Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 38

Xin chào quý vị khán giả đang theo dõi bản tin thời sự ngày hôm nay.

Cuộc khủng hoảng tài chính lớn nhất trong lịch sử năm 2008 gây ra hậu
quả Khoảng 10.000 tỷ Đô la Mỹ tan biến, 30 triệu người thất nghiệp,
hàng loạt ngân hàng phá sản trong đó phải kể đến sự sụp đổ của một
trong những định chế tài chính lớn nhất nước Mỹ lúc bấy giờ - Lehman
Brothers
Trang 2
Tôi là Khánh Linh, phóng viên thường trực và hôm nay tôi sẽ cùng với
các cộng sự của tôi là Hồng Tươi, Hoàng Long, Vân anh, Phạm thùy
trang, Xuân Cường và Tô thùy trang sẽ giúp quý vị hiểu rõ hơn về cơn
khủng hoảng tài chính lớn nhất trong lich sử năm 2008.
Trang 3
Linh: trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu nguyên nhân bắt nguồn của cuộc
khủng hoảng này.
Trang 4
- Nguyên nhân được chia thành nguyên trực tiếp và gián tiếp
Trang 5
- Tôi sẽ nói rõ về nguyên nhân trực tiếp đã tao nen su hoan loan
tai chinh tren toan the gioi luc bay gio
Trang 6
- Nguyên nhân đầu tiên là do nợ dưới chuẩn :
TRANG 7
Nợ dưới chuẩn chính là các khoản cho vay đối với các đối tượng có mức
tín nhiệm thấp. họ thường là những người nghèo, không có công ăn việc
làm ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có mỗi lịch sử thanh tóan tín dụng
không đổi.
Vì thế, nợ dưới chuẩn có mức dộ rủi ro tín dụng rât cao, nhưng lại có
mức lãi suất rất hấp dẫn.
Đây còn là một giải pháp để cân đối về nguồn vốn tín dụng toàn cầu
nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, việc cho vay một cách thái quá
trong một thời gian ngắn dẫn đến việc mất kiểm soát chất lượng tín
dụng.
TRANG 8
Qua biểu đồ 2, ta thấy tỉ lệ phần trăm cho vay thế chấp dưới chuẩn của
Mỹ năm 2006 là 23,5%, cao nhất từ trước đến nay. Và hạ xuống còn
9,2% vào năm 2007 khi cơn khủng hoảng tín dụng tồi tệ nhất nước Mỹ
bắt đầu bùng nổ.
TRANG 9
Nguyên nhân thứ hai là do chứng khoán hóa:
TRANG 10
Nguyên tắc căn bản của chứng khoán hóa là biến các chứng từ tài sản
thành các sản phẩm có thể mang ra bán trên TTCK.
TRANG 11

Bất cứ chứng từ tài sản nào cũng có thể chuyển đổi được: chứng từ tín
dụng truyền thống, tín dụng bất động sản, tín dụng thương mại,…
Nó đã trở thành một công cụ chuyển giao rủi ro hiệu quả đẻ thực hiện
cho vay nợ dưới chuẩn.
(Chứng khoán hóa xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào năm 1970 và phát triển
mạnh trong môi trường chính sách tiền tệ được nới lỏng từ năm 2001).
Khi nền kinh tế suy thoái, người vay tiền mua nhà không trả được các
khoản vay thì rủi ro tín dụng được chuyển sang các gói trái phiếu có các
danh mục tín dụng bất động sản . Khủng hoảng càng tăng thì việc phát
mại tài sản càng tăng, làm giá bất động sản ngày càng giảm. Vì vậy, giá
trị tài sản đảm bảo của trái phiếu càng giảm và rủi ro tín dụng càng tăng.
Vòng xoáy khủng hoảng cứ tiếp tục như vậy, làm cho giá chứng khoán
sụt giảm mạnh.
Nguyên nhân thứ ba là do các công ty định mức tín nhiệm:
TRANG 13
Trước khi tìm hiểu nguyên nhân thứ ba ta sẽ định nghĩa nghĩa vụ nợ
thế chấp(CDO) là gì…..Là một loại chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản
(ABS) được cấu trúc với nhiều đợt được phát hành bởi các thực thể mục đích đặc
biệt và được đảm bảo bằng các nghĩa vụ nợ bao gồm trái phiếu và các khoản vay
và sau khi hiểu đc CDO là gì thì chúng ta sẽ quya lại
TRANG 14
Do sự ra đời của các công ty định mức tín nhiệm nên các giấy nợ đảm
bảo bằng tài sản (CDO) rất hấp dẫn người mua, nó có mức độ rủi ro thấp
nhất, được các tổ chức đánh giá tín nhiệm xếp hạng cao. Hàng loạt
những khoản vay được định giá AAA để thực hiện chứng khoán hóa là
những khoản vay thứ cấp, người đi vay không trả được nợ, dẫn đến hiệu
ứng domino trong toàn hệ thống tài chính
TRANG 15
Nguyên nhân thứ tư là do công cụ đầu tư kết cấu:
TRANG 16
Nhiều tổ chức tín dụng của Hoa kỳ đã lập ra các công ty con, gọi là các
bộ phận mục đích đặc biệt (SPV) để mua bán MBS ( chứng khoán đảm
bảo bằng tài sản thế chấp) và CDO. Điều này cho phép họ đặt MBS và
CDO ngoài bảng cân đối tài sản, và vì thế giảm nguy cơ bị các cơ quan
giám sát tài chính nhắc nhở.
TRANG 17
Công cụ đầu tư kết cấu (SIV) hoạt động theo hình thức huy động vốn
ngắn hạng bằng việc phát hành thương phiếu với lãi suất thấp, đầu tư
vào các loại chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản với lãi suất cao.
Các công ty SIV đi vay bằng cách phát hành chứng khoán ngắn hạn lãi
suất thấp ròi cho vay lại bằng cách mua các chứng khoán dài hạn, nhất là
mua MBS và CDO, qua đó hưởng phần chênh lệch.
TRANG 18
Tuy nhiên, khi lãi suất của chứng khoán dài hạn lại thấp hơn lãi suất
chứng khoán ngắn hạn thì các SIV này bị lỗ..
Khi khủng hoảng nợ dưới chuẩn xảy ra, người đi vay không còn khả
năng thanh toán thì các SIV này phải lâm vào tình trạng nguy cấp, dẫn
tới phá sản hàng loạt.
TRANG 19
Nguyên nhân thứ năm là do hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng:
(trang 20)
CDS là một thỏa thuận giữa hai bên, trong đó một bên trả phí dịch vụ
định kỳ cho bên kia và được cam kết nhận đủ số tiền cho vay tín dụng
nếu bên thứ ba không trả được nợ. Khi các rủi ro tín dụng xuất hiện ngày
càng nhiều ở Mỹ, dịch vụ CDS trở nên phổ biến.
(trang 21)
(trang 22)
Riêng năm 2007, thị trường giao dịch hoán đổi tín dụng có tổng giá trị
lên đến 62 ngàn tỉ Dollar.
CDS giống như một hợp đồng bảo hiểm, vì chúng có thể được các chủ
nợ mua để đề phòng nguy cơ bên vay không thanh toán được nợ. Tuy
nhiên, trên thực tế, không có yêu cầu cầm cố bất cứ tài sản nào nên CDS
cũng có thể được sử dụng cho các mục đích đầu cơ. Do ngày càng có
nhiều công ty của Mỹ không thanh toán được số chứng khoán phát hành
khi suy thoái kinh tế ngày một lún sâu sự đỏ vỡ của các CDS là điều
không thể tránh khỏi.
Trang 23
Nguyên nhân thứ sáu là do mua bán khống:
Trang 24
Khi giới đầu cơ đoán chắc rằng cổ phiếu của những tập đoàn có liên
quan đến cho vay dưới chuẩn sẽ sụt giảm, họ ồ ạt vay những cổ phiếu
này rồi ồ ạt bán ra, tạo nên một áp lực giảm giá rất lớn.
Sau khi giá giảm đến một mức nào đó, họ sẽ mua và trả lại nơi cho vay
cộng thêm một ít phí, còn bao nhiêu tiền chênh lệch họ sẽ hưởng trọn.
Trang 25
Thậm chí, Họ còn áp dụng cách thức mua bán khống vô căn cứ ( Naked
Short Sale), tức là không vay chứng khoán nữa mà liên tục ra lệnh bán vì
lợi dụng khe hở, mua bán ba ngày sau mới giao cổ phiếu.
Trang 26
Nguyên nhân thứ bảy là do khủng hoảng niềm tin:
Trang 27
Các ngân hàng cạnh tranh về mức độ cho vay cũng như tài sản. Những
giao dịch phức tạp được tạo ra đẻ loại bỏ rủi ro và che giấu những trượt
giá giá trị tài sản thực của ngân hàng. Cả thị trường xuống dốc và tất cả
mọi người đều bị thua lỗ. Thị trường tài chính xoay quanh trục nguyên
tắc độ tin cậy, và độ tin cậy đó đã bị xuống cấp. Sự sụp đổ của Lehman
là biểu tượng đánh dấu mức độ tin cậy đã xuống một mức thấp mới và
dư âm của nó sẽ còn tiếp tục
Linh: sau khi tìm hiểu 7 nguyên nhân của khủng hoảng thì rút ra được
một số nguyên nhân chính như:
Do chính sách tiền tệ quá lỏng nên đã khuyến khích tiêu dùng và trực
tiếp là cho vay nợ dưới chuẩn để đầu tư bất động sản.
Chứng khoán hóa tràn lan thiếu kiểm soát: .
Sự quản lý giám sát và điều hành của chính phủ lỏng lẻo trong suốt
thời gian dài.

