Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 103

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA NGỮ VĂN




HỌC PHẦN
DẠY HỌC TIẾP NHẬN VĂN BẢN Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC THEO ĐẶC TRƯNG LOẠI THỂ

TIỂU LUẬN GIỮA KÌ


ĐẶC TRƯNG CÁC THỂ LOẠI CÓ TRONG
CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 2018

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THẦY NGUYỄN PHƯỚC BẢO KHÔI


NHÓM THỰC HIỆN: MÂY
Tên nhóm: Mây
Thành viên nhóm:
1. Lê Nguyễn Quỳnh Dung ................................................................................. 42.01.606.009
2. Nguyễn Thị Thùy Dương .............................................................................. 42.01.606.012
3. Phạm Minh Kha ................................................................................................. 42.01.606.023
4. Nguyễn Ngọc Phương Linh .......................................................................... 42.01.606.029
5. Hoàng Thị Yến ................................................................................................... 42.01.606.100
LỚP 6
ĐỊNH NGHĨA/KHÁI MỘT SỐ TÁC
THỂ LOẠI PHÂN LOẠI (NẾU CÓ) ĐẶC ĐIỂM (BÁM SÁT YÊU CẦU CẦN ĐẠT) ĐẶC SẮC RIÊNG
NIỆM PHẨM TIÊU BIỂU

Theo “Từ điển văn học Có nhiều cách để phân Nhận biết được một số yếu tố của truyền - Thời gian: Theo “Văn học dân - “Con rồng cháu
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu loại truyền thuyết: thuyết như: gian Việt Nam”, Lê Chí Quế (chủ tiên”
(chủ biên), tr. 1835: - Căn cứ vào nội dung - Cốt truyện: Theo “Văn học dân gian Việt biên). Nếu như thời gian trong - “Bánh chưng, bánh
“Truyền thuyết là khái của thời kì lịch sử Nam”, Lê Chí Quế (chủ biên). Cốt truyện của thần thoại là buổi hồng hoang, khi giầy”
niệm chỉ một nhóm được truyền thuyết truyền thuyết đơn giản, ít tình tiết, Kết cấu của trời đất chưa phân chia, con - “Sơn Tinh, Thủy
những sáng tác dân gian phản ánh: truyền thuyết gần giống kết cấu của thần thoại, người chưa đông đúc, thời gian Tinh”
mà đặc điểm chung là + Truyền thuyết về cổ tích là kết cấu trực tuyến, không có đồng hiện trong truyện cổ tích là thời quá - “Sự tích Hồ Gươm”
trong đó có các yếu tố kì “Họ Hồng Bàng” và và sự quay trở lại. Sự việc trong truyền thuyết khứ phiếm định “ngày xửa, ngày
diệu, huyễn tưởng, thời kì Văn Lang - Âu không đầy đủ chi tiết như trong sử biên niên. xưa”, thì thời gian trong truyền
nhưng lại được cảm Lạc. Phần giới thiệu lai lịch nhân vật và kết cục cuộc thuyết là thời gian quá khứ - xác
nhận là xác thực, diễn ra + Truyền thuyết về đời thường được hư cấu kỳ diệu: Đinh Bộ Lĩnh định. Truyền thuyết nào cũng kể
ở ranh giới giữa thời thời Bắc thuộc. là con của Rái Cá, Bà Trưng mất một cách đột về chuyện đã xảy ra rồi và vào
gian lịch sử và thời gian + Truyền thuyết thời ngột sau đêm ngủ say và hồn bay lên trời làm một thời kỳ lịch sử nhất định nào
thần thoại, hoặc diễn ra phong kiến tự chủ. phúc thần, tạo nên mưa thuận gió hòa cho hạ đó (Vào thời đại Hùng Vương,
TRUYỀN
ở thời gian lịch sử.” + Truyền thuyết thời kì giới. cách đây 4000 năm, vào thời An
THUYẾT
cận hiện đại. - Nhân vật: Cảm quan lịch sử đã chi phối nghệ Dương Vương cách đây trên 2000
- Căn cứ vào đề tài thì thuật xây dựng hình tượng truyền thuyết. Các năm, vào thời Hai Bà Trưng thế
có nhiều nhóm theo nhân vật dù có là hư cấu hay là nhân vật lịch sử kỷ thứ I, Bà Triệu thế kỷ thứ III, Lê
“Từ điển văn học (bộ thì cũng đều có tên tuổi, gốc gác nói chung là có Lợi thế kỷ thứ XV...).
mới)”, Đỗ Đức Hiểu một lý lịch rõ ràng gắn với địa phương hay thời - Chứa đựng một số motif mang
(chủ biên), tr.1836) đại. Truyền thuyết được sáng tạo trong suốt nội dung tô tem, tôn giáo, kì ảo:
cho rằng: chiều dài lịch sử dân tộc, vì vậy ở mỗi giai đoạn Nhân quả báo ứng, Tiên xuống
+ Nhóm truyền thuyết lịch sử khác nhau, các nhân vật lại được sáng phàm, Sự sinh nở kì lạ...
về chống ngoại xâm tạo dưới sự chi phối khác nhau của quan niệm
(truyền thuyết về các thẩm mĩ nhân dân. Càng về những giai đoạn lịch
nhân vật lịch sử như sử sau này, các nhân vật truyền thuyết càng gần
Hai Bà Trưng, bà gũi với hiện thực, ít bị chi phối bởi những yếu tố
Triệu…). kì ảo. VD: ở truyện Bà áo the (thời bắc thuộc) có
chi tiết bà cởi chiếc áo thần kỳ của mình cho

1
+ Nhóm truyền thuyết quân giặc mặc vào, chiếc áo lập tức thắt chặt
về các nhân vật có quân thù đến chết. Đến truyện về nàng Ả Đào
công tích văn hóa hoặc (thời Lê Lợi) kể nàng có giọng hát hay, chinh
những tổ nghề (VD: phục được lòng tin của giặc được chúng giao
truyền thuyết sư cho thắt dây các miệng túi vải tránh muỗi khi
Khổng lồ đúc chuông). chúng ngủ trong đó, nàng đã báo cho trai tráng
+ Truyền thuyết về trong thôn đến khiêng các túi ấy vứt ra sông…
những anh hùng thảo
dã (Chàng Lía, Quận
He…).
Theo “Từ điển văn học Theo “Từ điển văn học Nhận biết được một số yếu tố của truyện cổ - Thời gian: Theo “Dẫn luận thi - “Sọ Dừa”
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu (bộ mới)”, Đỗ Đức tích như: pháp học”, Trần Đình Sử, tr. 71”. - “Em bé thông
(chủ biên), tr. 1840”: Hiểu (chủ biên), tr. - Cốt truyện: Theo “Từ điển văn học (bộ mới)”, Thời gian trong truyện cổ tích là minh”
“truyện cổ tích là một 1841”, truyện cổ tích Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), tr. 1841”, thời gian một chiều, từ thắt nút - “Cô bé bán diêm”
trong những thể loại văn được phân thành ba + Truyện cổ tích thần kì: Lấy cốt truyện là đến mở nút và không có việc quay (H. Andersen)
học dân gian quan trọng loại: những truyền thuyết thần bí, kỳ quái, những ngược về quá khứ. Thời gian
và được phổ biến rộng + Truyện cổ tích loài truyện người, truyện vật nhưng bên trong đầy trong truyện cổ tích không ra
rãi. Khái niệm truyện cổ vật. dẫy những sự can thiệp của huyền diệu đều có khỏi phạm vi của truyện, không
tích có một nội dung khá + Truyện cổ tích thần thể xem là cổ tích thần kỳ. Truyện cổ tích thần có thời gian xảy ra trước và cũng
rộng, thường dùng để kì. kỳ còn có một phần là tàn dư của những tưởng không có gì chờ đợi sau khi hết
chỉ nhiều loại truyện + Truyện cổ tích hiện tượng gắn liền với mê tín, ma thuật, đồng bóng, chuyện. Nó cũng không có vị trí
khác nhau về đề tài và cả thực (có người gọi là và các hình thức tôn giáo của con người nguyên trong thời gian lịch sử. Nó chỉ có :
CỔ TÍCH về phương pháp sáng truyện cổ tích thế sự thủy. Tác giả loại truyện này nhiều khi đã dùng “Ngày xửa, ngày xưa…” “Ngày ấy
tác.” hay truyện cổ tích sinh những lực lượng siêu tự nhiên để thắt nút, mở có một người…”. Nếu thời gian
Theo Wikipedia: “là một hoạt). nút câu chuyện mà không cần biết có hợp lý hay trong truyện cổ tích có liên hệ với
thể loại văn học được tự không. lịch sử thì đó cũng là người đời
sự dân gian sáng tác có + Truyện cổ tích thế sự: có cốt truyện là những sau liên hệ hoặc đặt ra. Thời gian
xu thế hư cấu. Đây là loại truyện không có hoặc có rất ít nhân tố ảo tưởng. như vậy mang tính kép của không
truyện ngắn, chủ yếu kể Đây là những chuyện bịa nhưng rất “gần đời gian cổ tích.
về các nhân vật dân gian thiết thực”; chúng giữ được khá nguyên vẹn sắc - Không gian: Theo “Giáo trình
hư cấu, như tiên, yêu thái, âm hưởng, thậm chí, đôi khi cả những hình dẫn luận thi pháp học”, Trần Đình
tinh, thần tiên, quỷ, thức diễn biến chủ yếu của muôn nghìn câu Sử, tr.84. Không gian trong
người lùn, người khổng chuyện vẫn xảy ra trong cuộc sống đa dạng của truyện cổ tích được mở rộng tới
lồ, người cá, hay thần giữ xã hội loài người. vô hạn, nhưng luôn gắn với hành
động của con người, hành động

2
của, và thường là có + Truyện cổ tích loài vật: cốt truyện là sự kết tới đâu không gian tới đó, nhưng
phép thuật, hay bùa mê.” hợp những điều quan sát thực về các con vật với không gian này không có quan hệ
trí tưởng tượng nhân cách hóa giới tự nhiên với không gian thực tại. Đó là
theo cách mượn truyện loài vật để nói về xã hội không gian khép kín.
loài người. - Chứa đựng một số motif mang
- Nhân vật: Theo “Dẫn luận thi pháp học”, Đỗ nội dung tô tem, tôn giáo, kì ảo:
Đức Hiểu (chủ biên), tr.5. Con người trong Nhân quả báo ứng, Tiên xuống
truyện cổ tích là con người của những số phận phàm, Sự sinh nở kì lạ...
cá nhân. Con người cổ tích giảm sút nhiều về
tính thần kì, toàn năng của các thần. Năng lực
của họ dồn vào vật thần kì, một vật trung gian
mà người ta có thể cho, giành lấy hoặc đánh
mất. Nhìn chung người tốt trong truyện cổ tích
là người làm tròn bổn phận, thực hiện lời hứa.
Người ác thì phá hoại lẽ công bằng, cướp công.
Con người cổ tích chưa có hoạt động nội tâm
hoặc nội tâm không phát triển. Tâm lí nhân vật
phải rất đơn giản thì hành động gây hại hay trả
thù mới thực hiện được chóng vánh và dễ dàng.
Theo từ điển “Viện Ngôn Nhận biết được một số yếu tố của truyện “Dế Mèn phiêu lưu
ngữ học”, Hoàng Phê đồng thoại như: kí”
(chủ biên), tr.344, xem - Cốt truyện:Có rất nhiều ý kiến đồng nhất cổ
đồng thoại là một thể tích và đồng thoại. Do vậy cốt truyện cổ tích và
loại văn học: “Đồng đồng thoại là giống nhau chỉ nhân vật là làm
thoại: thể truyện cho trẻ nên sự khác biệt. Cốt truyện đồng thoại đều là
em, trong đó loài vật và những cốt truyện đơn giản nhưng chủ yếu đề
ĐỒNG các vật vô tri được nhân cập đến câu chuyện của những loài vật được
THOẠI cách hóa, tạo nên một nhân cách hóa.
thế giới thần kì thích - Nhân vật: Có ba kiểu nhân vật được sử dụng:
hợp với trí tưởng tượng Có thể sử dụ ng hình tượng nhân vạ t thà n kì,
của các em” thà n tiên, ma quỷ …; Sử dụ ng hình thức nhân
Trong “Giáo trình Văn cá ch hó a loà i vạ t, đò vạ t và những vạ t vô tri
học”, Cao Đức Tiến- Đinh khá c. Hình thức nà y được ghi nhạ n là rá t phỏ
Thị Hương (biên soạn bié n trong đò ng thoạ i hiẹ n đạ i; Hoặc lá y con
theo chương trình Dự án người bình thường là m nhân vạ t chính.

