Sức Mạnh nhưng bằng Say Mê,
không phải bằng Vũ Lực nhưng bằng Vâng Lời Thánh Ý
Chúa.
Cũng không phải một cuộc cách mạng trí thức,
cũng không phải để đưa ra những tư tưởng mới,
một ý thức hệ mới,
một triết thuyết mới hay
256
một nếp sống mới.
Xét cho cùng, cũng không phải là một cuộc cách mạng
nữa...
Chỉ vỏn vẹn là Tin Mừng...
Ôi, mà một Tin đáng Mừng làm sao:
Thiên Chúa đã đến qua Đức Giêsu,
Người đã đến trên hành tinh này,
Người là Đấng Thiên Sai đã được hứa hẹn từ bao thế kỷ,
Người là Sự Sống và là Sự Sống Lại...
Đây là một biến cố hàng đầu trên mọi biến cố.
Người đón nhận cái chết vì nết ăn thói ở của chúng ta,
Người đã từ trong cõi chết mà sống lại,
Người đã thắng được cái chết:
"Vì sự chết đã đến do một người thì sự sống lại cũng do
một người mà đến " (1 Cor 15,21)
Vậy là Phaolô đã hoàn toàn thay đổi.
Không ai gặp ông mà có thể quên được ông và đức tin của
ông,
Chính đức tin này đã làm ông thay đổi.Chân lý sống động
của Đức Kitô là chân lý của ông.
Đức Kitô chính là cốt lỏi của Tin Mừng ông loan báo:
"Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh" (1 Cor
1,23)
Đối với Phaolô,
Đức-Kitô-chịu-đóng-đinh cũng chính là Đức-Kitô-Phục-
Sinh
Phaolô không bao giờ tách rời Thập Giá khỏi Phục Sinh...
Đối với Phaolô,
Kitô giáo là điểm hội tụ của mọi nghịch lý,
257
Tất cả chỉ là một:
Đau Khổ Và Vinh Quang,
Sự Chết Và Sự Sống,
Yếu Hèn Và Sức Mạnh,
Bé Mọn Và Vĩ Đại,
Đức Kitô Chịu Đóng Đinh Và Đức Kitô Phục Sinh...
"Nếu Đức Kitô đã không sống lại thì lời rao giảng của
chúng tôi quả thật là hư không ...Và việc anh em tin cũng
là hư không...
Nếu Đức Kitô không sống lại thì việc anh em tin cũng hão
huyền...
Nếu ta đặt mối hy vọng vào Đức Kitô vỏn vẹn lúc sinh thời
này thôi thì ta quả là kẻ khốn nạn nhất trong toàn thiên
hạ..." (1 Cor 15,14.17.19)
Làm sao có thể nói hết về Phaolô,
Hơn một nửa cuốn sách Tông Đồ Công Vụ đã nói về ông,
Mười bốn lá thư do ông viết chiếm tám mươi lăm phần
trăm số Thánh Thư trong Tân Ước,
Chừng đó quá đủ để nói lên tầm mức vĩ đại của Phaolô:
Phaolô là người mở mang Nước Chúa nhiều nhất,
Phaolô là người có Đức Tin nóng bỏng,
Đức Ái ngọt lịm,
Đức Cậy sáng ngời.
Phaolô là người đặt nền tảng giáo lý Giáo Hội,
Phaolô là người không để kẻ khác ngủ yên.
Phaolô đi đến đâu là ở đó có phản ứng mạnh,
Phaolo bị bắt bớ, hành hạ, cầm tù, săn đuổi, ném đá,
Phaolô bị đánh dập, lăng nhục, chửi bới, xích xiềng...
Dường như ngay cả thiên nhiên cũng muốn chống lại ông:
258
Ba lần Phaolô bị đắm tàu...
Câu chuyện về Phaolô là một chuyện ly kỳ.
Không có một thành phố nào Phaolô đặt chân đến mà vẫn
còn như cũ. Dĩ nhiên, không phải mọi người ở đó đều trở
thành Kitô hữu, chỉ có một nhóm nhỏ, thật nhỏ thôi, nhưng
vấn đề được đặt ra rất rõ ràng:
Hoặc là Tin Đức Kitô hoặc là chối bỏ Người.
Đức Kitô hoặc là Đường hoặc là một trở ngại....
Không có ai nghe Phaolô xong mà lại có thể dửng dưng,
hoặc nhiệt thành đứng về phía ông
hoặc la ó chống lại ông.
Không có Nếu, không có Và, không có Nhưng,
chỉ có Hoặc mà thôi.
Quả thật, Phaolô là người đã làm đảo lộn thế giới.
Tin Mừng ông loan báo gây ra tranh chấp trong đời sống
mỗi con người.
Nhưng, có thật là Phaolô làm đảo lộn thế giới chăng?
Thế giới ở thời đại của Phaolô (Thế kỷ thứ 1) đã chẳng là
một thế giới đảo lộn rồi đó sao? Chính ông là người dựng
lại cái thế giới bị đảo lộn ấy. Trước đó, thế giới nội tâm
đảo lộn của ông đã được Chúa dựng lại và ông đã tiếp tay
dựng lại toàn bộ thế giới chung quanh mình.
Những gì xảy ra ở thế kỷ thứ nhất cũng sẽ diễn ra như vậy
ở thế kỷ 21 này, nếu chúng ta chấp nhận theo chân Phaolô
để cho Chúa chiếm hữu.
Những ngày cuối đời, dù cho phải đi tù hết nơi này đến nơi
nọ để rồi tử đạo tại Roma, Phaolô vẫn lạc quan, vui tươi,
trong sáng, tin tưởng...
Vì sao lại được như vậy ?
259
Phaolô đã thấy đêm tối, nhưng cũng đã thấy ánh sáng.
Phaolô cảm được sự yếu hèn của con người nhưng cũng có
kinh nghiệm về hồng ân của Chúa.
Phaolô sống với cái chết nhưng ông để cho sự sống đích
thực tỏa chiếu trên mình.
"Mọi thời và khắp nơi, chúng tôi mang trong mình cuộc tử
nạn của Đức Kitô, ngõ hầu Sự Sống của Đức Kitô được tỏ
hiện nơi chúng tôi.. .Tôi cũng đã cùng chịu đóng đinh
Thập giá với Đức Kitô. Tôi sống, nhưng không phải tôi
sống, nhưng chính Đức Kitô sống trong tôi. Đời sống của
tôi lúc này trong thân xác, tôi sống nó trong lòng tin vào
Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và đã phó nộp
mình vì tôi... Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một
thắng lợi... vì tôi không muốn biết gì nữa ngoài Đức Kitô
bị đóng đinh trên Thập giá..."
(2 Cr 4,10; Gl 2,20; Pl 1,21; 1Cr 2,2)
Và quả thật, tông đồ Phaolô đã đem đời sống và cái chết
của mình làm chứng điều ông nói. Theo truyền thống lưu
lại thì ông bị chém đầu ở ngoại thành Rôma, nơi có ngôi
thánh đường Phaolô hiện tại.
Tiến trình của cuộc sống muôn màu của Phaolô mãi mãi
vẫn thốt lên lời tuyên tín như một bài ca khải hoàn:
"Về phần tôi, tôi đã được dùng làm rượu tế lễ, giờ ra đi
của tôi đã gần đến. Tôi đã chiến đấu trong một cuộc sống
chính nghĩa, tôi đã chạy đến cuối đường, tôi đã giữ vững
lòng tin...
Tôi xác quyết rằng những đau khổ đời này không đáng gì
so với vinh quang sẽ được thể hiện trên ta trong tương lai.
Tạo vật hằng khẩn thiết chờ trông con cái Chúa được
260
tuyên dương...
Thiên Chúa đã không tha cho Con của Người nhưng đã
phó nộp Ngài vì chúng ta hết thảy, làm sao Người lại
không gia ân vạn sự cho ta làm một với Ngài ?..
Ai có thể tách chúng ta ra khỏi Tình Yêu của Đức Kitô ?
Phải chăng là gian truân, bĩ cực, bắt bớ, đói khát, trần
truồng, hiểm nguy, gươm giáo ư?..
Vì tôi thâm tín rằng dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần
hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay quyền năng,
dù chiều cao hay chiều sâu, hay bất cứ tạo vật nào khác,
Không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi Tình Yêu Thiên
Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức GIÊSU KITÔ,
Chúa chúng ta. " (2 Tm 4,6-8; Rm 8,18-20.32.35.38.39)
261
BÀI ĐỌC THÊM V
Sau đậy chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số
nhận định của ông Daniel Marguerat, giáo sư Kinh Thánh
Tân Ước tại đại học Lausanne, Thụy Sĩ, về "thánh Phaolô,
con người của hai nền văn hóa”.
262
Đáp: Cái nút thắt của con người thánh Phaolô đó là từ
vựng ”người giải thích”. Thánh nhân là người của Chúa
Quan Phòng đã biết giải thích truyền thống của Đức Giêsu
và cho phép Kitô giáo phát triển như là một tôn giáo đại
đồng. Trong nghĩa này thánh nhân là người sáng ngời nhất
giữa tất cả mọi gương mặt của Kitô giáo thời tiên khởi.
Thánh nhân không phải là người đầu tiên, cũng không phải
là người duy nhất lao mình vào cuộc mạo hiểm giải thích
này, nhưng ngài là người có khiếu nhất.
Hỏi: Có cái gì cho biết kiểu giải thích của thánh Phaolô sẽ
thắng thế thưa giáo sư?
Đáp: Từ một quan điểm thực dụng, ban đầu thánh nhân đã
thành công trong hoạt động truyền giáo. Thánh Phaolo là
một người có các cộng sự viên, biết làm việc theo nhóm,
có hệ thống nối kết. Người ta thường tưởng tượng là thánh
nhân chỉ làm việc một mình, nhưng thật ra không phải vậy!
Chỉ vì người ta thường không biết tới hệ thống truyền giáo
của thánh nhân, gồm nhiều cộng sự viên, là yếu tố hướng
dẫn công tác truyền giáo hữu hiệu nhất thời xa xưa.
Nhưng nhất là thánh Phaolô là người của hai nền văn hóa:
nền văn hóa do thái và nền văn hóa hy lạp latinh. Ngài là
một người biệt phái, thuộc phe khắt khe của Do thái giáo
trong tư tưởng, trong việc chú giải sách Luật và áp dụng lễ
nghi vào cuộc sống cá nhân. Ngài cũng là một người hoàn
toàn có khả năng sử dụng biện chứng pháp và khoa hùng
biện hy lạp roma, mà chắc chắn là ngài đã học được từ
trường học khắc kỷ thành Tarso, là trường dậy triết lý khắc
263
kỷ lớn nhất của vùng đông Địa Trung Hải. Thánh Phaolô
tham dự vào ngã tư văn hóa đó, vì thế tư tưởng của ngài sẽ
cho phép Kitô giáo rời bỏ qũy đạo gốc của Do thái giáo, để
rộng mở cho tính cách vũ hoàn của thế giới.
Hỏi: Chúng ta có thể xác định kiểu thánh nhân loan báo
Tin Mừng trong các nền văn hóa hoàn toàn không hề biết
gì về Tin Mừng hay không?
Đáp: Khó mà có thể nắm bắt được việc giảng giải đầu tiên
của thánh nhân, vì các bút tích của ngài được viết ra trong
giai đoạn sau hết của cuộc đời. Chúng ta không có gì liên
quan tới thời gian giảng dậy đầu tiên này, nhưng một cách
nào đó có được một ít trong giai đoạn thứ hai. Điều mà ít
nhất chúng ta có thể thấy trong các thư của người: đó là
thánh Phaolô đề nghị một nền thần học đoạn tuyệt, bẻ gẫy
với qúa khứ. Ngài sử dụng tư tưởng gây ”sốc” mạnh,
chẳng hạn như loan báo thập giá như là ”sự vấp phạm” đối
với người do thái, và sự “điên dại” đối với dân ngoại.
264
Như vậy trong bối cảnh đó, loan báo rằng Thiên Chúa tự
mạc khải trong một thân xác bị treo trân thập giá thì vừa
phi lý vừa vô lý. Thánh Phaolô rất thành công trong việc
diễn tả, qua ngôn ngữ của hai nền văn hóa, làm thế nào mà
Thiên Chúa lại có thể tự biểu lộ trên Thập Giá là một vì
Thiên Chúa vượt thoát sự tìm hiểu, vượt thoát sự chờ đợi
và sự tưởng tượng của mọi tìm kiếm tôn giáo.
Hỏi: Đâu là chỗ của kinh nghiệm cá nhân trong nền thần
học của thánh Phalô thưa giáo sư?
Đáp: Thánh Phaolô là một người rất bẽn lẽn, kín đáo. Ngài
không phải là một người thích phô trương tôn giáo. Dĩ
nhiên, ngài đã không bao giờ chối bỏ sự hoán cải và quá
khứ là người bách hại Giáo Hội, cũng như sự kiện cuộc đời
ngài đã được chính Chúa Kitô thay đổi. Nếu thánh nhân có
nhắc lại những điều đó, thì không bao giờ để đề cao cái
”tôi” của ngài, nhưng luôn luôn để bầy tỏ hoạt động của
Thiên Chúa nơi ngài và qua ngài. Phaolô đọc lại trong
nhãn quan thần học cuộc đổi đời của mình. Thần học của
ngài là thần học của sự đoạn tuyệt, tương đương với sự
đoạn tuyệt với quá khứ trong cuộc sống của ngài. Nếu
thánh Phaolô đã có thể mạnh mẽ loan báo sự cáo chung
của Torah của Luật Lệ như con đường cứu rỗi và sự mạc
khải của một Thiên Chúa, và đảo lộn hình ảnh Thiên Chúa
mà chúng ta tưởng tượng ra, thì chính là bởi vì hai khẳng
định này tương đương với điều thánh nhân đã sống trong
chính con người của ngài.
265
Hỏi: Thưa giáo sư, gương mặt thánh Phaolô có thể giúp gì
cho việc nghĩ tới tình hình của Kitô hữu ngày nay hay
không?
Đáp: Điều khiến cho chúng ta gần gũi với tình trạng của
thánh Phaolô đó là việc khám phá ra rằng: Kitô giáo ngày
nay tiếp tục là một thiểu số trong một xã hội có cảnh công
khai buôn bán và cạnh tranh tôn giáo, và Kitô giáo phải
biện minh cho lý do hiện hữu của mình. Trong bối cảnh
đó, thánh Phaolô dậy cho chúng ta biết công thức hóa căn
tính Kitô như một căn cước rộng mở.
Thật thế, trọng tâm nền thần học của thánh nhân đó là việc
đến với Thiên Chúa không còn tùy thuộc vào một chủng
tộc, không tùy thuộc lịch sử phái tính hay các thành tích
tôn giáo nữa. Đó là điều chúng ta gọi là sự công chính hóa
nhờ lòng tin. Sự tiếp đón mà Thiên Chúa dành để cho
chúng ta là sự tiếp đón vô điều kiện.
Từ đó thánh Phaolô thành lập các cộng đoàn phản ánh điều
thánh nhân tin: các cộng đoàn, trong đó các người nam nữ,
chủ nhân và nô lệ, do thái và hy lạp nhận biết nhau và cùng
chia sẻ một thực thể là ”thân mình của Chúa Kitô”, và mỗi
người đều bình đẳng trong quyền lợi, trách nhiệm và ơn
gọi. Đó là các ”cộng đoàn các môn đệ bình đẳng”, theo
kiểu nói của học giả Elisabeth Schuessler Fiorenza. Chính
vì thế biến thánh Phaolô trở thành một người ”chống nữ
giới”, như người ta thường lập lại, thì không phải chỉ là
phạm lỗi sai thời đại, mà còn là đọc sai thời đại nữa...
266
Nhưng đó không phải là điều lạ lùng gì: thánh Phaolô đã
thường bị người ta đọc sai biết bao nhiêu!
Hỏi: Trên đây giáo sư đã nói tới căn cước rộng mở, nhưng
vài cộng đoàn Kitô nào đó có thể đòi cho mình quyền tham
chiếu thánh Phaolô mà vẫn khép kín thì sao thưa giáo sư...
Chúng thường có một cái nhìn đầy tai ương đối với lịch sử.
Các cộng đoàn này khước từ sự tân tiến và ra khỏi thế giới.
Trái lại, thánh Phaolô rao giảng sự khác biệt đối với xã
hội, một sự khác biệt cho thấy phẩm chất các tương quan
nhân bản và các giá trị, mà tín hữu Kitô có thể cống hiến
cho mọi người, nhưng thánh nhân không bao giờ trừ qủy
thế giới và nền văn hóa của nó. Ngài bước vào cuộc tranh
luận. Ngài bước vào lòng đời. Do đó thánh Phaolô không
thể là biểu hiệu của các phong trào tách rời, chia rẽ phe
đảng hay duy toàn vẹn được.
Đáp: Một cách mâu thuẫn điều tôi đánh giá cao nhất nơi
thánh nhân đó là óc khôi hài của ngài. Đọc các thư của
thánh Phaolô không phải là một việc đặc biệt tức cười đâu!
Điều mà tôi gọi là khôi hài, đó là khả năng giữ khoảng
267
cách với điều chúng ta sống. Thí dụ tại Côrintô, khi thánh
Phaolô bị tố cáo là một người giảng thuyết tồi, có triều
thiên đặc sủng dễ bị người khác lấy mất, thì thánh nhân đã
phản ứng với óc khôi hài. Ngài trả lời: Anh chị em hoàn
toàn có lý. Nói cho cùng điều duy nhất tôi có thể khoe
khoang là một chuỗi các khốn khổ của tôi thôi: tôi đã bị
cầm tù, bị đánh đòn, tôi đã bị đắm tầu nhiều lần... Nhưng
nếu tôi có thể nói là tôi khoe khoang về điều đó, thì chính
bởi vì Thiên Chúa đã cứu thoát tôi khỏi các hiểm nguy ấy.
Sự kiện đã vượt qua các thử thách này là dấu chỉ ơn thánh
của Chúa hoạt động qua tôi”.
Như thế thánh Phaolô cho thấy điều người ta trách cứ ngài
- sự thất bại - lại chính là cái xây dựng sự đích thật ơn gọi
của ngài. Đó là óc khôi hài tin mừng: cho thấy làm sao
trong sự yếu đuối giòn mỏng và trong sự chế nhạo lại biểu
lộ quyền năng bí mật của Thiên Chúa của thập giá. Tin
Mừng của thánh Phaolô vĩnh viễn đoạn tuyệt với một ý
thức hệ của thành tích.