Khép lại phần nguyên nhân trực tiếp Vậy thì còn nguyên nhân sâu xa
của cuộc khủng hoảng này gì vậy phóng viên Hoàng Long.
Trang 28
Long : Cảm ơn phóng viên thường trực khánh linh đã có những chi sẻ
rất chân thực và tôi là hoàng long phóng viên thường trực của đài truyền
hình VN sẽ tiếp tục chia sẻ cho mng về những nội dung tiếp theo
Và đương nhiên là nếu tôi là 1 nhà kinh tế hc thì trong cuộc khủng
hoảng thì bản thân tôi cũng sẽ rất lo sợ và lung lay đi niềm tin của chính
mình và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng cũng là do khủng hoảng
niềm tin như trên mà khánh linh đã chia sẻ. Ngoài ra thì có rất nhiều
những nguyên nhân khác sâu xa mà đã khiến cho nền kinh tế Mỹ phải
chật vật và rơi vào suy thoái
Trước khi mà đi vào với nguyên nhân đầu tiên thì tôi muốn hỏi quý vị
khán giả rằng khi một đất nước rơi vào suy thoái và lượng tiền được
chính phủ bơm vào thị trường một cách quá ồ ạt vậy thì quý vị khán giả
có thể chuẩn đoán cho tôi kết quả là gì không?
KG : lạm phát
Trang 29
Và cảm ơn câu trả lời từ bạn và lạm phát chính là nguyên nhân sâu xa
mà tôi muốn nhắc đến nhưng ngoài ra còn cả yếu tố về lãi suất cũng như
là xuất hiện những khoản vay với lãi suất thấp để đẩy cho cuộc khủng
hoảng ngày càng xa hơn
Trang 30,31
Vậy thì chúng ta cùng tìm hiểu đến yếu tố đầu tiên đó chính là lạm phát.
Tôi muốn quý vị khán giả hiểu rằng câu chuyện này đã bắt đầu từ những
năm 2001 nhất là sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 của Mỹ đã gây ra
thiệt hại về tính mạng cho người dân nước Mỹ và đương nhiên là làm
thay đổi mọi mặt của nước Mỹ kể cả các vấn đề liên quan đến kinh tế
trong nước và tôi muốn nhấn mạnh rằng cuộc khủng hoảng cũng chính
thức bắt đầu từ đây. Đó là thời điểm mà cục dự trữ liên bang mỹ đã bơm
tiền vào nền kinh tế và giảm dần mức lãi suất cơ bản từ 3,5% trên 1 năm
vào tháng 8 năm 2001 xuống còn 1% vào giữa năm 2003
Trang 32
Cá nhân tôi thì giải pháp nới lỏng tiền tệ này bằng cách bơm tiền vào thị
trường nhìn chung thì đã giúp cho việc vay tiền ngân hàng cũng trở nên
dễ dàng hơn và hạ thấp chi phí trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế nhưng
đồng thời cũng chính nó đã đẩy cho đồng tiền bị mất giá và tệ nhất phải
nói đến là dẫn đến tình trạng lạm phát. Hơn nữa là cục dự trữ liên bang
Mỹ còn giữ mức lãi suất quá thấp trong một thời gian dài
Trang 33
Và yếu tố tiếp theo mà tôi muốn nhắc đến cho quý vị khán giả đó chính
là lãi suất thấp từ đó dẫn đến những khoản vay với lãi suất thấp xuất
hiện nhằm kích thích việc mua nhà theo như các chuyên gia đưa ra vào
thời điểm 2006 đến 2007 thì các ngân hàng thương mại và đầu tư đã
nhanh chóng nới lỏng việc cho vay mua nhà dành cho các đối tượng vay
ít tin cậy. Và kết quả là quý vị khán giả ở đây có thể đoán được rằng là
bất kỳ đối tượng nào cũng có thể vay tiền để mua nhà cho dù họ có ít
khả năng hoặc kh có khả năng trả nợ
Trang 34
Nhưng mà khi giá nhà lên cao điều đó đã giúp cho các ngân hàng cảm
thấy an toàn để họ có thể đem tiền cho những người không có khả năng
trả nợ vay. Bởi lẽ các ngân hàng cho rằng nếu người vay không trả được
nợ thì họ sẽ tịch thu nhà với giá trị đã được đẩy lên cao hơn
Mọi việc cứ suôn sẻ như vậy chừng nào giá nhà vẫn tăng nhưng một khi
giá nhà lên đến đỉnh điểm và bắt đầu giảm, các điều kiện cho vay dần bị
thắt chặt, khi đó các ngân hàng bỗng thấy họ đang sở hữu những ngôi
nhà mà giá trị của nó không đủ để bù đắp những khoản vay từ đó hình
thành các loại nợ
Trang 35
Trong đó phải nhắc đến nợ tín dụng địa ốc
Trang 36
Khi làm ăn có lời, ai trong mỗi chúng ta cũng có thể nghĩ đến việc vay
thêm tiền để phát triển hoạt động. Người ta gọi đó là tác dụng đòn bẩy
nhờ tiền đi vay và nợ tín dụng địa ốc được hình thành do việc cho vay
mua nhà
Nhưng khi đi vay thì phải có gì đó làm vật đảm bảo. Trong hệ thống tài
chính Mỹ, vật đảm bảo này nhiều khi là một gói nợ hay một tờ giấy nợ
quy định một tài sản sẽ trở thành lưu hoạt, thành tiền mặt, hiện kim khi
đến kỳ đáo hạn
Trang 37
Cách vận hành của nó quý vị khán giả có thể tưởng tượng nó như 1 cái
kén chứa rất nhiều lớp và bên trong cái kén đó lại chứa rất nhiều loại nợ
tín dụng địa ốc
Đương nhiên là các ngân hàng và tổ hợp đầu tư tài chính đã trao đổi
những “kén thối” ấy trong những quan hệ chằng chịt như tơ vò mà
không thể biết chính xác bên trong xấu, tốt ra làm sao
Và chúng ta có thể thấy được rằng mãi cho đến khi giá nhà lên đến đỉnh
điểm, các khoản vay chậm lại và giá nhà bắt đầu hạ. “Bong bóng” địa ốc
đã nổ vào những tháng cuối năm 2007 và ngân hàng với những khoản
cầm cố lớn buộc phải công bố báo cáo về những khoản thất thu khổng lồ
Trang 38
Và sau khi mọi người đã thấy rõ giá trị thực của tài sản đang nắm giữ,
không còn ai muốn ôm lấy những “kén thối” nữa. Từ khủng hoảng tín
dụng địa ốc dẫn tới khủng hoảng của thị trường vay nợ là thị trường trái
phiếu
Kết quả dẫn đến là những ngân hàng hay cơ sở tài chính không có thanh
khoản rơi vào hoàn cảnh có tài sản mà chưa thể chuyển ra hiện kim vì là
nợ chưa đáo hạn. Cộng thêm tâm lý của người dân kéo nhau rút tiền ồ ạt,
dẫn tới ngân hàng bị phá sản
Cuối cùng thì chính sách nới lỏng đưa ra bắt đầu từ cuối năm ngoái để
tránh suy thoái kinh tế nhưng hậu quả nó mang lại là lạm phát. Gía dầu,
lương thực và vàng tăng lên đến mức cao nhất trong lịch sử và nhiều nhà
phân tích đánh giá rằng nếu cứ tiếp tục đẩy mạnh chính sách nới lỏng
tiền tệ sẽ kh thể ngăn chặn nguy cơ sụp đổ mà còn là mầm mống tạo ra
tình trạng lạm phát và kinh tế suy giảm hơn nữa
Và đó là những chia sẻ của tôi về những nguyên nhân sâu xa đã len lỏi
vào nền kinh tế mỹ khiến cho nền kinh tế mỹ phải sụp đổ và tiếp theo
xin mời phóng viên thường trực vân anh chia sẻ thêm về sự bùng nổ này
[Sự bùng nổ]
TRANG 39
Xin chào các quý vị khán giả đang theo dõi bản tin này, tôi – Vân Anh
xin được phép sau khi đã tìm hiểu về sự khởi đầu của cuộc khủng
khoảng năm 2008 sẽ cùng đến với cao trào của nó:

TRANG 40
Cơn địa chấn tài chính thực sự nổ ra vào ngày 7/9 khi hai nhà cho vay
cầm cố khổng lồ của Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải được
Chính phủ tiếp quản để tránh khỏi nguy cơ phá sản. Sự kiện này tiếp tục
châm ngòi cho vụ đổ vỡ với những tên tuổi lớn khác.

TRANG 41
Vào ngày 15/9, Ngân hàng Đầu tư lớn thứ 4 nước Mỹ Lehman
Brothers sau 158 năm tồn tại đã tuyên bố phá sản.
TRANG 42
Đúng 10 ngày sau, Washington Mutual tạo nên vụ phá sản ngân
hàng lớn nhất trong lịch sử với tổng tài sản thiệt hại lên tới 307 tỷ đôla.
Ngoài ra, do khủng hoảng tài chính, ngân hàng đầu tư số một nước Mỹ,
Merill Lynch cũng bị thâu tóm bởi Bank of America. Chính phủ đã buộc
phải bơm 85 tỷ đôla vào AIG, tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới, để
tránh cho thị trường tài chính nước này một kết cục tồi tệ hơn.
TRANG 43
Xen giữa những sự kiện trên, 9 tháng đầu năm cũng chứng kiến các cơn
sốt dầu, lương thực, và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu:
Giá dầu: Từ 90$/thùng  147$/thùng, Vàng: 1000$/ounce

TRANG 44
Tình trạng thị trường tài chính đóng băng ngày càng tồi tệ đã khiến
Ngân hàng Trung ương Mỹ, Anh, Nhật, EU và nhiều quốc gia khác phải
cắt giảm lãi suất hàng loạt để khơi thông dòng vốn. Mỹ kể từ đầu năm
đến nay đã 8 lần cắt giảm lãi suất, từ đó lãi suất cơ bản từ 5% đã xuống
chỉ còn 0,25%.

