Tiểu luận TTHCM

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 20

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HIẾN


_____________________________

TIỂU LUẬN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ VĂN HOÁ ĐẠO ĐỨC
VÀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI

Lớp: Buổi sáng thứ 2


Học kỳ: 3 Năm học: 2023-2024
Nhóm 10
Giảng viên giảng dạy: Lại Quang Ngọc

TP HCM, tháng 6 năm 2024


DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM
STT TÊN MSSV NHIỆM VỤ ĐÁNH GIÁ

1 Nguyễn Minh Vũ 211A010281 Thuyết trình


2 Nguyễn Phạm 221A320158
Gia Tường
3 Trương Bùi 221A230334
Minh Quang
4 Nguyễn Võ Trúc 201A140279 Làm nội dung
Quỳnh
5 Đỗ Hoàng Anh 221A370622
6 Đỗ Ngọc Anh 221A370623
7 Huỳnh Thị 221A080216
Thanh Thảo
8 Nguyễn Hoàng 211A230219
Anh
9 Nguyễn Hoàng 221A031164
Nguyên Thảo
10 Trần Quang Huy 211A010239
11 Lê Ngọc Hân 201A230014
12 Phạm Hữu Lợi 211A030497
13 Bùi Du Ý Nhi 181A030295 Làm nội dung

LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn giảng viên môn Tư Tưởng Hồ Chí Minh – cô Lại
Quang Ngọc, người cô rất dễ thương và tận tình giảng dạy, trao cho chúng em nhiều
kiến thức, hướng dẫn cho lớp cách làm bài tiểu luận này rất nhiệt tình.
Em cũng xin được gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu, các khoa, phòng và quý thầy,
cô của trường Đại học Văn Hiến, những người đã truyền lửa và giúp đỡ, tạo điều kiện
cho chúng em trong quá trình học tập.
Trong quá trình làm bài, do kiến thức và hiểu biết của chúng em còn nhiều hạn
chế nên bài làm khó tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em kính mong nhận
được những lời góp ý của cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin trân trọng cảm ơn ! Và xin chúc cô có thật nhiều sức khoẻ để dẫn dắt
thêm nhiều sinh viên nữa.