268
BÀI ĐỌC THÊM VI
Đọc các thư của thánh Phaolô chúng ta nhận thấy thánh
nhân là người có ý thức cao độ về vai trò riêng là người
loan báo tin vui: Thiên Chúa cống hiến ơn cứu độ cho mọi
người qua Đức Giêsu Kitô. Thánh Phaolô là sứ giả Tin
Mừng trong nghĩa đen của từ “euangellion”. Ý thức đó
mạnh mẽ tới độ Phaolô viết trong chương 1,17 thư thứ
nhất gửi tín hữu Côrintô: “Thật ra Chúa Kitô không gửi tôi
đi rửa tội, nhưng là để loan báo Tin Mừng”.
Tuy nhiên, ở đây Phaolô không hiểu việc loan báo Tin
Mừng như là thông báo tin vui cứu độ bằng lời nói. Tin
Mừng mà thánh nhân rao giảng không chỉ là lời rao giảng
đề cập tới sáng kiến cứu độ của Thiên Chúa, cái chết và sự
sống lại của của Chúa Kitô, mà là lời của chính Thiên
Chúa và là lời của Chúa Kitô. Chính Thiên Chúa và Chúa
Kitô nói với mọi người qua Tin Mừng, mà thánh nhân loan
truyền. Do đó, không phải thánh Phaolô mà chính Thiên
Chúa Cha và Chúa Giêsu phục sinh loan báo Tin Mừng
cứu độ.
Xác tín này khiến cho Phaolô khẳng định với tín hữu
Côrintô trong chương 5,18-20 thư thứ hai gửi cho họ rằng:
“Tất cả mọi sự đến từ Thiên Chúa là Đấng đã hòa giải trần
gian với Ngài qua Đức Kitô và đã trao phó cho chúng tôi
bổn phận phục vụ sự hòa giải đó. Phải, chính Thiên Chúa
hòa giải trần gian với Ngài qua Đức Kitô, bằng cách không
269
chấp tội lỗi loài người nữa, và đặt trên môi miệng chúng
tôi sứ điệp hòa giải. Vì thế chúng tôi là đại sứ của Chúa
Kitô, và chính Thiên Chúa khuyến khích qua miệng của
chúng tôi”.
Như thế thánh Phaolô muốn nói rằng lời thánh nhân rao
giảng có cùng sự hữu hiệu như lời tạo dựng của Thiên
Chúa. Vì thế ngài viết trong chương 2,13 thư thứ nhất gửi
tín hữu Thêxalônica như sau: “... khi tiếp nhận lời Thiên
Chúa do chúng tôi rao giảng, anh chị em không tiếp nhận
như lời của con người trần gian, mà như lời của Thiên
Chúa”. Và thánh nhân khẳng định ngay trong chương 1 thư
gửi tín hữu Roma rằng: “Tin Mừng ngài rao giảng chính
”là quyền năng của Thiên Chúa nhằm đem lại ơn cứu độ
cho tất cả những ai tin” (Rm 1,16).
Lòng tin như một dấn thân cá nhân có ý thức tuân giữ các
giáo huấn của Chúa Giêsu, đó là điều kiện khiến cho tín
hữu được ơn cứu độ, như thánh Phaolô khẳng định trong
chương 15 thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô: “Tôi xin nhắc
cho anh chị em nhớ Phúc Âm tôi đã rao giảng và anh chị
em đã tin nhận cùng tuân giữ vững vàng. Nếu anh chị em
tuân giữ như tôi đã rao giảng, thì anh chị em sẽ được cứu
rỗi. Nếu không, anh chị em có tin cũng vô ích” (1 Cr 15,1-
2).
Tính chất đại đồng của Tin Mừng cứu độ và sự hiệp nhất
trong khác biệt ấy được thánh Phaolô nêu bật trong chương
3 thư gửi tín hữu Galát: “Khi đức Tin xuất hiện rồi thì
chúng ta không còn phải nằm dưới ách của luật lệ nữa. Bởi
vì do lòng Tin vào Chúa Kitô anh chị em hết thảy là con
cái Thiên Chúa. Phải, tất cả anh chị em đã chịu phép Rửa
tội trong Chúa Kitô thì đều được mặc lấy Chúa Kitô.
Không còn phân biệt người Hy lạp hay người Do thái, nô
lệ hay tự do, nam giới hay nữ giới nữa. Vì hết thảy anh chị
em chỉ là một với Chúa Giêsu Kitô” (Gl 3,25-28). Đây
không phải là một yếu tố phụ thuộc, mà là sự thật của Tin
Mừng (Gl 2,5.15).
Trong chương 11 thư thứ hai gửi cho họ Phaolô nói ngài
phải bất đắc dĩ tự khoe khoang và so sánh khả năng và
công lao của ngài với bọn tông đồ giả hiệu, để cho tín hữu
Côrintô thấy mặt nạ gian dối thâm độc của họ. Vì không
những họ vu khống và triệt hạ uy tín thánh nhân trước mặt
tín hữu, mà còn muốn lôi kéo các tín hữu theo các lập
trường sai lạc phản tinh thần Tin Mừng của Chúa Kitô.
Phaolô phải lột mặt nạ của họ, vì ngài “sợ rằng như con
Rắn xưa đã dùng mưu chước qủy quyệt lừa dối Evà thế
nào, thì lòng trí tín hữu Côrintô cũng sẽ dần dần ra hư
hỏng và mất sự ngay thẳng trước mặt Chúa Kitô như thế”.
Vì vậy thánh nhân phân bua với tín hữu Côrintô rằng: “Họ
khoe họ là các thừa tác của Đức Kitô ư? Tôi sắp nói như
người điên dại, tôi còn hơn họ vì tôi đã vất vả nhiều, vì tôi
đã bị tù đầy tra tấn cực khổ, vì tôi đã bao phen chết hụt.
Tôi bị người do thái đánh tôi bằng gậy năm lần, mỗi lần ba
mươi gậy. Tôi bị đánh bằng roi da ba lần, bị ném đá một
lần, bị đắm tầu ba lần, tôi đã bị xiêu bạt một ngày một đêm
trên biển cả” ( 2 Cr 11,23-25).
273
Chương 9,19-23 thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô là một
trang tiểu sử khác cho chúng ta thấy qủa thật Tin Mừng
cứu độ là đích điểm duy nhất trong cuộc đời thánh Phaolô.
Thánh nhân hy sinh tất cả, chịu đựng tất cả, liều mất tất cả,
miễn là mọi người được lắng nghe Tin Mừng. Ngài viết:
Còn hơn thế nữa trong chương 1 thư gửi tín hữu Roma,
thánh nhân gọi mình là “nô lệ của Đức Giêsu... được chọn
lựa để rao giảng Tin Mừng của Chúa” (Rm 1,1), và mắc nợ
mọi người “người Hy lạp, cũng như các dân rợ, người
khôn ngoan cũng như người vô học” (Rm 14). Trong
chương 15 thư gửi giáo đoàn Roma thánh nhân cũng tự
định nghĩa là “thầy tế lễ của Tin Mừng” và là “người biến
các anh chị em không do thái trở thành một lễ vật đẹp lòng
Thiên Chúa và được Thánh Thần thánh hóa” (Rm 15,16).
275
BÀI ĐỌC THÊM VII
276
(H). Thánh Phaolô đã làm gì sau cuộc trở lại trên đường
Damas?
(Đ). Ngài đã trải qua ba năm cuộc đời suy niệm trong
hoang mạc, sau đó Ngài đi Giêrusalem để gặp cac tông đồ
và cộng đoàn Kitô giáo, đoạn Ngài đi Antiôkia nơi Ngài
chính thức nhận lệnh truyền bá Phúc Âm. Antiôkia thuộc
Syri khi ấy là một thành phố rất quan trọng trong lịch sử
Kitô giáo, vì chính trong thành phố nầy mà Phúc Âm đã
được loan báo lần đầu tiên cho dân ngoại. Chúa Giêsu
chưa bao giờ giảng dạy dân ngoại. Người chỉ dạy dỗ duy
nhất dân Do Thái, cũng giống như các tông đồ lúc ban đầu.
Chính ở Antiôkia đã có bước ngoặt lớn nầy. Và chính từ
nơi ấy mà Thánh Phaolô đã thực hiện hành trình tông đồ
đầu tiên của Ngài.
(H). Người ta nói rằng, trong chuyến hành trình đầu tiên
nầy, Ngàu đã tranh luận với các tông đồ…Có đúng như
thế chăng ?
(Đ). Đã có những bất đồng ý kiến. Thánh Phaolô có một cá
tính rất mạnh mẽ. Và Chúa Giêsu đã trao phó cho Ngài
một sứ mệnh đặc biệt, sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho
dân ngoại. Đó là một kế hoạch không tưởng đối với người
Do Thái lúc bấy giờ. Và đối với các tông đồ cũng vậy. Họ
cho rằng Chúa Giêsu đã đến vì dân Israel, trong khi Thánh
Phaolô lại muốn rao giảng cho dân ngoại.
Hơn thế nữa, Thánh Phaolô ở trong một tình thế tế nhị.
Các Kitô hữu nhìn Ngài với sự nghi ngờ, nhớ lại sự hăng
say của Ngài khi bách hại họ. Người Do Thái thì coi Ngài
277
như một tên làm phản, đã bỏ đạo của cha ông. Ngài hết sức
vất vả để làm cho các Kitô hữu tiên khởi chấp nhận ý kiến
của mình. Nhất là niềm xác tín rằng Chúa Kitô đã đến
không phải chỉ cho người Do Thái,mà là cho hết thảy mọi
người. Và rằng các người dân ngoại, để trở thành những
môn đệ của Chúa Giêsu không buộc phải gập mình trước
mọi quyết định của luật Môsê. Ngay cả trong các tông đồ,
mọi người không chia sẻ các ý kiến của Ngài. Bấy giờ
Ngài nỗi giận và gọi họ là « anh em giả dối ». Ngài rất bực
bội với Thánh Phêrô, người lúc đầu đã tán thành các ý
tưởng của Ngài, nhưng sau đó lại rút lui và Thánh Phaolô
đã công khai quở trách Thánh Phêrô.
Dù thế nào đi nữa, Ngài cũng vẫn tiếp tục tin vào trực giác
Ngài đã có trong lần gặp gỡ bí ẩn với Chúa Kitô trên
đường Damas. Ngài cảm thấy một cách hết sức mãnh liệt
trong Ngài sự cấp thiết phải rao giảng Phúc Âm cho dân
ngoại. Sau hành trình đầu tiên nầy, Ngài còn thực hiện hai
chuyến khác nữa, thành lập rất nhiều Giáo Hội. Tất cả các
tông đồ cuối cùng cũng đã tán thành các trực giác của
Ngài, hiểu rằng Chúa Giêsu đã đến để cứu độ mọi người,
chứ không phải chỉ có dân Do Thái.
(H). Đâu là các yếu tố chủ chốt trong lời giảng dạy của
Thánh Phaolô ?
(Đ). Sự tự do của luật nằm ở trong tim Thánh Phaolô và ở
trung tâm luồng tư tưởng Thánh Phaolô. Thánh Phaolô
giảng dạy rằng những gì đáng kể trước hết trong tương
quan với Thiên Chúa, không phải là luân lý, mà là ân sủng
của chính Thiên Chúa, trong Chúa Giêsu Kitô. Tôi trở nên
278
công chính trước mặt Thiên Chúa không phải những gì tôi
làm nên “tôi”, mà vì những gì Thiên Chúa đã làm cho tôi
trong Chúa Giêsu Kitô. Và đức tin là sự chấp nhận quà
tặng hồng ân nầy được ban cho tôi.
Lời giảng dạy nầy của Thánh Phaolô đi ngược với quan
niệm cho rằng chính “tôi” mới xây dựng nên sự công
chính của tôi, sự thánh thiễn của tôi trước nhan thánh
Chúa. Tôi xây dựng nó qua việc tuân giữ luân lý, cung
cách hành xử, đạo đức và tuân giữ các điều răn. Quan niệm
nầy là một lập trường rất phổ biến đặt luân lý lên hàng đầu.
Nhưng, do được hiểu theo nghĩa hẹp, đây không phải là lập
trường tốt.
Một câu nói của Luther, mà chúng ta có thể chia sẻ, giải
thích rõ ý niệm nầy : “Không phải bằng việc thực hiện
những điều công chính mà chúng ta nên công chính.
Nhưng nếu chúng ta là người công chính, thì chúng ta làm
những điều công chính”. Nét luân lý của hành động, trong
quá trình hoạt động, vì thế chỉ là thứ yếu so với chiều kích
của sự việc “là” đi trước và là căn bản.
“Ở trong Chúa Giêsu Kitô” và nhận đươc sự ân cần yêu
thương của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, không lệ
thuộc vào đời sống luân ý của tôi mà vì bởi chính “tôi
sống” “hữu thể trong Chúa Giêsu Kitô”, chắc chắn sẽ đồng
bộ với thực tại tuyệt diệu nầy. Đó chính là điểm chủ chốt
và là yếu tố dẫn đừơng cho luồng tư tưởng Thánh Phaolô.
Yếu tố quan trọng thứ hai trong tư tưởng Thánh Phaolô
đụng đến “căn tính Kitô giáo”, vốn được định nghĩa không
chỉ bằng những phạm trù “pháp lý” như là sự công chính,
người công chính, sự công chính hoá, mà còn bằng những
279
phạm trù “bí nhiệm” hoặc “ có tính chất dự phần”. Nói
cách khác, Kitô hữu là một người ở trước mặt Chúa Giêsu
Kitô với đức tin,nhưng “dự phần “ vào chính Chúa Kitô và
sống “trong” Chúa Giêsu Kitô.
Giữa người Kitô hữu và Chúa Giêsu xảy ra một sự tham
dự liên cá nhân thật sự. Người Kitô-hữu “sống’ trong Chúa
Giêsu Kitô và Chúa Gies6u Kitô sống trong Kitô hữu.
Và cách thức tồn tại nầy dẫn chúng ta đến điểm căn bản
thứ ba trong lời giảng dạy của Thánh Phaolô : “chiều kích
cộng đoàn”, điều mà chính Thánh Phaolô gọi là Giáo Hội.
Với Ngài, từ ngữ “Giáo Hội” không hề có một ý nghĩa trừu
tượng, nhưng luôn liên quan đến một cộng đoàn cụ thể, ở
trong một nơi chốn cụ thể. Có Giáo Hội Côrintô, Giáo Hội
Thêxalônica, Giáo Hội Philipphê,v..v…Ngày nay chúng ta
đem cho “Giáo Hội” một nghĩa “Công giáo”,nghĩa là hoàn
vũ. Nhưng sự hình thành ý niệm nầy đến sau Thánh
Phaolô.
Thánh Phaolô đã dùng từ Giáo Hội để chì mỗi một cộng
đoàn và Ngài đã cho từ ngữ nầy một nghĩa rộng “sự chia sẻ
cộng đoàn” đặc biệt. Nơi các Kitô hữu gặp gỡ nhau là mái
nhà, nhà của một tư nhân, nơi họ tụ họp nhau để dùng
bửa, để đọc và giải thích các đoạn sách thánh. Như vậy,
cộng đoàn hội thánh có một khuôn khổ gia đình. Và chính
trong bối cảnh cách thức sống nầy mà đã hình thành và
phát triển định nghĩa Giáo Hội theo Thánh Phaolô: Giáo
Hội “thân thể của Chúa Kitô”. Ý niệm phi thường nầy chỉ
thuộc về Phaolô mà thôi. Người ta có thể tranh luận sau đó
về ý nghĩa của câu theo đó “Giáo Hội là Thân Thể của
Chúa Kitô”.
280
Người ta tự hỏi phải chăng qua đó Ngài muốn nói rằng
Giáo Hội là một thân thể trong ý nghĩa xã hội của từ ngữ
nầ, thuộc về Chúa Kitô, hay là chính Chúa Kitô hiện diện
trong thân thể của Người, trong một hình hài thân thể,
trong một chiều kích không phải xã hội, mà là cá thể,
huyền nhiệm. Tôi cho rằng chính ý niệm thứ hai nầy mới
là ý niệm hay đúng. Và luôn nằm trong nhãn giới sự chia
sẻ cộng đoàn, Giáo Hội với Thánh Phaolô hoàn toàn “có
tính chất bình đẳng”. Ngài giảng dạy rằng trong Chúa Kitô
không còn Do Thái, Hy Lạp, không còn nô lệ hoặc người
tự do, không còn đàn ông hay đàn bà. Bên trong cộng đoàn
nầy cũng có những nhiệm vụ thật sự, nhưng đó không phải
là những nhiệm vụ tư tế theo nghĩa phẩm trật mà người ta
biết đến sau đó. Có những người chủ toạ, những người
được giao trách nhiệm hướng dẫn, tổ chức việc tụ họp.
Ngoài ra không có gì khác.
281
BÀI ĐỌC THÊM VIII
Dưới đây là bản dịch bài huấn từ của Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô trong buổi triều yết chung
vào ngày Thứ Tư 26/11/2008 tại Quảng Trường Thánh
Phêrô. Hôm nay ĐTC tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về chân
dung và tư tưởng của Thánh Phaolô. Có sự hiện diện của
Đức Giáo Chủ Aram I của Cilicia thuộc Giáo Hội
Armênia.
***
Trong bài Giáo Lý Thứ Tư tuần trước, Cha đã bàn đến việc
làm thế nào để một người được trở nên công chính trước
mặt Thiên Chúa. Theo Thánh Phaolô, chúng ta thấy rằng
một người không thể trở nên “công chính” nhờ những việc
làm riêng của mình, nhưng có thể thật sự trở nên “công
chính” chỉ bởi vì Thiên Chúa ban cho người ấy “ơn công
chính” qua việc kết hợp với Con Ngài là Đức Kitô. Và con
người có được sự kết hợp với Đức Kitô này nhờ Đức Tin.
Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô bảo chúng ta rằng, không
phải việc làm của chúng ta, nhưng Đức Tin làm cho chúng
ta nên “công chính”. Tuy nhiên Đức Tin này không phải là
một tư tưởng, ý kiến, hay quan niệm. Đức Tin này là sự
282
hiệp thông với Đức Kitô, mà Chúa ban cho chúng ta, và vì
thế nó trở nên sự sống, sự phù hợp với Người. Hay nói
cách khác, nếu Đức Tin có thật, nếu Đức Tin chân chính,
nó trở thành tình yêu, nó trở thành Đức Ái, nó phải được
diễn tả bằng Đức Ái. Một Đức Tin không có tình yêu,
không có hoa trái, không thể là Đức Tin thật. Nó phải là
một Đức Tin chết.