TRANG 45
Không dừng lại ở các điều chỉnh tài khóa, các quốc gia trên cũng tích
cực bơm tiền nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các tập đoàn tài chính, cũng
như kích thích hoạt động tiêu dùng và cho vay. Trong đó, FED quyết
định dùng 700 tỷ đôla để mua lại nợ xấu của các Ngân hàng.

TRANG 46
Trong ba tháng, tính tới cuối tháng 9, đã có hơn 30.000 doanh nghiệp
Mỹ phá sản. Theo đó, tỷ lệ thất nghiệp tại quốc gia này tính tới 6/12 đã
lên tới 6,7%, mức cao nhất trong vòng 15 năm qua. Ngoài ra, một số kỷ
lục buồn tồn tại hàng chục năm về số người mới thất nghiệp theo tuần và
tháng cũng đã bị phá trong quý IV.

TRANG 47
Trước khi được thông qua vào ngày 1/10, kế hoạch hỗ trợ lớn chưa từng
có trong lịch sử đã vấp phải không ít phản đối tại Quốc hội Mỹ. Đặc biệt
tại vòng bỏ phiếu vào ngày 29/9, Hạ viện bất ngờ không thông qua kế
hoạch trên tạo ra một cú sốc thực sự với phố Wall, khiến chỉ số Dow
Jones trải qua ngày giảm điểm tồi tệ nhất trong lịch sử: Tại Mỹ ngày 29
tháng 9 năm 2008, thị trường chứng khoán sụp đổ. Chỉ số công nghiệp
trung bình Dow Jones giảm 777,68 điểm trong giao dịch trong ngày.
Cho đến năm 2018, đây là lần giảm lớn nhất trong lịch sử vì Quốc hội
bác bỏ dự luật cứu trợ ngân hàng.

TRANG 48
Kèm theo cuộc bùng nổ của khủng khoảng tài chính này, ta sẽ thấy được
một điều hiển nhiên rằng khômh chỉ tại Mỹ, rất nhiều quốc gia trên toàn
cầu cũng chịu những ảnh hưởng sâu sắc đến từ cuộc khủng khoảng tài
chính năm 2008 này:

TRANG 49

- Ngày 28 tháng 10 năm 2008: Tại Vương quốc Anh, 500.000 người
nắm giữ thế chấp bị rơi vào tình trạng vốn sở hữu âm sau khi giá
nhà giảm 15% kể từ mùa hè trước, cùng với 700.000 người nắm
giữ thế chấp khác cũng phải đối mặt với rủi ro tương tự nếu giá
tiếp tục giảm
TRANG 50
- Ngày 17 tháng 11 năm 2008: Nhật Bản - Nền kinh tế lớn thứ hai
thế giới rơi vào suy thoái lần đầu tiên sau 7 năm GDP của nước
này giảm 0,1% trong quý từ tháng 7 đến tháng 9 do cuộc khủng
hoảng tài chính làm hạn chế nhu cầu xuất khẩu của nước này. Nó
đã giảm 0,9% trong quý trước.

TRANG 51

- Tại Trung Quốc, vào cuối quý 3 năm 2008 mức tăng GDP cả năm
của Trung Quốc chỉ đạt 9%, thấp hơn 2,4% so với năm 2007. Do
tác động của khủng hoảng toàn cầu làm ảnh hưởng đến xuất khẩu
và đầu tư nước ngoài, mức tăng trưởng của Trung Quốc giảm dần
theo quý. Trong nửa đầu năm, tăng trưởng 10,4%, đến hết quý 3
chỉ tăng trưởng 9%.

TRANG 52

Sau cuộc bùng nổ năm 2008, cả thế giới đều bị ảnh hưởng đến
nền kinh tế trầm trọng.

- Giá lương thực đắt đỏ lại tạo ra căng thẳng thực sự tại nhiều nơi,
thậm chí cả các quốc gia xuất khẩu lương thực.

- Nạn lạm phát từ đó cũng xảy ra tràn lan tại nhiều quốc gia, trong
đó Iceland bị ảnh hưởng nặng nề nhất vì đồng nội tệ krona của
nước này đã mất giá trầm trọng và gần như bị xóa sổ.
- Sự gia tăng giá dầu đã ảnh hưởng trực tiếp đến GAS (tăng/giảm
doanh thu và biên lợi nhuận, và nhu cầu khí khô từ nhà máy điện
do giá khí ở mức cao), cũng như PLX và OIL (tăng/giảm doanh
thu và lãi/lỗ hàng tồn kho) và BSR (tăng/giảm biên lợi nhuận lọc
hóa dầu, lãi/lỗ hàng tồn kho) trên toàn cầu.

- Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự
giảm sút trong các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như
chi tiêu của người dân. Hệ quả của tình trạng trên là nhiều doanh
nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ thất nghiệp tại nhiều quốc gia tăng cao,
chi tiêu và chỉ số lòng tin của người tiêu dùng rơi xuống mức thấp
nhất trong nhiều năm.

Tác động lên nền kinh tế Việt Nam

Trang 53
Xin chào quý vị khán giả đang theo dõi bản tin thời sự ngày hôm nay. Và
để tiếp tục thông tin đến quý vị về diễn biến cuộc khủng hoảng, tôi là
Hồng Tươi, phóng viên thường trực tại việt nam sẽ là người đồng hành
cùng quý vị trong chuyên mục “ sự ảnh hưởng của đại suy thoái thế
giới naqwm 2008 đến việt nam”

Cuộc khủng hoảng kinh tế lớn nhất trong lịch sử năm 2008 gây ra hậu
quả
Khoảng 10.000 tỷ Đô la Mỹ tan biến, 30 triệu người thất nghiệp, hàng
loạt ngân hàng phá sản trong đó phải kể đến sự sụp đổ của một trong
những định chế tài chính lớn nhất nước Mỹ lúc bấy giờ - Lehman
Brothers.
Không chỉ ảnh hưởng đến thị trường tài chính nước Mỹ, mà hiện tượng
này gần như tác động đến toàn cầu, trong đó có Việt Nam.
Trang 54
Như chúng ta biết rằng, Việt Nam chuyển mình từ nền kinh tế tập trung
sang kinh tế thị trường vào năm 1986, bình thường hoá quan hệ với Mỹ
năm1995 và gia nhập tổ chức WTO năm 2007.