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN


………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
……………………………………
MỤC LỤC
Danh sách thành viên nhóm………………………………………………………….. 2
Lời cảm ơn…………………………………………………………………………… 3
Nhận xét của giảng viên……………………………………………………………… 4
Chương 1: TT HCM về đạo đức, văn hoá và con người…………………………….5
1. Khái niệm………………………………………………………………………….. 6
2. Vai Trò………………………………………………………………………………7
Chương 2: Thực trạng hiện nay và cách xây dựng văn hoá đạo đức con người theo tư
tưởng Hồ Chí Minh…………………………………………………………………8
1.Thực trạng hiện nay………………………………………………………………….9
1.1 Các cán bộ có hành vi tham nhũng………………………………………………..9
1.2 Đạo đức trong học sinh, sinh viên…………………………………………………9
1.3 Đạo đức trong xã hội………………………………………………………………9
2. Cách xây dựng văn hoá đạo đức con người theo TT HCM………………………..10
3. Kết luận…………………………………………………………………………….11
Tài liệu tham khảo……………………………………………………………………12
LỜI MỞ ĐẦU
Trong suốt cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người không chỉ là một nhà lãnh
đạo vĩ đại mà còn là một triết gia, nhà văn hóa, nhà tư tưởng vĩ đại. Những tư tưởng
của Người về văn hóa, đạo đức và công cuộc xây dựng đất nước mới đã để lại dấu ấn
sâu sắc trong lịch sử và tâm hồn của dân tộc Việt Nam.
Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về tư tưởng đạo đức, văn hóa Hồ Chí Minh
và tác động của nó đến quá trình xây dựng con người mới trong xã hội Việt Nam.
Chúng ta sẽ phân tích những ý tưởng, suy nghĩ và phương pháp của Bác và nhận ra
tầm quan trọng của việc áp dụng những nguyên tắc này vào cuộc sống thực.
Bằng cách hiểu sâu hơn về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta có thể nhận
thức được những giá trị văn hoá và đạo đức mà Người gửi gắm, đồng thời tìm kiếm
những cơ hội và thách thức trong việc thực hiện và phát triển tư tưởng này trong xã
hội hiện đại.
Chương I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC, VĂN HOÁ VÀ CON NGƯỜI
1. Khái niệm:
1.1 Khái niệm về đạo đức:
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc
của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Như Người vẫn thường nói, đối với con
người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa; người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Bởi lẽ, sự nghiệp
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp rất to lớn, khó khăn và nặng nề;
con đường đi đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường dài, không phải
là một đại lộ thẳng tắp. Nó đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của mỗi người, mỗi
thế hệ, hơn nữa còn của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Chăm lo cái gốc, cái nguồn, cái
nền tảng ấy phải là công việc thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia
đình và mỗi người trong xã hội ta.
Đạo đức là một vũ khí sắc bén phục vụ cho cuộc đấu tranh đó, đúng như quan
điểm của Lênin: "Chúng ta nói rằng: đạo đức đó là những gì góp phần phá huỷ xã
hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết tất cả những người lao động chung
quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản".
Quan điểm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt
đức, coi nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, hồng và chuyên phải kết hợp,
phẩm chất và năng lực phải đi đôi, không thể có mặt này, thiếu mặt kia. Như
Người đã phân tích, người nào có đức mà không có tài thì cũng chẳng khác gì ông
bụt ngồi trong chùa, không làm hại ai, nhưng cũng chẳng có ích gì. Ngược lại, nếu
có tài mà không có đức, thì cũng chẳng khác gì một anh làm kinh doanh giỏi, đem
lại nhiều lãi, nhưng lãng phí, tham ô, ăn cắp của công, thì như vậy chỉ có hại cho
dân cho nước, còn sự nghiệp của bản thân thì sớm muộn cũng đổ vỡ. Người thực
sự có đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực,
tài năng để hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Khi đã thấy sức không vươn lên
được thì đối với ai có tài hơn mình, mình sẵn sàng học tập, ủng hộ và nhường bước
để họ vượt lên trước. Ý nghĩa "đức là gốc" chính là ở chỗ đó.
1.2 Khái niệm về văn hoá:
Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa là xuất phát từ cách tiếp cận mácxít và rất
gần gũi với nhận thức hiện đại, khi coi văn hóa không chỉ đơn thuần là đời sống
tinh thần của con người - xã hội, mà từ trong bản chất của mình, nó chính là linh
hồn, là hệ thần kinh của một xã hội, là sức mạnh trường tồn của cả dân tộc, là sức
sống vươn lên của thời đại. Văn hóa không phải là toàn bộ đời sống con người xã
hội, mà là phần cốt tử, là tinh hoa được chưng cất, kết tụ nên cái bản chất, bản sắc,
tính cách của dân tộc, của thời đại. Nó được thăng hoa từ hơi thở cuộc sống, từ
năng lực, trình độ và phương thức sống của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng. Và đến
lượt mình, văn hóa hiện diện trong mọi hoạt động từ suy tư đến hành động thực tế,
từ hoạt động cá nhân đến những vận động xã hội, từ hoạt động vật chất đến những
sáng tạo tinh thần những phát minh, sáng chế, tạo ra những giá trị mới của sản xuất
vật chất, khoa học - kỹ thuật - công nghệ, văn học - nghệ thuật.
Tháng 8-1943, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về văn hoá như sau: “Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.Quan
niệm của Hồ Chí Minh đã chỉ ra được nguồn gốc động lực và cấu trúc của văn hoá.
Quan điểm này có tính kế thừa, phát triển và có trước khi UNESCO ra đời.
Theo quan niệm chung nhất, là danh nhân văn hoá thế giới phải có sự đóng góp
xuất sắc cho sự phát triển văn hoá dân tộc và nhân loại, để lại dấu ấn trong quá
trình phát triển của văn hoá loài người. Hồ Chí Minh, danh nhân văn hoá kiệt xuất
được UNESCO ghi nhận bởi có sự đóng góp quan trọng về nhiều mặt; kết tinh
truyền thống văn hoá hàng nghìn năm của nhân dân Việt Nam. Người là hiện thân
cho khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc mình và tiêu
biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.
Con đường hình thành danh nhân văn hoá Hồ Chí Minh là một con đường hiếm
thấy, kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn, hoà mình vào cuộc sống của giai
cấp cần lao. Trong quá trình đó, từ rất sớm. Người đã làhiện thân cho nền văn hoá
của tương lai,đã trở thành “huyền thoại ngay khi còn sống”. Trong quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Người sớm đưa ra những quan điểm xây dựng nền văn
hoá mới Việt Nam, đồng thời Người là kiến trúc sư, tổ chức, lãnh đạo xây dựng
nền văn hoá mới đó.
Là danh nhân văn hoá kiệt xuất, Hồ Chí Minh tượng trưng cao đẹp cho cốt cách
văn hoá dân tộc, thống nhất với các yếu tố văn hoá nhân loại. Trên cơ sở những
nhận thức đầy đủ, đúng đắn về cốt cách văn hoá dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh
đã kết tinh những giá trị ấy với tinh hoa văn hoá nhân loại trên những phương diện
khác nhau. Đó là văn hoá tình nghĩa, tinh thần nhân văn Việt Nam, sự khoan dung,
hoà nhập; lối sống và cách ứng xử. Hồ Chí Minh đã có một sự kết hợp hài hoà,
nhuần nhị; đã giải quyết nhiều mâu thuẫn một cách biện chứng.
1.3 Khái niệm về con người:
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là thành
viên của gia đình và của cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài
hòa, phong phú. Người đã nêu một định nghĩa về con người: "Chữ người, nghĩa hẹp là
gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả
loài người". Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách chung
chung, trừu tượng. Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi lúc, trong
mọi hoàn cảnh, Người luôn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người với tư cách
nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động lực vô cùng
lớn lao cho sự nghiệp chung. Khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân,
Người viết: "Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên lợi ích cá
nhân". Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân
và của gia đình mình". Thực hiện một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, theo Người, phải
là một nền dân chủ chân chính, không hình thức, không cực đoan, trong đó, mỗi con
người cụ thể phải được đảm bảo những quyền lợi và nghĩa vụ của mình theo Hiến
pháp và pháp luật.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh đó là nhân dân Việt Nam, những con người
lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống trị của phong kiến, đế quốc; là
dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực dân; và mở rộng hơn nữa là những
"người nô lệ mất nước" và "người cùng khổ". Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
được khái niệm vừa là mục tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội,
vừa là động lực của chính sự nghiệp đó. Người khẳng định, xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong kháng
chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để đẩy mạnh công
cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những tiền đề cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội;
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải thực hiện chế độ dân chủ nhân dân, vì như
Người nói: "Đây là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng,
để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi". Cuộc chiến đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi,
nếu không "dựa vào lực lượng của toàn dân". Theo Người: "Nói một cách tóm tắt,
mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần
cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và được sống đời hạnh
phúc"; "Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân
dân", xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là làm cho nhân dân ta có một đời sống thật sung
sướng, tốt đẹp.
2. Vai trò:
2.1 Vai trò của đạo đức:

Đạo đức là tiêu chí đánh giá sự văn minh, cao thượng của xã hội, con người. Người có
đạo đức là người cao thượng; một dân tộc, mặc dầu kinh tế còn lạc hậu, nhưng có
được đạo đức cần, kiệm, liêm, chính thì vẫn xứng đáng là một dân tộc văn minh.
Đạo đức giúp cho con người luôn giữ được nhân cách, bản lĩnh làm người trong mọi
hoàn cảnh, không dễ bị thay đổi trước những xoay vần, biến thiên của thời cuộc: Giàu
sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy lực không thể khuất
phục.
Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi lẽ, có tâm, có đức mới giữ vững được chủ
nghĩa Mác - Lênin, đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào cuộc sống. Trong mối quan hệ
giữa đạo đức và trí tuệ, đức và tài, Hồ Chí Minh đã nêu một quan điểm lớn: Phải có
đức để đi đến cái trí. Vì khi đã có cái trí, thì cái đức chính là cái đảm bảo cho người
cách mạng giữ vững chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp nhận, đã đi theo. Đức là
gốc, nhưng đức và tài phải kết hợp, phải đi đôi, không thể có mặt này, thiếu mặt kia.
2.2 Vai trò của văn hoá:

Hồ Chí Minh từng nói đến “văn hoá soi đường cho quốc dân đi”, “phải đem văn hoá
lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ”, phải “xúc tiến công tácvăn
hoá để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc”.
Văn hoá như một động lực thúc đẩy các dân tộc đoàn kết và hiểu biết lẫn nhau. Với
nhận thức như vậy, bằng sự nỗ lực hoạt động không mệt mỏi trên mặt trận văn hoá
thông qua sách, báo, văn thơ... Hồ Chí Minh làm cho các dân tộc hiểu rõ bản chất của
chủ nghĩa thực dân ở các nước thuộc địa và con đường cách mạng chân chính cần phải
thực hiện. Trong Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Chí Công
nói: “Văn hoá là sợi dây có khả năng nối liền nhân dân các nước và các dân tộc… Sự
hiểu biết lẫn nhau, sự học tập và tôn trọng nhau xưa nay đều thể hiện sâu sắc qua văn
hoá, nơi tập trung những biểu hiện rực rỡ nhất của tâm huyết và sức sáng tạo của con
người”.
Hồ Chí Minh cho rằng, văn hoá có tác dụng “sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù hoa,
xa xỉ, sửa xã hội cũ, xây xã hội mới”. Văn hoá tạo sức mạnh để chiến thắng ngoại xâm
theo tinh thần “văn minh thắng bạo tàn”.Kinh tế nâng cao đời sống vật chất, còn văn
hoá có tác dụng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Nếu hiểu “văn hoá là tất cả những gì không phải thiên nhiên, nghĩa là tất cả những gì
do con người, ở trong con người và liên quan trực tiếp nhất đến con người” thì khi
chúng ta bàn tới con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là thể hiện rõ rệt nhất cả khái
niệm văn hoá, cả bản chất của văn hoá theo ý nghĩa vừa là động lực, vừa là mục tiêu
của sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây.
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”… Con người có đạo đức, trí tuệ, văn hoá,
sức khoẻ vừa là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là mục tiêu của sự nghiệp
cách mạng.
2.3 Vai trò của con người:

Kế thừa tinh hoa tư tưởng văn hóa dân tộc và nhân loại, tiếp thu, vận dụng, phát triển
một cách sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng về con người
lên một tầm cao mới, hình thành nên chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Vấn đề con
người trở thành mục tiêu thiêng liêng, cao cả nhất của công cuộc giải phóng và xây
dựng đất nước. Nó trở thành mục tiêu, lý tưởng, được tỏa sáng trong từng suy nghĩ, cử
chỉ, hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong quan điểm của Hồ Chí Minh con
người tồn tại không chỉ với tư cách là một cá nhân mà còn là thành viên của gia đình
và của cộng đồng. “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn.
Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”. Với cách hiểu này, con
người có tính xã hội, là con người xã hội và thành viên của một cộng đồng xã hội.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có con người chung chung trừu tượng mà là con
người cụ thể và gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Theo Hồ Chí Minh, con người là một chỉnh thể thống nhất bao gồm tâm, trí và lực.
Tất cả các mối quan hệ đó được con người thể hiện bằng tình yêu, lòng nhân ái, sự hi
sinh và sự hợp tác để phát triển con người toàn diện. Mỗi yếu tố đó có vai trò khác
nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng, tác động và là điều kiện cho nhau cùng
tồn tại. Hồ Chí Minh quan niệm, “Con người dù có xấu, tốt, văn minh hay dã man đều
có tình”, chữ tình phải hiểu theo nghĩa rộng là tình người, tình quốc gia, dân tộc. Hồ
Chí Minh rất coi trọng việc cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới trong điều
kiện đất nước đã giành được độc lập, tự do. Trên quan điểm duy vật mácxít, Hồ Chí
Minh khẳng định bản chất con người mang tính lịch sử - xã hội, con người vừa là sản
phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử, con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự
phát triển xã hội.
Từ việc đề cao vai trò của con người Hồ Chí Minh cho rằng, con người là vốn quý
nhất, động lực quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. “Trong bầu trời
không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân”. Do vậy, làm bất kỳ việc gì cũng phải có vai trò của nhân dân, nếu
không thì không thể nào làm được. Người cho rằng, “việc gì có quần chúng tham gia
bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt. Các đồng chí ở Quảng Bình
nói rất đúng: Dễ mười lần không dân cũng chịu; Khó trăm lần dân liệu cũng xong”.
Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất, tinh thần và giải quyết nhiều vấn đề
một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to
lớn, nghĩ mãi không ra. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật
cường và lực lượng nhân dân trong đấu tranh dựng nước, giữ nước và phát triển đất
nước, nhân dân có vai trò quyết định đến sự thành công của cách mạng.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGÀY NAY VÀ CÁCH XÂY DỰNG