Đứng đầu của danh sách các nhân đức này là ágape, Đức
Ái, và đứng cuối là tự chủ. Trên thực tế, Chúa Thánh
Thần, chính là Tình Yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con,
truyền hồng ân thứ nhất, ágape, vào lòng chúng ta (x. Rm
5,5); và ágape, Đức Ái, để được diễn tả cách đầy đủ cần
phải có sự tự chủ. Trong Thông Điệp đầu tiên của Cha,
“Deus Caritas Est”, Cha đã nói về Tình Yêu của Chúa Cha
và Chúa Con, là điều đến với chúng ta và biến đổi cuộc đời
chúng ta một cách sâu xa. Các tín hữu biết rằng trong sự
yêu thương lẫn nhau tình yêu của Chúa Cha và Đức Kitô
được biểu hiện bằng Chúa Thánh Thần.
Chúng ta hãy trở lại Thư gửi tín hữu Galatê. Ở đây, Thánh
Phaolô đã nói rằng, các tín hữu làm trọn giới luật yêu
thương bằng cách vác đỡ gánh nặng của nhau (x. Gl 6,2).
Được nên công chính nhờ hồng ân Đức Tin vào Đức Kitô,
chúng ta được mời gọi sống cho tha nhân trong tình yêu
của Đức Kitô, bởi vò đó là điều kiện mà dựa vào đấy Chúa
sẽ xét xử chúng ta ở cuối cuộc đời. Trên thực tế, Thánh
Phaolô không làm gì khác hơn là nhắc lại những gì chính
Chúa Giêsu đã nói, mà chúng ta đã nhắc lại trong bài Tin
Mừng Chúa Nhật tuần trước, trong dụ ngôn về Ngày
Chung Phán.
Chúng ta hãy trở lại Thư Thứ Nhất gửi tín hữu Côrinthô,
Thánh Phaolô cống hiến cho chúng ta một bài ca tụng tình
yêu thời danh; còn được gọi là Bài Ca Đức Ái: “Nếu tôi
284
nói được các ngôn ngữ của loài người và của các thiên sứ,
mà không có Đức Ái, thì tôi cũng sẽ không khác gì một cái
chiêng inh ỏi, hay một cái cồng rền vang…. Đức ái thì kiên
nhẫn, ân cần, không ghen tương, không khoe khoang,
không tự đắc, không thô lỗ, không tìm tư lợi, ...” (1 Cr
13,1.4-5).
Tình yêu Kitô đòi hỏi rất nhiều bởi vì nó phát sinh từ tình
yêu hoàn toàn mà Đức Kitô dành cho chúng ta: tình yêu
này đòi buộc chúng ta, đón chào chúng ta, ấp ủ chúng ta,
nuôi dưỡng chúng ta, và ngay cả hành hạ chúng ta, bởi vì
nó đòi chúng ta phải không còn sống cho chính mình,
không còn khép kín trong tính ích kỷ nữa, nhưng sống cho
“Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta” (x. 2 Cr 5,15).
Tình yêu của Đức Kitô làm cho chúng ta trở thành tạo vật
mới này trong Người (x. 2 Cr 5,17), được vào để hợp thành
nhiệm phần tử của Nhiệm Thể của Người là Hội Thánh.
Từ quan điểm này, vị trí trung tâm của sự công chính hóa
không cần việc làm, là mục tiêu chính của việc rao giảng
của Thánh Phaolô, không trái ngược với Đức Tin hoạt
động trong Đức Ái. Trái lại, chính Đức Tin của chúng ta
cần phải được diễn tả trong đời sống theo Chúa Thánh
Thần. Thường người ta thấy những quan điểm trái ngược
vô căn cứ giữa thần học của Thánh Phaolô và Thánh
Giacôbê, là đấng đã nói trong thư của ngài: “Vì như một
thân xác không có thần khí là một xác chết, thì đức tin
không có việc làm cũng là đức tin chết” (2,26).
Trên thực tế, trong khi Thánh Phaolô quan tâm nhiều nhất
285
đến việc chứng tỏ rằng Đức Tin vào Đức Kitô là điều cần
và đủ, Thánh Giacôbê nhấn mạnh đến kết quả của sự liên
hệ giữa Đức tin và việc làm (x. Gc 2,2-4). Cho nên, đối với
Thánh Phaolô và Thánh Giacôbê, Đức Tin hoạt động trong
Đức Ái làm chứng cho hống ân nhưng không của ơn công
chính hóa trong Đức Kitô. Ơn Cứu Độ mà chúng ta nhận
được trong Đức Kitô, cần được bảo vệ và làm chứng “với
sự kính sợ và run rẩy. Vì chính Thiên Chúa tác động trong
anh em, cả trong ý chí cũng như việc làm theo lòng nhân
lành của Người. Vậy anh em hãy làm mọi việc mà không
phàn nàn hay thắc mắc… trong khi anh em tuân giữ Lời
ban sự sống” như Thánh Phaolô phải nói ngay cả với các
Kitô hữu ở Philip-phê (x. Pl 2,12-14,16).
Hậu quả của Đức Tin không được hiện thân trong Đức Ái
tai hại khôn lường, bởi vì nó biến thành một lạm dụng
nguy hiểm nhất và thành chủ nghĩa chủ quan đối với chúng
ta và anh em chúng ta. Ngược lại, theo Thánh Phaolô,
chúng ta phải đổi mới ý thức của mình về sự thật là, chính
286
vì chúng ta đã được công chính hóa trong Đức Kitô, mà
chúng ta không còn thuộc về mình nữa, nhưng đã được trở
thành Đền Thờ Chúa Thánh Thần, và như thế được mời
gọi để làm vinh danh Thiên Chúa trong thân xác mình
cùng với toàn thể cuộc đời mình (x. 1 Cr 6,19). Nếu sau
khi đã được mua bằng giá rất đắt là Máu của Đức Kitô, mà
chúng ta không làm vinh danh Thiên Chúa trong thân xác
mình, thì đó là khinh miệt giá trị vô song của ơn công
chính hóa.
288
BÀI ĐỌC THÊM IX
Dưới đây là bản dịch bài huấn từ của Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô trong buổi triều yết chung
vào ngày Thứ Tư 19/11/2008 tại Quảng Trường Thánh
Phêrô. Nguyên văn bằng tiếng Ý. Hôm nay ĐTC tiếp tục
chu kỳ Giáo Lý về Thánh Phaolô.
***
Ánh sáng trên đường Đamascô đã thay đổi cuộc đời ngài
tận gốc, và ngài bắt đầu coi tất cả các công lao ngài lập
được trong sự nghiệp chính trực về tôn giáo như là “rác
289
rưởi” trước tính siêu phàm của sự hiểu biết về Đức Chúa
Giêsu Kitô (Pl 3:8). Thư gửi tín hữu Philipphê cung cấp
cho chúng ta một chứng từ cảm động về việc Thánh
Phaolô đổi từ một sự công chính dựa trên Lề Luật với các
đòi hỏi của nó, sang một sự công chính dựa trên Đức Tin
vào Đức Kitô, ngài đã hiểu rằng điều mà đến lúc đó xem ra
là có lợi thì trên thực tế trước mặt Thiên Chúa là một sự
thua thiệt, và ngài đã quyết định đánh cá trọn đời mình trên
Đức Chúa Giêsu Kitô (x. Pl 3:7). Để chiếm hữu được kho
tàng chôn giấu trong ruộng và viên ngọc quý, ngài đầu tư
tất cả mọi sự, không còn dựa trên công việc của Lề Luật,
mà trên Đức Chúa Giêsu Kitô, Chúa của ngài.
Với các Kitô hữu ở Rôma, ngài cũng tái xác định điều này:
”tất cả mọi người đã phạm tội và bị mất vinh quang Thiên
Chúa, nhưng họ được trở nên công chính một cách nhưng
không nhờ ân sủng của Ngài, qua công trình cứu chuộc
trong Ðức Chúa Giêsu Kitô” (Rm 3:23-24) và ngài nói
thêm: “Chúng tôi tin rằng một người được trở nên công
chính nhờ Đức Tin, chứ không nhờ làm theo Lề Luật.”
(Rm 3:28). Về điểm nà, ông Lutherô đã dịch là: “chỉ nhờ
291
Đức Tin mà thôi”. Chúng ta sẽ trở lại điểm này ở cuối bài
Giáo Lý.
Thánh Phaolô biết rằng toàn thể Luật Lệ được làm trọn
trong luật đôi mến Chúa yêu người. Như thế trong sự hiệp
thông với Đức Kitô, trong Đức Tin tin tạo ra đức ái, tất cả
Lề Luật được thi hành. Chúng ta trở nên công chính khi
bước vào sự hiệp thông với Đức Kitô, Đấng là tình yêu.
Chúng ta sẽ thấy cùng một điều này trong Tin Mừng Chúa
Nhật tuần tới, lễ trọng thể kính Đức Kitô Vua. Đó là Tin
Mừng của vị Thẩm Phán mà tiêu chuẩn duy nhất của
Người là tình yêu. Điều mà Ta hỏi chỉ là điều này: Ngươi
có thăm viếng Ta khi Ta đau yếu không? Khi Ta ở trong
294
tù? Ngươi có cho Ta ăn khi Ta đói, cho Ta mặc khi Ta trần
truồng không? Như thế sự công chính được quyết định
trong đức ái. Vậy, ở cuối Tin Mừng, chúng ta có thể nói:
chỉ có tình yêu, chỉ có đức ái. Tuy nhiên, không có sự trái
ngược giữa Tin Mừng và Thánh Phaolô. Cả hai cùng có
một cái nhìn, là cái nhìn mà theo đó sự hiệp thông với Đức
Kitô, Đức Tin vào Đức Kitô, tạo nên đức ái. Và đức ái là
thể hiện sự hiệp thông với Đức Kitô. Cho nên nhờ hiệp
nhất với Người mà chúng ta được nên công chính, chứ
không có cách nào khác.
Sau cùng, chúng ta chỉ có thể cầu xin Chúa giúp chúng ta
tin. Tin thực sự; như thế tin trở thành sự sống, sự hiệp nhất
với Đức Kitô, sự biến đổi cuộc đời chúng ta. Và như vậy,
được biến đổi bởi tình yêu của Người, bởi tình yêu của
Thiên Chúa và tha nhân, chúng ta có thể thực sự trở nên
công chính trước mắt Thiên Chúa.
295
BÀI ĐỌC THÊM X
Dưới đây là bản dịch bài huấn từ của ĐTC Bênêđictô XVI
trong buổi triều yết chung ngày thứ tư mùng 8/10/2008 tại
quảng trường Thánh Phêrô. ĐTC tiếp tục chu kỳ Giáo Lý
dành cho khuôn mặt và tư tưởng của Thánh Phaolô.
****
Vấn nạn còn lại bây giờ là Thánh Phaolô biết gì về Chúa
Giêsu khi Người còn tại thế: về cuộc đời của Người, vầ
giáo huấn của Người, về cuộc Khổ Nạn của Người. Trước
khi đi vào vấn đề này, chúng ta nên nhớ rằng chính Thánh
Phaolô đã phân biệt hai cách để biết Chúa Giêsu, nói
chung là hai cách để biết một người.
296
Ngài viết trong Thư Thứ Hai gửi tín hữu Côrinthô: “Cho
nên từ nay trở đi chúng tôi không còn biết một ai theo xác
thịt. Mặc dầu chúng tôi đã biết Ðức Kitô theo xác thịt,
nhưng bây giờ chúng tôi không còn biết Người như thế
nữa” (5:16). Biết “theo xác thịt”, một cách hữu hình, có
nghĩa là chỉ biết vẻ bề ngoài, với những tiêu chuẩn bên
ngoài: một người có thể thấy một người khác nhiều lần,
nhận ra được những đặc tính về dung mạo của người ấy và
nhiều chi tiết về cách người ấy hoạt động: người ấy nói
chuyện, đi đứng,… thế nào. Nhưng dù biết người nào cách
này, một người vẫn không thật sự biết người ấy, một người
không thể biết được cái tâm của người ấy. Chỉ với trái trái
tim, người ta mới thật sự biết một người.
Ngày nay cũng có cách hiểu biết khác nhau đó: Có nhiều
cá nhân học rộng cùng biết nhiều chi tiết về Đức Kitô, và
nhiều người chất phác không biết những chi tiết ấy, nhưng
297
họ lại biết Đức Kitô và chân lý của Người: “Con tim nói
với con tim”. Và Thánh Phaolô thật sự nói rằng ngài biết
Đức Kitô cách ấy, bằng con tim, và rằng ngài thật sự biết
con người và chân lý của Người; và rồi sau đó, ngài biết
các chi tiết.
Sau khi đã nói thế, vấn đề vẫn còn lại là: Thánh Phaolô đã
biết gì về cuộc đời, các lời nói, cuộc Khổ Nạn và các phép
lạ của Chúa Giêsu? Dường như ngài đã chưa bao giờ được
gặp Chúa Giêsu trong cuộc đời dương thế của Người. Chắc
chắn rằng ngài đã học những chi tiết về cuộc đời dương thế
của Đức Kitô từ các Tông Đồ và Hội Thánh Sơ Khai.
Trong các Thư của ngài, chúng ta tìm thấy ba hình thức
ngài dùng để nói về Chúa Giêsu tiền Phục Sinh. Trước hết,
là những đề cập dứt khoát và trực tiếp. Thánh Phaolô nói
về dòng dõi vua Đavid của Chúa Giêsu (x. Rom 1:3). Ngài
biết Chúa có các “anh em” hay bà con họ hàng theo huyết
thống (1 Cor 9:5; Gal 1:19), ngài biết về việc tiến hành
trong Bữa Tiệc Ly (x. 1 Cor 11:23). Ngài biết những câu
nói khác của Chúa Giêsu, thí dụ như sự bất khả phân ly
của hôn nhân (x. 1 Cor 7:10 với Mc 10:11-12), về nhu cầu
mà những người rao giảng Tin Mừng cần được cộng đồng
nâng đỡ như là người làm đáng được tiền công (x. 1 Cor
11:24-25 và Lc 22:19-20), và ngài cũng biết về Thập Giá
của Chúa Giêsu. Những điều này là những đề cập trực tiếp
đến những lời nói và các sự kiện trong đời sống của Chúa
Giêsu.
Thứ đến, chúng ta có thể thấy từ một vài câu trong các Thư
Thánh Phaolô một số ám chỉ khác nhau đã được truyền
298
thống Nhất Lãm xác nhận. Thí dụ các lời mà chúng ta đọc
trong Thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônica, theo đó thì
“ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm trong đêm” (5:2),
không thể dựa theo các lời tiên tri trong Cựu Ước mà giải
thích được, bởi vì việc so sánh với kẻ trộm trong đêm chỉ
được tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Matthêu và Luca,
như thế những lời ấy phải được trích ra từ truyền thống
Nhất Lãm. Và khi một người đọc rằng Thiên Chúa “chọn
sự điên dại của thế gian” (1 Cor 1:27-28), người ta có thể
nhận ra đó là tiếng vang vọng trung thực của Giáo Huấn
của Chúa Giêsu về những người đơn sơ và khó nghèo (x.
Mt 5:3; 11:25; 19:30). Cũng có những lời của Chúa Giêsu
trong Lễ Đại Xá cứu thế; “Lạy Cha, là Chúa Trời đất, Con
cảm tạ Cha vì cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan
thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho
những người như trẻ nhỏ." Thánh Phaolô biết -- từ kinh
nghiệm truyền giáo của ngài -- rằng những lời này là chân
thật, những người giống trẻ nhỏ là những người có con tim
mở ra để đón nhận sự hiểu biết về Đức Kitô. Cũng thế,
việc nhắc đến sự vâng phục của Chúa Giêsu “cho đến
chết” mà chúng ta thấy trong Philliphê 2:8 không nói về
điều gì khác ngoài việc hoàn toàn sẵn lòng của Chúa Giêsu
khi còn tại thế để làm trọn Thánh Ý Chúa Cha (x. Mc 3:35;
Ga 4:34).
Cho nên Thánh Phaolô đã biết về Cuộc Khổ Nạn của Đức
Kitô, Thập Giá của Người, và cách Người đã sống trong
những giây phút cuối cùng của đời Người. Thập Giá của
Chúa Giêsu và truyền thống về sự thật của Thập Giá nằm ở
trọng tâm của Lời Rao Giảng của Thánh Phaolô. Một cột
299
trụ khác của cuộc đời Chúa Giêsu mà Thánh Phaolô đã biết
là Bài Giảng Trên Núi, một số yếu tố của Bài Giảng này
được nhắc lại hầu như từ chương khi ngài viết cho tín hữu
Rôma: “Anh chị em hãy yêu thương nhau. … Phúc cho
những ai bị bách hại. … Anh chị em hãy sống hòa thuận
với mọi người. … Hãy thắng sự dữ bằng việc lành”. Trong
các Thư của ngài có sự diễn tả trung thực [những điều
trong] Bài Giảng Trên Núi (x. Mt 5-7).
Sau cùng, chúng ta có cách thứ ba để tìm thấy lời của Chúa
Giêsu trong các Thư của Thánh Phaolô: đó là khi ngài
hoán chuyển truyền thống của thời Tiền Phục Sinh thành
Hậu Phục Sinh. Một thí dụ cụ thể là đề tài về Nước Thiên
Chúa. Đây chắc chắn là trung tâm của việc giảng dạy của
Đức Kitô lịch sử (x. Mt 3:2; Mc 1:15; Lc 4:43). Trong
cách hoán chuyển của Thánh Phaolô đề tài này được thấy
rõ ràng, vì sau khi Phục Sinh rõ ràng là Chúa Giêsu, Đấng
Phục Sinh, là Nước Thiên Chúa. Khi ấy, Chúa Giêsu ở đâu
thì Nước Thiên Chúa ở đó. Và như thế sự cần thiết của đề
tài về Nước Thiên Chúa, mà trong đó mầu nhiệm của Đức
Kitô đã được thấy trước, được biến đổi thành Kitô học.
Các giáo huấn của chính Chúa Giêsu về việc làm sao để
được vào Nước Thiên Chúa cũng đúng đối với Thánh
Phaolô về việc công chính hóa nhờ Đức Tin: Cả hai đòi
hỏi một thái độ khiêm nhường hết sức và sẵn lòng, không
tự phụ, để nhận được ân sủng của Thiên Chúa. Thí dụ, dụ
ngôn người Biệt Phái và người Thu Thuế (x. Lc 18:9-14)
dạy chính điều mà Thánh Phaolô bàn đến khi ngài quả
quyết rằng không ai được tự khoe mình trước sự hiện diện
300
của Thiên Chúa. Cũng thế, giáo huấn của Chúa Giêsu về
những người thu thuế và gái điếm, là những người sẵn
sàng đón nhận Tin Mừng hơn những người Biệt Phái (x.
Mt 21:31; Lc 7:36-50), và quyết định ngồi ăn cùng bàn với
họ của Người (x. Mt 9:10-13; Lc 15:1-2), được tìm thấy
trong học thuyết của Thánh Phaolô về mầu nhiệm tình yêu
của Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi (x. Rom 5:8-
10 và Eph 2:3-5). Bằng cách này, đề tài về Nước Thiên
Chúa được đề ra bằng một phương thức mới mẻ, nhưng
luôn luôn trung thành với truyền thống của Chúa Giêsu
lịch sử.