Vì chỉ mới chính thức tham gia vào nền kinh tế toàn cầu, nên hệ thống
tài chính vẫn chưa bị ảnh hưởng nhưng một vài mặt đã bị tác động
tương đối rõ. “Cơn địa chấn” khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh
hươrng đến kinh tế Việt Nam qua một số mặt sau đây:
Trang 55
Lãi xuất
chỉ số Vn-index
tỉ giá usd/vnđ và cuối cùng là lạm phát
Trang 56
đến với mục đầu tiên, chúng ta sẽ cùng nhau đi sâu vào vấn đề lãi suất
của việt nam trong năm 2008
trang 57

Kính thưa quý vị, áp lực và thách thức lớn nhất trong hoạt động
ngân hàng năm 2008 chính là việc điều hành chính sách lãi suất. Và tính
đến hiện tại, chưa có năm nào lãi suất lại có những diễn biến bất ngờ
như năm 2008. Sau những điều chỉnh của lãi suất cơ bản (LSCB), lãi suất
huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại (NHTM) đồng loạt
thay đổi theo, tạo nên rất nhiều kịch tính trên thị trường tiền tệ.
Trang 58
Nhìn vào biểu đồ diễn biến các lãi xuất chủ chốt, tôi sẽ tập chung
nói nói lãi xuất cơ bản.
ta thấy được để chống lạm phát, từ ngày 1/2 đến ngày 11/6,
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã 3 lần tăng LSCB từ 8,25% lên tới 14%.

Quyết định này khiến thị trường tiền tệ bước vào "cơn sóng" lớn,
các NHTM bước vào cuộc đua lãi suất vô cùng quyết liệt. Hậu quả là
nhiều ngân hàng cổ phần đứng trước nỗi lo mất thanh khoản. Các DN
gặp rất nhiều khó khăn tiếp cận nguồn vốn vay. Sau hơn bốn
tháng, chính sách tiền tệ thắt chặt đã chuyển sang nới lỏng với
việc LSCB liên tục được cắt giảm.
Từ ngày 21/10 đến cuối năm, chỉ trong vòng 2 tháng, NHNN đã 5
lần điều chỉnh giảm LSCB như ta có thể thấy rõ đó là các mốc( ngày
21/10, 5/11,21/11 và cuối cùng 22/12) đưa lãi xuất 14% về 8,5%. Ngay
sau quyết định này, cuộc đua hạ lãi suất của các NHTM chính thức bắt
đầu với làn sóng hạ lãi suất lan rộng, đưa biểu lãi suất cho vay VND trên
thị trường về mức trước thời điểm xảy ra lạm phát.

Và đối với chúng ta là sinh viên khoa tài chính ngân hàng, thì đâu
đó tôi biết rằng chúng ta đều từng tìm hiểu về chứng khoán. vậy nếu
bạn là nhà đầu tư, nhưng với xuất phát từ tờ giấy trắng, bạn sẽ bắt đầu
từ đâu?

Xin cảm ơn câu trả lời của các bạn. Ngay sau đây, để có thể tiếp
thêm cho các nhà đầu tư trẻ những kiến thức về chứng khoán, tôi xin
giới thiệu về biểu đồ vnindex đến cho các bạn.
Trang 59
VN-Index
Đúng lúc thị trường đang có triển vọng phục hồi bền vững hơn thì
khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu phát nổ. Những con số sống
động chính là minh chứng cho một năm 2008 đầy sóng gió trên thị
trường chứng khoán Việt Nam, là hàng trăm ngàn tỷ đồng giá trị tài sản
đã bốc hơi. Phải nhắc đến chính là biểu đồ VNIndex.
Để có thể thông tin nhanh nhất đến cho qúi vị, tôi xin nói sơ lược
qua biểu đồ VN Index
Trang 60
Biểu đồ chỉ số VNIndex là loại biểu đồ thể hiện xu hướng thay đổi
giá của các mã chứng khoán được niêm yết trên sàn Hồ Chí Minh(HoSE)
. Chính vì vậy, sử dụng loại biểu đồ này quý vị sẽ có cái nhìn tổng quan
toàn cảnh thị trường, chứ không tập trung vào một mã cổ phiếu duy
nhất nào khác.
Nếu biểu đồ đang biểu diễn hướng đi lên chứng tỏ hoạt động giao
dịch diễn ra sôi nổi, tâm lý nhà đầu tư lạc quan, kỳ vọng về sự tăng
trưởng của thị trường. Điều này đồng nghĩa với tình hình hoạt động của
các doanh nghiệp đang rất tốt, kéo theo nền kinh tế tăng tỷ lệ thuận.

Và Biểu đồ này phản ánh khách quan xu hướng đang diễn ra của thị
trường chứng khoán. Bởi vì: Chỉ số VNIndex thể hiện sự tăng/ giảm giá
cổ phiếu, mà mức giá lại bị tác động bởi nhiều yếu tố trên thị trường.

Ý nghĩa
Chỉ số VNindex nhằm so sánh giá trị vốn hoá thị trường hiện tại
với giá trị vốn hoá thị trường cơ sở vào ngày gốc 28/07/2000 – ngày đầu
tiên thị trường chứng khoán đi vào hoạt động. Hay nói cách khác,
VNindex là một chỉ số cho thấy giá cổ phiếu hiện hành gấp bao nhiêu
lần giá cổ phiếu gốc.
Và trong lúc thông tin đến quý vị về biểu đồ vn-index, tôi có nhắc
đến thuật ngữ kinh tế chuyên môn đó là vốn hoád. vậy vốn hoá là gì,
đóng vai trò như thế nào trong biểu đôf vn-index, hãy cùng tiếp tục tìm
hiểu ngay sau đây.
Trang 61
( Vốn hóa là tổng giá trị của một doanh nghiệp tại một thời điểm
nhất định. Trên thực tế, vốn hóa bao gồm tổng giá trị cổ phiếu đang lưu
thông, nợ dài hạn và lợi nhuận giữ lại, tức là tổng số tiền cần chi trả để
sở hữu doanh nghiệp tại thời điểm hiện hành.