3
phát triển giáo viên tiểu
học của Bộ Giáo dục và
Đào tạo), tr.21 định
nghĩa: “Truyện đồng
thoại: là sáng tác của các
nhà văn hiện đại, sử
dụng nghệ thuật nhân
hóa loài vật để kể chuyện
về con người, đặc biệt là
trẻ em, vì vậy nhân vật
chủ yếu là loài vật.”
Theo “Lí luận văn học”, Truyện ngắn trung Nhận biết và phân tích được đặc điểm nhân - Cốt truyện: Theo “Từ điển văn - “Bức tranh của em
Trần Đình Sử, tr. 397”: đại: là một khái niệm vật thể hiện qua hình dáng, cử chỉ, hành học (bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu (chủ gái tôi” (Tạ Duy
“Truyện ngắn là hình tương đối, của khoa động, ngôn ngữ, ý nghĩ của nhân vật: biên), tr.1847. Cốt truyện của Anh)
thức ngắn của tự sự.” nghiên cứu văn học - Nhận biết và phân tích đặc điểm nhân vật: truyện ngắn thường tự giới hạn - “Vượt thác” (Võ
Theo “Từ điển văn học hiện đại áp dụng cho Theo “Lí luận văn học”, Trần Đình Sử, tr. 398”, về thời gian, không gian; nó có Quảng)
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu thực tế văn học thời Khác với tiểu thuyết nhân vật trong truyện ngắn chức năng nhận ra một điều gì
(chủ biên), tr. 1846”: trung đại. Thời trung thường là một mảng nhỏ của thế giới. Nhân vật sâu sắc về cuộc đời, về con người.
“truyện ngắn là một thể đại chưa hề biết đến trong truyện ngắn thường là hiện thân cho một Kết cấu truyện ngắn thường
loại tự sự cỡ nhỏ, khái niệm này. Thay vì trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc không gồm nhiều tầng nhiều
thường được viết bằng dùng một khái niệm có trạng thái tồn tại của con người. Mặt khác, do đó tuyến mà được dựng theo kiểu
văn xuôi, đề cập hầu hết tính chất khái quát, truyện ngắn lại có thể mở rộng trên diện nắm tương phản và liên tưởng.
TRUYỆN các phương diện của đời người xưa có tên gọi bắt các kiểu loại nhân vật đa dạng của cuộc - Lời trần thuật: Theo “Giáo
NGẮN sống con người và xã riêng cho mỗi cuốn sống, chẳng hạn như chức nghiệp, xuất thân, gia trình dẫn luận thi pháp học”, Trần
hội. Nét nổi bật của sách (chí, lục, phả, bút, hệ, bạn bè...những kiểu loại mà trong tiểu Đình Sử, tr. 129. Chức năng của
truyện ngắn là sự giới tùy bút, kí, kí sự, thuyết thường hiện ra thấp thoáng trong các người trần thuật tuy không được
hạn về dung lượng; tác thuyết…). nhân vật phụ. Ví dụ nhân vật cô em gái - Kiều tự do xong nó vẫn có thể can thiệp
phẩm truyện ngắn thích Truyện ngắn hiện đại Phương trong truyện “Bức tranh của em gái tôi vào việc kể chuyện, kể nhanh,
hợp với việc tiếp nhận - Tạ Duy Anh”: chậm, phân tích, miêu tả, mách
độc giả đọc nhó liền một + Ngoại hình: Mặt lọ lem, luôn tự bôi bẩn. bảo, chỉ điểm cho người đọc hoặc
mạch không nghỉ.” + Hành động: Hay lục lọi đồ đạc, tự chế màu vẽ… biểu thị cảm thán, cảm xúc tạo
+ Thái độ, ngôn ngữ: hồn nhiên, gần gũi, yêu quý nên phong cách trần thuật của
anh… văn bản. Lời trần thuật có hai loại
là đáng tin cậy và không đáng tin
cậy. Lời trần thuật nhiều khi

4
+ Ý nghĩa: là cô bé nghịch ngợm, hồn nhiên, không nhất trí với khuynh hướng
trong sáng, nhân hậu vậy nên rất đáng quý, yêu ghét của tác phẩm, tạo thành
đáng trân trọng. người trần thuật không đáng tin
Nhận biết được người kể chuyện ngôi thứ cậy. VD: Người trần thuật của
nhất và người kể chuyện ngôi thứ ba: Nam Cao, Vũ Trọng Phụng… Còn
- Người kể chuyện (ngôi thứ 3 và ngôi thứ 1): ngược lại nếu lời trần thuật nhất
Theo “Giáo trình dẫn luận thi pháp học”, Trần trí với nhân vật, với tác giả hàm
Đình Sử, tr. 127. Mọi trần thuật đều xuất phát từ ẩn trong tác phẩm thì người trần
cái tôi hiểu biết sự việc, đều là ngôi thứ nhất và là đáng tin cậy. VD: người trần
chỉ khác nhau ở mức độ ẩn hiện. Ngôi thứ nhất thuật trong Truyện Kiều.
là hình thức tác giả lộ diện (xưng tôi). Ngôi thứ - Lời nhân vật: Theo “Giáo trình
ba là hình thức tác giả ẩn mình, VD: câu trong dẫn luận thi pháp học”, Trần Đình
đầu Chí Phèo thực chất là: “(Tôi thấy) bao giờ Sử, tr. 152- 154”, lời nhân vật
cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi”. Nhưng nhà được chia thành hai loại:
văn đã bỏ chữ “tôi thấy” đi để hóa thân vào một + Lời trực tiếp của nhân vật: là lời
người kể chuyện toàn tri biết trước và biết hết của nhân vật trong tác phẩm văn
mọi việc. học được thể hiện dưới nhiều
hình thức: Đối thoại che đậy nội
tâm, đối thoại bên ngoài song
song với đối thoại bên trong, Lời
nói trong - ý định được công bố
cùng với lời nói ngoài, đối thoại
rời rạc thể hiện trạng thái nhân
sinh, đối thoại mà không hiểu ý
nghĩa đối thoại.
+ Lời gián tiếp: là lời văn đảm
đương chức năng trần thuật (đã
nói ở phần lời trần thuật), giới
thiệu, miêu tả, bình luận con
người và sự kiện, phân biệt với lời
trực tiếp được đặt trong dấu
ngoặc kép hoặc sau gạch đầu
dòng.
Theo “Từ điển văn học Theo SGK “Ngữ văn 11 Nhận biết và bước đầu nhận xét được nét - “Cảnh khuya” (Hồ
THƠ
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu tập 1”, Phan Trọng độc đáo của bài thơ thể hiện qua: Chí Minh)

5
(chủ biên), Tr.1685: Luận (chủ biên), - Từ ngữ: - “Bài thơ về tiểu đội
“Thơ là hình thức sáng tr.134, ta có thể phân + Thơ trữ tình theo “Lí luận văn học”, Trần Đình xe không kính”
tác văn học phản ánh loại thơ theo hai cách: Sử, tr. 365: Ngôn ngữ thơ bão hòa cảm xúc - Lời (Phạm Tiến Duật)
cuộc sống với những - Phân loại theo nội thơ là lời đánh giá trực tiếp thể hiện quan hệ của - “Dặn con” (Trần
cảm xúc chất chứa, cô dung biểu hiện: chủ thể với cuộc đời; Ngôn ngữ thơ giàu nhạc Nhuận Minh)
đọng, những tâm trạng + Thơ trữ tình (đi sâu tính - Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ - “Hành trình của
dạt dào, những tư tưởng vào tâm tư, tình cảm, biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ, mà bằng cả bầy ong” (Nguyễn
mạnh mẽ, trong ngôn những chiêm nghiệm âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy. Đức Mậu)
ngữ hàm xúc, giàu hình của con người về cuộc + Thơ tự sự: Dùng ngôn ngữ thơ mang yếu tố - “Khi con tu hú” (Tố
ảnh, và nhất là có nhịp đời, như bài “Tự tình” kể, tả về một câu chuyện theo một mạch chuyện. Hữu)
điệu.” của Hồ Xuân Hương). VD: Bài thơ “Lượm” kể và tả về Lượm bằng lời - “Những cánh
Theo sách giáo khoa + Thơ tự sự (cảm nghĩ của người chú. Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ buồm” (Hoàng
“Ngữ văn lớp 11 tập 1”, vận động theo mạch kể của hai chú cháu ở thành phố Huế trong “ngày Trung Thông)
Phan Trọng Luận (chủ chuyện như bài “Hầu Huế đổ máu”, sự hy sinh anh dũng của Lượm khi - “Quê hương” (Tế
biên), tr.133 định nghĩa: trời” của Tản Đà). làm nhiệm vụ và hình ảnh sống mãi của Lượm. Hanh)
“Thơ là một thể loại văn + Thơ trào phúng (phủ + Thơ trào phúng: Dùng ngôn từ ví von, nói
học có phạm vi phổ biến nhận những điều xấu bóng gió để châm biếm đả kích những thói hư
rộng và sâu. Thơ tác bằng lối viết đùa cợt, tật xấu trái với lương tri xã hội. VD: Thơ trào
động đến người đọc mỉa mai, khôi hài, như phúng Trần Tế Xương.
bằng sự nhận thức cuộc bài: “Vịnh khoa thi - Hình ảnh: Việc chọn lọc từ tạo nên hình ảnh
sống, những liên tưởng, hương” của Tú xương). thường được thấy rất nhiều trong các bài thơ.
tưởng tượng phong phú, - Phân loại theo cách tổ Có những hình ảnh đẹp, mềm mại, hài hòa, thơ
nhưng cái cốt lõi của thơ chức bài thơ: mộng. Có những hình ảnh khắc khổ, vuông
là thơ trữ tình.” + Thơ cách luật (Viết thành sắc cạnh, song cũng có những hình ảnh đồ
theo luật đã định sộ, đôi khi gớm ghiếc. Mỗi một hình ảnh đều
trước, như thơ đường nhằm tái tạo lại thị giác, cảm quan của người
luật, lục bát, song thất làm thơ lúc họ viết. Một trong những ví dụ về
lục bát…). hình ảnh có thể tìm thấy trong bài “Nghe thầy
+Thơ tự do (không đọc thơ” của Trần Đăng Khoa:
theo luật). Em nghe thầy đọc bao ngày
+ Thơ văn xuôi (câu Tiếng thơ đỏ nắng, xanh cây quanh nhà
thơ gần như câu văn Mái chèo nghiêng mặt sông xa
xuôi nhưng vẫn có Bâng khuâng nghe vọng tiếng bà năm xưa
nhịp điệu). Không chỉ là những hình ảnh đẹp, tĩnh tại, hình
ảnh trong thơ còn động đậy, hoạt bát. Người đọc

6
thơ vừa hình tượng được vật thể, vừa thấy màu
sắc, vừa thấy sự chuyển động của chúng.
- Biện pháp tu từ:
+ So sánh, đối chiếu 2 hay nhiều sự vật, sự việc
mà giữa chúng có những nét tương đồng để làm
tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời thơ.
+ Nhân hóa đồ vật, sự vật, con vật, cây cối trong
thơ khiến cho chúng trở nên sinh động, gần gũi,
có hồn hơn.
+ Hoán dụ, ẩn dụ, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
nhằm sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt
trong thơ.
+ Nói quá, phóng đại, thậm xưng, cường điệu
thường được sử dụng trong thơ trào phúng
nhằm gây ấn tượng mạnh, tăng sức biểu cảm.
+ Nói giảm, nói tránh tạo cảm giác tế nhị uyển
chuyển cho lời thơ.
+ Điệp từ, điệp ngữ tạo liên tưởng cảm xúc, nhịp
điệu trầm bổng cho câu thơ.
+ Chơi chữ làm câu thơ trở nên dí dỏm, hài
hước.
+ Tương phản làm tăng hiệu quả diễn đạt cho
câu thơ.
Nhận biết và nêu được tác dụng của các yếu
tố tự sự và miêu tả trong thơ, ví dụ như bài
“Lượm- của Tô Hoài”:
- Yếu tố tự sự: Tự sự là bất kỳ sự tường thuật
nào để kết nối các sự kiện, trình bày cho người
đọc hoặc người nghe bằng một chuỗi câu viết
hoặc nói, hoặc một chuỗi hình ảnh. Như vậy,
Lượm là bài thơ tự sự có cốt truyện sử dụng các
chuỗi hình ảnh kể về cuộc đời ngắn ngủi nhưng
rất anh dũng của chú bé liên lạc, hồn nhiên, nhí
nhảnh, yêu đời, dũng cảm đã ngã xuống để bảo

7
vệ sự bình yên cho chính mảnh đất quê hương
mình.
- Yếu tố miêu tả: Nhằm giúp người đọc, người
nghe hình dung những đặc điểm, tính chất nổi
bật của sự vật, sự việc, con người, phong
cảnh,…làm cho những cái đó như hiện lên trước
mắt người đọc, người nghe. Hình ảnh Lượm
được miêu tả từ khổ thơ thứ hai đến khổ thơ
thứ năm. Ví dụ về trang phục: cái xắc xinh xinh,
ca lô đội lệch. Đó là trang phục cho các chiến sĩ
liên lạc thời chống Pháp.
Theo “Từ điển văn học Nhận biết được: - Thanh: Theo “Từ điển văn học - Ca dao về tình yêu,
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu - Số tiếng: một cặp hai câu đi liền với nhau gồm (bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu (chủ tình cảm gia đình
(chủ biên), tr.881: “Lục câu trên 6 tiếng (lục) và câu dưới 8 tiếng (bát), biên), tr. 881. Ở câu lục, câu bát - Tục ngữ Việt Nam
bát là một thể thơ cách trình bày dưới dạng câu dài, câu ngắn so le các tiếng thứ 4 phải là thanh trắc - “Truyện Kiều”
luật cổ điển, được coi là nhau. (sắc, nặng, hỏi, ngã); các tiếng thứ (Nguyễn Du)
thuần túy của người - Số dòng: Không giới hạn. hai, thứ sáu, thứ tám phải là - “Tương tư”
Việt; đơn vị cơ bản gồm - Vần: Theo “Từ điển văn học (bộ mới)”, Đỗ Đức thanh bằng (không, huyền). (Nguyễn Bính)
một cặp hai câu đi liền Hiểu (chủ biên), tr.881. Thể thơ này dùng cả vần Nhưng tiếng thứ 6 và 8 trong
với nhau, câu trên 6 lưng (yêu vận) lẫn vần chân (cước vận). Tiếng cùng một câu bát phải khác thanh
tiếng (lục) và câu dưới 8 thứ sáu của câu lục hiệp vần với tiếng thứ sáu so với nhau (tức là nếu tiếng thứ
tiếng (bát), trình bày của câu bát (vần lưng), tiếng thứ tám của câu 6 là thanh huyền thì tiếng thứ 8
THƠ LỤC dưới dạng câu dài, câu bát này lại hiệp vần với tiếng thứ sáu của câu lục phải là thanh không, hoặc ngược
BÁT ngắn so le nhau. Số câu tiếp theo (vần chân). VD: lại.
của bài thơ làm theo thể “Trăm năm trong cõi người ta, VD:
này không hạn định: có Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. “Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà
thể chỉ gồm một cặp câu Trải qua một cuộc bể dâu, Thọ Xương” (Ca dao)
như nhiều câu ca dao, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.” Riêng tiếng thứ hai ở câu lục hoặc
tục ngữ, có thể gồm hàng (Truyện Kiều - Nguyễn Du) câu bát có thể linh động, bằng hay
ngàn câu như các truyện - Nhịp: Mỗi cặp lục bát 14 tiếng là một đơn vị trắc cũng được.
thơ nôm và các diễn ca hoàn chỉnh cả về ngữ nghĩa, ngữ âm, ngữ điệu VD:
lịch sử.” và nhịp điệu, lại có thể ngắt ra thành đơn vị tiết “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,
tấu như ngắt thành nhịp 2, nhịp 3, nhịp 4...tạo Chẳng thanh lịch cũng thể con
nên sự uyển chuyển diễn tả linh hoạt tình cảm người thượng kinh.” (ca dao)
của con người.