Một thí dụ khác về việc hoán chuyển một cách trung thành
trọng tâm giáo thuyết của Chúa Giêsu được tìm thấy trong
các “tước hiệu” nói về Người. Trước Phục Sinh, Đức Kitô
tự xưng mình là “Con Người”; sau Phục Sinh rõ ràng là
Con Người cũng là Con Thiên Chúa. Cho nên, tước hiệu
mà Thánh Phaolô thích dùng để nói về Chúa Giêsu là
“Kyrios” – Chúa (x. Phil 9:11) -- tước hiệu ấy ám chỉ
Thiên Tính của Chúa Giêsu. Với tước hiệu này Chúa Giêsu
xuất hiện trong ánh sáng sung mãn của sự Phục Sinh của
Người.
Trên Núi Cây Dầu, trong giây phút “cực kỳ đau buồn” của
Chúa Giêsu (x. Mk 14:36), các môn đệ, trước khi mê ngủ,
đã nghe Chúa Giêsu nói với Chúa Cha và gọi Ngái là
“Abba – Cha ơi”. Đây là một lời rất thân tình, giống như
“bố ơi”, chỉ dành cho con cái gọi cha mình. Cho đến giây
phút ấy, việc một người Hipri dùng lời như vậy mà gọi
Thiên Chúa là một điều không tưởng; nhưng Chúa Giêsu,
301
là người Con thật, nói như thế trong giờ mật thiết và gọi
“Abba, Cha ơi”.
Trong Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma và Galatê, điều
đáng ngạc nhiên là chữ “Abba” dùng để diễn tả liên hệ
riêng của Chúa Giêsu với Chúa Cha được phát ra từ miệng
những người được rửa tội (x. Rom 8:15; Gal 4:6). Họ đã
nhận được “Thần Khí làm Nghĩa Tử” và giờ đây mang
trong chính mình họ Thần Khí này, và họ có thể nói như
Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu như những con cái
thật của Chúa Cha. Họ có thể gọi “Abba” bởi vì họ đã
được biến đổi thành con cái trong Chúa Con.
Và cuối cùng, cha muốn vạch ra chiều kích cứu độ của cái
chết của Chúa Giêsu, như chúng ta thấy trong Tin Mừng
mà trong đó “Con Người không đến để được phục vụ mà
để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc tội
nhiều người” (Mc 10:45; Mt 20:28). Cách diễn tả trung
thực câu này của Chúa Giêsu xuất hiện trong học thuyết
Thánh Phaolô về cái chết của Chúa Giêsu như là một sự
giải thoát (x. 1 Cor 6:20), như sư cứu độ (x. Rom 3:24),
như giải phóng (x. Gal 5:1) và như hòa giải (x. Rom 5:10;
2 Cor 5:18-20). Đây là trung tâm của Thần Học Thánh
Phaolô, là một nền thần học dựa vào câu này của Chúa
Giêsu.
302
những biến cố đó là những gì trong quá khứ; ngài đưa các
biến cố này ra như những thực tại của Chúa Giêsu vẫn còn
sống. Những lời nói và hành động này của Chúa Giêsu đối
với Thánh Phaolô không gắn liền với một thời điểm lịch
sử, với quá khứ. Chúa Giêsu hiện vẫn sống và nói với
chúng ta, và sống cho chúng ta. Đó là cách đích thực để
biết Chúa Giêsu, không phải cách tự nhiên, như một người
trong quá khứ, nhưng như là Chúa và Anh của chúng ta,
mà ngày nay đang ở với chúng ta cùng chỉ cho chúng ta
phải sống thế nào và chết thế nào.
303
BÀI ĐỌC THÊM XI
****
Hôm nay cha muốn nói về giáo huấn của Thánh Phaolô về
Hội Thánh. Chúng ta phải bắt đầu bằng cách ghi nhận rằng
chữ này – “iglesia” trong tiếng Tây Ban Nha, cũng như
“église” trong tiếng Pháp hay “chiesa” trong tiếng Ý --
được lấy từ chữ “ekklesia” trong tiếng Hy Lạp. Nó bắt
nguồn từ Cựu Ước và có nghĩa là sự tập họp của dân
Israel, được Thiên Chúa quy tụ, và đặc biệt là kiểu tập họp
ở chân núi Sinai.
304
Giờ đây, từ này ám chỉ một cộng đoàn tín hữu mới trong
Đức Kitô tự ý thức rằng họ là cộng đồng của Chúa, một
cuộc tập họp mới của tất cả các dân của Thiên Chúa trước
mặt Ngài. Từ “ekklesia” chỉ xuất hiện trong các tác phẩm
của Thánh Phaolô, là tác giả đầu tiên của một tác phẩm
Kitô giáo. Điều này xảy ra trong câu mở đầu của Thư Thứ
Nhất gửi tín hữu Thêxalônica, trong đó Thánh Phaolô viết
cho “Hội Thánh tại Thêxalônica” (x. sau này ngài cũng gửi
cho “Hội Thánh của người Laođêcê trong thư gửi tín hữu
Côlôxê 4:16).
Trong các Thư khác ngài nói về Hội Thánh của Thiên
Chúa là Hội Thánh ở Côrinthô (x. 1 Cor 1:2 và 2 Cor 1:1),
Hội Thánh ở Galatê (Gal 1:2, v.v.). – cho nên là những Hội
Thánh đặc thù – nhưng ngài cũng kể lại việc đã khủng bố
“Hội Thánh của Thiên Chúa”, mà không phải một cộng
đoàn địa phương riêng biệt, mà là “Hội Thánh của Thiên
Chúa”. Như thế, chúng ta thấy rằng từ “Hội Thánh” này có
một ý nghĩa đa dạng: Nó một mặt ám chỉ những cuộc tập
họp của Thiên Chúa ở những nơi riêng biệt (một thành
phố, một quốc gia, một căn nhà), nhưng nó cũng có nghĩa
là toàn thể Hội Thánh nói chung. Và như thế chúng ta thấy
rằng “Hội Thánh của Thiên Chúa” không phải chỉ là tổng
cộng của tất các Hội Thánh địa phương riêng rẽ, nhưng tất
cả các Hội Thánh này đồng thời cũng là sự hiện thân của
một Hội Thánh duy nhất của Thiên Chúa. Tất cả hợp lại
thành “Hội Thánh của Thiên Chúa”, là Hội Thánh có trước
mỗi Hội Thánh địa phương và được diễn tả cùng thể hiện
trong các Hội Thánh ấy.
305
Điều quan trọng đáng cho chúng ta nhận xét là hầu như lúc
nào chữ “Hội Thánh” cũng xuất hiện với thuộc từ “của
Thiên Chúa”: Đó không phải là một đoàn thể của loài
người, phát sinh từ nhũng tư tưởng hay ích lợi chung,
nhưng là một cuộc tập họp của Thiên Chúa. Ngài đã tụ họp
Hội Thánh lại và vì thế Hội Thánh là duy nhất trong mọi
thể hiện. Sự duy nhất của Thiên Chúa tạo nên sự duy nhất
của Hội Thánh ở mọi nơi mà Hội Thánh được thành lập.
Sau này, trong Thư gửi tín hữu Êphêxô, Thánh Phaolô đã
khai triển rộng rãi quan niệm duy nhất của Hội Thánh, tiếp
tục theo quan niệm Dân Thiên Chúa, Israel, được các ngôn
sứ coi là “hiền thê của Thiên Chúa,” được mời gọi để sống
liên hệ phu thê với Ngài. Thánh Phaolô trình bày Hội
Thánh duy nhất của Thiên Chúa như là “hiền thê của Đức
Kitô” trong tình yêu, một tinh thần duy nhất với chính Đức
Kitô.
Người ta biết rằng khi còn trẻ Thánh Phaolô đã rất thù ghét
cái phong trào mới được cấu thành bởi Hội Thánh của Đức
Kitô. Ngài là kẻ thù của Hội Thánh bởi vì ngài đã thấy
phong trào mới này đe dọa tinh thần trung thành với truyền
thống của Dân Chúa, được sinh động nhờ đức tin vào một
Thiên Chúa Duy Nhất. Sự trung thành này được diễn tả
trên hết trong việc cắt bì, tuân giữ các luật về thanh sạch
thuộc về văn hóa, kiêng một số thức ăn nào đó, và tôn
trọng ngày Sabath.
Dân Israel đã trả giá cho sự trung thành này bằng máu của
họ trong thời Maccabêa, khi triều đại Hy Lạp bắt họ chỉ
được chấp nhận nền văn hóa Hy Lạp mà thôi. Nhiều người
306
Israel đã lấy máu mình mà bảo vệ ơn gọi riêng của dân
Israel. Các vị tử vì đạo đã lấy mạng sống của họ mà trả cho
căn tính của dân họ, là căn tính được diễn tả qua những
yếu tố này.
Sau khi gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh, Thánh Phaolô đã hiểu
rằng các Kitô hữu không phải là những kẻ phản quốc; trái
lại, trong hoàn cảnh mới, Thiên Chúa của dân Israel, qua
Đức Kitô, đã mở rộng lời mời gọi của Người đến mọi dân
tộc, bằng cách trở thành Thiên Chúa của mọi dân tộc. Nhờ
cách này mà sự trung thành với Thiên Chúa duy nhất được
chu toàn; những dấu chỉ riêng biệt cấu thành bởi những tục
lệ và những điều phải tuân giữ không còn cần thiết nữa,
bởi vì tất cả mọi người được mời gọi, trong sự khác biệt
nhau, để tạo thành phần tử của một Dân Thiên Chúa duy
nhất trong “Hội Thánh của Thiên Chúa”, trong Đức Kitô.
Có một điều hiển nhiên đối với Thánh Phaolô trong hoàn
cảnh mới là: giá trị chủ yếu và căn bản của Đức Kitô và
“Lời” mà ngài đã rao giảng. Thánh Phaolô biết rằng người
ta không những đã trở thành Kitô hữu không vì bị bắt
buộc, nhưng vì trong hình thể nội tại của cộng đoàn mới
này, cơ cấu hợp thành nó được liên kết với “Lời Hằng
Sống”, là việc rao giảng Đức Kitô hằng sống, trong đó
Thiên Chúa mở chính Mình ra cho mọi dân tộc, và kết hợp
họ lại trong một Dân Thiên Chúa duy nhất. Việc Thánh
Luca trong sách Tông Đồ Công Vụ nhiều lần dùng cụm từ
“rao giảng Lời” (Cv 4:29,31; 8:25; 11:19; 13:46; 14:25;
16:6,31) là một điều quan trọng, với một ý định rõ ràng là
307
chứng tỏ tầm vóc tối đa và quyết định của Lời được rao
giảng.
Theo nghĩa ấy, chúng ta cũng hiểu quan niệm nguyên thủy
về Hội Thánh như “Thân Mình Đức Kitô”, theo học thuyết
riêng của Thánh Phaolô. Về việc này, chúng ta nên ghi nhớ
hai bình diện của quan niệm này. Thứ nhất là đặc tính xã
hội, theo đó thì thân thể được tạo thành bởi những bộ phận,
và không có thân thể nếu không có những bộ phận ấy.
Chúng ta thấy cách giải thích này trong Thư gửi tín hữu
Rôma và trong Thư Thứ Nhất gửi tín hữu Côrinthô, ở đó
308
Thánh Phaolô dùng một hình ảnh đã có sẵn trong xã hội
học của người Rôma. Ngài nói rằng một dân tộc cũng
giống như một thân thể với những chi thể khác nhau, mỗi
chi thể có phận sự riêng của mình, nhưng tất cả, dù chi thể
nhỏ nhất và xem ra tầm thường nhất, cũng vẫn cần thiết để
thân thể có thể sống và thi hành nhiệm vụ của mình. Cách
thích hợp, Thánh Tông Đồ quan sát và thấy rằng trong Hội
Thánh có nhiều ơn gọi: làm ngôn sứ, tông đồ, dân chúng
đơn thành, tất cả đều được mời gọi sống Đức Ái mỗi ngày,
tất cả đều cần thiết cho việc xây dựng sự hợp nhất sống
động của tổ chức thiêng liêng này.
Một cách giải thích khác nói đến chính Thân Thể Đức
Kitô. Thánh Phaolô chứng minh rằng Hội Thánh không chỉ
là một tổ chức, nhưng thật sự trở thành Nhiệm Thể Đức
Kitô trong Bí Tích Thánh Thể, là nơi mà tất cả các phần tử
đón nhận Mình Người và thật sự trở thành Thân Thể của
Người. Như thế là làm tròn mầu nhiệm phu thê, rằng tất cả
là một thân thể và một tinh thần trong Đức Kitô. Vì thế
thực tại phải vượt qua sự tưởng tượng về xã hội rất nhiều,
bằng cách diễn tả bản chất thật sự và sâu xa của nó, là sự
hợp nhất của tất cả những người đã được thanh tẩy trong
Đức Kitô, được Thánh Tông đồ coi là “một” trong Đức
Kitô, chiếu theo bí tích của Thánh Thể Người.
Khi nói điều này, Thánh Phaolô cho thấy rằng ngài biết rõ
và ngài đưa chúng ta đến hiểu biết rằng Hội Thánh không
phải là của ngài và cũng không phải là của chúng ta: Hội
Thánh là Thân Thể Đức Kitô, là “Hội Thánh của Thiên
Chúa”, là “cánh đồng của Thiên Chúa”, công việc xây
309
dựng của Thiên Chúa . . . “đền thờ của Thiên Chúa (1 Cor
3:9,16). Danh hiệu cuối cùng đáng cho chúng ta đặc biệt
quan tâm bởi vì danh hiệu ấy nói về một sự liên quan giữa
các cá nhân, một từ thường được dùng để chỉ một nơi
chốn, được coi là thánh. Liên quan giữa Hội Thánh và đền
thờ như thế bao gồm hai bình diện bổ túc cho nhau: một
đàng, đặc tính tách biệt và trong sạch, là điều mà căn nhà
thánh có, được áp dụng cho cộng đồng giáo hội; mặt khác,
người ta vượt lên trên quan niệm về một không gian vật
chất, để chuyển giá trị này đến thực tại của một cộng đồng
đức tin sống động. Nếu trước kia, các đền thờ được coi là
những nơi có Thiên Chúa hiện diện, thì bây giờ người ta
biết và thấy rằng Thiên Chúa không ngự trong những ngôi
nhà làm bằmg đá, nhưng nơi Thiên Chúa hiện diện là thế
giới của cộng đoàn các tín hữu sống động.
Một điều đáng đưọc bàn đến là tiêu chuẩn của “Dân Thiên
Chúa” mà đối với Thánh Phaolô được áp dụng cách chắc
chắn cho dân của Cựu Ước, rồi sau đó cho dân ngoại là
những kẻ “không phải là dân” và cũng đã trở thành Dân
Thiên Chúa nhờ việc được tháp nhập vào Đức Kitô qua
Lời và Bí Tích.
Đây là điều cao quý nhất của Hội Thánh và của ơn gọi của
chúng ta: chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa nơi trần gian,
là nơi Thiên Chúa ngự thật, và chúng ta đồng thời cũng là
một cộng đồng, một gia đình của Thiên Chúa, Đấng là tình
yêu. Như là gia đình và nhà của Thiên Chúa, chúng ta phải
thực hành Đức Ái của Ngài trong thế gian, và như thế, với
sức mạnh đến từ Đức Tin, chúng ta thành nơi chốn và dấu
chỉ của sự hiện diện của Ngài. Chúng ta hãy cầu xin Chúa
để Người ban cho chúng ta càng ngày càng trở nên Hội
Thánh của Người, Thân Thể của Người, nơi hiện diện của
Đức Ái của Người trong thế gian và trong lịch sử của
chúng ta.
311
BÀI ĐỌC THÊM XII
Dưới đây là bản dịch bài Huấn Từ của Đức Thánh Cha
Bênêđictô ngày Thứ Tư 22 tháng 10 trong buổi triều kiến
chung tại quảng trường Thánh Phêrô. Hôm nay Đức Thánh
Cha tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về khuôn mặt và tư tưởng của
Thánh Phaolô.
***
Trong những bài Giáo Lý các tuần trước, cha đã suy niệm
về việc “trở lại” của Thánh Phaolô, là kết quả của một gặp
gỡ riêng với Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, và
chúng ta đã tự hỏi về liên hệ [Zenit dịch là phản ứng] của
vị Tông Đồ Dân Ngoại với Đức Kitô khi Người còn tại thế.
Hôm nay cha muốn nói về giáo huấn mà Thánh Phaolô để
lại cho chúng ta về vai trò trọng tâm của Đức Kitô Phục
Sinh trong mầu nhiệm cứu độ, nghĩa là về Kitô học của
ngài.
Trên thực tế, Đức Kitô Phục Sinh, “vượt trên hết mọi danh
hiệu”, ở trọng tâm của tất cả suy tư của ngài. Đối với
Thánh Tông Đồ, Đức Kitô là tiêu chuẩn để lượng giá mọi
312
biến cố và mọi sự, là mục tiêu của mọi cố gắng mà ngài
thực hiện để rao giảng Tin Mừng, là một đam mê say đắm
nâng đỡ bước đi của ngài trên những nẻo đường thế dương
thế. Và Người là Đức Kitô sống động và cụ thể: Thánh
Phaolô nói là Đức Kitô, “Đấng yêu thương tôi và thí mạng
sống vì tôi” (Gal 2:20). Đấng này yêu tương tôi, tôi có thể
nói với Người, Người lắng nghe và trả lời tôi, đây chính là
nguyên tắc để hiểu thế gian và để tìm thấy đường đi trong
lịch sử.
Những ai đã từng đọc các tác phẩm của Thánh Phaolô thì
biết rõ rằng ngài không bận tâm đến việc kể lại những biến
cố tạo thành cuộc đời của Đức Kitô, dù chúng ta có thể
tưởng tượng rằng trong các bài Giáo Lý của ngài, ngài có
thể kể rất nhiều về Chúa Giêsu tiền Phục Sinh hơn là
những gì ngài đã viết trong các Thư của ngài, là những
nhắc nhở về những hoàn cảnh cụ thể. Các công việc [tác
phẩm] mục vụ và thần học của ngài cũng hướng về việc
giáo dục các cộng đoàn tín hữu sơ khai, vì thế đối với ngài
là điều tự nhiên khi đặt hết tâm trí vào việc loan báo Chúa
Giêsu là “Chúa”, hôm nay vẫn còn sống và đang hiện diện
giữa chúng ta.