Giá trị vốn hóa thị trường của một doanh nghiệp hay công ty được tính
bằng cách nhân số lượng cổ phiếu mà các cổ đông sở hữu với giá hiện
tại của mỗi cổ phiếu. )
Và sau khi tìm hiểu các định nghĩa cơ bản về biểu đồ vn-index, tôi tin
rằng quý vị đã có được vài nét hình dung về nội dung này. N gay sau
đây, tôi sẽ dẫn chứng cho quý vị về việc biểu đồ vn-index đã lao đao thế
nào ngay sau khi sự bùng nổ khủng hoảng kinh tế đã diễn ra.

Trang 62

Tháng 10/2008 – Khủng hoảng kinh tế thế giới – Giảm 88,58 điểm
7 phiên liên tiếp
VN-Index năm 2008 khiến nhiều nhà đầu tư ‘’hãi hùng’’, khi ngày
nào cũng chứng kiến cảnh cổ phiếu chạm sàn hàng loạt, 7 phiên giảm
liên tiếp khiến Vn-Index mất 88,58 điểm, bắt đầu từ ngày 3/10/2008.
Nguyên nhân chính là bất ổn kinh tế vĩ mô thế giới với sự sụp đổ của
Lehman Brothers, lạm phát tăng cao, tín dụng thắt chặt, giá các loại
nhiên liệu cao đạt đỉnh, giá vàng thả nổi lên xuống khá thất thường.

Trang 63
Kết thúc năm 2008, VN-Index mất tổng cộng 605,45 điểm
Nếu tính từ số điểm đóng cửa của phiên giao dịch đầu tiên của
năm (2/1/2008), chỉ số VN-Index là 921,07 điểm, thì đóng cửa phiên
giao dịch cuối năm (31/12/2008), chỉ số này chỉ còn 315,62 điểm, đã
mất đi 605,45 điểm (giảm 65,33%).

Trong số 245 phiên giao dịch của sàn HOSE, chỉ có 109 phiên chỉ số
VN-Index tăng điểm, còn lại 136 phiên chỉ số này đều lao dốc.
Trang 64
Năm 2008 được giới phân tích tài chính coi là "năm bất ổn của tỷ giá"
với những biến động tỷ giá rất phức tạp với những ảnh hưởng từ các
yếu tố vĩ mô, cung cầungoại tệ và thậm chí cả tin đồn.
Trang 65
. Những nguyên chính dẫn tới việc tỷ giá tăng cao bao gồm:
Dòng tiền ngoại hối vào và ra không khớp nhau khi khối nhà đầu tư
nước ngoài dồn vốn để đầu tư vào đầu năm và rút vốn ồ ạt tại thời
điểm tháng 5, tháng 6 và quý 4/2008;
Yếu tố tâm lý bất ổn dẫn tới việc găm giữ ngoại tệ trên cả thị trường từ
DN, nhà đầu tư và các đối tượng dân cư, thể hiện rõ nhất trong giai
đoạn giữa tháng 6/2008.

ở những ảnh hưởng gián tiếp, cuộc khủng hoảng tài chính, và nối tiếp là
suy thoái kinh tế toàn cầu, đẩy nhiều doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu
trong nước vào khó khăn, dẫn đến quan hệ tín dụng với các ngân hàng
thương mại bị ảnh hưởng nhất định. Nửa đầu năm gồng mình với khó
khăn thanh khoản, lợi nhuận của nhiều ngân hàng bị ảnh hưởng nặng
nề. Đây là năm đầu tiên trong khoảng 5 năm trở lại đây nhiều thành
viên buộc phải điều chỉnh lại mục tiêu kinh doanh và lợi nhuận đặt ra từ
đầu năm;. Với lãi suất huy động cao trong phần lớn thời gian của năm,
tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp, tín dụng bất động sản và tiêu dùng
thu hẹp, đầu tư tài chính khó khăn…, dự kiến lợi nhuận của nhiều ngân
hàng thương mại năm 2008 sẽ không đạt mục tiêu đề ra, kể cả mục tiêu
đã được điều chỉnh.

Trang 66
Chỉ trong năm 2008, biên độ tỷ giá đã được điều chỉnh 5 lần, một mật
độ chưa từng có trong lịch sử. Đầu năm 2008, tỷ giá còn dao động
quanh mức 16.000 – 16.200 VND/USD, đến giữa tháng 3/2008, tỷ giá
“sụt hố” xuống còn 15.400 VND/USD. Đột ngột, trong tuần tháng
6/2008, tỷ giá USD/VND đột ngột đảo chiều và tăng với tốc độ chóng
mặt, có thời điểm giá thị trường tự do lên tới 19.000-19.800 VND/USD,
tạo nên cơn sốt USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự
do.

Trang 67

Và cuối cùng, tôi sẽ thông tin đến cho quí vị về lạm phát của việt nam.
Đối với thuật ngữ này, tôi tin rằng đây là một từ ngữ rất quen thuộc với
toàn bộ các nhà đầu tư trẻ đang có mặt ở đây, nên tôi xin phép được đi
vào thẳng nội dung cần trình bày.
Trang 68
Chỉ số giá khởi đầu năm 2008 với mức tăng “ấn tượng”, 2,38%, đã báo
hiệu một năm đầy sóng gió với lạm phát cao. Không tạo bất ngờ, do đã
có “đà” từ những tháng cuối năm 2007 ( ta có thể thấy trên biểu đồ là
2.91%), tuy nhiên sự “mở màn” của năm 2008 bắt đầu làm dấy lên nỗi
lo lạm phát.

Nỗi lo lạm phát thực sự đã xuất hiện vào ngày 21/2, thời điểm Tổng cục
Thống kê công bố chỉ số giá tiêu dùng tháng 2/2008 đạt mức tăng 3,56%
so với tháng trước.

Tương ứng với ba vòng tác động: trực tiếp, gián tiếp và lan tỏa, CPI đã
kéo dài ảnh hưởng lên hai tháng 3 và 4 sau đó, dù có thể hiện sự giảm
tốc. Ba tháng này đã hoàn thành một chu kỳ với CPI tháng Ba tăng
2,99% ( xấp xỉ 3%) ; tháng Tư “khiêm tốn” hơn với mức 2,2%.

Trái với giai đoạn 8 tháng đầu năm, khi “gánh nặng” giá cả đè lên vai đa
số người dân, thì ở 4 tháng còn lại của năm, doanh nghiệp lại “chịu
trận” giảm phát.