VĂN HOÁ ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1. Thực trạng hiện nay:
1.1 Các cán bộ có hành vi tham nhũng:
Báo cáo nêu rõ trong 10 năm qua, riêng Ban Chỉ đạo trung ương về phòng chống tham
nhũng, tiêu cực đã đưa 977 vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, phức
tạp, dư luận xã hội quan tâm vào diện theo dõi, chỉ đạo ở 3 cấp độ.
Trong đó, Ban Chỉ đạo trực tiếp theo dõi, chỉ đạo 180 vụ án, 133 vụ việc, các cơ quan
chức năng đã kết thúc điều tra, truy tố, xét sơ thẩm 120 vụ án/1.083 bị cáo với mức án
rất nghiêm khắc gồm tuyên phạt 10 bị cáo với 11 án tử hình, 25 bị cáo với 26 án tù
chung thân, 13 bị cáo 30 năm tù, 28 bị cáo từ 20 đến dưới 30 năm tù…
Trong số này có 37 bị can, bị cáo nguyên là cán bộ thuộc diện trung ương quản lý. Cụ
thể, nhiệm kỳ XII có 18 cán bộ, từ đầu nhiệm kỳ XIII đến nay là 21 cán bộ (có 2
trường hợp đã xử lý hình sự trong nhiệm kỳ XII, bị khởi tố thêm tội danh mới trong
nhiệm kỳ XIII).
Bao gồm 1 cựu ủy viên Bộ Chính trị, 10 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng.
Về chức vụ trong Đảng, chính quyền có 6 bộ trưởng, nguyên bộ trưởng; 2 bí thư tỉnh
ủy, thành ủy; 8 chủ tịch, nguyên chủ tịch tỉnh, thành phố; 11 thứ trưởng, nguyên thứ
trưởng; 2 phó bí thư, nguyên phó bí thư tỉnh ủy; 13 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng
vũ trang (có 3 sĩ quan cấp tướng nguyên là thứ trưởng).
Cụ thể:
- 1 cựu ủy viên Bộ Chính trị là ông Đinh La Thăng (cựu bí thư Thành ủy
TP.HCM, cựu bộ trưởng Bộ GTVT, cựu chủ tịch Tập đoàn PVN).
- 10 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng:Trương Minh Tuấn (cựu bộ
trưởng Bộ Thông tin và truyền thông), Nguyễn Bắc Son (cựu bộ trưởng Bộ
Thông tin và truyền thông); Nguyễn Đức Chung (cựu chủ tịch UBND TP
Hà Nội); Nguyễn Văn Hiến (cựu thứ trưởng Bộ Quốc phòng);
- Trần Văn Minh (cựu chủ tịch UBND TP Đà Nẵng); Vũ Huy Hoàng (cựu bộ
trưởng Bộ Công thương); Tất Thành Cang (cựu phó bí thư Thành ủy
TP.HCM); Trần Văn Nam (cựu bí thư Tỉnh ủy Bình Dương); Nguyễn
Thanh Long (cựu bộ trưởng Bộ Y tế); Chu Ngọc Anh (cựu chủ tịch UBND
TP Hà Nội, cựu bộ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ).
- 3 sĩ quan cấp tướng nguyên là thứ trưởng:Nguyễn Văn Hiến (cựu đô đốc,
cựu thứ trưởng Bộ Quốc phòng); Bùi Văn Thành (cựu trung tướng) và Trần
Việt Tân (cựu thượng tướng) đều là cựu thứ trưởng Bộ Công an.
- 10 sĩ quan cấp tướng khác bị xử lý hình sự:Phan Văn Vĩnh (cựu trung
tướng, cựu tổng cục trưởng, Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an); Nguyễn
Thanh Hóa (cựu thiếu tướng, cựu cục trưởng Cục Cảnh sát phòng chống
tội phạm sử dụng công nghệ cao); Phan Hữu Tuấn (cựu trung tướng, cựu
phó tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo);
- Nguyễn Văn Sơn (cựu trung tướng, cựu tư lệnh Cảnh sát biển); Hoàng Văn
Đồng (cựu trung tướng, cựu chính ủy Cảnh sát biển); Doãn Bảo Quyết (cựu
thiếu tướng, cựu phó chính ủy Cảnh sát biển); Phan Kim Hậu (cựu thiếu
tướng, cựu phó tư lệnh, tham mưu trưởng Cảnh sát biển); Bùi Trung Dũng
(cựu thiếu tướng, cựu phó tư lệnh Cảnh sát biển); Lê Xuân Thanh (cựu
thiếu tướng, cựu tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 3); Lê Văn Minh (cựu thiếu
tướng, cựu tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 4).
- 8 chủ tịch, nguyên chủ tịch UBND tỉnh, thành phố: Nguyễn Đức Chung
(cựu chủ tịch UBND TP Hà Nội); Trần Văn Minh, Văn Hữu Chiến (đều là
cựu chủ tịch UBND TP Đà Nẵng); Nguyễn Chiến Thắng, Lê Đức Vinh (đều
là cựu chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa); Trần Thanh Liêm (cựu chủ tịch
UBND tỉnh Bình Dương); Nguyễn Ngọc Hai (cựu chủ tịch UBND tỉnh
Bình Thuận); Chu Ngọc Anh (cựu chủ tịch UBND TP Hà Nội).
- 11 thứ trưởng, nguyên thứ trưởng: Trương Quốc Cường (cựu thứ trưởng Bộ
Y tế); Cao Minh Quang (cựu thứ trưởng Bộ Y tế); Lê Bạch Hồng (cựu thứ
trưởng Bộ Lao động - thương binh và xã hội); Tô Anh Dũng (cựu thứ
trưởng Bộ Ngoại giao); Nguyễn Văn Hiến (cựu thứ trưởng Bộ Quốc
phòng); Trần Việt Tân (cựu thứ trưởng Bộ Công an); Bùi Văn Thành (cựu
thứ trưởng Bộ Công an);
- Nguyễn Hồng Trường (cựu thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải); Phạm Công
Tạc (cựu thứ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ); Hồ Thị Kim Thoa (cựu
thứ trưởng Bộ Công thương); Đặng Thanh Bình (cựu phó thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam).
- 2 phó bí thư, nguyên phó bí thư: Tất Thành Cang (cựu phó bí thư Thành ủy
TP.HCM); Phạm Văn Cành (cựu phó bí thư Tỉnh ủy Bình Dương).
- Kỷ luật hơn 170 cán bộ diện trung ương quản lý
Cũng theo thống kê, từ ngày 1-7-2012 đến 31-3-2022, qua kiểm tra, giám sát, cấp ủy,
ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.741 tổ chức Đảng, 167.748 đảng
viên. Trong số này có 7.393 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái.
Ban Chấp hành trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra trung ương và
cấp ủy có thẩm quyền đã thi hành kỷ luật hơn 170 cán bộ diện trung ương quản lý.
Trong đó, 33 người là ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng gồm 4 ủy viên,
nguyên ủy viên Bộ Chính trị, 10 ủy viên Trung ương Đảng đương nhiệm, 19 nguyên
ủy viên Trung ương Đảng.
Bên cạnh đó là hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang.
Riêng từ sau Đại hội XIII của Đảng đến nay đã thi hành kỷ luật 50 cán bộ diện trung
ương quản lý, trong đó có 8 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, 20 sĩ quan cấp
tướng trong lực lượng vũ trang.
Từ trái qua, trên xuống: các ông Đinh La Thăng, Nguyễn Bắc Son, Trương Minh
Tuấn, Trần Văn Minh Vũ Huy Hoàng, Nguyễn Văn Hiến, Nguyễn Đức Chung, Tất
Thành Cang đã bị xử lý hình sự
Các cán bộ cảnh sát giao thông có hành vi nhận hối lộ của người vi phạm
Theo Viện Kiểm soát Nhân Dân , cơ quan điều tra xác định có trên 200 chủ xe, tài xế
chở hàng trên các quốc lộ đã móc nối với những người trên để chuyển tiền vào tài
khoản, với "mục đích hối lộ cảnh sát giao thông bỏ qua không kiểm tra, xử lý vi phạm
với người và xe vi phạm luật giao thông trên các tuyến quốc lộ qua địa bàn tỉnh Đồng
Nai".
Cơ quan điều tra xác định Trần Quang Tân - tài xế riêng của cựu trưởng trạm cảnh sát
giao thông Suối Tre - đã nhận tiền từ Trương Công Quang (Quang lấy tiền từ chủ xe,
tài xế) gần 1,6 tỉ đồng "để hối lộ cảnh sát giao thông".Tổng số tiền đã nhận từ các lái
xe khoảng 220 triệu đồng, với mục đích hối lộ cảnh sát giao thông để bỏ qua, không
kiểm tra, xử lý vi phạm của người và xe.
Ngày 11-5, TAND TP Hà Nội mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án đối với nhóm
nguyên cán bộ Thanh tra Giao thông tại Hà Nội "bảo kê" phương tiện vi phạm và
nhận tiền hối lộ.