Ở đây chúng ta thấy bản chất chính yếu đặc thù của Kitô
học theo Thánh Phaolô, là môn học khai triển chiều sâu
của mầu nhiệm với một quan tâm liên tục và chính xác: là
loan báo với sự chắc chắn Chúa Giêsu và giáo huấn của
Người, nhưng trên hết là loan báo thực thể chính là cái
chết và sự phục sinh của Người như là tột đỉnh của sự hiện
diện của Người ở thế gian, và là nguồn gốc cho những phát
313
triển sau này của toàn thể Đức Tin Kitô giáo, của toàn thể
thực chất của Hội Thánh.
Đối với Thánh Tông Đồ, biến cố Phục Sinh không phải là
một biến cố riêng rẽ tách rời khỏi Cái Chết [của Chúa].
Đấng Phục Sinh cũng là Đấng Chịu Đóng Đinh. Đấng
Phục Sinh cũng mang vết thương: Cuộc Khổ Nạn vẫn hiện
diện trong Người và có thể nói như Pascal là Người chịu
đau khổ cho đến tận thế, mặc dù là Đấng Phục Sinh cùng
đang sống với chúng ta và cho chúng ta. Trên đường đi
Đamascô, Thánh Phaolô đã hiểu sự đồng hóa này giữa
Đấng Phục Sinh với Đức Kitô Chịu Đóng Đinh: Ngay lúc
ấy, ngài được Thiên Chúa mặc khải một cách rõ ràng rằng
Đấng Chịu Đóng Đinh là Đấng Phục Sinh và Đấng Phục
Sinh là Đấng Chịu Đóng Đinh, Đấng nói cùng Thánh
Phaolô: “Tại sao ngươi bách hại Ta?” (Cv 9:4). Khi ấy
Thánh Phaolô đang khủng bố Hội Thánh Kitô giáo và sau
đó ngài đã hiểu rằng thập giá là “một sự chúc dữ của Thiên
Chúa” (TL 21:23) , nhưng lại là một hy lễ để cứu độ chúng
ta.
315
cho một cái lều thực tế hơn và ý nghĩa hơn: cái lều bằng
nhục thể của Đức Kitô.
Chúng ta đã thấy trong các sách của Cựu Ước rằng việc hạ
xuống này của Sự Khôn Ngoan, việc Đức Khôn Ngoan
xuống làm người, cũng bao hàm việc có thể bị khước từ.
Thánh Phaolô, trong khi khai triển Kitô học của ngài, cũng
nhắc đến chính viễn tượng khôn ngoan này: Ngài nhận ra
trong Chúa Giêsu Sự Khôn Ngoan hằng hữu, Sự Khôn
Ngoan xuống và cắm lều ở giữa chúng ta, và như thế ngài
có thể diễn tả Đức Kitô như là “quyền năng của Thiên
Chúa và Sự Không Ngoan của Thiên Chúa”. Ngài có thể
nói rằng Đức Kitô đã trở nên cho chúng ta “sự khôn ngoan
từ Thiên Chúa, cũng như sự công chính, sự thánh hoá và
cứu độ” (1 Cor 1:24, 30). Cũng như thế, Thánh Phaolô cắt
nghĩa rõ ràng rằng Đức Kitô, giống như Sự Khôn Ngoan,
có thể bị khước từ trên hết bởi những người cai trị của thời
đại này (x. 1 Cor 2:6-9), đến nỗi tạo ra một hoàn cảnh mâu
thuẫn trong các chương trình của Thiên Chúa: Thập Giá sẽ
trở thành con đường cứu độ cho toàn thể nhân loại.
Có một sự phát triển sau này của chu kỳ khôn ngoan, trong
đó người ta nhìn thấy việc Sự Khôn Ngoan tự hạ mình
xuống để sau đó được nâng lên mặc dù bị khước từ, được
tìm thấy trong bài thánh thi thời danh trong Thư gửi tín
hữu Philiphê (x. 2:6-11). Điều này liên hệ đến một trong
những bản văn được đề cao nhất của Tân Ước. Hầu hết các
nhà chú giải Thánh Kinh cho rằng đoạn Thánh Kinh này
được soạn thảo trước khi có bản văn của Thư gửi tín hữu
Philipphê. Đây là một sự kiện rất quan trọng bởi vì sự kiện
316
này có nghĩa là trước Thánh Phaolô, Kitô giáo gốc Do
Thái đã tin vào thiên tính của Chúa Giêsu. Nói cách khác,
Đức Tin vào thiên tính của Đức Kitô không phải là một
sáng kiến Hy Lạp, nảy sinh sau cuộc đời dương thế của
Đức Kitô, một sáng kiến quên đi nhân tính của Người, đã
thần thánh hóa Người. Trên thực tế chúng ta thấy rằng Kitô
giáo gốc Do Thái thời sơ khai đã tin vào thiên tính của
Chúa Giêsu. Hơn nữa, chúng ta có thể nói rằng chính các
Tông Đồ trong những giây phút huy hoàng của cuộc đời
Thầy mình, đã hiểu rằng Người là Con Thiên Chúa, như
Thánh Phêrô nói tại Cêsarê Philipphê: “Thầy là Đấng Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16).
Nhưng chúng ta hãy trở về với bài thánh thi từ Thư gửi tín
hữu Philipphê. Cấu trúc của bản văn có thể được chia
thành ba đoạn, là những đoạn trình bày các thời điểm
chính của hành trình mà Đức Kitô đã đi qua. Thời điểm có
từ trước muôn đời của Người được diễn tả bằng những từ:
“đồng hình đồng dạng với Thiên Chúa, mà không nghĩ
phải giữ cho được địa vị ngang hàng với Thiên Chúa” (câu
6). Tiếp theo đó là việc tình nguyện tự hạ của Chúa Con
được diẽn tả trong đoạn thứ nhì: “Người đã hoàn toàn trút
bỏ chính mình, để mặc lấy hình dạng của một tên nô lệ”
(câu 7), “Người tự hạ mình, vâng lời đến nỗi chịu chết, và
ngay cả chết trên thập giá” (câu 8). Đoạn thứ ba của bài
thánh thi công bố câu trả lời của Chúa Cha đối với sự
khiêm hạ của Chúa Con: “Chính vì thế, mà Thiên Chúa đã
siêu tôn Người và đã ban cho Người một danh hiệu vượt
trên hết mọi danh hiệu” (câu 9).
317
Xúc động thay tính tương phản giữa sự tự hạ tận căn bản
và kết quả được vinh danh trong vinh quang Thiên Chúa.
Rõ ràng là đoạn thứ nhì này trái ngược với kỳ vọng của
Ađam, là muốn làm cho mình thành Thiên Chúa, và cũng
trái ngược với hành động của những kẻ xây Tháp Babel, là
những kẻ muốn xây cho mình một cái cầu lên trời để họ
trở thành thần thánh. Nhưng sáng kiến kiêu căng này cuối
cùng đưa đến tự hủy: Bằng cách này, người ta không đạt
đến thiên đàng, đến hạnh phúc thật, đến Thiên Chúa. Động
tác của Con Thiên Chúa thì hoàn toàn ngược lại: không
kiêu căng nhưng khiêm nhượng, là làm trọn tình yêu, và
tình yêu là của Thiên Chúa. Sáng kiến tự hạ, khiêm
nhường tận cùng của Đức Kitô, trái ngược với tính kiêu
ngạo của loài người, thật sự là cách diễn tả tình yêu của
Thiên Chúa; và theo đó là việc được đưa lên Trời, nơi
Thiên Chúa kéo chúng ta lên với tình yêu của Ngài.
Ngoài Thư gửi tín hữu Philipphê, còn những chỗ khác
trong văn chương của Thánh Phaolô mà vấn đề sự hiện
hữu từ muôn đời và việc xuống trần của Con Thiên Chúa
được kết hợp với nhau. Một tái xác nhận việc đồng hóa
giữa Đức Khôn Ngoan và Đức Kitô, với tất cả hậu quả vũ
trụ và nhân chủng của nó, được tìm thấy trong Thư Thứ
Nhất gửi Timôthê: “Người được biểu lộ trong xác phàm,
được nên công chính nhờ Chúa Thánh Thần; được các
thiên sứ nhìn ngắm, và được rao giảng giữa muôn dân;
được cả hoàn cầu tin kính, được đón nhận vào cõi quang
vinh” (1 Tim 3:16). Trên hết mọi sự, dựa vào những tiền
đề này mà chức vụ của Đức Kitô như là Đấng Trung Gian
318
có thể được định nghĩa rõ ràng hơn, trong phạm vi của chỉ
một mình Thiên Chúa của Cựu Ước (x. 1 Tim 2:5 trong
tương quan với Isaia 43:10-11; 44:6). Đức Kitô là nhịp cầu
thật sự đưa chúng ta lên Trời để hiệp thông với Thiên
Chúa.
Và sau hết, chỉ một điểm nói về những phát triển cuối cùng
về Kitô học của Thánh Phaolô trong các Thư gửi tín hữu
Côlôxê và Êphêxô. Trong Thư thứ nhất, Đức Kitô được
mệnh danh là “trưởng tử của mọi tạo vật” (Col 1:15-20).
Từ “trưởng tử” này có ý nói là con đầu trong số nhiều con
cái, con cả trong số nhiều anh chị em, đã hạ mình xuống để
kéo chúng ta lên thành các em trai gái [của Người]. Trong
Thư gửi tín hữu Êphêxô, chúng ta tìm thấy một cách trình
bày tuyệt mỹ về chương trình cứu độ, khi Thánh Phaolô
nói rằng trong Đức Kitô, Thiên Chúa muốn gồm tóm mọi
sự (x. Eph 1:23). Đức Kitô là bản tóm tắt tất cả mọi sự,
Người gánh lấy tất cả mọi sự và dẫn đưa chúng ta đến
cùng Thiên Chúa. Và như thế cũng ám chỉ cử động đi
xuống và đi lên, mời gọi chúng ta thông phần vào sự
khiêm nhường của Người, nghĩa là, vào tình yêu Người
dành cho những người lân cận, để nhờ thế được dự phần
vào vinh quang của Người, biến chúng ta thành con cái
[Thiên Chúa] trong Chúa Con cùng với Người. Chúng ta
hãy cầu nguyện để Chúa giúp chúng ta thích nghi với sự
khiêm nhường và tình yêu của Người, để được thông phần
vào thiên tính của Người.
319
BÀI ĐỌC THÊM XIII
****
320
Như thế, trong Thập Giá biểu lộ tình yêu nhưng không và
từ bi của Thiên Chúa. Chính Thánh Phaolô đã cảm nghiệm
được tình yêu này trước hết (x. Gal 2:20) và đã từ một
người tội lỗi trở thành người có đức tin, từ một tên khủng
bố thành một Tông Đồ. Ngày này qua ngày khác, trong đời
sống mới của ngài, ngài cảm nghiệm được rằng ơn cứu độ
là ‘ân sủng’, và tất cả đều được đổ xuống từ cái chết của
Đức Kitô chứ không phải nhờ công trạng của ngài, là điều
không thể có được trong bất cứ trường hợp nào. “Tin
Mừng về ân sủng” như thế đối với ngài trở thành một cách
duy nhất để hiểu Thập Giá, là tiêu chuẩn không những cho
cuộc sống mới của ngài, mà còn là câu trả lời cho những
người chất vấn ngài. Trước hết là người Do Thái, những
người đặt niềm hy vọng trên việc làm và mong rằng những
việc làm ấy sẽ cứu độ họ, rồi đến những người Hy Lạp, là
những kẻ đem sự khôn ngoan loài người của họ ra mà đối
chọi với Thập Giá, cuối cùng có những nhóm lạc giáo, là
những người được huấn luyện theo những ý tưởng của họ
về Kitô giáo theo khuôn mẫu riêng của họ về đời sống.
Đối với Thánh Phaolô, Thập Giá có vai trò ưu tiên thiết
yếu trong lịch sử nhân loại; Thập Giá là điểm chính yếu
của nền thần học của ngài, bởi vì nói về Thập Giá có nghĩa
là nói về ơn cứu độ như ân sủng mà Thiên Chúa ban cho
mọi tạo vật. Đề tài Thập Giá của Đức Kitô trở thành một
nguyên lý cần thiết và chính yếu cho việc rao giảng của
Thánh Tông Đồ, mà thí dụ điển hình nhất liên quan đến
cộng đoàn Côrinthô. Phải đương đầu với một Hội Thánh
mà ở đó có những cuộc nổi loạn và gương mù đáng lo
321
ngại, là nơi mà sự hiệp thông bị đe dọa bởi chia rẽ nội bộ
và bè phái, có thể làm rạn nứt Nhiệm Thể Đức Kitô, Thánh
Phaolô hiện diện với họ không bằng những lời cao siêu
hay sự khôn ngoan, nhưng bằng việc rao giảng Đức Kitô,
một Đức Kitô Chịu Đóng Đinh. Sức mạnh của ngài không
phải là ngôn ngữ có sức thuyết phục, nhưng mâu thuẫn
thay, lại là sự yếu đuối và run rẩy của những người chỉ biết
dựa vào “quyền năng của Thiên Chúa” (x 1 Cor 2:1-4).
Thập Giá, vì tất cả những gì nó tượng trưng, cũng như của
sứ điệp thần học mà nó chứa đựng, là chướng ngại và sự
điên rồ. Thánh Tông Đồ quả quyết điều ấy bằng một cách
mạnh mẽ khó quên, tốt hơn là chúng ta nghe từ chính lời
ngài: “Quả thật lời rao giảng về Thập Giá là một sự điên rồ
đối với những kẻ đang hư mất, nhưng đối với chúng ta là
những người được cứu độ, thì đó lại là quyền năng của
Thiên Chúa... Thiên Chúa đã vui lòng dùng sự điên rồ của
lời rao giảng để cứu những người tin. Trong khi người Do
Thái đòi hỏi những dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm sự khôn
ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh,
một chướng ngại cho người Do Thái, và một sự điên rồ đối
với Dân Ngoại” (1 Cor 1:18-23).
Những cộng đồng Kitô hữu tiên khởi mà Thánh Phaolô nói
với, biết rất rõ rằng Chúa Giêsu đã sống lại và vẫn còn
đang sống; Thánh Tông Đồ muốn nhắc nhở không những
chỉ người Côrinthô hay Galatê, mà tất cả chúng ta, rằng
Đấng Phục Sinh luôn luôn là Đấng Đã Chịu Đóng Đinh.
“Chướng ngại” và “sự điên rồ” của Thập Giá được tìm
thấy chính ở sự kiện là ở đâu xem ra chỉ có thất bại, đau
322
đớn, thua thiệt, thì ở đó thực ra lại là tất cả quyền năng của
tình thương vô biên của Thiên Chúa, bởi vì Thập Giá là
cách diễn tả tình yêu, và tình yêu là quyền năng thật được
tỏ lộ trong sự yếu đuối bề ngoài này. Đối với người Do
Thái, Thập Giá là một skandalon, nghĩa là một tảng đá làm
cho người ta vấp ngã: Thập Giá dường như cản trở đức tin
của những người Israel đạo đức, là những người đã không
tìm được điều gì tương tự trong Thánh Kinh. Thánh
Phaolô, với nhiều can đảm dường như muốn nói ở đây
rằngcó một nguy cơ rất lớn: đối với người Do Thái, Thập
Giá trái ngược với chính bản chất của Thiên Chúa, là Đấng
luôn luôn tỏ mình ra bằng những dấu hiệu phi thường. Vì
thế chấp nhận Thập Giá của Đức Kitô là trải qua một cuộc
thay đổi sâu xa trong cách liên hệ với Thiên Chúa.
Nhưng tại sao Thánh Phaolô lại biến lời này, lời của Thập
Giá, làm điểm nền tảng cho việc rao giảng của ngài? Câu
trả lời không mấy khó khăn: Thập Giá tiết lộ “quyền năng
của Thiên Chúa” (x. 1 Cor 1:24 ), là quyền năng khác với
quyền năng của loài người. Thực ra, Thập Giá tiết lộ tình
yêu của Thiên Chúa: “vì sự điên rồ của Thiên Chúa còn
324
hơn sự khôn ngoan của loài người, và sự yếu đuối của
Thiên Chúa còn mạnh hơn sức mạnh của loài người” (1
Cor 1:25 ).
Vài thế kỷ sau Thánh Phaolô, chúng ta thấy rằng Thập Giá
đã chiến thắng, chứ không phải sự khôn ngoan chống lại
Thập Giá. Đấng Chịu Đóng Đinh là sự Khôn Ngoan, bởi vì
Người bày tỏ trong chân lý Thiên Chúa là ai, nghĩa là,
Người bày tỏ chính quyền năng của tình yêu đến nỗi đi đến
tận Thập Giá để cứu độ con người. Thiên Chúa dùng các
phương tiện và dụng cụ thoáng nhìn đối với chúng ta chỉ là
yếu đuối. Đấng Chịu Đóng Đinh, một đàng biểu lộ sự yếu
đuối của con người, đằng khác, biểu lộ quyền năng thật
của Thiên Chúa, nghĩa là, sự nhưng không của tình yêu:
Chính sự nhưng không của tình yêu này là sự khôn ngoan
thật.
Thánh Phaolô cống hiến cho chúng ta một tổng hợp thần
học tuyệt vời về Thập Giá trong Thư Thứ Hai gửi tín hữu
Côrinthô (5:4-21), ở đó mọi sự được chứa đựng trong hai
xác quyết căn bản này: một đàng, Đức Kitô, là Đấng đã bị
Thiên Chúa đối xử như tội lỗi vì chúng ta (câu 21), đã chết
cho chúng ta (câu 14); đằng khác, Thiên Chúa đã hòa giải
chúng ta với Chính Ngài, mà không quy tội cho chúng ta
(câu 18-20). Nhờ “thừa tác vụ hòa giải này” tất cả mọi nô
lệ đều đã được chuộc lại (x. 1 Cor 6:20 ; 7:23 ).