8
VD nhịp 2: - Đối: Thể lục bát không bắt buộc
“Buồn trông/ cửa bể /chiều hôm, phải có đối, nhưng người sáng tác
Thuyền ai/ thấp thoáng/ cánh buồm/ xa xa.” có thể đưa tiểu đối vào từng câu
VD nhịp 3 và 4: lục hoặc câu bát nhằm làm nổi bật
“Mai cốt cách/ tuyết tinh thần, một ý nào đó.
Mỗi người một vẻ / mười phân vẹn mười.”
(truyện Kiều - Nguyễn Du)
Tuy nhiên rất hiếm những câu lục bát thuần
ngắt nhịp 2,3, 4 mà thường có lối ngắt nhịp xen
kẽ, hỗn hợp.
Theo “Từ điển văn học Nhận biết được: - Ngôn ngữ: có sự hỗn dung giữa - “Những năm ở tiểu
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu - Hình thức ghi chép: Hồi kí gần với nhật kí ngôn ngữ báo chí, chính luận và học” (trích hồi kí
(chủ biên), tr. 646: “Hồi theo kiểu nhớ lại, ghi chép tái hiện lại bằng văn ngôn ngữ nghệ thuật. Nguyễn Hiến Lê)
kí là thuật ngữ chỉ một xuôi. - “Thương nhớ
thể loại nằm trong thể - Cách kể: Theo “Từ điển văn học (bộ mới)”, Đỗ mười hai” (Vũ Bằng)
tài kí. Tác phẩm hồi kí là Đức Hiểu (chủ biên), tr. 646. Hồi kí sử dụng hình
một thiên trần thuật từ thức dã bày, không dùng các thủ pháp cốt
HỒI KÍ ngôi tác giả, kể về những truyện, cách kể thường theo thứ tự thời gian,
sự kiện có thực xảy ra chú ý đến các sự kiện mang tính tiểu sử.
trong quá khứ mà tác giả - Người kể chuyện ngôi thứ nhất: Xưng “Tôi”
tham dự hoặc chứng là cái tôi của tác giả chứ không phải cái tôi hư
kiến.” cấu trong tiểu thuyết hay truyện ngắn. Tác giả
kể về những ghi chép có tính chất suy tưởng của
cá nhân về quá khứ, một dạng gần như tự
truyện của tác giả.
Theo cuốn “Từ điển Nhận biết được: - Ngôn ngữ: trong bài "Nghệ - “Thẳm sâu Hồng
thuật ngữ văn học”, Trần - Hình thức ghi chép: Hình thức du kí có thể thuật ngôn từ du kí Quốc ngữ Việt Ngài” (Tống Nam
Đình Sử cho rằng du kí là bao gồm các ghi chép, kí sự, hồi kí, thư tín, hồi Nam giai đoạn giao thời", Trần Ninh)
“sự ghi chép của bản tưởng v.v. Tác giả của du kí tường bộc lộ niềm Thị Tú Nhi cho rằng: "Ngôn ngữ - “Cô Tô” (Nguyễn
DU KÍ thân người đi du lịch, say mê khát khao tìm kiếm, khám phá những nghệ thuật của tác phẩm du kí Tuân)
ngoạn cảnh về những điều mới lạ. luôn có sự hỗn dung cả hai tư duy: - “Tôi ăn tết ở Côn
điều mắt thấy tai nghe - Cách kể: có cốt truyện ghi chép về vẻ kỳ thú truyện và nghiên cứu để thỏa Lôn” (Khuông Việt)
của chính mình tại của cảnh vật thiên nhiên và cuộc đời; những mãn mục đích trình bày nhận
những xứ sở xa lạ hay cảm nhận, suy tưởng của con người trong thức và thể hiện kỹ năng văn

9
những nơi ít người có những chuyến du ngoạn. Du kí phản ánh, truyền chương. Bất kỳ tác phẩm du kí
dịp đi đến.” đạt những nhận biết, những cảm tưởng, suy nào cũng tồn tại hai hệ thống
nghĩ mới mẻ của bản thân người du lịch về ngôn từ: ngôn từ khoa học và
những điều mắt thấy tai nghe ở những xứ sở xa ngôn từ nghệ thuật.”
lạ, nơi mọi người ít có dịp đi đến, chứng kiến.
Chính vì vậy du kí kể theo trình tự thời gian và
không gian thực.
- Người kể chuyện ngôi thứ nhất: Xưng “tôi”
là cái tôi của chính tác giả chứ không phải cái tôi
hư cấu trong truyện ngắn, tiểu thuyết.

LỚP 7
ĐỊNH NGHĨA/KHÁI MỘT SỐ TÁC
THỂ LOẠI PHÂN LOẠI (NẾU CÓ) ĐẶC ĐIỂM (BÁM SÁT YÊU CẦU CẦN ĐẠT) ĐẶC SẮC RIÊNG
NIỆM PHẨM TIÊU BIỂU
Theo “Lí luận văn học”, Theo “Lí luận văn học”, Nhận biết được một số yếu tố của truyện ngụ - “Ếch ngồi đáy
Phương Lựu, tr. 386: GS.TSKH. Phương Lựu, ngôn: giếng”
“Ngụ ngôn là một kiểu tr. 386: “Chia làm hai - Nội dung: thường có chất hài, có motif phê - “Thầy bói xem voi”
truyện phóng dụ bằng phần: phần thứ nhất phán xã hội, nhưng tư tưởng ở ngụ ngôn dân - “Cáo mượn oai
thơ hoặc văn xuôi rất truyền đạt một hiện gian thường thiên về bảo thủ. Bài học đạo đức hùm”
ngắn mang nội dung giáo tượng hay nhân vật, sự trong ngụ ngôn toát ra từ việc chế giễu các tính - “Đẽo cày giữa
dục đạo đức.” kiện buồn cười ; phần cách và đặc điểm tiêu cực nào đó của con người đường”
Theo sách giáo khoa thứ hai là bài học đạo được thể hiện trong các hình tượng loài vật như
“Ngữ văn lớp 6 tập 1”: đức. Nhiều tác phẩm chim, cá, gia súc, thú vật
“Ngụ ngôn là loại truyện phần hai bị lược đi, bài - Cốt truyện: Theo “Lí luận văn học”, Phương
NGỤ NGÔN
kể, bằng văn xuôi hoặc học tự nó toát ra ở cốt Lựu, tr. 386 viết: “ngắn, hàm súc, giàu sức biểu
văn vần, mượn chuyện truyện” hiện, bộc lộ bản chất của đối tượng, còn hình
về loài vật, đồ vật hoặc thức phúng dụ giúp thuyết minh tốt nhất qua
về chính con người để các hiện tượng tương đồng, các tính cách của
nói bóng gió, kín đáo nhân vật ngụ ngôn. Cốt truyện theo kiểu “muốn
chuyện con người, nhằm hay lại hóa dở”.”
khuyên nhủ, răn dạy - Nhân vật: Theo “150 Thuật ngữ văn học”, Lại
người ta bài học nào đó Nguyên Ân (biên soạn), tr. 230 viết: “Nhân vật
trong cuộc sống.” của ngụ ngôn chẳng những không có các nét
ngoại hình mà còn không có cả “tính cách” (hiểu

10
Theo “150 Thuật ngữ theo nghĩa một sự tổ hợp các đặc tính tâm hồn,
văn học”, Lại Nguyên Ân tinh thần), nó hiện ra trước mắt ta không phải
(biên soạn), tr. 229 viết: với tư cách những khách thể của sự chiêm quan
“Một thể loại của văn học nghệ thuật, mà là với tư cách những chủ thể của
giáo huấn, thường sử sự lựa chọn đạo lý.”
dụng phúng dụ như một
nguyên tắc tổ chức tác
phẩm.”
Theo “Lí luận văn học”, Truyện ngắn trung Nhận biết được tính cách nhân vật thể hiện - Bức tranh của em
Trần Đình Sử, tr. 397”: đại: là một khái niệm qua cử chỉ, hành động,lời thoại; qua ý nghĩ gái tôi (Tạ Duy Anh)
“Truyện ngắn là hình tương đối, của khoa của các nhân vật khác trong truyện; qua lời - Lão Hạc(Nam Cao)
thức ngắn của tự sự.” nghiên cứu văn học người kể chuyện: - Chiếc lược ngà
Theo “Từ điển văn học hiện đại áp dụng cho - Theo “Lí luận văn học”, Phương Lựu, tr. 393: (Nguyễn Quang
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu thực tế văn học thời “Truyện ngắn miêu tả nhân vật ở những khía Sáng)
(chủ biên), tr. 1846”: trung đại. Thời trung cạnh nổi bật nhất. Nhân vật của truyện ngắn
“truyện ngắn là một thể đại chưa hề biết đến thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ
loại tự sự cỡ nhỏ, thường khái niệm này. Thay vì xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của
được viết bằng văn xuôi, dùng một khái niệm có con người … Truyện ngắn thường ít nhân vật, ít
đề cập hầu hết các tính chất khái quát, sự kiện phức tạp. Nếu mỗi nhân vật của tiểu
phương diện của đời người xưa có tên gọi thuyết là một thế giới thì nhân vật của truyện
sống con người và xã hội. riêng cho mỗi cuốn ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Truyện
TRUYỆN
Nét nổi bật của truyện sách (chí, lục, phả, bút, ngắn thường không nhắm tới việc khắc họa
NGẮN
ngắn là sự giới hạn về tùy bút, kí, kí sự, những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt
dung lượng; tác phẩm thuyết…). trong tương quan với hoàn cảnh.”
truyện ngắn thích hợp Truyện ngắn hiện đại Nhận biết và nêu được tác dụng của việc
với việc tiếp nhận độc thay đổi kiểu người kể chuyện (người kể
giả đọc nhó liền một chuyện ngôi thứ nhất và người kể chuyện
mạch không nghỉ.” ngôi thứ ba):
Theo “150 Thuật ngữ -Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”, Lê Bá Hán,
văn học”, Lại Nguyên Ân Trần Đình Sử, tr.153: “Người kể chuyện là hình
(biên soạn), tr viết: tượng ước lệ về người trần thuật trong tác
Thể tài tác phẩm tự sự phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện
cỡ nhỏ, thường được được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác
viết bằng văn xuôi, đề phẩm. Đó có thể là hình tượng của chính tác giả,
cập hầu hết các phương có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng

11
diện của đời sống con tạo ra, có thể là một người biết câu chuyện nào
người và xã hội. Nét nổi đó”
bật của truyện ngắn là sự - Theo “Phong cách học văn bản”, Đinh Trọng
giới hạn về dung lượng; Lạc: “Có hai kiểu người kể chuyện: hình thức
tác phẩm truyện ngắn người kể chuyện chủ quan hóa, chọn ngôi kể
thích hợp với việc người thứ nhất, xưng tôi và hình thức người kể chuyện
tiếp nhận (độc giả) đọc khách quan hóa, chọn ngôi kể thứ ba, người kể
nó liền một mạch không giấu mình nhưng có mặt khắp mọi nơi trong tác
nghỉ. phẩm.”
-Theo “Người kể chuyện trong một số truyện
ngắn thuộc chương trình ngữ văn trung học”,
Tạp chí khoa học và công nghệ, Chu Thị Hảo:
“Mượn điểm nhìn khác nhau để trần thuật,
người kể chuyện dễ dàng thâm nhập vào đời
sống nội tâm nhân vật, lý giải mối quan hệ giữa
các nhân vật trong truyện.Trong truyện ngắn,
người kể chuyện đồng thời đảm nhiệm hai vai
trò: vai trò dẫn dắt người đọc đi vào câu chuyện:
giới thiệu nhân vật, tình huống truyện, tả người,
tả cảnh và đưa ra những nhận xét đánh giá về
những điều được kể.Từ mỗi kiểu kể chuyện và
điểm nhìn trần thuật khác nhau, người kể
chuyện đem lại cho tác phẩm một cái nhìn, sự
đánh giá về nhân vật, về tư tưởng, tình cảm, khả
năng tái tạo con người và đời sống của nhà văn
trong tác phẩm.”
Theo nhà văn và giáo sư Chia thành nhiều thể Nhận biết được một số yếu tố của truyện - Thông điệp - “Ác quỷ rừng phế
sinh hóa người Mỹ Isaac loại con tuỳ theo các khoa học viễn tưởng: tích” (Nam Thanh)
Asimov: "Khoa học viễn chủ đề sử dụng chủ - Đề tài: Thường là những đề tài không có thật, - “Chuyện xứ Lang
TRUYỆN
tưởng có thể được định đạo trong truyện: do con người tự tưởng tượng, sáng tạo ra một Biang” (Nguyễn
KHOA HỌC
nghĩa là nhánh văn học - Cyberpunk (ghép từ thế giới trong ảo tưởng Nhật Ánh)
VIỄN
liên quan đến phản ứng cybernetics - điều - Thời gian: tương lai, dòng thời gian đã bị biến - “Hiệp sĩ vô hình”
TƯỞNG
của con người trước khiển học - và punk - đổi, hoặc một thời gian quá khứ khác hẳn những (Văn Biển)
những thay đổi của khoa giang hồ). Thuật ngữ gì viết trong sách sử và các tư liệu khảo cổ.
học và công nghệ." này do nhà văn Bruce