Vụ án này gồm 7 bị cáo, trong đó 3 bị cáo là Nguyễn Ánh Hào; Lê Văn Cường
(nguyên cán bộ Chi cục Quản lý đường bộ I.6, thuộc Cục Quản lý đường bộ I - Tổng
cục Đường bộ Việt Nam); Phạm Văn Vinh (nguyên Tổng Giám đốc Công ty CP Đầu
tư thương mại và vận tải Tuấn Vinh) cùng bị truy tố về tội "Đưa hối lộ".

Các bị cáo còn lại là Lê Bá Dũng (nguyên cán bộ Đội thanh tra giao thông vận tải
quận Hoàng Mai, Hà Nội); Trần Sỹ Cương (nguyên cán bộ Đội Thanh tra cơ động
thuộc Thanh tra Sở Giao thông vận tải Hà Nội); Nguyễn Quốc Cương (nguyên cán bộ
Đội thanh tra giao thông vận tải quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) và Hoàng Văn Lân
(nguyên cán bộ Đội thanh tra vận tải huyện Phú Xuyên, Hà Nội) đều bị truy tố về tội
"Nhận hối lộ".

Trong hơn 2 năm (từ tháng 6-2016 đến tháng 10-2018), các bị cáo đã thu được tổng
cộng hơn 6,2 tỉ đồng để hối lộ. Trong đó, Lê Bá Dũng đã nhận 96 triệu đồng, Nguyễn
Quốc Cương nhận 63 triệu đồng, Trần Sỹ Cương nhận 136 triệu đồng, Hoàng Văn
Lân nhận 11 triệu đồng để bỏ qua lỗi vi phạm hoặc xử phạt lỗi nhẹ hơn so với thực tế
vi phạm

1.2 Đạo đức trong học sinh, sinh viên:

Một số biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống trong một số bộ phận học sinh, sinh
viên hiện nay là: Thiếu lý tưởng, không có động lực phấn đấu cụ thể và rõ ràng cho
bản 0thân; Thói dối trá, không trung thực, không tuân theo những chuẩn mực đạo đức
mà xã hội quy định; Không chuyên tâm vào việc nâng cao năng lực trình độ bản thân,
có ý ỷ lại người khác; Không chịu rèn luyện, cống hiến, lao động mà chỉ muốn sung
sướng.
Vấn đề này càng trở nên nghiêm trọng khi có thể thấy tình trạng giới trẻ hiện
nay sống rất buông thả bản thân, không biết coi trọng những giá trị đạo đức; tình trạng
thanh thiếu niên phạm tội ngày càng tăng, lôi kéo khích bác để đánh nhau,
thậm chí hành hung cả thầy cô giáo; rồi con giết cha, anh giết em; trẻ vị thành niên
cũng gây ra nhiều vụ án mạng…., nhưng thực tế thì còn nhiều hơn nữa. Không những
thế tình trạng bạo lực học đường, đặc biệt hiện tượng nữ sinh đánh nhau cũng có xu
hướng gia tăng gây hệ lụy cho bản thân và gia đình; tình trạng sống thử và quan hệ
tình dục trước hôn nhân của sinh viên hiện nay ngày càng tăng cao, coi như việc đấy
là một điều hiển nhiên và bình thường dẫn đến thực trạng nạo phá thai rất đáng lo
ngại. Theo thống kê, tại Việt Nam có khoảng 300.000 ca nạo phá thai mỗi năm trong
số này có 30% bé gái từ 15-19 tuổi với 70% là học sinh sinh viên

Một số đông bạn trẻ đang có xu hướng chạy theo vòng xoáy của “văn hóa tốc độ”. Từ
những sách báo không lành mạnh, đến những băng đĩa phim người lớn được trao cho
nhau một cách dễ dàng, từ những quán karaoke buổi tối đến những vũ trường, quán
Bar thâu đêm, đến những ngôi nhà nghỉ. Chính tình trạng trên đã đưa giới trẻ chúng ta
vào con đường tội lỗi, nhúng sâu vào vũng lầy của cám dỗ. Vì thế không ít một số bạn
trẻ đã lao vào con đường ăn chơi nghiện ngập dẫn đến HIV và các bệnh khác.
Có thể thấy ở các bạn trẻ nói chung và các bạn học sinh sinh viên thời nay đa số đều
có “sự thiếu gương mẫu, thiếu trung thực” trong công việc, “nói không đi đôi với
làm” do sự mộng tưởng của đại đa số các bạn hiện nay, “nói một đằng, làm một nẻo”,
“nói nhiều làm ít” đã có ảnh hưởng rất xấu đối với giới trẻ.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của các trang mạng xã hội hiện nay, vì những
lượt xem lượt thích vô nghĩa. Họ có thể cắt ghép video, đăng bài xuyên tạc một cá
nhân hay một tổ chức nào đó: thậm chí là quay lén vì chỉ để bản thân “hot” trên các
mạng xã hội mà quên mất hệ lụy gây ra sau đó ảnh hưởng đến những cá nhân, những
tập thể đó lớn nhường nào.
1.3 Đạo đức trong xã hội:
- Đạo đức trong xã hội là yếu tố quan trọng giúp duy trì trật tự và sự hoà hợp giữa con
người. Đạo đức giáo dục lòng nhân ái, trung thực, và tự quản lý.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong xã hội khuyến khích đối xử công bằng, tôn
trọng người khác, và trân trọng giáo dục và lao động. Là bao gồm lòng yêu thương
con người, trung thực, kiên trì, và quyết tâm xây dựng một xã hội công bằng và tiến
bộ. tôn trọng con người, xây dựng sự công bằng, và khuyến khích lòng yêu thương và
trách nhiệm đối với cộng đồng. Tư tưởng Hồ Chí Minh lấy đạo đức làm nền tảng,
khuyến khích tinh thần trách nhiệm, lòng yêu thương con người, và sự công bằng
trong xã hội.
2. Cách xây dựng văn hoá đạo đức con người theo tư tương Hồ Chí Minh:
Qua 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định trong việc xây
dựng văn hóa, đạo đức, con người. Tuy nhiên, việc xây dựng văn hóa, đạo đức con
người. Tuy nhiên, việc xây dựng văn hóa, đạo đức, con người còn nhiều khuyết điểm.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: "Văn hóa chưa được quan
tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực
nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hóa trong xây dựng con
người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí
đơn thuần... Môi trường văn hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội,
tham nhũng, tiêu cực. Chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền còn lớn;
đời sống văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó
khăn". Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và
trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Do đó, phải chú trọng hơn nữa việc xây dựng
văn hóa, đạo đức, con người để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong
giai đoạn hiện nay.