CPI chỉ tăng có 0,18% trong tháng 9. ba tháng của quý 4/2008, chỉ số giá
giảm liên tiếp: tháng 10 giảm 0,19; tháng 11 giảm 0,76; và tháng 12
giảm 0,68%.

Trang 69

sự sụt giảm giá cả nhiều loại hàng hoá trên thị trường thế giới cũng tác
động mạnh đến giá cả hàng hoá trong nước. và đối với mặt hàng xăng,
chỉ trong vòng 4 tháng cuối năm ( bắt đầu từ 21/7/2008), giá xăng đã có
sự giảm sút 10 lần. kéo theo đó là giá dầu, gas cũng giảm mạnh nhiều
lần trong cùng thời điểm này.
Sự “co rút” của thị trường hàng hóa làm tăng lượng tồn kho của doanh
nghiệp, dẫn tới sản xuất đình đốn. Những quan điểm bi quan nhất tại
thời điểm này cho rằng có đến 20% doanh nghiệp đang đặc biệt khó
khăn.
Và đó chính là nội dung phần trình bày của tôi trong bản tin ảnh hưởng
của khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 lên việt nam. tiếp theo,
chúng ta sẽ cùng xem lại các nước trên thế giới nói chung và việt nam
nói riêng đã có những đề án/giải pháp như thế nào để ngăn chặn cuộc
khủng hoảng thông qua hai phóng viên thường trực của chúng tôi : thuỳ
trang và xuân cường. Xin được phép nối máy đến hai bạn.
Trang 70
Những biện pháp khắc phục
1. Giải pháp chung
Xin chào quý vị khán giả có mặt trong buổi talkshow ngày hôm nay. Tôi
là Thuỳ Trang, phóng viên thường trực, tôi rất vinh hạnh được có mặt ở
đây và đồng hành cùng mọi người để tìm hiểu về giải pháp mà chính
phủ các nước đã đưa ra để khắc phục cuộc khủng hoảng năm 2008.

Trang 71
Trước tiên là giải pháp chung mà chính phủ các nước đã cũng hợp tác
hành động. Giải pháp lớn nhất mà tôi nhìn thấy được đó chính là hạ lãi
suất
Sáu ngân hàng trung ương lớn nhất thế giới đồng loạt hạ lãi suất cơ bản
0,5% vào ngày 8/10 trong nổ lực ổn định nền kinh tế toàn cầu trước cơn
sóng gió trên thị trường tài chính.

Trang 72
Đây là một biểu đồ thể hiện lãi suất của FED, chúng ta có thể thấy lãi
suất liên tục hạ trong năm 2008. Ngày 22.1 lãi suất nằm ở mức 3.25 –
3.5%, nhưng chỉ sau 1 tuần lãi suất đã hạ đi 0.5% còn 2.75 – 3% sau đó
lãi suất lại tiếp tục hạ. Đến ngày 16.12 lãi suất chạm đáy chỉ còn 0-
0,25%.

Trang 73
Đây là một việc chưa có tiền lệ, khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED)

Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB),


Ngân hàng Trung ương Anh (BoE)

và một số ngân
hàng lớn khác đã cùng phối hợp hành động.

Trang 74
Lãi suất cơ bản sau khi cắt giảm của đồng tiền một số nước
Đồng USD 1.5%
Đồng Euro 3.75%
Đô la Canada 2.5%
Đồng bản Anh 4.5%
Đồng Krona 4.25%
Ngoài ra, cũng có các giải pháp khác như Cung cấp thanh khoản cho hệ
thống tài chính: Chính phủ các nước đã bơm tiền vào hệ thống tài chính
để giúp các ngân hàng hoạt động bình thường hay là Các chính phủ đã
thực hiện các gói kích thích kinh tế để tăng cường chi tiêu và đầu tư.
2. Giải pháp của Mỹ:

Trang 75
Như từ đầu chương trình đến giờ, chắc hẳn mọi người cũng đã biết được
Mỹ là một quốc gia bắt nguồn cuộc khủng hoảng. Vậy câu hỏi đặt ra ở
đây là Mỹ đã làm gì để thoát khỏi cuộc khủng hoảng. Một số giải pháp
được Mỹ thực hiện là

Trang 76
Ngày 23-3-2009, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ FED, bộ tài chính và các cơ
quan bảo hiểm tiền gửi Liên bang FDIC đã công bố một chương trình
đầu tư hợp tác giữa chính phủ và tư nhân để mua lại các tài sản là
nguyên nhân chủ yêu dẫn đến sự đóng băng tín dụng và kéo theo là cuộc
khủng hoảng tài chính.
Chương trình hợp tác đầu tư này sẽ sử dụng 75-100 tỷ USD, số tiền
được lấy từ chương trình hỗ trợ vay xấu TARP – chương trình đã được
phê chuẩn thành luật dưới thời Tổng thống Brush năm 2008. PPIP sẽ tạo
nên sức mua lên tới 500 tỷ USD và rất có thể số tiền chi ra của chương
trình sẽ còn lên tới 1000 tỷ USD,
Trang 77
có 3 nguyên tắc cơ bản mà chương trình hướng tới:
- Chính phủ sẽ dùng số tiền thuế thu của dân kết hợp với các hoạt
động tài chính FDIC để đồng đầu tư với khối tư nhân nhằm mua lại
các tài sản xuất trong bảng cân đối tài sản của các ngân hàng.

- Chia sẻ rủi ro cũng như lợi nhuận giữa các đơn vị tư nhân tham gia
chương trình. Thêm nữa chương trình PPIP sẽ nhằm mục đích đảm
bảo rằng nếu có thua lỗ xảy ra, phía đầu tư sẽ chịu ảnh hưởng trước
tiên và chủ yếu, còn nếu có lãi người nộp thuế sẽ được hưởng lợi.
- Để tránh khả năng rằng chính phủ phải trả giá quá cao hoặc quá thấp
cho các tài sản xấu, việc tham gia mua lại các tài sản từ phía các nhà
đầu tư thế này sẽ tạo nên một mức độ cạnh tranh nhất định, nhờ đó
các tài sản này sẽ được xác định đúng giá trị thật.
- Thêm nữa, các đối tượng tư nhân có thể sẽ tham gia cũng được mở
rộng, trong đó bao gồm các nhà đầu tư tư nhân, quỹ hưu trí, công ty
bảo hiểm và các công ty đầu tư dài hạn khác. Quy trình tiến hành
mua tài sản xấu bắt đầu từ việc xác định các khoản nợ quá hạn mà
ngân hàng muốn bán. Sau đó các khoản nợ xấu này sẽ được FDIC
đem ra tổ chức bán đấu giá, khối đầu tư tư nhân nào thắng cuộc trong
cuộc đấu giá tài sản này sẽ được FDIC và bộ tài chính hỗ trợ vat
thêm tiền một khoản tiền để có thể hoàn thành việc mua lại tài sản
xấu.