12
Bethke sáng chế ra - Không gian: ngoài vũ trụ, các hành tinh khác, - “Thử nghiệm
năm 1980 khi xuất bản hoặc không gian ngầm dưới bề mặt Trái Đất. hoang dại” (Phan
cuốn truyện ngắn - Nhân vật: như người ngoài hành tinh, người Hồn Nhiên)
Cyberpunk. Khung đột biến, máy móc, rô-bốt mang nhân dạng, các - “Tuyệt đỉnh cổ vật”
thời gian thường là dạng nhân vật đại diện cho hướng tiến hoá (Nhung Hà)
tương lai gần, bối cảnh tương lai của con người.
là xã hội dystopia với - Chi tiết: Yếu tố giả tưởng ở trong truyện khoa
đặc trưng là sự cực học viễn tưởng hầu hết đều có thể trở thành
khổ, khốn đốn. Các chủ hiện thực dựa trên căn cứ những định luật khoa
đề thường gặp bao học đã được chứng minh hoặc chân lý được
gồm công nghệ thông công nhận
tin phát triển vượt bậc,
đặc biệt công nghệ
internet, không gian
mạng được hiển thị
thành hình ảnh, trí
thông minh nhân tạo,
điều khiển học, xã hội
hậu dân chủ nơi các
tập đoàn có sức ảnh
hưởng hơn chính phủ.
Nhân vật chính thường
mang vẻ bất mãn.)
- Du hành thời gian
- Lịch sử thay đổi
- Quân sự
- Siêu nhân
- Tận thế và hậu thế
- Phiêu lưu vũ trụ
- Khoa học viễn tưởng
xã hội
- Khí hậu viễn tưởng
- Biopunk (Motif chính
là các nỗ lực thay đổi
hoặc tái cấu tạo cơ thể

13
con người nhằm phục
vụ mục đích gì đó Các
tác phẩm thường viết
về thí nghiệm trên cơ
thể người, hậu quả lạm
dụng công nghệ sinh
học và công nghệ sinh
học tổng hợp. Nó còn
bao gồm cả đề tài nhân
bản vô tính và sự tồn
tại của người nhân bản
trong xã hội tương lai.)
- Steampunk (các thiết
bị công nghệ được vận
hành bằng hơi nước,
bối cảnh thường ở
London thời Victoria,
giai đoạn thế kỷ XIX.
Mặc dù chỉ sử dụng
công nghệ hơi nước
nhưng các máy móc
thiết bị này có thể tân
tiến ngang hoặc hơn
với thời hiện đại chẳng
hạn như súng laze
hoặc máy du hành thời
gian đều dùng động cơ
hơi nước…)
- Kaiju (Kaiju là từ gốc
Nhật, nghĩa là “quái
vật”. Các tác phẩm sẽ
có sự xuất hiện của
những sinh vật to lớn
khổng lồ, tấn công các
khu thành phố hoặc

14
chiến đấu với các sinh
vật khổng lồ khác)

Theo “Từ điển văn học Theo SGK “Ngữ văn 11 Nhận biết và nhận xét nét độc đáo của bài Bạn đến chơi nhà
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu tập 1”, Phan Trọng thơ thể hiện qua: (Nguyễn Khuyến),
(chủ biên), Tr.1685: Luận (chủ biên), - Từ ngữ: Dặn con (Trần
“Thơ là hình thức sáng tr.134, ta có thể phân + Thơ trữ tình theo “Lí luận văn học”, Trần Đình Nhuận Minh),
tác văn học phản ánh loại thơ theo hai cách: Sử, tr. 365: Ngôn ngữ thơ bão hòa cảm xúc - Lời Đêm nay Bác không
cuộc sống với những - Phân loại theo nội thơ là lời đánh giá trực tiếp thể hiện quan hệ của ngủ (Minh Huệ), Cây
cảm xúc chất chứa, cô dung biểu hiện: chủ thể với cuộc đời; Ngôn ngữ thơ giàu nhạc đàn muôn điệu(Thế
đọng, những tâm trạng + Thơ trữ tình (đi sâu tính - Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ Lữ)
dạt dào, những tư tưởng vào tâm tư, tình cảm, biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ, mà bằng cả
mạnh mẽ, trong ngôn những chiêm nghiệm âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy.
ngữ hàm xúc, giàu hình của con người về cuộc + Thơ tự sự: Dùng ngôn ngữ thơ mang yếu tố kể,
ảnh, và nhất là có nhịp đời, như bài “Tự tình” tả về một câu chuyện theo một mạch chuyện.
điệu.” của Hồ Xuân Hương). + Thơ trào phúng: Dùng ngôn từ ví von, nói
Theo sách giáo khoa + Thơ tự sự (cảm nghĩ bóng gió để châm biếm đả kích những thói hư
“Ngữ văn lớp 11 tập 1”, vận động theo mạch kể tật xấu trái với lương tri xã hội.
THƠ Phan Trọng Luận (chủ chuyện như bài “Hầu - Hình ảnh: Việc chọn lọc từ tạo nên hình ảnh
biên), tr.133 định nghĩa: trời” của Tản Đà). thường được thấy rất nhiều trong các bài thơ.
“Thơ là một thể loại văn + Thơ trào phúng (phủ Có những hình ảnh đẹp, mềm mại, hài hòa, thơ
học có phạm vi phổ biến nhận những điều xấu mộng. Có những hình ảnh khắc khổ, vuông
rộng và sâu. Thơ tác bằng lối viết đùa cợt, thành sắc cạnh, song cũng có những hình ảnh đồ
động đến người đọc mỉa mai, khôi hài, như sộ, đôi khi gớm ghiếc. Mỗi một hình ảnh đều
bằng sự nhận thức cuộc bài: vịnh khoa thi nhằm tái tạo lại thị giác, cảm quan của người
sống, những liên tưởng, hương của Tú xương). làm thơ lúc họ viết.
tưởng tượng phong phú, - Phân loại theo cách tổ - Nhịp:
nhưng cái cốt lõi của thơ chức bài thơ: + Theo “Nhịp điệu thơ hôm nay”, Mã Giang Lân,
là thơ trữ tình.” + Thơ cách luật (Viết báo Văn học nghệ thuật Đà Nẵng: “Theo nghĩa
theo luật đã định rộng nhất, nhịp điệu là hình thức phân bố trong
trước, như thơ đường thời gian những chuyển động nào đó, như vậy
luật, lục bát, song thất có thể nói về nhịp điệu của bất kỳ sự chuyển
lục bát…). động, trong đó có âm thanh của bất kỳ thứ ngôn
ngữ nào chúng ta nghe được mà không cần hiểu

15
+Thơ tự do (không nghĩa. Nhịp điệu thể hiện tính chất đều đặn của
theo luật). chuyển động, sự cân đối của những độ dài về
+ Thơ văn xuôi (câu thời gian hay sự luân phiên dưới dạng chuyển
thơ gần như câu văn động âm thanh (Ở đây không tính đến khái
xuôi nhưng vẫn có niệm nhịp điệu thường được áp dụng vào các
nhịp điệu). quá trình sinh lý như thở, mạch đập của tim và
những chuyển động như đi bộ...)”.
+ Theo “Nhận diện nhịp điệu thơ trữ tình”, Phan
Huy Dũng nêu vai trò, chức năng của nhịp điệu
trong việc tổ chức một bài thơ trữ tình:“là nghệ
thuật thời gian, cũng như âm nhạc, văn học nói
chung cũng như thơ trữ tình nói riêng bao giờ
cũng quan tâm tới vấn đề nhịp điệu”.
Theo “Mấy ý nghĩ về thơ”, Nguyễn Đình Thi:
"Nhịp điệu của thơ không những là nhịp điệu
bằng bằng, trắc trắc, lên bổng xuống trầm của
tiếng đàn bên tai (...). Thơ có một thứ nhạc nữa,
một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu
của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn
(...). Đó là nhịp điệu thành hình của những cảm
xúc, hình ảnh liên tiếp hòa hợp mà những tiếng
và chữ gợi ra như những ngân vang dài, ngay
những khoảng lung linh giữa chữ, những
khoảng im lặng cũng là nơi trú ngụ kín đáo của
sự xúc động".
- Biện pháp tu từ:
+ So sánh, đối chiếu 2 hay nhiều sự vật, sự việc

giữa chúng có những nét tương đồng để làm
tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời thơ.
+ Nhân hóa đồ vật, sự vật, con vật, cây cối trong
thơ khiến cho chúng trở nên sinh động, gần gũi,
có hồn hơn.

16
+ Hoán dụ, ẩn dụ, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
nhằm sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt
trong thơ.
+ Nói quá, phóng đại, thậm xưng, cường điệu
thường được sử dụng trong thơ trào phúng
nhằm gây ấn tượng mạnh, tăng sức biểu cảm.
+ Nói giảm, nói tránh tạo cảm giác tế nhị uyển
chuyển cho lời thơ.
+ Điệp từ, điệp ngữ tạo liên tưởng cảm xúc, nhịp
điệu trầm bổng cho câu thơ.
+ Chơi chữ làm câu thơ trở nên dí dỏm, hài
hước.
+ Tương phản làm tăng hiệu quả diễn đạt cho
câu thơ.
Nhận biết và nhận xét được nét độc đáo của THƠ 4 CHỮ:
bài thơ thể hiện qua: - “Lượm” (Tố Hữu)
- THƠ 4 CHỮ: - “Kể cho bé nghe”
+ Số lượng câu: Có 4 câu thơ / khổ (Trần Đăng Khoa)
+ Số lượng chữ: mỗi câu thơ có bốn tiếng - “Ngủ nào ngủ
+ Gieo vần: thường sử dụng vần chân, vần lưng, ngoan” (Xuân
vần cách, vần liền: Quỳnh)
. Vần lưng: gieo vào giữa dòng thơ (còn gọi là - “Quạt cho bà ngủ”
yêu vận) (Thạch Quỳ)
THƠ 4 . Vần chân: gieo vào cuối dòng thơ (còn gọi là - “Làm anh” (Phan
CHỮ, 5 ước vận) Thị Thanh Nhàn)
CHỮ . Vần liền: gieo liên tiếp vần với nhau vào cuối - “Hoa cỏ” (Tế Hanh)
dòng thơ - “Chị em” (Lưu
. Vần cách: gieo vần tách nhau cách dòng thơ Trọng Lư)
(còn gọi là gián cách) THƠ 5 CHỮ:
. Vần hỗn hợp: gieo vần không theo thứ tự nào - “Chú bò tìm về”
(gồm tất cả các cách gieo vần trên) (Phạm Hổ)
+ Nhịp thơ: thường có nhịp chẵn là 2/2 nhưng - “Đêm hè” (Nam
cũng có trường hợp ngắt nhịp lẻ. Kiểu ngắt lẻ Trân)
này linh hoạt, không cố định. - “Sóng” (Đỗ Xuân
- THƠ 5 CHỮ: Thanh)

17
+ Số lượng câu: Có 4 câu thơ / khổ - Đêm nay Bác
+ Số lượng chữ: mỗi câu thơ có năm tiếng không ngủ” (Minh
+ Gieo vần: thường sử dụng là vần chân Huệ)
. Vần lưng: gieo vào giữa dòng thơ (còn gọi là - “Đánh thức trầu”
yêu vận) (Trần Đăng Khoa)
. Vần chân: gieo vào cuối dòng thơ (còn gọi là
ước vận)
. Vần liền: gieo liên tiếp vần với nhau vào cuối
dòng thơ
. Vần cách: gieo vần tách nhau cách dòng thơ
(còn gọi là gián cách)
. Vần hỗn hợp: gieo vần không theo thứ tự nào
(gồm tất cả các cách gieo vần trên)
+ Nhịp thơ: phổ biến là nhịp 3/2. Nhưng thơ 5
chữ cũng có thể theo nhịp 2/3, hay thậm chí là
1/4, 4/1
Theo “Từ điển văn học Nhận biết được: Theo “Tạp chí Khoa học 2007:8 - “Người lái đò sông
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu - Chất trữ tình: Bên cạnh nhật kí tùy bút là 6-15”, Trần Văn Minh (khoa Sư Đà” (Nguyễn Tuân)
(chủ biên), Tr.1888: những thể kí mà chất trữ tình chiếm một phân phạm, Trường đại học Cần Thơ), - “Đường chúng ta
“Tùy bút là một thể loại lượng quan trọng. Nhà văn thường kết hợp, xen Tr.14: đi” (Nguyễn Trung
văn xuôi phát sinh từ thể kẽ việc miêu tả đối tượng khách quan với việc “1. Là một thể loại trung gian, Thành)
loại kí, gần với bút kí bộc lộ cảm xúc chủ quan. Đối tượng khách quan mang khá đầy đủ những phẩm - “Dòng kinh quê
nhưng cách viết tự do và trong tùy bút cũng yêu cầu được tái hiện xác chất của cả hai loại: tự sự và trữ hương” (Nguyễn
tùy hứng nhiều hơn. Nhà thực nếu đó là những sự kiện và con người có tình Thi)
văn dựa vào sự lôi cuốn địa chỉ chính xác và cụ thể. Sự kiện khách quan 2. Lời văn rất uyển chuyển, linh
TÙY BÚT của cảm hứng, có thể nói trong tùy bút thường không được trình bày liên hoạt, hài hòa giữa chất thơ và trần
từ sự việc này qua sự tục do sự phát biểu xen kẽ của những cảm xúc thuật
việc khác, từ liên tưởng chủ quan của người viết, hoặc vì những sự kiện 3. Nội dung phong phú, đa dạng,
này sang liên tưởng đó được khai thác từ nhiều địa điểm và thời gian bao quát được nhiều lĩnh vực đời
kia,... để bộc lộ những khác nhau để phục vụ cho dòng suy tưởng của sống; đặc biệt có ưu thế trong việc
cảm xúc, những tâm tác giả. tôn vinh các giá trị văn hóa
tình, phát biểu những - Cái tôi: Điểm tựa của tùy bút là cái tôi của tác 4. Dung hợp được hầu hết các
suy nghĩ, những nhận giả. Tác dụng gợi cảm của tùy bút thuộc vào đặc dạng thức cảm hứng, tình điệu
xét về con người và cuộc điểm của đối tượng miêu tả nhưng những nhận thẩm mỹ
đời.” xét, bình giá, bàn luận và liên tưởng của tác giả