2.1. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người:


Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về xây dựng
và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (7/1998) nêu những
quan điểm chỉ đạo cơ bản: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nền văn hóa mà chúng ta xây
dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; thống nhất mà đa dạng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam; xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của
toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; văn hóa là
một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi
hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sụng,
phát triển năm 2011) khẳng định phải xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc
tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ. Làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu
vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội
sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt
đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân
loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và
phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao.
Phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; khẳng định và biểu
dương các giá trị chân, thiện, mỹ, phê phán những cái lỗi thời, thấp kém, đấu tranh
chống những biểu hiện phản văn hóa. Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do
sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, đồng bộ, hiện
đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Theo tinh thần các nghị quyết của Đảng, chúng ta phải nhận thức sâu sắc, đúng đắn,
đầy đủ vai trò, sứ mệnh của văn hóa đối với sự phát triển bền vững. Mỗi bước phát
triển của đất nước đều có dấu ấn và sự khai sáng của văn hóa; cần phải nhận thức
những yếu tố bản chất của văn hóa như văn hóa gắn với con người, phản ánh những
mặt căn cốt như tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách, tâm hồn, cách ứng xử. Văn
hóa còn thì chế độ còn, văn hóa mất thì chế độ mất; không gì đáng sợ bằng văn hóa
lâm nguy. Phát triển nền văn hóa toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu
sắc tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ
và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức
mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Muôn việc thành công hay thất bại của cá
nhân, tổ chức, cộng đồng, đất nước đều do có văn hóa hay tha hóa về văn hóa. Tập
trung xây dựng văn hóa chính trị và các lĩnh vực văn hóa khác như văn hóa bổn phận,
văn hóa công bộc, văn hóa ứng xứ, văn hóa phê bình... Nhận thức và giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội
Về xây dựng con người Việt Nam, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
khóa VIII (tháng 7/1998) nêu nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam với những hệ
giá trị chung thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đó
là con người có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn
kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và chủ nghĩa xã hội. Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. Có lối
sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ
cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường
sinh thái. Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng
suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) khẳng định: "Con người là trung tâm của chiến lược phát triển,
đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con
người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân"!.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Nghị quyết số 33-
NQ/TW ngày 9/6/2014) và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng định hướng: "Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người
Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ
Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi
trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự
hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, tài năng, trí
tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển
quan trọng nhất của đất nước". Đại hội XII nêu các nhiệm vụ cụ thể:
1) Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện là mục tiêu của chiến lược phát
triển. Tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng
lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ
pháp luật. Đấu tranh phê phán đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu, chống các
quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm
tha hóa con người.
2) Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng môi trường văn
hóa trong hệ thống chính trị, trong các địa phương, làng bản.. Thực hiện chiến lược
phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm,
tiến bộ, hạnh phúc, văn minh.
3) Xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế. Chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa
trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và các đoàn thể, coi đây là nhân tố quan trọng
để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
4) Nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa.
5) Làm tốt công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, xuất bản.
6) Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ
và sản phẩm văn hóa.
7) Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
8) Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa.