Trang 78
3. Giải pháp của các nước khác:
Đây là một cuộc khủng hoảng toàn cầu nên không riêng gì Mỹ mà các
quốc gia khác cũng chịu ảnh hưởng. GIải pháp mà chính phủ các nước
thực hiện có thể kể đến là

Trang 79
Liên minh Châu Âu: đưa ra dự thảo cho chương trình cả gói kích
thích kinh tế trong vòng 2 năm. Gói này sẽ chiếm ít nhất 1% tổng thu
nhập của khối, tương đương khoảng 130 tỷEURO ( 170 tỷ USD)
Trang 80
Anh: Chính phủ Anh đã công bố một kế hoạch trị giá 50 tỷ Bảng (88
tỷ USD) để cứu trợ 8 trong số các ngân hàng và tổ chức tài chính lớn
nhất nước này. Đổi lại, chính phủ sẽ nhận được cổ phiếu của các tổ
chức này.

Trang 81
Tại Mỹ La tinh: Ác – hen – ti – na trở thành nước đầu tiên có động thái
ngăn chặn đã suy giảm kinh tế. Tổng thống công bố quyết định bơm hơn
21 tỷ USD cho đầu tư hạ tầng của nước này.

Trang 82
Ngoài ra, các tổ chức tiền tệ quốc tế cũng chuẩn bị phương án cứu trợ
cho chính phủ một số nước nếu có nhu cầu. quỹ tiền tệ quốc tế IMF
thông báo chuẩn bị một khoản trị giá 200 tỷ USD nhằm sẵn sàng cứu
trợ các nền kinh tế gặp khủng hoàng

Trang 83
Trong khu vực Đông Á: 1 số nước như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật
Bản ngoài việc công bố các gói cứu trợ kinh tế, 3 quốc gia này còn
xem xét đóng góp dự trữ ngoại hối trong một quỹ chung trị giá 80 tỷ
USD nhằm đối phó với khủng hoảng.

Trang 84
4. Giải pháp của Việt Nam
Cuối cùng là giải pháp của chính phủ Việt Nam

Trang 85
Trước tiên có thể kể đến là một loạt các nghị quyết và quyết định được
ban hành kịp lúc như là nghị quyết ngày 11/12/2008
Quyết định ngày 23/01/2009

Trang 86
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định ngày 4/4/2009
Nghị quyết số 30/2008/NĐ-CP
Trang 87
Bộ Tài chính đưa ra việc giảm, giãn nộp thuế, hoàn thuế (GTGT, TNDN
và TNCN) điều chỉnh hàng rào thuế quan trong khuôn khổ cho phép của
cam kết WTO để hỗ trợ sản xuất trong nước.

Trang 88
Đồng thời với việc tăng cường các khoản chi an sinh xã hội… Chính
sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng được điều chỉnh kịp thời, linh
hoạt nhằm hỗ trợ cho sản xuất trong nước.

Trang 89
Một số dấu hiệu cho thấy được giải pháp của VN đã được áp dụng đạt
hiệu quả Theo Ngân hàng Thế giới (WB), hiện chỉ có 12 nước có tốc độ
tăng trưởng dương trong quý I/2009 trong đó có Việt Nam tăng trưởng
3,1%.
- Kinh tế vĩ mô ổn định, giá cả, lãi suất, tỷ giá đều tương đối ổn định
và nằm trong tầm kiểm soát.
- TTCK, thị trường BĐS từ tháng 4/2009 đã có dấu hiệu ấm lên.
- Tăng trưởng kinh tế tuy thấp nhưng cũng đang có nhiều dấu hiệu
khá lên từ đầu quý

Trang 90
Tuy nhiên nền kinh tế nước nhà vẫn chưa hoàn toàn khôi phục do đó mà
một kế hoạch lâu dài đã được thực hiện:
1. Tiếp tục thực hiện quyết liệt Nghị quyết 30/2008/NĐ-CP ngày
11/12/2008 của Chính phủ

- Rà soát lại nhiệm vụ chi và sắp xếp lại cho phù hợp.
- Có phương án tìm nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách, tăng
cường các biện pháp chống thất thu.
- Chủ động phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương đẩy nhanh
chủ trương xây nhà ở xã hội.
- Cần chuẩn bị các phương án kích cầu dự phòng trong trường
hợp các giải pháp hiện nay chưa đủ liều lượng để kích thích
quá trình phục hồi kinh tế.

Trang 91
2.Bám sát diễn biến của thị trường để điều chỉnh chính sách tiền tệ phù
hợp

3. Tăng cường chỉ đạo, giám sát chặt chẽ tình hình thực hiện các giải
pháp kích cầu bù lãi suất

4. Đẩy mạnh giải ngân vốn xây dựng cơ bản, đặc biệt là vốn năm 2009,
đồng thời xem xét ngay các điều kiện để ứng vốn năm 2010.

5. Nghiên cứu mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường mới.

Trang 92
6. Chọn lọc nhập khẩu

7. Tận dụng cơ hội để thu hút vốn đầu tư.

8. Có phương án cơ cấu lại nền kinh tế,

9. Thành lập cơ quan giám sát hỗn hợp liên ngành để tăng cường giám
sát các gói kích cầu

10. Đẩy mạnh tiến trình cải cách hành chính

Một lưu ý nhỏ là để các giải pháp nêu trên đạt được hiệu quả cao thì

cần sự chung sức, phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và
các cá nhân và doanh nghiệp trong việc thực hiện các giải pháp.
Cần có sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng để đảm bảo các
giải pháp được thực hiện đúng mục đích và hiệu quả.

Với sự nỗ lực của toàn xã hội, Việt Nam đã vượt qua được
giai đoạn khó khăn và sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong
tương lai.

Tiếp theo tôi xin mời phóng viên Xuân Cường sẽ nêu cho mn
về bài học sau cuộc khủng hoảng

You might also like