18
lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chính điều đó 5. Tùy bút không có cốt truyện,
sẽ tạo nên chất riêng cho tùy bút của mỗi người dung lượng thường ở mức trung
nghệ sĩ. Người viết phải có bản lĩnh riêng với bình, đủ để diễn tả cảm xúc, suy
cách cảm nghĩ sâu sắc, độc đáo về cuộc đời. Mỗi tư, liên tưởng được gợi lên từ
tác giả tùy bút phải đem lại một điều gì mới mẻ những sự việc, những trạng
với mọi người trong cách phát hiện, đề cập, lý huống tản mạn”
giải vấn đề.
Ví dụ: Tùy bút của Nguyễn Tuân là phong cách
kí độc đáo. Những suy tưởng cầu kỳ, thái độ
khinh bạc với cuộc sống, những phát hiện độc
đáo trong so sánh và liên tưởng, cộng với một
bút pháp sắc sảo đã đem lại cho Nguyễn Tuân
thời kỳ trước Cách mạng một dáng dấp riêng
biệt.
- Ngôn ngữ: Ngôn từ trong tùy bút thường giàu
hình ảnh và chất thơ.
“Từ điển tiếng Việt” của Nhận biết được: chất trữ tình, cái tôi, ngôn - Về hình thức, tản văn có dung - “Theo dòng suy
Hoàng Phe (chủ biên) đã ngữ của tản văn. lượng ngắn gọn, hàm súc cảm” (Lỗ Tấn)
định nghĩa tản văn: 1. - Chất trữ tình: Theo “Lí luận văn học 2”, Phan - Về nội dung, tản văn có phạm vi - “Giao thừa, “Sông,
Văn xuôi. 2. Loại văn Văn Tiến, tr.146: “Người viết tản văn thường thể hiện khá phong phú và đa biển” người mênh
gồm các thể kí và các thể lựa chọn vài ba nét từ chất liệu đời sống, nương dạng. mông”, “Yêu người
văn khác, ngoài truyện, vào đó để bày tỏ thế giới nội tâm, những suy - Đây là một thể loại cơ động, linh trước núi:,…
thơ và kịch” cảm của mình về thế giới”. Tản văn là những áng hoạt trong việc phản ánh hiện (Nguyễn ngọc Tư)
“Từ điển Hán Việt” của văn giày chất trữ tình, cũng có thể thiên về thực ở cái thể trực tiếp nhất, ở - “Tản mạn trước
Đào Duy Anh định nghĩa chính luận nhưng đặc tính quan trọng của nó là những nét sinh động và tươi mới đèn” (Đỗ Chu)
TẢN VĂN tản văn: Tản văn, văn luôn công khai, bộc lộ quan điểm, thái độ nhất nhất - “Con trai phố cổ”
cuôi không có vần. định của người viết. - Tản văn có mối quan hệ gần gũi (Nguyễn Việt Hà)
Theo “Lí luận văn học 2”, - Cái tôi: Các nhà văn vẫn coi tản văn là nơi chốn với một số thể loại khác như: kí, - “Ngày mới nhẹ
Phan Văn Tiến, tr.146: thổ lộ những chuyện bông phèng, họ không viết phóng sự, tùy bút, tiểu phẩm. nhàng” (Dạ Ngân)
“Tản văn là một thể loại hay đúng hơn là chẳng mặn mà gì thể loại này - Tính vấn đề
văn xuôi ngắn gọn, hàm khi mình chưa đến độ tuổi nghiệm ra những - Tính cảm xúc
súc, có thể xếp vào thể kí. triết lí cuộc sống từ những điều nhỏ nhặt, chưa - Tính đa dạng
Nó không đòi hỏi phải có đủ thời gian để buồn, và lại càng thiếu thời gian - Kết cấu rất tự do: Theo “Lí luận
một cốt truyện đầy đủ cà kê chuyện nọ kia. Chính vì thế mà tản văn văn học 2”, Phan Văn Tiến, tr.146:
“Kết cấu tác phẩm tản văn không

19
hay phải sáng tạo những cũng là nơi mà cái tôi của người nghệ sĩ bộc lộ lệ thuộc vào sự sắp đặt sự kiện,
nhân vật hoàn chỉnh.” rất rõ nét. nhân vật mà dựa trên mối tương
Theo “Từ điển thuật ngữ - Ngôn ngữ: Tự do, phóng khoáng, không câu liên giữa các hình ảnh, chi tiết.
văn học”, Nxb GD, H, nệ vào câu chữ, kết cấu. Ngôn từ được chọn lọc Quan hệ giữa chúng là quan hệ
2004, tr.293: Tản văn là đôi khi bóng bẩy, đôi lúc tự nhiên nhưng vẫn rất liên tưởng; quan hệ này thống
loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc. nhất những điều tưởng như rời
hàm súc, có thể trữ tình, rạc, tản mạn, ngẫu hứng trong
tự sự, nghị luận, miêu tả một trường nghĩa.”
phong cảnh, khắc hoạ
nhân vật. Lối thể hiện
đời sống của tản văn
mang tính chất chấm
phá không nhất thiết đòi
hỏi có cốt truyện phức
tạp, nhân vật hoàn chỉnh
nhưng có cấu tứ độc đáo,
có giọng điệu, cốt cách cá
nhân. Điều cốt yếu là tản
văn tái hiện được nét
chính của các hiện tượng
giàu ý nghĩa xã hội, bộc
lộ trực tiếp tình cảm, ý
nghĩ mang đậm bản sắc
cá tính tác giả… Tản văn
là loại văn tự do, dài
ngắn tuỳ ý, cách thể hiện
đa dạng, đặc biệt là thể
hiện nổi bật chính kiến
và cá tính tác giả
Theo “Từ điển thuật ngữ
văn học”, Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử (chủ biên,
tr. 246 – 247, mục tản
văn viết: nghĩa đen là
văn xuôi nhưng hiện nay

20
tản văn được dùng để chỉ
một phạm vi xác định,
không hoàn toàn khớp
với thuật ngữ văn xuôi.
Nếu văn xuôi trong
nghĩa rộng chỉ loại văn
đối lập với văn vần, và
trong nghĩa hẹp chỉ các
tác phẩm văn phân biệt
với kịch, thơ, bao gồm
một phạm vi rộng từ tiểu
thuyết, truyện vừa,
truyện ngắn, kí, tiểu
thuyết, truyện vừa,
truyện ngắn, tiểu phẩm,
chính luận thì tản văn chỉ
phạm vi văn xuôi hẹp
hơn, không bao gồm cái
loại truyện hư cấu như
tiểu thuyết, truyện ngắn.
Nó là một loại hình văn
học ngang với thơ, kịch,
tiểu thuyết. Nhưng mặt
khác tản văn lại có nội
hàm rộng hơn khái niệm
kí, vì nội dung chứa cả
những truyện ngụ ngôn
hư cấu lẫn các thể văn
xuôi khác như thư, hịch,
cáo,… Tản văn là loại văn
xuôi ngắn gọn, hàm súc,
có thể trữ tình, tự sự,
nghị luận, miêu tả phong
cách, khắc họa nhân vật,
lối thể hiện đời sống của

21
tản văn mang tính chất
chấm phá, không nhất
thiết đòi hỏi có cốt
truyện phức tạp, nhân
vật hoàn chỉnh. Điều cốt
yếu là tái hiện được nét
chính của các hiện tượng
giàu ý nghĩa xã hội, bộc
lộ trực tiếp tình cảm, ý
nghĩa của tác giả.
Theo “Từ điển văn học Phân loại theo nội Nhận biết được 1 số yếu tố của tục ngữ: số - Tục ngữ Việt Nam
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiếu, dung gồm 3 loại tục lượng câu, chữ, vần - Tục ngữ phản ánh
tr. 2052: “Tục ngữ là một ngữ: + Số lượng câu, chữ: Tục ngữ là một câu nói những kinh nghiệm
trong những thể loại + Tục ngữ phản ánh hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý mang nội về lao động, về các
sáng tác dân gian truyền những kinh nghiệm về dung nhận xét quan hệ xã hội, truyền đạt kinh hiện tượng lịch sử
miệng, là những câu nói lao động nghiệm sống, cho bài học luân lý hay phê phán xã hội, thể hiện triết
ngắn gọn, có nhịp điệu, + Tục ngữ ghi nhận các sự việc. Do đó, tục ngữ được sử dụng một cách lý dân gian của dân
có hình thức bền vững, hiện tượng lịch sử xã độc lập. Một câu tục ngữ có thể được coi là một tộc
TỤC NGỮ được dùng trong lời nói hội “tác phẩm văn học” hoàn chỉnh vì nó mang
hằng ngày, thường có + Tục ngữ thể hiện trong mình cả ba chức năng cơ bản của văn học
nhiều nghĩa, hình thành triết lý dân gian của là chức năng nhận thức, chức năng thẩm mỹ và
bằng cách liên tưởng loại dân tộc chức năng giáo dục.
suy.” + Vần: gồm hai loại: vần liền và vần cách. Các
kiểu ngắt nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế,
trên cơ sở đối ý, theo tổ chức ngôn ngữ thơ ca...
Sự hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng,
kiến trúc vững chắc cho tục ngữ

LỚP 8
ĐỊNH NGHĨA/KHÁI MỘT SỐ TÁC
THỂ LOẠI PHÂN LOẠI (NẾU CÓ) ĐẶC ĐIỂM (BÁM SÁT YÊU CẦU CẦN ĐẠT) ĐẶC SẮC RIÊNG
NIỆM PHẨM TIÊU BIỂU

TRUYỆN Trong giáo trình “Văn Trong giáo trình Văn Nhận biết được một số yếu tố: - “Thầy bói xem
CƯỜI học dân gian Việt học dân gian Việt Nam - Cốt truyện: voi”

22
Nam”, GS. Đinh Gia , GS Đinh Gia Khánh + Truyện trào phúng: Ngắn gọn và kết cấu chặt - “Lợn cưới áo
Khánh viết: “Truyện chia truyện cười chẽ: không nhiều lời, nhiều chi tiết, truyện mới”
cười, nói một cách đơn thành: truyện khôi cười xây dựng theo kiểu gói kín mở nhanh tình
giản, là truyện làm cho hài và truyện trào huống diễn biến tự nhiên, nhanh chóng và tất
người ta cười (...). phúng. cả đều hướng vào mục đích gây cười.
Trong truyện cổ tích Theo “Từ điển văn + Truyện tiếu lâm: Theo “Từ điển văn học bộ
cũng đã có nhiều yếu học bộ mới”, Đỗ Đức mới”, Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), tr. 1834. Cốt
tố gây ra tiếng Hiểu (chủ biên), truyện tiếu lâm có dung lượng rất ngắn, kết
cười(...). Song tiếng tr.1843: Truyện cười cấu chặt chẽ và có kết thúc đột ngột, bất ngờ,
cười ở đây chỉ có vai dân gian được chia thắt nút lại khi vừa kết truyện và mang nhiều
trò điểm xuyết, làm thành 2 loại: yếu tố tục.
cho truyện thêm - Truyện trào phúng: - Bối cảnh: Tùy từng nội dung của câu truyện
duyên dáng, đậm đà (Nhóm truyện miêu cười mà có những bối cảnh cụ khác nhau. Tuy
mà thôi chứ không tả những biểu hiện vậy bối cảnh sinh hoạt, làng quê Việt Nam thời
chiếm vị trí trung tâm hài hước của những phong kiến vẫn nhiều hơn cả. Ví dụ: bối cảnh
trong sự phát triển của tính cách xấu phổ xử kiện, bối cảnh làm ruộng...
truyện.” biến; Nhóm truyện - Nhân vật:Theo “Từ điển văn học bộ mới”, Đỗ
Theo “Từ điển văn học miêu tả những biểu Đức Hiểu (chủ biên), tr.1843:
bộ mới”, Đỗ Đức Hiểu hiện hài hước của + Truyện trào phúng: Ở nhóm truyện miêu tả
(chủ biên), tr.1842: những tính cách xấu những biểu hiện hài hước của những tính cách
“Truyện cười dân gian gắn liền với bản chất xấu phổ biến, thì nhân vật của truyện trào
là một trong những của những tầng lớp xã phúng là những anh lười, anh tham ăn, anh nói
thể loại tự sự tiêu biểu hội cụ thể). khoác...Những nhân vật này không mang tính
cho dòng văn hài hước - Truyện tiếu lâm: có xác định xã hội- cụ thể, mà chỉ tượng trưng cho
dân gian, bao hàm dung lượng rất ngắn. những tính cách xấu nói chung mà thôi. Vì vậy
những truyện khác nhân vật có đặc trưng của loại nhân vật tính
nhau về tính chất của cách; Nhóm truyện miêu tả những biểu hiện
đối tượng phản ánh và hài hước của những tính cách xấu gắn liền với
do đó cả về tính chất bản chất của những tầng lớp xã hội cụ thể, thì
hài hước.” xây dựng nhân vật có tính xác định xã hội cụ
thể. Biểu hiện cụ thể là nhân vật có tên gọi nói
lên thành phần xã hội của mình. Ví dụ: Quan
huyện, quan Tuần, Lí trưởng...Các nhân vật này
có những thói xấu cũng giống nhóm trước tuy