2.2. Xây dựng đạo đức cách mạng:


Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của bậc "đại nhân, đại trí, đại dũng", của một vĩ
nhân, một lãnh tụ cách mạng, một người cộng sản ưu tú; đồng thời, cũng là đạo đức
của một người chân chính, bình thường, gần gũi ai cũng có thể học tập và làm theo để
trở thành người cách mạng, người công dân tốt hơn. Hồ Chí Minh "là tấm gương sáng,
là hiện thân của nền đạo đức cách mạng Việt Nam, mãi mãi là ngọn đèn pha chiếu rọi
con đường rèn luyện, phấn đấu để trở nên "tốt" hơn, đạt đến "chân thiện mỹ" của con
người Việt Nam ngày nay và mai sau".
Xuất phát từ bản chất con người luôn có khát vọng hướng tới chân, thiện, mỹ nhằm
hoàn thiện bản thân, để vươn tới sự hoàn thiện, trước hết con người phải tự tu dưỡng
hoàn thiện mình về đạo đức. Hồ Chí Minh cho rằng, đối với các dân tộc phương Đông
vốn giàu tình cảm, trọng đạo lý, việc tu dưỡng đạo đức của mỗi cá nhân, mỗi con
người có vai trò vô cùng quan trọng. Đạo đức là yếu tố cơ bản của nhân cách tạo nên
giá trị con người, vì vậy ai cũng phải tu dưỡng hoàn thiện mình về đạo đức. Chính vì
vậy, Hồ Chí Minh thường xuyên chú trọng quan tâm giáo dục đạo đức, chăm lo rèn
luyện đạo đức cho sinh viên.
Người hằng mong muốn: "Thanh niên phải có đức, có tài".
Trong sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số tác động của kinh tế tri
thức, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,... một nền đạo đức mới đang hình
thành, là nguồn động lực quan trọng của sự nghiệp phát triển đất nước.
Nhờ đó, con người Việt Nam, trong đó có phần lớn sinh viên, thanh niên trí thức vẫn
giữ được lối sống nhân hậu, tình nghĩa, trong sạch, lành mạnh; khiêm tốn, luôn cần cù
và sáng tạo trong học tập, nghiên cứu khoa học, có chí lập thân, lập nghiệp, năng
động, nhạy bén, dám đối mặt với những khó khăn, thách thức, dám chịu trách nhiệm,
không ỷ lại; sống có bản lĩnh, luôn gắn bó với nhân dân,
đồng hành cùng dân tộc, phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
Song bên cạnh đó còn có những biểu hiện tiêu cực, đó là: "Tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng"! "Tội
phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp
nghiêm trọng...
kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm" "Giáo dục "làm người", đạo đức, lối sống còn bị xem
nhẹ. Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế, xã hội". Một bộ phận sinh viên phai nhạt niềm tin, lý tưởng, mất phương
hướng phấn đấu, không có chí lập thân, lập nghiệp; chạy theo lối sống thực dụng,
thiếu trách nhiệm, thờ ơ với gia đình và xã hội, sa vào hàng loạt tiêu cực. Do đó, cần
phải tiếp tục đẩy mạnh việc học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Học tập đạo đức Hồ Chí Minh là phải có đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân,
kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan
dung và nhân hậu với con người. Phải có tình thương yêu đối với con người. Tình
thương đó gắn liền với niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh và trí tuệ của nhân dân.
Hồ Chí Minh luôn dạy cán bộ, đảng viên việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ, cũng phải hết
sức làm, việc gì có hại cho dân, dù nhỏ, cũng phải hết sức tránh; phải gần dân, hiểu
dân, phải học dân, kính trọng nhân dân; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Người
phê phán quyết liệt đầu óc "quan cách mạng" và tự mình thường xuyên đi xuống cơ sở
để tìm hiểu "lắng nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người không
quan trọng". Là người có uy tín rất cao và sức hấp dẫn rất lớn, song không bao giờ Hồ
Chí Minh đặt mình cao hơn nhân dân, chỉ tâm niệm suốt đời là công bộc của nhân
dân, "cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận".
Lòng nhân ái, khoan dung, nhân hậu của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ đại nghĩa của dân
tộc, nên có sức mạnh và cảm hóa to lớn trong việc xây dựng và tái tạo lương tri. Ở Hồ
Chí Minh, thương người là một tình cảm lớn, sâu sắc.
Học tập đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh còn là học tập và làm theo tấm gương
về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để
đạt được mục đích cuộc sống. Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới. Người đã trải qua một cuộc đời oanh
liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và
đẹp đẽ. Học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh là học tập đức tính bình tĩnh, kiên
cường, chủ động vượt qua thử thách, gian nguy, kiên trì mục đích cuộc sống, bảo vệ
chân lý, giữ vững quan điểm cách mạng của mình: “Muốn nên sự nghiệp lớn, Tinh
thần càng phải cao”
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là học tấm gương về chủ nghĩa yêu nước kết
hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Hồ Chí Minh chẳng những là một nhà
yêu nước vĩ đại, mà còn là một chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản quốc tế
và phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX. Hồ Chí Minh thường dạy chúng ta
phải chăm lo bảo vệ sự đoàn kết quốc tế, vì sự nghiệp của cách mạng Việt Nam, vì
nghĩa vụ cao cả đối với cách mạng thế giới. Do vậy, sinh viên rất cần phải học tập
phẩm chất đạo đức kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế trong
sáng.
Thanh niên, sinh viên phải ra sức trau dồi đạo đức trở thành những con người làm chủ
đất nước, đoàn kết nhất trí, làm tròn nghĩa vụ cao cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì
hạnh phúc của nhân dân, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân
thế giới.
Sinh viên Việt Nam quyết tâm học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của
Hồ Chí Minh, thi đua học tập, rèn luyện, vì ngày mai lập nghiệp, xây dựng đất nước
giàu mạnh, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu như Hồ Chí Minh hằng
mong muốn.
3/ Kết luận:

Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối
sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn
kết, cần cù, sáng tạo. Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai
trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy
đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển. Xây dựng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam hiện đại là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo.

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm: “vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người”. “Trồng người”, xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa phải được chú trọng trong suốt cuộc đời con người, suốt quá trình đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta và phải đạt được những kết quả cụ thể qua từng chặng đường
của thời kỳ quá độ.

You might also like