Ở đây chúng ta thấy tất cả những điều trên thích hợp với
đời sống chúng ta thế nào. Chúng ta cũng phải đi vào “thừa
tác vụ hoà giải này”, là thừa tác vụ luôn bao hàm việc từ
bỏ sự cao vượt của chính mình và chọn sự điên rồ của tình
yêu. Thánh Phaolô đã từ bỏ chính sự sống của ngài, hoàn
toàn hiến mình cho thừa tác vụ hòa giải, cho Thập Giá là
ơn cứu độ của tất cả chúng ta. Và đây là điều chúng ta
cũng phải biết làm: Chúng ta có thể tìm thấy sức mạnh của
mình chính trong sự khiêm nhường của tình yêu, và tìm
thấy sự khôn ngoan của mình trong sự yếu đuối của việc từ
bỏ [mình] để đi vào sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng ta
phải xây dựng đời sống mình trong sự khôn ngoan thật
này: Không sống cho chính mình, nhưng sống trong Đức
Tin vào Thiên Chúa này, là Đấng mà tất cả chúng ta có thể
nói về Người rằng: “Người đã yêu tôi và hiến mạng sống
Người cho tôi”. [Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ]
326
BÀI ĐỌC THÊM XIV
***
Anh chị em thân mến “nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì
lời rao giảng của chúng tôi thật trống rỗng, và đức tin của
anh em cũng trống rỗng …. anh em vẫn còn ở trong tội lỗi
của anh em.” (1 Cr 15:14,17). Với những lời mạnh mẽ này
Thánh Phaolô vạch cho chúng ta thấy tầm quan trọng mà
ngài gán cho biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu. Thực ra,
biến cố này là lời giải đáp cho vấn đề hàm chứa trong bi
kịch Thập Giá. Chỉ một mình nó, Thập Giá không thể giải
thích được Đức Tin Kitô giáo, trái lại, nó còn là một thảm
cảnh ám chỉ sự phi lý của cuộc đời. Mầu nhiệm Vượt Qua
hệ tại ở sự kiện “Đấng Chịu Đóng Đinh đã sống lại trong
ngày thứ ba như lời Thánh Kinh” (1 Cr 15:4). Như thế
chứng thực những truyền thống tiền Kitô giáo.
Đây là điểm then chốt của Kitô học theo Thánh Phaolô:
Mọi sự đều xoay quanh điểm trọng tâm này. Toàn thể giáo
huấn của thánh Phaolô khởi hành từ và luôn luôn trở về
với mầu nhiệm của Đấng mà Chúa Cha đã cho sống lại từ
327
cõi chết. Biến Cố Phục Sinh là một sự kiện cơ bản, và hầu
như là một tiền đề (x. 1 Cor 15:12), dựa vào đó mà Thánh
Phaolô có thể đưa ra một công thức loan báo Tin Mừng
tổng hợp: Đấng đã Chịu Đóng Đinh, và là Đấng đã biểu lộ
tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với loài người, đã
sống lại và đang sống giữa chúng ta.
Thật là quan trọng để ghi nhận sự nối kết giữa lời loan báo
và biến cố Phục Sinh, như công thức Thánh Phaolô vừa đề
ra, với những gì mà các cộng đồng Kitô hữu đầu tiên tiền
Phaolô đã dùng. Ở đây chúng ta có thể thật sự thấy điều
quan trọng của truyền thống có trước Thánh Tông Đồ, và
đến lượt ngài muốn truyền lại với lòng kính trọng và chú
tâm lớn lao. Văn bản về biến cố Phục Sinh trong chương
15:1-11 của Thư thứ I gửi tín hữu Côrinthô làm nổi bật
mối dây liên kết giữa việc ”lãnh nhận” và ”truyền lại”.
Thánh Phaolô coi việc công thức hóa truyền thống thành
văn tự là điều rất quan trọng, ở cuối đoạn văn mà chúng ta
đang nghiên cứu, Thánh Nhân ghi nhận: “Dù là tôi hay các
vị ấy, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin
như thế” (1 Cor 15:11), như vậy làm nổi bật sự hiệp nhất
của lời loan báo (kerygma) và việc rao giảng cho mọi Kitô
hữu, và cho tất cả những người sẽ rao giảng sự Phục Sinh
của Đức Kitô.
Bằng cách này, Thánh Phaolô đưa ra một mẫu gương cho
mọi thời đại trong việc phải nghiên cứu thần học và giảng
huấn như thế nào. Thần học gia và giảng huấn viên không
tạo ra những cái nhìn mới về thế giới và đời sống, nhưng
trái lại phải phục vụ chân lý được truyền lại, phải phục vụ
thực tại có thật của Đức Kitô, của Thập Giá, và của biến cố
Phục Sinh. Nhiệm vụ của họ là giúp chúng ta ngày nay
hiểu, đàng sau các từ cổ xưa, thực tại “Thiên Chúa ở cùng
chúng ta”, và nhờ đó hiểu được thực tại về sự sống thật.
Thật thích hợp ở đây khi nói đích xác rằng: Trong khi loan
báo biến cố Phục Sinh, Thánh Phaolô đã không bận tâm
đến việc trình bầy một giáo thuyết một cách có cấu trúc -
ngài đã không muốn viết một cẩm nang thần học - nhưng
thay vào đó, ngài đưa ra đề tài để trả lời các nghi vấn và
các câu hỏi cụ thể mà các tín hữu đã đặt ra cho ngài. Như
thế là một bài nói chuyện ngẫu nhiên, nhưng đầy Đức Tin
và thần học sống động. Người ta thấy ngài tập trung vào
điểm chính: đó là chúng ta đã được “công chính hóa”,
nghĩa là đã được trở nên công chính, được cứu độ bởi Đức
Kitô, là Đấng đã chết và đã sống lại cho chúng ta. Sự kiện
Phục Sinh được làm nổi bật trên mọi sự kiện khác, nếu
không có sự kiện này, thì đời sống Kitô hữu trở thành phi
lý. Vào buổi sáng Phục Sinh ấy, một điều gì phi thường và
mới mẻ đã xảy ra, nhưng đồng thời lại là một điều rất cụ
329
thể, kiểm chứng được bởi những dấu chính xác, được
chứng thực bởi nhiều nhân chứng.
Đối với thánh Phaolô cũng như đối với các tác giả khác
của Tân Ước, việc Phục Sinh được liên kết với chứng từ
của những người đã có kinh nghiệm trực tiếp với Đấng
Phục Sinh. Đây là việc thấy và nghe không những chỉ với
cặp mắt và giác quan, nhưng còn với một ánh sáng nội
tâm, là động cơ thúc đẩy việc nhận ra điều mà các giác
quan bên ngoài kiểm chứng như là một dữ kiện khách
quan. Vì thế Thánh Phaolô -- cũng giống như bốn Thánh
Sử -- coi đề tài về những cuộc hiện ra là điều quan trọng
căn bản, và là điều kiện nền tảng cho Đức Tin vào Đấng
Phục Sinh, là Đấng đã để lại ngôi mộ trống.
Cha muốn dẫn chứng chỉ một đoạn văn: Thánh Phaolô ra
trước Công Nghị Do thái, như một người bị tố cáo, khi bị
330
bắt tại Giêrusalem. Trong trường hợp thập tử nhất sinh
này, ngài đã cho thấy ý nghĩa và nội dung của toàn thể lời
rao giảng của ngài: “Tôi bị xét xử vì niềm hy vọng vào
việc kẻ chết sẽ sống lại” (Cv 23:6). Thánh Phaolô cũng
thường lập lại cùng một điệp khúc này trong các Thư của
ngài (x. 1 Thes 1:9tt.; 4:13-18; 5:10), trong đó ngài đã nhắc
đến kinh nghiệm gặp gỡ riêng của ngài với Đức Kitô Phục
Sinh (x. Gl 1:15-16; 1 Cr 9:1).
Thánh Phaolô đã trịnh trọng trả lời câu hỏi này ở đầu Thư
gửi tín hữu Roma: “Ðó là Tin Mừng của Thiên Chúa… về
Con của Ngài, là Ðấng sinh ra bởi dòng dõi vua Ðavid theo
xác thịt. Nhưng đã được tuyên xưng là Con Thiên Chúa
với tất cả quyền năng theo tinh thần thánh thiện, qua việc
sống lại từ cõi chết” (Rm 1:3-4).
331
Giá, giờ đây có thể nói với Nhóm Mười Một: “Mọi quyền
hành trên trời dưới đất đã được trao cho Thầy” (Mt 28:18).
Điều mà Thánh Vịnh 2:8 nói đã được thể hiện: “Hãy xin,
Cha sẽ cho con muôn dân làm gia nghiệp, và khắp cùng
trái đất thuộc về con.”
Đối với Thánh Phaolô, căn tính bí mật của Chúa Giêsu
được tỏ lộ trong Mầu Nhiệm của việc Phục Sinh, hơn cả
trong việc Nhập thể. Trong khi tước hiệu “Đức Kitô”,
nghĩa là “Đấng Mêsia”, “Đấng Được Xức Dầu” trong các
Thư của Thánh Phaolô có khuynh hướng trở thành tên
riêng của Chúa Giêsu, và tước hiệu “Chúa” xác định liên
hệ cá nhân của Người với các tín hữu, thì tước hiệu “Con
Thiên Chúa” được dùng để diễn tả mối liên hệ mật thiết
của Chúa Giêsu với Thiên Chúa, một mối liên hệ được bày
tỏ cách đầy đủ trong biến cố Phục Sinh. Cho nên, chúng ta
có thể nói rằng Chúa Giêsu đã sống lại để làm Chúa của kẻ
chết và kẻ sống (x. Rm 14:9; 2 Cr 5:15), hay nói cách
khác, làm Đấng Cứu Độ chúng ta (x. Rm 4:25).
332
Tất cả những điều này đem theo chúng những hệ quả quan
trọng đối với đời sống Đức Tin của chúng ta: chúng ta
được mời gọi để thông phần tận đáy của cuộc sống chúng
ta vào toàn thể Cái Chết và sự Sống Lại của Đức Kitô.
Thánh Tông Đồ nói: chúng ta “đã cùng chết với Đức Kitô”
và chúng ta tin rằng “chúng ta cũng sẽ sống với Người, vì
chúng ta biết rằng Đức Kitô, một khi đã sống lại từ cõi
chết, thì không còn chết nữa; sự chết không còn quyền lực
gì trên Người” (Rm 6:8-9).
Điều này có nghĩa là chia sẻ các đau khổ của Đức Kitô,
như là bước đầu trong việc hoàn toàn được đồng hình đồng
dạng với Người qua việc sống lại. Đó cũng là điều đã xảy
ra cho Thánh Phaolô, mà kinh nghiệm của ngài được diễn
tả trong các Thư của ngài bằng một giọng vừa chính xác
vừa thực tế: “để biết Người, và quyền năng của sự sống lại
của Người, và được chia sẻ những đau khổ của Người, nhờ
được nên giống như Người trong cái chết của Người, để
bằng bất cứ phương thế nào, tôi có thể đạt được sự sống lại
từ cõi chết” (Pl 3:10-11; x. 2 Tm 2:8-12). Thần học Thập
Giá không phải là một lý thuyết -- mà là một thực tại của
đời sống Kitô hữu. Sống trong Đức Tin vào Đức Chúa
Giêsu Kitô, sống chân lý và đức ái bao hàm việc từ bỏ
chính mình mỗi ngày, bao hàm các khổ đau. Kitô giáo
không phải là một con đường thoải mái, ngược lại là một
cuộc leo dốc đòi hỏi nhiều cố gắng, nhưng được chiếu soi
bằng ánh sáng của Đức Kitô và niềm hy vọng lớn lao phát
sinh từ Người.
333
Thánh Agustinô nói: Các Kitô hữu không được miễn khổ
đau, ngược lại, họ còn được thêm một chút khổ đau, vì
sống Đức Tin diễn tả lòng can đảm đương đầu với cuộc
đời và lịch sử một cách sâu xa hơn. Và với mọi sự, chỉ
bằng cách này, là kinh nghiệm đau khổ, chúng ta cảm
nghiệm đời sống ở đáy của nó, trong vẻ mỹ miều của nó,
trong niềm hy vọng lớn lao được gợi ra bởi Đức Kitô, là
Đấng Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh. Người tín hữu thấy
mình đứng giữa hai thái cực: một bên là sự Sống Lại, là
điều đã hiện diện và hoạt động trong chúng ta một cách
nào đó (x. Col 3:1-4; Eph 2:6), và bên kia, là sự cấp bách
phải thích ứng vào tiến trình này, là tiến trình đưa đến tất
cả mọi điều và mọi sung mãn được trình bày trong Thư gửi
tín hữu Rôma bằng một hình ảnh táo bạo: giống mọi tạo
vật rên siết và đau đớn như đau bụng trong lúc sinh con,
bằng cách này chúng ta cũng rên siết trong niềm hy vọng
vào sự cứu độ của thân xác chúng ta, vào ơn cứu độ và sự
sống lại của chúng ta (x. Rm 8:18-23).
335
BÀI ĐỌC THÊM XV
*****
336
Có lẽ vào năm 52, Thánh Phaolô viết Thư đầu tiên của
ngài, Thư Thứ Nhất gửi tín hữu Thêxalônica, trong đó ngài
nói về việc Chúa Giêsu trở lại, gọi là ngày Quang Lâm,
ngày Người đến, một sự hiện diện mới, cuối cùng và rõ
ràng (x. 1 Th 4:13-18). Với các tín hữu Thêxalônica, là
những người có những nghi ngờ và vấn nạn riêng của họ,
Thánh Tông Đồ viết như thế này: “Nếu chúng ta tin rằng
Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, thì ngay cả những
người đã an giấc trong Chúa Giêsu, sẽ được Thiên Chúa
đem về cùng với Người” (1 Th 4:14). Ngài tiếp: “Những
người đã chết trong Ðức Kitô sẽ sống lại trước hết; rồi đến
chúng ta, là những người đang sống, những người còn lại,
sẽ được đem lên trên đám mây cùng với họ, để gặp Chúa
trên không trung; và như vậy chúng ta sẽ được muôn đời ở
cùng Chúa” (1 Th 4:16-17). Thánh Phaolô diễn tả việc
Quang Lâm của Đức Kitô bằng một giọng rất sống động
và những hình ảnh biểu tượng, nhưng chuyển đạt một sứ
điệp đơn sơ và sâu sắc: cuối cùng chúng ta sẽ muôn đời
được ở với Chúa. Điều này vượt trên các hình ảnh, một sứ
điệp căn bản: Tương Lai của chúng ta là “ở với Chúa”, với
tư cách là các tín hữu, chúng ta đang ở với Chúa trong
cuộc đời mình rồi. Tương lai của chúng ta, là đời sống
vĩnh cửu, đã được bắt đầu.
339
Giờ đây sau khi đã xem xét một số bình diện khác nhau
của việc mong đợi ngày Đức Kitô Quang Lâm, chúng ta
hãy tự hỏi: Những thái độ căn bản của Kitô hữu về những
điều cuối cùng: chết và tận thế, là những thái độ nào?
Thái độ thứ nhất là việc xác tín rằng Chúa Giêsu đã sống
lại, và ở cùng chúng ta luôn mãi. Không có ai có quyền
năng bằng Đức Kitô, bởi vì Người ở cùng Chúa Cha và ở
cùng chúng ta. Cho nên chúng ta được an toàn, không phải
sợ hãi. Đây là một phần chính yếu của lời giảng dạy của
Kitô giáo. Việc sợ các tà thần và các thần minh đã lan tràn
trong thế giới cổ. Ngay cả ngày nay, lẫn lộn với nhiều yếu
tố tốt lành của các tôn giáo tự nhiên, các nhà truyền giáo
cũng tìm thấy sự sợ hãi tà thần, những quyền lực tiêu cực
ngăm nghe làm hại chúng ta. Đức Kitô đang sống, đã chiến
thằng sự chết và tất cả các quyền lực ấy. Chúng ta được
sống trong xác tín này, trong tự do này, trong niềm vui
này. Đó là bình diện thứ nhất của đời sống chúng ta đối với
tương lai.
Thứ nhì, việc xác tín rằng Đức Kitô đang ở với tôi. Và
trong Đức Kitô thế giới tương lai đã bắt đầu, điều này cũng
cho chúng ta niềm hy vọng chắc chắn. Tương lai không
phải là một vùng tối tăm mà ở đó không có ai chỉ đường.
Không phải như thế. Nếu không có Đức kitô, ngay cả
tương lai của thế giới hôm nay cũng đen tối. Có quá nhiều
sợ hãi về tương lai. Các Kitô hữu biết rằng ánh sáng của
Đức Kitô mạnh hơn và như thế họ không sống trong một
hy vọng mơ hồ, nhưng trong một niềm hy vọng mang lại
sự chắc chắn và can đảm cho bộ mặt tương lai.
340
Cuối cùng, thái độ thứ ba. Vị Thẩm Phán trở lại - Người
vừa là Thẩm Phán vừa là Đấng Cứu Độ - là Đấng đã để lại
cho chúng ta quyết tâm sống trong thế gian theo cách sống
của Người. Người đã ban cho chúng ta các nén vàng (các
tài năng) của Người. Vậy thái độ thứ ba của chúng ta là có
trách nhiệm đối với thế gian, đối với anh em trước mặt
Đức Kitô, và đồng thời xác tín về lòng thương xót của
Người. Cả hai điều đều quan trọng. Chúng ta không sống
như là sự lành và sự dữ đều như nhau, bởi vì chỉ có một
mình Thiên Chúa là Đấng Thương Xót. Nói như thế là một
sự lừa dối. Thực ra, chúng ta sống với một trách nhiệm lớn
lao. Chúng ta có những nén vàng (tài năng) của mình,
chúng ta có nhiệm vụ làm việc để cho thế giới này được
mở ra cho Đức Kitô, được canh tân. Nhưng trong khi làm
nhiệm việc và biết rằng trong trách nhiệm của chúng ta,
Thiên Chúa là Vị Thẩm Phán thật, chúng ta cũng tin tưởng
rằng vị Thẩm Phán này là một thẩm phán tốt lành, chúng ta
biết dung ngàn Người, dung nhan của Đức Kitô Phục Sinh,
của Đức Kitô Chịu Đóng Đinh vì chúng ta. Cho nên chúng
ta có thể tin tưởng vào sự tốt lành của Người và tiến bước
với lòng can đảm phi thường.
Một yếu tố khác của cánh chung theo Thánh Phaolô là tính
phổ quát của lời mời gọi Đức Tin, là điều liên kết người
Do Thái và Dân Ngoại lại với nhau, như dấu chỉ và tiền dự
vào thực tại trong tương lai, là điều cho phép chúng ta nói
rằng chúng ta đã được ngồi trên Thiên Đàng với Đức Chúa
Giêsu Kitô, nhưng để tỏ ra trong các kỷ nguyên tương lai
sự phong phú của ân sủng (x. Eph 2:6 tt): điều sau này đã
được thấy trước, để chứng tỏ tình trạng thành đạt đầu tiên
341
mà trong đó chúng ta sống. Điều này làm cho chúng ta
chịu được những đau khổ ở đời này, là điều không thể so
sánh được với vinh quang trong tương lai (x. Rm 8:18).
Chúng ta bước đi nhờ Đức Tin chứ không phải nhờ nhãn
quan. Ngay cả thà xa lìa thân xác này mà được ở cùng
Chúa còn hơn, là điều đáng kể sau cùng, dù đang ở trong
thân xác hoặc xa lìa nó, thì chỉ là điều làm đẹp lòng Người
(x. 2 Cor 5:7-9).