23
nhiên còn có nhiều thói xấu gắn với bản chất
xã hội của từng lớp người.”
+ Truyện tiếu lâm: cũng gần với truyện khôi
hài và nhân vật cũng giống với truyện trào
phúng nhưng khác biệt là nhân vật mang nhiều
yếu tố tục nên có tác dụng gây cười mạnh mẽ,
cái cười mang nghĩa bản năng hơn là mang
nghĩa xã hội.
- Ngôn ngữ: giản dị, ngắn gọn nhưng tinh và
sắc.
Theo “Lí luận văn Truyện ngắn trung Nhận biết và phân tích được: - “Lão Hạc” (Nam
học”, Trần Đình Sử, tr. đại: là một khái niệm - Cốt truyện đơn tuyến: Tuy vẫn đảm bảo bố Cao)
397”: “Truyện ngắn là tương đối, của khoa cục truyền thống: trình bày - khai đoạn (thắt - “Chém treo
hình thức ngắn của tự nghiên cứu văn học nút), phát triển, đỉnh điểm (cao trào), và kết ngành” (Nguyễn
sự.” hiện đại áp dụng cho thúc (mở nút). Nhưng trong cốt truyện đơn Tuân)
Theo “Từ điển văn học thực tế văn học thời tuyến, hệ thống sự kiện được tác giả kể lại gọn - “Từ bỏ” (Nguyễn
bộ mới”, Đỗ Đức Hiểu trung đại. Thời trung gàng và thường là đơn giản về số lượng, tập Ngọc Tư)
(chủ biên), tr. 1846”: đại chưa hề biết đến trung thể hiện quá trình phát triển tính cách
“truyện ngắn là một khái niệm này. Thay vì của một vài nhân vật chính, có khi chỉ là một
thể loại tự sự cỡ nhỏ, dùng một khái niệm có giai đoạn trong cuộc đời nhân vật chính. Vì
thường được viết tính chất khái quát, vậy cốt truyện đơn tuyến thường có dung
TRUYỆN bằng văn xuôi, đề cập người xưa có tên gọi lượng nhỏ hoặc vừa. Ví dụ: cốt truyện của
NGẮN hầu hết các phương riêng cho mỗi cuốn Truyện Kiều, Tắt đèn, Bắc Sơn thuộc loại cốt
diện của đời sống con sách (chí, lục, phả, bút, truyện đơn tuyến.
người và xã hội. Nét tùy bút, kí, kí sự, - Cốt truyện đa tuyến: Tuy vẫn đảm bảo bố
nổi bật của truyện thuyết…). cục truyền thống: trình bày - khai đoạn (thắt
ngắn là sự giới hạn về Truyện ngắn hiện nút), phát triển, đỉnh điểm (cao trào), và kết
dung lượng; tác phẩm đại thúc (mở nút). Nhưng cốt truyện đa tuyến
truyện ngắn thích hợp trình bày một hệ thống sự kiện phức tạp,
với việc tiếp nhận độc nhằm tái hiện nhiều bình diện của đời sống ở
giả đọc nhó liền một một thời kì lịch sử, tái hiện những con đường
mạch không nghỉ.” diễn biến phức tạp của nhiều nhân vật, do đó
có một dung lượng lớn. Hệ thống sự kiện
trong cốt truyện đa tuyến được chia thành

24
nhiều dòng, nhiều tuyến gắn liền với số phận
các nhân vật chính của tác phẩm.

Trong cuốn Từ điển Theo soạn giả Nhận biết được một số yếu tố: cốt truyện, bối - “Thời của chim
Văn học, tập 2 [tr.450] Nguyễn Văn Hùng cảnh, nhân vật, ngôn ngữ Hồng chim Hạc
ghi rõ: “Truyện lịch sử trong bài viết (Phạm Ngọc
thuộc loại tự sự - có “Truyện ngắn về đề Quý)”
hai thành phần chủ tài lịch sử từ thế kỉ - “Đào viên tình
yếu là cốt truyện và XX đến nay - đôi nét sử” (Phạm Thái
nhân vật. Thủ pháp phác thảo” chia theo Quỳnh)…
nghệ thuật chính là kể. khuynh hướng như
Truyện thừa nhận có sau: Truyện về đề tài
vai trò rộng rãi của hư lịch sử có 4 khuynh
cấu và tưởng tượng. hướng chính:
Tùy theo nội dung Khuynh hướng tái
phản ánh, dung lượng, hiện chân thực lịch
chủ thể sáng tạo mà sử: Thời của chim
truyện chia thành Hồng chim Hạc
TRUYỆN nhiều loại: truyện (Phạm Ngọc Quý),
LỊCH SỬ ngắn, truyện vừa, Nghĩa động càn khôn
truyện dài (cũng gọi là (Trần Hạ Tháp), Vụ
tiểu thuyết).” án rạch Láng Thé
(Phạm Văn Thúy),
Người làm thuê
quán trọ thành
Thăng Long (Khúc
Hà Linh), Đào viên
tình sử (Phạm Thái
Quỳnh)…
Khuynh hướng luận
giải lịch sử, xem sự
kiện lịch sử như
phương tiện, phông
nền để nhà văn thể
hiện những suy tư,

25
chiêm nghiệm về các
vấn đề của lịch sử,
văn hóa và số phận
con người: Kiếm sắc,
Phẩm tiết, Vàng lửa,
Mưa Nhã Nam, Phủ
Tường Vi, Cội nguồn
vang bóng, Phong
hầu, Thần nữ đi chân
không, Dị hương, tập
truyện Đêm cuối
cùng ở Ngọa Vân…
Khuynh hướng
truyện ngắn lịch sử –
kiếm hiệp, lịch sử –
huyền ảo, huyền
thoại: tập truyện
Bảo kiếm truyền kì,
Những truyện không
nên đọc lúc nửa
đêm, Dị hương, Giáo
sĩ, Hồn quỳnh, Ngủ
giữa trùng sơn;
Khuynh hướng
truyện ngắn lịch sử –
văn hóa, phong tục:
Vũ khúc Vijaya, Sông
cạn,Người hát ca
trù…

Theo “Lý luận văn học” Có thể chia thơ trào Nhận biết và phân tích được một số thủ pháp Những thủ pháp nghệ thuật đó Mời trầu, Cảnh
do thầy Trần Đình Sử phúng ra làm hai: nghệ thuật chính của thơ trào phúng có thể là: những hình ảnh mang làm lẻ; Chùa Quán
THƠ TRÀO
chủ biên: “ Thơ trào thơ châm biếm và tính ẩn dụ (ẩn tượng); phản Sứ (Hồ Xuân
PHÚNG
phúng là dạng trữ tình, thơ đả kích. ngữ ; chơi chữ; từ láy, nói lái;... Hương); Vịnh
và tác giả thể hiện tình khoa thi Hương

26
cảm phủ nhận những Thơ châm biếm nhằm (Trần Kế
điều sâu xa bằng một mục đích giáo dục xã Xương);…
giọng văn châm biếm, hội, giáo dục con người
mỉa mai, trào lộng. Sức bằng nụ cười nhẹ
mạnh của trào phúng nhàng mà kín đáo, dí
phải là lòng căm giận dỏm mà sâu sắc. Nụ
sâu sắc những thói hư cười đó bao hàm cả
tật xấu, những con việc phê phán lẫn tinh
người phản diện trong thần xây dựng.
xã hội, xuất phát từ Thơ đả kích nhằm lột
một lí tưởng thẩm mĩ mặt nạ kẻ thù bằng nụ
đúng đắn, tiến bộ.” cười có sức công phá
mãnh liệt

Dẫn theo định nghĩa Nhận biết được một số yếu tố thi luật của Thu ẩm (Nguyễn
phổ thông trong SGK thất ngôn bát cú và thơ tứ tuyệt Đường Khuyến); Buổi
hiện hành: “Thơ thất luật: chiều lữ thứ (Bà
ngôn bát cú là loại thơ - Bố cục: Cấu trúc bài thơ thất ngôn bát cú gồm Huyện Thanh
mỗi bài có 8 câu và 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Quanh);…
mỗi câu 7 chữ, tức là + Hai câu đầu tiên (1 và 2) là Mở Đề và Vào Đề
chỉ có 56 chữ trong (mở bài, giới thiệu...)
một bài thơ thất ngôn + Hai câu tiếp theo (3 và 4) là hai câu Thực
bát cú.” (miêu tả), yêu cầu của 2 câu này là đối nhau cả
THƠ THẤT về thanh (bằng đối trắc hoặc ngược lại) và về
NGÔN BÁT nghĩa.
CÚ + Hai câu 5 và 6 là hai câu Luận (suy luận), yêu
cầu cũng đối nhau cả về thanh và nghĩa, tương
tự như hai câu Thực ở trên.
+ Hai câu cuối cùng (7 và 8) là hai câu Kết (kết
luận), không yêu cầu đối nhau.
- Niêm: Các tiếng 2, 4, 6 của các cặp câu 1 – 8;
2 – 3; 4 – 5; 6 – 7 trùng nhau về thanh điệu.
- Luật: Nếu tiếng thứ hai của câu 1 là vần bằng
thì gọi là thể bằng, là vần trắc thì gọi là thể trắc.
Thể thơ quy định rất nghiêm ngặt về luật bằng

27
trắc. Luật bằng trắc này đã tạo nên một mạng
âm thanh tinh xảo, uyển chuyển cân đối làm lời
thơ cứ du dương như một bản tình ca. Người
ta đã có những câu nói vấn đề về luật lệ của
bằng trắc trong từng tiếng ở mỗi câu thơ: các
tiếng nhất - tam - ngũ bất luận còn các tiếng:
nhị - tứ - lục phân minh.
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Thanh:..B...........T..........B...
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Thanh:..T...........B..........T
(Muốn làm thằng cuội, Tản Đà)
- Vần: Thường gieo ở cuối câu 1,2,4,6,8.
- Nhịp: 2/2/3 hoặc 4/3, 3/4
- Đối: Các tiếng 2, 4, 6 của các cặp câu : 1- 2; 3
– 4; 5 – 6; 7 – 8 luôn trái ngược nhau về thanh
điệu.
+ Hai câu Thực (miêu tả), yêu cầu phải đối
nhau cả về thanh (bằng đối trắc hoặc ngược
lại) và về nghĩa.
+ Hai câu 5 và 6 là hai câu Luận (suy luận), yêu
cầu đối nhau cả về thanh và nghĩa, tương tự như
hai câu Thực ở trên.

Dẫn theo định nghĩa Nhận biết được một số yếu tố thi luật của Nhớ Lam Quan
phổ thong trong SGK thất ngôn bát cú và thơ tứ tuyệt Đường xưa (Lam Quan
hiện hành: “Thất ngôn luật: hoài cổ) của
tứ tuyệt là thể thơ mỗi - Bố cục: mỗi bài có 4 câu và mỗi câu 7 chữ. Bố Nguyễn Trãi;...
THƠ TỨ
bài có 4 câu và mỗi câu cục của bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt được khai
TUYỆT
7 chữ, trong đó các câu thác theo cấu trúc: Khai, thừa, chuyển, hợp.
ĐƯỜNG
1,2,4 hoặc chỉ các câu Câu 1 gọi là câu khai; Câu 2 gọi là câu thừa; Câu
LUẬT
2,4 hiệp vần với nhau 3 gọi là câu chuyển; Câu 4 được gọi là câu hợp
ở chữ cuối. Thể thơ (khép lại).
này ra đời vào thế kỉ 7 - Luật:
+ Bảng luật thơ luật trắc vần bằng:

28
Nhà Đường, Trung T - T - B - B - T - T - B (vần)
Quốc” B - B - T - T - T - B - B (vần)
B-B-T-T-B-B-T
T - T - B - B - T - T - B (vần)
+ Bảng luật thơ luật bằng vần bằng:
B - B - T - T - T - B - B (vần)
T - T - B - B - T - T - B (vần)
T-T-B-B-B-T-T
B - B - T - T - T - B - B (vần)
- Vần: Thường gieo vần ở cuối các câu 1-2-4-
6-8 xen kẽ tiếng không có dấu và tiếng có dấu
huyền để bài thơ khi đọc lên nghe du dương
trầm bổng như điệu nhạc.
- Nhịp: thơ thất ngôn tứ tuyệt có nhịp chẵn,
ngắt nhịp 2 hoặc 4 tiếng trọn nghĩa.
- Đối: Phần lớn những bài thơ Thất ngôn tứ
tuyệt Đường luật có luật đối như sau :
+ Có thể câu 1 và câu 2 đối nhau.
+ Có thể câu 3 và câu 4 đối nhau.
+ Có thể câu 2 câu 3 đối nhau.

Theo soạn giả Đồng Nhận biết và phân tích được nét độc đáo Theo soạn giả Đồng Hoàng Đây mùa thu tới
Hoàng Phong trong của bài thơ thể hiện qua: Phong thuộc Viện Hàn lâm Khoa (Xuân Diệu);
“Đặc điểm ngôn ngữ - Từ ngữ: Theo Lí luận văn học - tr. 365. Ngôn học Xã hội Việt Nam: “ Về thanh Chẳng chiến chinh
thơ bảy chữ hiện đại” ngữ thơ bão hòa cảm xúc - Lời thơ là lời đánh điệu của thơ bảy chữ hiện đại, mà cũng lẻ đôi (Du
có định nghĩa: “Thơ giá trực tiếp thể hiện quan hệ của chủ thể với vẫn đựa vào hai khuôn thanh cơ Tử Lê); Anh đừng
bảy chữ xuất hiện vào cuộc đời; Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính - Thế bản của thất ngôn truyền thống, khen em (Lâm Thị
THƠ 6,7 đầu những năm thế kỷ giới nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện có điều, thơ bảy chữ hiện đại Mỹ Dạ);…
CHỮ XX, đỉnh cao là phong bằng ý nghĩa của từ ngữ, mà bằng cả âm thanh, được chia theo khổ.
trào Thơ Mới (1932- nhịp điệu của từ ngữ ấy. Thơ bảy chữ hiện đại, ngoài ngắt
1945). Trên cơ sở tiếp - Hình ảnh: Việc chọn lọc từ tạo nên hình ảnh nhịp theo thất ngôn truyền
thu truyền thống của thường được thấy rất nhiều trong các bài thơ. thống là 4/3 thì còn nhiều cách
thơ thất ngôn đã có Có những hình ảnh đẹp, mềm mại, hài hòa, thơ ngắt nhịp khác như 2/ 5,
nhiều cách tân sáng mộng. Có những hình ảnh khắc khổ, vuông 2/2/3,...
tạo về ngôn ngữ, vần thành sắc cạnh, song cũng có những hình ảnh

29
điệu, thanh điệu, nhịp đồ sộ, đôi khi gớm ghiếc. Mỗi một hình ảnh đều Loại thơ này hầu như không bị
điệu.” nhằm tái tạo lại thị giác, cảm quan của người giới hạn về nội dung và cách
làm thơ lúc họ viết. gieo vần cũng rất phong phú.”
- Bố cục:
+ Thơ 6 chữ: Gồm có nhiều khổ thơ. Một khổ
gồm 4 câu mỗi câu 6 chữ.
+ Thơ 7 chữ: Gồm có nhiều khổ thơ. Một khổ
gồm 4 câu mỗi câu 7 chữ.

Theo “Từ điển văn học Do nội dung, tính Nhận biết và phân tích được một số yếu tố Hài kịch, như trên đã nói, Ông Jourdain mặc
bộ mới”, Đỗ Đức Hiểu chất, cung bậc của của hài kịch như: hướng vào sự cười nhạo cái xấu lễ phục
(chủ biên), tr. 566: tiếng cười, hài kịch - Xung đột kịch: Theo “Lí luận văn học”, Trần xa, lố bịch đối lập với lí tưởng (Moliere);...
“Hài kịch là một thể chia thành nhiều Đình Sử, tr. 402: Xung đột kịch có thể có nhiều xã hội hoặc chuẩn mực đạo đức.
loại kịch trong đó có tiểu loại khác nhau phạm vi và cấp độ: xung đột trong nội tâm,
các tính cách, các tình như hài kịch tính xung đột giữa tính cách và hoàn cảnh...Nhưng
huống và hành động cách, hài kịch tình tập trung nhất là những tính cách mang những
được trình bày dưới huống, hài kịch sinh quan niệm và địa diện cho những lực lượng
hình thức cười cợt hoạt, hài kịch trào khác nhau trong cuộc sống.
hoặc thấm đậm chất phúng,... - Hành động kịch: Xung đột kịch được cụ thể
hài.” hóa bằng hành động kịch. Theo Aristote:
Theo “Từ điển thuật “Hành động là đặc trưng của vở kịch”. Nếu
HÀI KỊCH ngữ văn học” của Soạn xung đột được coi là điều kiện cần thiết làm
giả Lai Nguyên Ân: nảy sinh tác phẩm thì hành động lại là yếu tố
“hài kịch là một thể duy trì sự vận hành của tác phẩm. Hành động
loại kịch, trong đó các kịch là sự tổ chức các tình tiết, sự kiện, biến cố
tính cách, cách tình trong cốt truyện theo một trình tự logic, chặt
huống và cách hành chẽ, chủ yếu theo quy luật nhân quả. Hành
động được trình bày động được miêu tả căng thẳng, gấp gáp, hết
dưới hình thức cười hành động này đến hành động khác, ngay cả
cợt hoặc thấm đẫm khi thực hiện những hành động suy tư, ngẫm
chất hài.” [tr.136] nghĩ cũng diễn ra rất nhanh. Hành động kịch
cần được hiểu trong tính thống nhất toàn vẹn
của nó. Trong quá trình đó nhân vật bộc lộ đặc
điểm, tính cách của mình.

30
- Nhân vật kịch: Nhân vật của hài kịch thường
không có sự tương xứng giữa thực chất bên
trong với danh nghĩa bên ngoài của mình nên
đã trở thành lố bịch. Các tính cách trong hài
kịch thường được mô tả một cách đậm nét, cận
cảnh và ở trạng thái tĩnh, nhất là những nét gây
cười. Phạm vi phản ánh của hài kịch hết sức
rộng lớn: từ những vấn đề chính trị – xã hội
đến những thói xấu trong sinh hoạt hằng ngày.
Trong hài kịch cũng có thể mô tả nỗi đau khổ
của con người, song chỉ có thể cho phép ở mức
độ nhất định sao cho nỗi đau không lấn át cái
cười để từ đó hài kịch chuyển thành chính
kịch.
- Lời thoại: Đó là lời các nhân vật được truyền
đạt bởi những diễn viên đóng vai nhân vật ấy.
Lời của các nhân vật gọi là thoại bao gồm 3
dạng: đối thoại, độc thoại và bàng thoại.
+ Đối thoại: là lời các nhân vật nói với nhau
+ Độc thoại: là lời nhân vật nói với chính mình
+ Bàng thoại: là lời nhân vật nói riêng với khán
giả
Trong kịch, lời thoại là một hành động đầy kịch
tính. Đồng thời, đó vừa là hành động vừa là
phương tiện biểu hiện nên tính cách nhân vật.
- Thủ pháp trào phúng: giễu nhại,…

LỚP 9
ĐỊNH NGHĨA/KHÁI MỘT SỐ TÁC
THỂ LOẠI PHÂN LOẠI (NẾU CÓ) ĐẶC ĐIỂM (BÁM SÁT YÊU CẦU CẦN ĐẠT) ĐẶC SẮC RIÊNG
NIỆM PHẨM TIÊU BIỂU

31
Theo “Thi pháp văn học Nhận biết và phân tích được một số yếu tố: - Tính giáo huấn: khá rõ ở những - “Truyền kì mạn
trung đại Việt Nam”, Truyện truyền kì là văn xuôi tự sự viết bằng chữ lời bình cuối truyện lục” (Nguyễn Dữ):
Trần Đình Sử: “Truyện Hán, cốt truyện có thể dựa vào truyện dân gian - Thể hiện khát vọng giải thoát, tự Từ Thức lấy vợ tiên,
truyền kì là loại văn xuôi nhưng tác giả đã gia công sáng tác khá nhiều về do luyến ái, đòi hỏi công lí Chuyện người con
tự sự, có nguồn gốc từ tư tưởng, cốt truyện, nhân vật, tình tiết, lời văn - Thể hiện nhiều mối tình lãng gái Nam Xương
văn học Trung Quốc, biến ngẫu… đặc biệt là sự kết hợp giữa yếu tố mạn và nhiều truyện còn mang - “Truyền kì tân
thịnh hành ở đời nhà hoang đường kì ảo từng lưu truyền trong dân đậm màu sắc dục phả” (Đoàn Thị
Đường ( VI - IX ). Truyện gian (truyền kì) với những chuyện thực trong Điểm): Vân Cát thần
truyền kì thường được xã hội với những cuộc đời, số phận của con nữ
mô phỏng cốt truyện người Việt Nam thời trung đại. - Thánh Tông di
dân gian hoặc dã sử vốn - Cốt truyện: Truyện truyền kì thường được mô thảo: Chồng Dê,
đã được lưu truyền rộng phỏng cốt truyện dân gian hoặc dã sử vốn đã Duyên lạ xứ Hoa
rãi trong nhân dân ( có được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân ( có
khi là cốt truyện của khi là cốt truyện của Trung Quốc), sử dụng các
Trung Quốc)” motif quen thuộc của truyện dân gian.
Theo “Thi pháp văn học trung đại Việt Nam”,
TRUYỆN
Trần Đình Sử, Tr. 293: truyện truyền kì Trung
TRUYỀN
Quốc thường có bố cục gồm ba phần:
KỲ
Mở đầu: giới thiệu nhân vật (tên họ, quê quán,
tính tình phẩm hạnh)
Kể chuyện: kể các chuyện kì ngộ, lạ lùng
Kết thúc: nêu lí do kể chuyện.
Các tác giả Việt Nam theo truyền thống truyền
kì Trung Quốc, nhưng lại có một quá trình hình
thành và phát triển gắn liền với nền văn hóa và
văn học dân tộc, đặc biệt là với văn học dân gian
và văn xuôi lịch sử.
- Về một số đặc điểm khác của truyện truyền
kì, theo “Thi pháp văn học trung đại Việt Nam”,
Trần Đình Sử, (tr. 295- 296), viết (lược ghi):
+ Truyện có cốt truyện hoàn chỉnh như những
tác phẩm nghệ thuật, có thắt nút, phát triển và
mở nút.
+ Truyện có thể kết thúc có hậu hay không.

32
+ Truyện chú trọng vào việc hơn là chú trọng
vào người, lấy việc mà biểu hiện người, răn
người.
+ Truyện thường có lời bình (hay lời bàn) để
bình luận về mặt đạo đức, nghệ thuật.
- Nhân vật: thường được xây dựng khá đơn
giản, tính cách nhân vật thể hiện qua hành động,
ngôn ngữ, ít khi đi sâu vào phân tích tâm lí, diễn
biến tâm trạng, nội tâm nhân vật thường ít có
xung đột, mâu thuẫn.. Đây là điểm khác biệt lớn
giữa truyện truyền kì và những sáng tác tự sự
hiện đại. Một số kiểu nhân vật thường gặp như:
con người phàm trần, những nhân vật không
thuộc về thế giới người như tinh vật, yêu ma,
thần tiên,...
- Không gian, thời gian nhuốm màu sắc huyền
ảo: Trong truyện truyền kì, thế giới con người
và thế giới siêu nhiên có sự tương giao. Có rất
nhiều cõi khác nhau: cõi tiên mê hoặc lòng
người, chốn thủy phủ lộng lẫy, nơi địa phủ rùng
rợn
- Chi tiết: Yếu tố “kì” hay chi tiết kì ảo là một yếu
tố rất nổi bật. Kì là những chuyện khác thường,
hoang đường, kì dị như: người lấy tiên, tiên
giáng trần, người chết mà làm quan nơi âm phủ,
người sống nằm mơ trò chuyện với thần, ma,
người lấy ma, lấy tinh của cây cối, đồ vật, người
đi kiện Diêm Vương,… Trong kì có ảo, tức là
nhửng sự biến hóa vô thường như người biến
thành ma, thành tinh,…
- Lời người kể chuyện
Truyện trinh thám Việt Nhận biết được: Không gian, thời gian, chi - “Vàng và máu”, “Lê
TRUYỆN
Nam ra đời muộn hơn tiết, cốt truyện, nhân vật chính, lời người kể Phong phóng viên”,
TRINH
gần một thế kỉ so với tiểu chuyện “Những nét chữ”,...
THÁM
thuyết trinh thám thế (Thế Lữ)

33
giới. Ban đầu là sự phát - Không gian: Không gian rộng lớn và không - “Vết tay trên trần”,
triển rầm rộ của tiểu gian hẹp. Không gian rộng lớn tạo khoảng trống “Kho tàng họ Đặng”,
thuyết trinh thám Phạm cho nhân vật hành động. “Đôi hoa tai của bà
Cao Củng và Thế Lữ, sau - Thời gian: thời gian sự kiện kết hợp với thời Chúa”,... (Phạm Cao
bị gián đoạn bởi chiến gian tâm lý xoay quanh quá trình phá án của Củng)
tranh thám tử.
- Chi tiết: thể hiện ở kiểu sắp đặt các nhân tố
theo mô hình câu đố tạm có chuỗi tuần tự như
sau: bí ẩn (tội ác hay mất tích) đặt ra - hành
trình điều tra - bí ẩn được làm sáng tỏ.
- Cốt truyện: Tuân theo diễn tiến: mở đầu là cái
chết bất ngờ của một một người mà bằng cách
nào đó nhân vật thám tử biết được; tiếp theo là
quá trình điều tra và kết thúc là bí mật tội ác
được phanh phui. Đây là motif cốt truyện không
mới trong dòng văn học trinh thám. Cái chết
được tác giả sắp xếp diễn ra một cách tự nhiên,
lôgic và đầy bí ẩn.
- Nhân vật chính: thường là những con người
của lý tưởng lớn, khát vọng lớn, mang vẻ đẹp trí
tuệ vượt trội. Ca ngợi sự tài ba, thông thái của
nhân vật thám tử cũng chính.
- Lời người kể chuyện: Tạo sự bí ẩn nhằm
đánh lạc hướng người đọc. Tạo sự sáng tỏ, dẫn
dắt người đọc đến việc giải đố bí ẩn. Tạo độ
mỏng, sự nhẹ nhàng cho truyện kể.
Theo “Từ điển văn học Nhận biết và phân tích được một số yếu tố - “Khóc Dương
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiếu, về thi luật: Khuê” (Nguyễn
tr. 1549 viết: “Một thể - Số chữ, số dòng: Dòng trong thể song thất lục Khuyến)
THƠ SONG thơ cách luật cổ điển bát là một trong bốn vế song hành tạo thành - “Cung oán ngâm
THẤT LỤC được coi là thuần túy của một khổ thơ gồm: Một cặp song thất và một cặp khúc” (Nguyễn Gia
BÁT Việt Nam. Đơn vị cơ bản lục bát. Việc chia tách các dòng tuân theo quy Thiều)
là một tổ hợp giữa thể tắc tiếng thứ bảy dòng trên và dòng dưới của - Bản dịch Nôm
thất ngôn và lục bát.” cặp thất là vị trí gieo vần và chỗ nghỉ hơi chấm Chinh phụ ngâm
dứt một chu kì luân phiên thanh điệu B-T-B (Đoàn Thị Điểm)

34
Cũng khổ thơ trong lục bát các khổ song thất lục
bát trong tác phẩm không bị hạn định về số
lượng. Lục bát thường thể là phổ biến, mỗi khổ
gồm bốn dòng thơ có cách tổ hợp song thất + lục
bát. Lục bát gián thất, mõi khổ sáu dòng có tổ
hợp Lục bát + song thất + lục bát (Khóc Dương
Khuê). Tổ hợp các dòng cũng có sự biến đổi như
co giãn dòng thơ, một số dòng thất có đến tám
tiếng: “Á tế Á năm châu là nhất / Người nhiều
hơn mà đất cũng nhiều hơn” (Bài ca Á tế Á - Vô
danh).