Sau cùng là một điểm cuối cùng có thể hơi khó đối với
chúng ta. Trong khi kết luận Thư Thứ Hai gửi tín hữu
Côrinthô, Thánh Phaolô nhắc lại và đọc một kinh nguyện
phát sinh từ những cộng đồng Kitô hữu tiên khởi trong
vùng Palestine: “Maranà, thà!” có nghĩa đen là: “Lạy
Chúa, xin hãy đến!” (2 Cor 16:22). Đó là kinh nguyện của
các Kitô hữu tiên khởi và cũng là lời cầu nguyện trong
cuốn sách cuối cùng của Tân Ước, là Sách Khải Huyền,
được kết thúc bằng lời cầu nguyện này: “Lạy Chúa, xin
hãy đến!”.
Chúng ta cũng có thể cầu nguyện như thế không? Đối với
tôi xem ra trong đời sống chúng ta trên thế giới này, thật
khó mà chân thành cầu xin cho thế giới này bị tiêu hủy đi,
để Thành Giêrsalem mới đến, khi cuộc chung phán và vị
Thẩm Phán, Đức Kitô đến.
Tôi thành thật tin rằng nếu chúng ta không dám cùng nhau
cầu nguyện vì nhiều lý do, thì chúng ta cũng có thể cùng
với các Kitô hữu đầu tiên nói một cách hợp lý và chính
đáng: “Lạy Chúa Giêsu, Xin hãy đến!”. Dĩ nhiên là chúng
342
ta không muốn ngày tận thế đến. Nhưng ngược lại, chúng
ta cũng muốn chấm dứt cái thế giới bất công này. Chúng ta
muốn thế giới được thay đổi tận gốc, để bắt đầu nền văn
minh tình thương, một thế giới công bằng, hòa bình, không
có bạo lực và nghèo đói.
343
BÀI ĐỌC THÊM XVI
***
Chẳng hạn như trong Thư Côlôxê chúng ta thấy lời mời
gọi: “Anh em hãy hát những bài thánh vịnh, thánh thi và
thánh ca với một lòng tri ân trong tâm hồn anh em mà dâng
lên Thiên Chúa” (x. Col 3:16), thì trong Thư Êphêxô,
Thánh Nhân cũng khuyên: “Anh em hãy cùng nhau đối
đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca; hãy đàn
ca chúc tụng Chúa trong tâm hồn anh em” (x. Eph 5:19).
344
Chúng ta có thể suy niệm về những cụm từ: Tâm hồn phải
ca hát, cũng như bằng lời, cùng với các bài thánh vịnh và
thánh thi trong truyền thống cầu nguyện của toàn thể Hội
Thánh thời Cựu Ước và Tân Ước. Như thế chúng ta học
được cách kết hợp với nhau, cùng nhau, và với Thiên
Chúa. Thêm vào đó, trong cả hai Thư đều có một điều gọi
là “luật trong gia đình” mà chúng ta không thấy trong các
Thư khác của Thánh Phaolô, đó là hàng loạt những đề nghị
dành cho vợ và chống, cha mẹ và con cái, chủ nhân và nô
lệ (x. Col 3:18-4:1 và Eph 5:22-6:9).
Điều quan trọng hơn nữa là chỉ có hai Thư này là hai Thư
xác nhận danh hiệu “đầu” kefalé dành cho Đức Chúa
Giêsu Kitô. Và danh hiệu này được sử dụng ở hai mức độ.
Theo nghĩa thứ nhất, Đức Kitô được coi như là Thủ Lãnh
của Hội Thánh (x. Col 2:18-19 và Eph 4:15-16). Điều này
có hai nghĩa: trước hết Người là Đấng cai quản, là Người
hướng dẫn, là Người có nhiệm vụ dẫn dắt cộng đồng Kitô
hữu như vị Thủ Lãnh và Chúa của cộng đồng này (x. Col
1:18: “Người cũng là đầu của một thân thể là Hội Thánh”),
và nghĩa khác là như cái Đầu kích thích và làm sống động
tất cả mọi chi thể của thân xác mà nó được đặt trên đó
(thực ra, theo Col 2:19 thì [thân thể] “phải kết hợp với đầu
mà từ đó toàn thân được nuôi dưỡng, và được nối kết chặt
chẽ với nhau qua các khớp xương và gân cốt”): như thế
Đức Kitô không phải là một vị chỉ huy, nhưng là Đấng kết
hợp cách hữu cơ với chúng ta, từ Người phát ra sinh lực để
giúp [chúng ta] hoạt động một cách công minh.
345
Trong cả hai trường hợp, Hội Thánh được coi là phục tùng
Đức Kitô, qua việc Hội Thánh tuân theo sự chỉ dẫn tối cao
của Người, là những mệnh lệnh [giới răn] và đón nhận
những dòng sinh lực phát ra từ Người. Mệnh lệnh của
Người không phải chỉ là những lời nói, những lệnh truyền,
nhưng còn là những năng lực sống động đến từ Người để
giúp đỡ chúng ta.
Tư tưởng này được khai triển cách đặc biệt trong Thư gửi
tín hữu Êphêxô, trong đó ngay cả các thừa tác vụ của Hội
Thánh, thay vì được quy về Chúa Thánh Thần (như trong 1
Cor 12), thì được gán cho Đức Kitô Phục Sinh. Chính
Người “ban ơn cho kẻ này làm tông đồ, người kia ơn làm
ngôn sứ, người khác ơn làm người rao giảng Tin Mừng,
người khác nữa làm mục tử và thầy dậy” (Eph 4:11). Và
“nhờ Người mà toàn thân được liên kết chặt chẽ bằng sự
nối kết các gân cốt lại với nhau, . . ., làm cho toàn thân
tăng trưởng và tự phát triển trong đức ái” (Eph 4:16)
Thật vậy Đức Kitô tận tình để “hiến Hội Thánh cho chính
Mình Người, một Hội Thánh huy hoàng, không tỳ ố,
không vết nhăn, hoặc bất cứ một khuyết điểm gì như thế,
nhưng để Hội Thánh trở nên thánh thiện và không tỳ ố”
(Eph 5:27). Qua điều này, Thánh Nhân nói với chúng ta
rằng sức mạnh mà Đức Kitô dùng để xây dựng, hướng dẫn,
cùng chỉ đúng đường cho Hội Thánh, chính là tình yêu của
Người.
Như thế, ý nghĩa thứ nhất là Đức Kitô làm Đầu Hội Thánh:
làm đầu về việc lãnh đạo, mà trên hết là vệc khuyến khích
346
và làm cho Hội Thánh trở nên sống động một cách có hệ
thống vì tình yêu của Người. Rồi theo nghĩa thứ hai thì
Đức Kitô không những chỉ được coi là Đầu Hội Thánh mà
cũng là Thủ Lãnh của mọi quyền lực thiên quốc và của
toàn thể vũ trụ.
Như thế trong Thư gửi tín hữu Côlôxê, chúng ta đọc rằng
Đức Kitô “đã tước đoạt vũ khí của các lãnh thần và quyền
thần, đã biến chúng thành trò cười cho thiên hạ, bằng cách
dẫn chúng đi diễn hành trong cuộc khải hoàn” (Col 2,15).
Cũng tương tự, trong Thư gửi tín hữu Êphêxô, chúng ta
thấy rằng với việc phục sinh của Người, Thiên Chúa “đã
đặt Đức Kitô trên mọi lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và
quản thần, và trên mọi tước vị có thể có được, không
những ở đời này, mà cả đời sau.” (Eph 1:21).
Bằng những lời ấy, hai Thư này trao cho chúng ta một sứ
điệp rất tích cực và hiệu quả. Đó là: Đức Kitô không cần
phải sợ bất cứ một đối thủ nào, bởi vì Người cao vượt trên
mọi loại quyền lực, là những quyền lực cố gắng làm nhục
con người. Chỉ có Người đã “yêu thương chúng ta và hiến
Mình cho chúng ta” (Eph 5:2). Cho nên, nếu chúng ta kết
hợp với Đức Kitô, thì chúng ta chẳng phải sợ một quân thù
và nghịch cảnh nào cả, nhưng điều ấy cũng có nghĩa là
chúng ta phải kết hợp chặt chẽ với Người, mà không được
rời Người.
Đối với thế giới ngoại giáo, là những kẻ tin vào một thế
giới đầy thần linh, hầu hết là nguy hiểm mà một người cần
phải tự vệ, thì việc loan báo Đức Kitô là Đấng Chiến
347
Thắng duy nhất, và người nào kết hợp với Đức Kitô thì
không phải sợ bất cứ ai, được coi là một cuộc giải phóng
thật sự. Điều đó cũng đúng đối với các tà giáo thời nay, vì
các đồ đệ của các hệ thống tư tưởng này cũng coi thế giới
như là đầy dẫy những quyến lực nguy hiểm. Đới với họ,
chúng ta cần phải loan báo rằng Đức Kitô là Đấng Chiến
Thắng, cho nên những ai ở với Đức Kitô và tiếp tục kết
hợp với Người thì không phải sợ bất cứ điều gì và bất cứ
ai. Cha nghĩ rằng điều này cũng quan trọng đối với chúng
ta, là những người phải học đương đầu với mọi sự sợ hãi,
bởi vì Đức Kitô ở trên mọi quyền thần, Người là Chúa thật
của thế giới.
Ngay cả toàn thể vũ trụ cũng phải quy phục Người, và quy
hướng về Người như là Đầu của chính vũ trụ. Những lời
mà mọi người đều biết trong Thư gửi tín hữu Êphêxô, nói
về chương trình của Thiên Chúa là “quy tụ muôn loài trong
trời đất dưới quyền một Thủ Lãnh là Đức Kitô” (Eph
1:10). Tương tự, trong Thư gửi tín hữu Côlôxê, chúng ta
đọc thấy rằng: “Vì trong Người muôn vật được tạo thành,
trên trời cùng dưới đất, các quyền lực hữu hình và vô
hình.” (Col 1,16), và rằng: “nhờ máu Người trên thập giá,
Người đã hòa giải muôn loài, dù là loài dưới đất hay trên
trời, với Chính Người và nhờ Người” (Col 1:20).
Như vậy, không phân biệt một thế giới vật chất vĩ đại hay
thực tại nhỏ bé của lịch sử trái đất, thế giới của loài người:
tất cả đều là một trong Đức Kitô. Người là thủ lãnh của vũ
trụ; mà vũ trụ cũng được Người tạo dựng, nó được tạo
dựng cho chúng ta bao lâu chúng ta còn kết hợp với
348
Người. Đây là một quan niệm hợp lý và có tính cách nhân
vị về vũ trụ. Và cha muốn nói rằng không thể mường
tượng được một quan niệm thực tế hơn quan niệm này, l
quan niệm chỉ quy chiếu về Đức Kitô Phục Sinh. Đức Kitô
là Đấng Pantokrátor [Chúa Toàn Năng], mà mọi sự đều
phải quy phục: tư tưởng hướng về Đức Kitô là Pantokrátor
thì đầy dẫy trong các gian thánh của các nhà thờ
Byzantine, đôi khi Người được diễn tả như ngồi cao trên
toàn thể thế giới, trên cả một cầu vồng để chỉ việc so sánh
Người với chính Thiên Chúa, là Đấng mà Người ngự bên
hữu (x. Eph 1:20; Col 3:1), và như thế cũng diễn tả vai trò
cao vượt của Người là Đấng điều khiển vận mệnh của nhân
loại.
Một quan niệm như thế chỉ có Hội Thánh mới nhận thức
được, không theo nghĩa là Hội Thánh tự nhận cho mình
điều không thuộc về mình, nhưng trái lại bằng hai nghĩa.
Một đằng, Hội Thánh nhận ra rằng Đức Kitô cao trọng hơn
mình, và chủ quyền của Người vượt ra ngoài ranh giới của
Hội Thánh. Đằng khác, chỉ có Hội Thánh, chứ không phải
vũ trụ, mới đủ tiêu chuẩn là Thân Mình của Đức Kitô. Tất
cả những điều ấy có nghĩa là chúng ta phải nhìn vào các
thực tại trần thế một cách tích cực, bởi vì Đức Kitô đã gồm
tóm chúng trong chính Người, đồng thời, chúng ta phải
sống căn tính Hội Thánh đặc biệt của chúng ta một cách
đầy đủ, đó là một căn tính rất đồng nhất với căn tính của
chính Đức Kitô.
Ngoài ra còn có quan niệm đặc thù trong hai Thư này, đó
là quan niệm về “mầu nhiệm”. “Mầu nhiệm Thánh Ý của
349
Thiên Chúa” được nhắc đến một lần (Eph 1:9) và những
lần khác là “mầu nhiệm của Đức Kitô” (Eph 3:4; Col 4:3),
hoặc ngay cả “mầu nhiệm của Thiên Chúa, là Đức Kitô,
trong đó dấu ẩn mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu
biết” (Col 2:2-3)
Trong Người, điều được gọi là “sự khôn ngoan muôn mặt
của Thiên Chúa” (Eph 3:10) được hình thành, bởi vì “tất cả
sự viên mãn của thiên tính ở trong Người một cách thể lý”
(Col 2:9). Cho nên từ giờ trở đi, chúng ta không thể nghĩ
đến việc tôn thờ Thánh Ý Thiên Chúa, sự sắp đặt tối cao
của Ngài, mà không tự mình trực diện với Đức Kitô, trong
Người “mầu nhiệm” này được nhập thể và chúng ta có thể
nhận thức được cách hữu hình. Như thế, một người đến để
chiêm niệm “sự phong phú khôn lường của Đức Kitô”
(Eph 3:8) là điều vượt quá mọi sự hiểu biết của loài người.
Không phải là Thiên Chúa đã không để lại dấu vết của việc
350
đi qua của Ngài, vì Chính Đức Kitô là dấu chân của Thiên
Chúa, dấu vết lớn nhất của Thiên Chúa, nhưng tốt hơn là
chúng ta nhận ra “chiều rộng, chiều dài, và chiều sâu ‘của
mầu nhiệm này’ là điều vượt quá tầm hiểu biết thế nào”
(Eph 3:18-19). Ở đây chứng tỏ rẳng chỉ dựa vào những
phạm trù trí hiểu mà thôi thì chưa đủ, và trong khi nhìn
nhận rằng có nhiều điều vượt quá khả năng suy luận của
chúng ta, thì chúng ta phải cậy trông vào việc khiêm
nhường và vui vẻ chiêm niệm, chứ không phải chỉ cậy
trông vào trí thông minh, mà còn vào cả tâm hồn nữa.
Đằng khác, các Giáo Phụ đã dạy chúng ta rằng tình yêu
hiểu nhiều hơn lý trí thuần túy.
Điều cuối cùng chúng ta phải nói về quan niệm này, như
đã nói trước đây, là việc Hội Thánh như hiền thê của Đức
Kitô. Trong Thư Thứ Hai gửi tín hữu Côrinthô Thánh
Phaolô so sánh cộng đoàn Kitô hữu như một cô dâu, khi
ngài viết: “Vì tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa cho anh
em, bởi tôi đã đính hôn anh em với một người chồng, để
tôi có thể dâng anh em như một trinh nữ tinh tuyền lên
Ðức Kitô”(2 Cor 11:2). Thư gửi tín hữu Ephêxô khai triển
thêm về hình ảnh này, Thư này nói rõ rằng Hội Thánh
không phải chỉ là một vị hôn thê, mà là Hiền Thê thật sự
của Đức Kitô. Chúng ta có thể nói rằng Người chinh phục
Hội Thánh cho chính Người, và Người đã làm điều ấy
bằng một giá là chính mạng sống của Người. Như câu văn
nói rằng Người đã “hiến Mình vì Hội Thánh” (Eph 5:25).
Còn cách nào chứng tỏ tình yêu tuyệt vời hơn cách này
không? Hơn nữa, Người còn lo lắng cho vẻ đẹp của Hội
351
Thánh, không những chỉ vẻ đẹp đã có được nhờ bí tích
Rửa Tội, nhưng còn vẻ đẹp mà Hội Thánh phải phát triển
mỗi ngày nhờ một đời sống không tỳ vết, “không vết nhăn
hay không tì ố” trong đời sống luân lý của Hội Thánh (x.
Ep 5,26-27).
Còn rất nhiều điều để nói, nhưng đối với cha thì từ những
gì cha đã trình bày, chúng ta có thể hiểu rằng hai Thư này
là một bài Giáo Lý tuyệt vời, từ đó chúng ta có thể học
được không những làm sao để là những Kitô hữu tốt, mà
còn trở nên những con người thật sự.
352
Nếu chúng ta bắt đầu hiểu rằng vũ trụ là vết chân của Đức
Kitô, thì chúng ta sẽ học biết về liên hệ đúng của chúng ta
với vũ trụ, cùng tất cả những khó khăn trong việc duy trì
nó. Chúng ta học cách nhìn [những khó khăn này] bằng lý
trí, nhưng là lý trý được tác động bởi tình yêu, cùng với
lòng khiêm nhường và lòng kính trọng, là điều cho phép
chúng ta hành động cách công minh. Nếu chúng ta nghĩ
rằng Hội Thánh là Thân Mình của Đức Kitô, và Đức Kitô
đã hiến Mình Người cho Hội Thánh, thì chúng ta sẽ học
biết sống với Đức Kitô bằng tình yêu hỗ tương, tình yêu
kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa, và làm cho chúng ta
nhìn những người khác như hình ảnh của Đức Kitô, như
chính Đức Kitô.
353
BÀI ĐỌC THÊM XVII
Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý của Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô tại Đại Sảnh Phaolô VI
trong buổi triều yết chung vào ngày Thứ Tư 4 tháng 2,
2009. Trong bài nói chuyện tiếng Ý này, ĐTC kết thúc loạt
bài Giáo Lý về Thánh Phaolô bằng cách lưu ý chúng ta về
cái chết của Thánh Nhân và di sản mà ngài để lại cho
chúng ta.
***
Loạt bài Giáo Lý về chân dung của Thánh Phaolô đến hồi
chấm dứt: hôm nay chúng ta nói về việc kết thúc cuộc đời
dương thế của ngài. Truyền thống Kitô giáo từ xưa đã
đồng thanh làm chứng rằng cái chết của Thánh Phaolô là
kết quả của việc ngài chịu tử vì đạo ở Rôma. Các bản văn
Tân Ước không nói đến sự kiện này. Sách Tông Đồ Công
Vụ chấm dứt câu chuyện ám chỉ hoàn cảnh của ngài như
một tù nhân, tuy nhiên, khi ấy ngài vẫn được phép đón tiếp
tất cả những ai đến với ngài (x. Cv 28:30-31).
Chỉ trong Thư Thứ Hai gửi Timôthê chúng ta tìm thấy
những lời cảnh báo: “Còn cha, cha sắp phải đổ máu ra làm
của lễ tế, đã đến giờ cha phải ra đi." (2 Tim 4:6; x. Phl
2:17). Ở đây Thánh Nhân dùng hai hình ảnh, hình ảnh
354
phụng tự của hy lễ, như đã dùng trong Thư gửi tín hữu
Philipphê, để giải thích rằng việc tử vì đạo giống như là
tham dự vào hy tế của Đức Kitô, và hình ảnh những người
đi biển thả dây neo, để ám chỉ cái chết, một cái chết đổ
máu của ngài.
Chứng từ rõ ràng đầu tiên về việc kết thúc cuộc đời của
Thánh Phaolô được để lại cho chúng ta vào khoảng năm 90
trong thế kỷ thứ nhất, hơn ba thập niên sau cái chết của
ngài. Đến từ chính bức thư cúa Hội Thánh Rôma, mà vì
Giám Mục là Thánh Clêmentê I, viết cho Hội Thánh
Côrinthô. Trong bản văn của thư này Thánh Clêmentê mời
gọi chúng ta luôn đặt trước mắt gương của các Tông Đồ,
và ngay sau khi nói đến việc tử vì đạo của Thánh Phêrô,
chúng ta đọc: “Vì sự ganh tỵ và bất đồng mà Thánh Phaolô
bị bắt buộc chỉ cho chúng ta phải làm sao để đạt được phần
thưởng sự kiên nhẫn. Bị bắt bảy lần, bị đầy ải, ném đá,
ngài đã là người rao giảng Đức Kitô ở Đông Phương và
Tây Phương, và nhờ Đức Tin ngài đã đạt hữu được một
vinh quang tinh tuyền. Sau khi đã rao giảng công lý cho
toàn thế giới, và sau khi đi đến tận cùng Tây Phương, ngài
đã chấp nhận tử vì đạo trước các nhà cầm quyền; như thế
ngài đã từ bỏ cõi đời này và đã đến nơi thánh, cùng trở
thành mẫu gương vĩ đại nhất của lòng kiên nhẫn” (1 Clem
5:2). Sự kiên nhẫn được nói đến trong cách ngài nói về
việc thông phần vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô của ngài,
về lòng quảng đại và kiên trì mà nhở đó ngài chấp nhận
một con đường dài đầy gian khổ, đến nỗi có thể nói rằng:
“Tôi mang trên mình tôi các thương tích của Chúa Giêsu”
(Gal 6:17).
355
Chúng ta thấy trong thư của Thánh Clementê nói rằng
Thánh Phaolô đã đi đến “tận cùng Tây Phương”. Người ta
tranh luận rằng câu này có thể nói về cuộc hành trình sang
Tây Ban Nha mà Thánh Phaolô cò lẽ đã thực hiện. Mà thật
sự thì trong Thư gửi tín hữu Roma Thánh Phaolô có nói
đến ý định muốn sang Tây Ban Nha (x. Rom 15:24).
Điều rất đáng chú ý là trong thư của Thánh Clêmentê hai
tên của Thánh Phêrô và Phaolô luôn đi liền nhau, ngay cả
trong chứng từ của Eusebiô thành Cesarea thế kỷ thứ IV,
dù đổi thứ tự, khi nói về Hoàng Đế Nêrô, ngài viết: “Trong
triều đại của ông, Thánh Phaolô bị chặt đầu ở Rôma, còn
Thánh Phêrô thì bị đóng đanh ở đó. Câu chuyện được xác
nhận bằng việc tên của Thánh Phêrô và Phaolô vẫn còn ở
trên mộ của hai đấng trong thành phố này” (Hist.. eccl.
2,25,5). Rồi Eusebiô tiếp tục nhắc lại lời tuyên bố của một
linh mục Roma tên là Gaiô, ờ đầu thế kỷ thứ II: “Tôi có thể
chỉ cho bạn thấy các chiến tích của các tông đồ: nếu bạn đi
đến Vatican, hay đi trên đường Ostiensê, bạn sẽ tìm thấy
các chiến tích của các đấng sáng lập Hội Thánh” (ibid.
2,25,6-7). Các “chiến tích” là những bia mộ, đó là chính
mộ phần của hai Thánh Phêrô và Phaolô, mà ngày nay, sau
hai nghìn năm, chúng ta vẫn còn tôn kính tại cùng một chỗ,
dù ở đây tại Vatican với thánh Phêrô, hay ở Vương Cung
Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thánh trên đường
Ostiensê để kính nhớ vị Tông Đồ Dân Ngoại.
Các truyền thống sau đó xác nhận hai yếu tố khác. Yếu tố
thứ nhất, có tính cách cổ tích hơn, là việc tử vì đạo của
ngài xảy ra ở Acqua Salvia trên đường Laurentina, và đầu
của ngài nhảy ba lần, mỗi lần làm vọt lên một dòng nước,
357
đó là lý do tại sao cho đến nay người ta vẫn gọi chỗ ấy là
“Tre Fontane - Ba Suối” (Công Vụ của Thánh Phêrô và
Phaolô Pseudo Marcel, Thế kỷ thứ V). Yếu tố khác phù
hợp với chứng từ cổ, mà linh mục Gaiô đã nói đến, là việc
chôn cất không những đã xảy ra “ở ngoài thành,… dặm thứ
hai trên đường Ostiensê”, “nhưng chính xác hơn trong đất
của Lucina”, là một phụ nữ theo Kitô giáo (Cuộc Khổ Nạn
của Thánh Phaolô, Pseudo Abdia, thuộc thế ky thứ IV). Ở
đó, vào thế kỷ thứ IV, Hoàng Đế Constantinô đã xây một
đền thờ đầu tiên. Đền thờ này được mở rộng hơn nhiều
giữa thế kỷ thứ IV và thứ V bởi các hoàng đế Valentinianô
II. Têodosiô và Arcađiô. Sau vụ hỏa hoạn năm 1800,
Vương Cung Thánh Đường Thánh Phaolô Ngoại Thánh
được tái xây dựng tại đây.
Cha muốn để ra ngoài các văn chương ngoại thư, như Sách
Công Vụ của Thánh Phaolô và Tecla cùng một tuyển tập
các thư ngoài quy điển giữa Thánh Tông Đồ Phaolô và
triết gia Seneca. Điều quan trọng đặc biệt phải xác nhận là
chẳng bao lâu sau đó, các Thư của Thánh Phaolô đã đi vào
358
phụng vụ, là nơi mà cấu trúc tông đồ - ngôn sứ - Tin Mừng
được dứt khoát dùng trong việc thành hình phụng vụ Lời
Chúa. Như thế, nhờ sự “hiện diện” này trong phụng vụ của
Hội Thánh, mà tư tưởng của Thánh Tông Đồ ngay từ ban
đầu đã trở thành lương thực thiêng liêng cho tín hữu thuộc
mọi thời đại.
Rõ ràng là các Giáo Phụ, và sau đó tất cả các thần học gia,
đều được nuôi dưỡng bằng các thư của Thánh Phaolô cùng
nền linh đạo của ngài. Như thế, qua các kỷ nguyên, cho
đến ngày nay, ngài vẫn là vị thầy và là Tông Đồ đích thực
của Dân Ngoại. Tác phẩm chú giải Thánh Kinh đầu tiên
của các Giáo Phụ, mà chúng ta có được về Tân Ước là của
một thần học gia vĩ đại ở Alexandrea, Giáo Phụ Ôrigen,
chú giải thư thánh Phaolô gửi tín hữu Roma. Tiếc rằng chú
giải này chỉ còn lại một phần. Thánh Gioan Kim Khẩu,
ngoài việc chú giải các thư của Thánh Phaolô, còn viết 7
bài tán tụng đáng ghi nhớ. Thánh Augustinô đã mắc nợ
Thánh Phaolô bước quyết định trong việc hoán cải của
chính mình, và ngài đã nhắc đến thánh Phaolô suốt đời của
ngài. Từ việc liên tục đối thoại với vị Đại Tông Đồ này đã
nảy sinh ra nền thần học Công Giáo và thần học Tin Lành
của mọi thời đại.
359
Một khúc quanh thật sự đã xảy ra vào thế kỷ XVI với
phong trào Cải Tin Lành. Thời điểm quyết định trong cuộc
đời của Lutherô, gọi là “Turmerlebnis” (1517), trong đó
ông đã lập tức tìm ra một cách giải thích mới về học thuyết
về sự công chính hóa của Thánh Phaolô. Một cách giải
thích đã giải thoát ông khỏi tật quá thận trọng và lo âu của
đời sống trước kia của ông, và cho ông một niềm tin tưởng
mới vào sự tốt lành triệt để của Thiên Chúa, là Đấng tha
thứ mọi sự một cách vô điều kiện. Từ lúc đó, Lutherô đã
đồng hóa chủ thuyết duy luật Do Thái-Kitô, là điều mà
Thánh Tông Đồ đã lên án, với trật tự của đời sống của Hội
Thánh Công Giáo. Và đối với ông Hội Thánh được coi là
một cách diễn tả sự nô lệ cho lề luật, là điều trái e0trtmầu
nhiệm này, mà từ đó làm cho Thân Mình Đức Kitô được
tăng trưởng và Hội Thánh được xây dựng.
Nhưng cha phải nói mà không đi vào chi tiết, bởi vì trong
trọng tâm mới của Kitô học và mầu nhiệm phục sinh,
Nước Thiên Chúa được thể hiện và lời loan báo của Chúa
Giêsu thật sự trở thành cụ thể, hiện diện và hoạt động.
Chúng ta đã thấy trong những bài Giáo Lý trước rằng
chính tính mới lạ của học thuyết Thánh Phaolô lại là sự
trung thành sâu xa nhất đối với lời rao giàng của Chúa
Giêsu. Trong tiến trình chú giải Thánh Kinh, nhất là trong
hai trăm năm vừa qua, cũng gia tăng sự đồng quy giữa các
nhà chú giải Công Giáo và Tin Lành, như thế đem lại một
sự thoả thuận đáng kể về chính điểm mà lúc ban đầu là cao
điểm của sự bất đồng trong lịch sử. Cho nên đây là niềm
hy vọng lớn cho lý do của phong trào đại kết, là điều rất
quan trọng đối với Công Đồng Vaticanô II.
360
Sau cùng, cha muốn một lần nữa nhắc cách vắn tắt đến
một số phong trào tôn giáo xuất hiện ờ thời hiện đại trong
lòng Hội Thánh Công Giáo, là những dòng mang tên của
thánh Phaolô. Điều này xảy ra trong thế kỷ thứ XVI với
dòng Thánh Phaolô, gọi là dòng Barnabites, trong thế kỷ
XIX với dòng Thừa Sai Thánh Phaolô hay là dòng
Paulista, và thế kỷ XX với “Gia đình Phaolô” dưới nhiều
hình thức, do chân phước Giacomo Alberione thành lập,
chưa kể đến Tu Hội Đời là Hội Thánh Phaolô.
Tóm lại, chân dung của một Tông Đồ và một tư tưởng gia
Kitô giáo rất phong phú và sâu sắc, mà từ sự gần gũi ngài,
ai trong chúng ta cũng được ích lợi, vẫn còn là ánh sáng
trước mặt chúng ta. Trong số những bài tán tụng của ngài,
Thánh Gioan Kim Khẩu đã sáng tác một bài so sánh giữa
Thánh Phaolô và ông Noe, khi nói như sau: Thánh Phaolô
“không những chỉ thu thập các miếng gỗ để đóng tàu, mà
ngược lại, thay vì nối những miếng gỗ lại với nhau, ngài đã
viết các Thư, như thế kéo ra khỏi nước không những hai,
ba hay năm phần tử của gia đình ngài, mà toàn thể thê giới
sắp bị hư mất” (Paneg. 1.5).
361
CÁC KHÓA “THÁNH PHAO-LÔ” (MUỐI ĐẤT
CHÍNH QUY), CÁC KHÓA “LÃNH ĐẠO THEO
PHONG CÁCH THÁNH PHAOLÔ” (MUỐI ĐẤT MỞ
RỘNG) VÀ CÁC KHÓA “THÁNH PHAO-LÔ ĐẠI
CHÚNG” ĐÃ ĐƯỢC GIẢNG DẬY
13 KHÓA “THÁNH PHAO-LÔ” (MUỐI ĐẤT CHÍNH
QUY)
01. KHÓA THÁNH PHAO-LÔ I TẠI CỘNG ĐỒNG
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM Ở SEATTLE WA,
USA, HÈ THU 2007
02. KHÓA THÁNH PHAO-LÔ II TẠI TU VIỆN THÁNH
PHAO-LÔ, KIM LONG, HUẾ (3-5.2008)
03. KHÓA THÁNH PHAO-LÔ III TẠI GIÁO XỨ TÂN
PHƯỚC, TPHCM (10.09.2008-11.02.2009)
04. KHÓA THÁNH PHAO-LÔ IV TẠI GIÁO XỨ TÂN
HÒA, TPHCM (10.9.2008-11.02.2009)
05. KHÓA THÁNH PHAO-LÔ V TẠI TRUNG TÂM
MỤC VỤ, HUẾ (08.11.2008-21.03.2009)
06. KHÓA THÁNH PHAO-LÔ VI TẠI TU VIỆN TRINH
VƯƠNG, TPHCM (20.11.2008-12.02.2009)
07. KHÓA THÁNH PHAO-LÔ VII TẠI GIÁO XỨ KIM
LONG, HUẾ (04.12.2008-10.05.2009)
08. KHÓA THÁNH PHAO-LÔ VIII TẠI GIÁO XỨ GIA
HỘI, HUẾ (05.12.2008-07.06.2009)
09. KHÓA THÁNH PHAO-LÔ IX TẠI GIÁO XỨ
PHONG CỐC, PHÚ CƯỜNG (14.12.2008-04.07.2009)
10. KHÓA THÁNH PHAO-LÔ X TẠI TRUNG TÂM
MỤC VỤ, TPHCM (25.02.2009-17.06.2009)
362
11. KHÓA THÁNH PHAO-LÔ XI TẠI GIÁO XỨ LẠNG
SƠN, TPHCM (26.10.2010-29.03.2011)
12. KHÓA THÁNH PHAO-LÔ XII TẠI HỌC VIỆN
MỤC VỤ, TGP/TPHCM (16.02.2011-29.03.2011)
13. KHÓA THÁNH PHAO-LÔ XIII TẠI TU VIỆN ĐẮC
LỘ SJ, TPHCM (05.01.2012-24.05.2012)
363
TÀI LIỆU TRA CỨU
VÀ ĐEM VÀO SỬ DỤNG TRONG SÁCH
364
MỤC LỤC
Đề tài Nội dung Trang
Giới thiệu các Khóa Thánh Kinh và 03-14
Lãnh đạo Muối Đất mở rộng
Đôi lời về Khóa Lãnh đạo theo Phong 15-18
Cách Thánh Phao-lô
PHẦN I: CÁC ĐỀ TÀI 19
ĐT I Cuộc trở lại hay đổi đời của Thánh 20-37
Phao-lô
ĐT II Thời đại và tiểu sử của Thánh Phao-lô 38-56
ĐT III Công cuộc, chiến thuật và phương thế 57-76
truyền giáo của Thánh Phao-lô
ĐT IV Chúa Ki-tô theo giáo huấn của Thánh 77-87
Phao-lô
ĐT V Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Hội 88-
Thánh 100
ĐT VI Giáo huấn của Thánh Phao-lô về 101-
Thánh Thần 114
ĐT VII Giáo huấn của Thánh Phao-lô về các ân 115-
huệ của Thần Khí hay đặc sủng 122
ĐT VIII Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Đức 123-
Ái 135
ĐT IX Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Thánh 136-
Thể 152
365
X Giáo huấn của Thánh Phao-lô về sự 153-
Phục Sinh của Chúa Giê-su Ki-tô và sự 165
Sống lại của loài người
XI Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Thân 166-
Xác và Hôn Nhân Gia Đình 180
XII Giáo huấn của Thánh Phao-lô về Ơn 181-
được nên công chính 191
XIII Linh đạo Ki-tô hữu theo giáo huấn của 192-
Thánh Phao-lô 218
XIV Lãnh đạo theo phong cách Thánh Phao- 219-
lô 233
PHẦN II: CÁC BÀI ĐỌC THÊM 234
BĐT1 Cuộc gặp gỡ đổi đời của Thánh Phaolô 235-
với Chúa Kitô Phục Sinh 241
BĐT2 Thánh Phaolô trở lại 242-
244
BĐT3 Đức Ki-tô của Thánh Phaolô 245-
247
BĐT4 Phaolô vị Tông Đồ vĩ đại 248-
261
BĐT5 Phaolô con người của hai nền văn hóa 262-
268
BĐT6 Thánh Phaolô, con người của Tin 269-
Mừng 275
BĐT7 Thánh Phaolô, nhà Cách Mạng 276-
366
281
BĐT8 Bài Giáo Lý mới XIV của ĐTC 282-
Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô: Đức 288
Tin phải được thể hiện trong Đức Ái
BĐT9 Bài Giáo Lý mới XIII của ĐTC 289-
Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô: 295
Thánh Phaolô và Ơn Công Chính Hóa
BĐT10 Bài Giáo Lý mới VII của ĐTC 296-
Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô: 303
Thánh Phaolô biết Đức Kitô như thế
nào?
BĐT11 Bài Giáo Lý VIII của ĐTC Bênêđictô 304-
XVI về Thánh Phaolô: Chúng ta là Đền 311
Thờ của Thiên Chúa nơi trần gian
BĐT12 Bài Giáo Lý mới IX của ĐTC 312-
Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô: 319
Thánh Phaolô và Kitô học: Đức Khiêm
Nhường của Đức Kitô
BĐT13 Bài Giáo Lý mới X của ĐTC 320-
Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô: Thần 326
Học về Thập Giá của Thánh Phaolô
BĐT14 Bài Giáo Lý XI của ĐTC Bênêđictô 327-
XVI về Thánh Phaolô: Thánh Phaolô 335
và Biến Cố Phục Sinh
BĐT15 Bài Giáo Lý mới XII của ĐTC 336-
Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô: Ngày 343
367
Quang Lâm của Đức Kitô trong Giáo
Huấn của Thánh Phaolô
BĐT16 Bài Giáo Lý mới XVIII của ĐTC 344-
Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô: Đức 353
Kitô là Đầu Hội Thánh và Vũ Trụ
BĐT17 Bài Giáo Lý mới XX của ĐTC 354-
Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô: Cái 361
Chết và Di Sản của Thánh Phaolô
Các Khóa “Thánh Phaolô” (Muối Đất 362-
chính quy) các “Khóa Lãnh đạo theo 363
Phong Cách Thánh Phaolô (Muối Đất
mở rộng) và các Khóa “Thánh Phaolô
đại chúng” đã được giảng dậy
Tài liệu tra cứu 364
Mục lục 365-
368
368