- Nhịp: Hai câu Thất hầu như tất cả đều được


ngắt nhịp 3/4, có thể đối nhau hoặc không đối.
Và 3 chữ đầu trong câu Thất thường gợi nên
một hình ảnh, hoặc một âm thanh để câu thơ trở
nên sắc sảo.
+ Hai câu Thất luôn ngắt nhịp lẻ, nghĩa là ngắt
nhịp ở chữ thứ 3 & 5 trong câu.
+ Câu Lục ngắt nhịp ở chữ thứ 2 - 4 - 6 trong câu.
Nhịp 2/2/2
Tuy nhiên, đôi khi để nhấn mạnh nên người ta
đổi thành nhịp lẻ đó là nhịp 3/3.
Ví dụ:
Đau đớn thay / phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
- Câu Bát ngắt nhịp ở chữ thứ 2 - 4 - 6 - 8 trong
câu. Nhịp 2/2/2/2

-Vần:
Bảng Luật :
x x T x B x T (vần 1)
x x B x T (vần 1) x B (vần 2)
x B x T x B (vần 2)

35
x B x T x B (vần 2) x B (vần 3)
x x T x B (vần 3) x T (vần 4)
x x B x T (vần 4) x B (vần 5)
x B x T x B (vần 5)
x B x T x B (vần 5) x B (vần 6)
* Ghi chú:
- B: phải là bằng
- T: phải là trắc
- x: bằng hoặc trắc đều được

TÓM TẮT BẢNG LUẬT:


1. VỀ LUẬT:
+ Trong 2 câu Thất, chỉ có chữ thứ 3, 5 và 7 cần
theo đúng niêm luật.
+ Trong câu Lục, chỉ có chữ thứ 2, 4 và 6 cần
theo đúng niêm luật.
+ Trong câu Bát, chỉ có chữ thứ 2, 4, 6 và 8 cần
theo đúng niêm luật.
+ Những chữ còn lại có thể chọn thanh bằng hay
trắc tùy ý miễn sao đọc lên âm điệu nghe xuôi
tai là được.
2. VỀ VẦN:
- Chữ cuối của câu Thất thứ 1 vần với chữ thứ 5
của câu Thất thứ 2
- Chữ cuối của câu Thất thứ 2 vần với chữ cuối
của câu Lục bên dưới
- Chữ cuối của câu Lục vần với chữ thứ 6 của câu
Bát
- Chữ cuối của câu Bát vần với chữ thứ 5 của câu
Thất kế tiếp,...
và cứ tiếp nối như vậy cho đến khi kết thúc.
Bài thơ STLB thường bắt đầu bằng hai câu Thất
và dừng lại ở câu Bát.
3. Những điểm cần lưu ý

36
- Ở câu Thất: Chữ thứ 3 và chữ thứ 7 phải khác
thanh dấu.
- Ở câu Lục: Chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải khác
thanh dấu.
- Ở câu Bát: Chữ thứ 7 là thanh trắc, âm đọc sẽ
mạnh hơn.
Theo “Từ điển văn học bộ mới”, Đỗ Đức Hiếu, tr.
1549 viết: “Một câu song thất lục bát có tới bảy
chữ mang vần, lại có đủ kiểu vần: vần trắc, vần
bằng, vần lưng và vần chân, tạo nên sự giao
hưởng âm vận, dồi dào nhạc điệu, rất thích hợp
để ngâm vịnh.”
Sự khác biệt so với thơ lục bát:
Theo “Lịch sử phát triển, đặc trưng thể loại”,
Phan Diễm Phương, Tr.15: “Lục bát và song thất
lục bát là thể thơ cách luật bởi chúng tuân theo
“toàn bộ những quy tắc tổ chức ngôn từ thơ ca
được cố định lại thành một thể thức nhất định,
lặp đi lặp lại trong các tác phẩm”. Nhưng khác
các thể thơ cách luật xây dựng trên cả hai
phương diện âm và ý, lục bát và song thất lục
bát lại xây dựng cách luật thuần tuý theo quan
hệ tương ứng giữa các yếu tố âm thanh, nên
cách luật cũng chính là âm luật. Tác giả khái
niệm như sau: “Cách luật cũng chính là âm luật,
là tổng hoà các quy tắc về các mối tương hợp âm
thanh được cố định lại trong một thể thơ”.
+ Gieo vần ở song thất lục bát:
Vần của song thất lục bát phức tạp hơn lục bát
về thanh điệu và nhiều hơn về số lượng, vì phải
thực hiện ba mối liên kết: Hai dòng thất, hai
dòng lục bát và hai dòng thất với hai dòng lục
bát.
Trong trường dạ tối tăm trời đất (Vần - trắc)

37
Xót khôn thiêng phảng phất (Vần-trắc) u minh
(Vần-bằng)
Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người
(Hương khói đã không nơi nương tựa)
(Văn tế thập loại chúng sinh)
Ví dụ trên cho thấy, thanh điệu vừa vần trắc
vừa vần bằng, trắc hiệp với trắc, bằng hiệp với
bằng; vị trí gieo vần vừa vần chân vừa vần lưng.
Thể thơ này có từ 5 đến 6 vần trong mỗi khổ
chứ không như lục bát chỉ 2 đến 3 vần.
+ Ngắt nhịp ở song thất lục bát:
Song thất lục bát thường có hai loại nhịp: nhịp
hai và nhịp ba. Quy tắc tổ chức nhịp cũng căn cứ
vào sự luân phiên thanh điệu và sự nhấn mạnh
ở các tiếng thứ (3), thứ (5), thứ (7) thuộc hai
dòng thất và các tiếng thứ (2), thứ (4) và thứ (6)
của hai dòng lục bát.
Nghe não nuột / khác tay / đàn trước
Khắp tiệc hoa / sướt mướt / lệ rơi
Lệ ai / chan chứa / hơn người
Giang Châu / Tư Mã / đượm mùi / áo xanh.
(Tì bà hành)
Tuy vậy, kiểu ngắt nhịp này nhiều khi biến đổi:
Một năm / một nhạt / mùi son phấn
(Chinh phụ ngâm)
Đêm khuya / tỉnh giấc / hai hàng lệ
(Tương Phố - Tự tình)
+ Phối điệu ở song thất lục bát:
Theo ba quy tắc: Một là tiếng thứ (3), tiếng thứ
(5), tiếng thứ (7) của hai dòng thất và các tiếng
thứ (2), thứ (4), thứ (6) và thứ (8) của hai dòng
lục bát quy định chặt chẽ về thanh điệu. Hai là
hai dòng thất bình đối, niêm và hai dòng lục bát
phải niêm. Ba là tiếng thứ (7) của dòng thất

38
dưới phải là bằng - bổng (thanh ngang); tiếng
thứ (6) và tiếng thứ (8) của hai dòng lục bát có
sự chuyển đổi thanh bằng - trầm (huyền) về
thanh bằng - bổng (ngang).
Tỉnh giấc mộng ngâm câu kí vãng
Trải tám thu ngày tháng như thoa
Chiếc thân tựa gối quan hà
Nỗi niềm tâm sự trăng già thấu chăng
(Tự tình khúc)
Mô hình trên cũng có trường hợp biến đổi như:
“Trên lầu cao dưới cầu nước chảy” (Văn tế thập
loại chúng sinh) hay “Tiền như nước hễ tích
thời khô” (Tỉnh quốc hồn ca)
Theo “Từ điển Thuật Theo Nguyễn Lộc Nhận biết và phân tích được một số yếu tố: - Kết cấu - “Lục Vân Tiên”
ngữ văn học”, tr. 372 trong cuốn Văn học - Cốt truyện: - Không gian – thời gian (Nguyễn Đình
viết: định nghĩa “Thể loại Việt Nam nửa cuối thế + Truyện Nôm bình dân: Nhiều truyện Nôm - Người kể chuyện Chiểu)
tự sự bằng thơ dài rất kỷ XIX cho rằng: bình dân mượn cốt truyện của truyện cổ dân - Yếu tố thần kì - “Truyện Kiều”
tiêu biểu cho văn học cổ “Trước nay, nói đến gian. Về cơ bản nó giữ lại cái sườn cốt truyện - Ngôn ngữ (Nguyễn Du)
điển Việt Nam, nở rộ vào truyện Nôm, các nhà của truyện cổ nhưng nhìn chung cốt truyện - Thủ pháp dựng truyện - Phạm Công - Cúc
cuối thế kỷ XVIII, đầu thế nghiên cứu thường Truyện Nôm được triển khai rộng rãi và sâu sắc Hoa
kỷ XIX, do ghi bằng chữ chia ra làm hai loại: hơn truyện cổ dân gian. Đến truyện Nôm thì - Phạm Tải - Ngọc
Nôm nên được gọi là truyện Nôm hữu danh truyện cổ được tiểu thuyết hóa ở mức độ nhất Hoa
truyện Nôm.” và truyện Nôm khuyết định, tình tiết phức tạp hơn, dung lượng cốt - Bích Câu kì ngộ
TRUYỆN Truyện Nôm là thể loại danh. Truyện Nôm truyện mở rộng hơn. - Tống Trân - Cúc
THƠ NÔM tự sự bằng thơ dài của hữu danh là truyện + Truyện Nôm bác học: Cốt truyện ổn định với Hoa
văn học cổ điển Việt Nôm biết rõ tên tác giả, các sự kiện cơ bản: Gặp gỡ - Gia biến - Đoàn tụ.
Nam (phát triển mạnh còn truyện Nôm - Nhân vật:
vào cuối thế kỷ XVIII – khuyết danh là truyện + Hệ thống nhân vật của truyện thơ Nôm phong
đầu thế kỷ XIX) do viết Nôm cha biết rõ tên tác phú như nhân vật chính diện, nhân vật phản
bằng tiếng Việt ghi bằng giả là ai. Thực ra lối diện, nhân vật trung gian và các tuyến nhân vật
chữ Nôm nên được gọi là phân chia này có tính thường được xây dựng theo khuôn mẫu có
Truyện Nôm. hình thức, mà không sẵn.
nói lên một đặc điểm + Truyện Nôm bình dân: Không thể phủ định
nào về nội dung hay rằng nhân vật trong truyện Nôm bình dân vẫn
thể loại” chưa thoát khỏi những khuôn mẫu của nhân vật

39
- Theo Đinh Gia Khánh truyện cổ tích, do đó mà thế giới nhân vật của
trong cuốn “Văn học truyện Nôm bình dân có tính chất lý tưởng hóa,
dân gian thừa nhận có công thức hóa hơn là hiện thực, nhân vật loại
truyện Nôm bình dân tính hơn là cá tính.
và truyện Nôm bác + Truyện Nôm bác học: Các nhân vật trong
học” viết: “Truyện truyện Nôm bác học là những nam thanh nữ tú
Nôm nói chung là loại đa tình, tài hoa. Các nhân vật chính là kết quả
tác phẩm bắc cầu giữa của sự kết hợp nét đẹp của đạo đức truyền
văn học dân gian và thống với âm vang của đời sống tinh thần mới,
văn học bác học. Có của tư tưởng thị dân trong những khía cạnh tích
những truyện gọi là cực của nó.
truyện Nôm bình dân - Lời thoại: Ngôn ngữ truyện thơ Nôm bình dân
thì gần với văn học dân giản dị, dễ hiểu, gần gũi với đời sống nhân dân
gian hơn. Có những lao động.
truyện thì ở hoặc trung
gian, lại có truyện thì
gần với văn học bác
học hơn hoặc là hoàn
toàn có tính chất là tác
phẩm văn học bác
học”.

Nhận biết và nhận xét được nét độc đáo của - “Tiếng gió” (Xuân
bài thơ thể hiện qua: Diệu)
- Gieo vần: - “Nhớ rừng” (Thế
+ Vần liền tiếp: hai vần bằng tiếp theo là hai Lữ)
vần trắc, hoặc ngược lại. - “Vô đề” (Phạm
+ Vần chéo (vần gián cách): một vần bằng rồi Công Trứ)
THƠ 8
tới một vần trắc. Như vậy, câu 1 vần với câu 3, - “Nhớ con sông quê
CHỮ
câu 2 vần với câu 4. hương” (Tế Hanh)
+ Vần ôm: câu 1 vần với câu 4, câu 2 vần câu 3. - “Bếp lửa rừng”
- Nhịp thơ: phổ biến là nhịp 3/5 (Nguyễn Khoa
Điềm)
- “Tương tư chiều”
(Xuân Diệu)

40
Theo “Từ điển văn học Nhận biết và phân tích được một số yếu tố - Hiệu ứng thanh lọc - “Hamlet” (W.
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiếu, của bi kịch: Shakespeare)
Tr.132: “Bi kịch là một - Xung đột kịch: Theo cách định nghĩa của các - “Romeo and Juliet”
thể loại kịch dựa vào tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Kịch (W. Shakespeare)
xung đột bi đát của các dược xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch - “Vua Lear” (W.
nhân vật anh hùng, có sử, xã hội hoặc những xung đột muôn thuở Shakespeare)
kết thúc bi thảm, tác mang tính toàn nhân loại (như giữa thiện và ác, - “Hồn trương ba da
phẩm đầy chất thống cao cả và thấp hèn, ước mơ và hiện thực…) hàng thịt” (Lưu
thiết. Bi kịch là thể của những xung đột ấy được thể hiện bằng một cốt Quang Vũ)
loại hình chính kịch, đối truyện có cấu trúc chặt chẽ qua hành động của - “Yêu Ly” (Vũ Như
lập với thể hài kịch. Bi các nhân vật và theo những quy tắc nhất định Tô)
kịch là một thể loại của nghệ thuật kịch. Trong kịch thường chứa - “Vĩnh biệt Cửu
nghiêm ngặt đến khắc đựng nhiều kịch tính, tức là những sự căng Trùng Đài” (Nguyễn
nghiệt; nó miêu tả thực thẳng do tình huống tạo ra đối với nhân vật”. Huy Tưởng)
tại theo lối nhấn mạnh, - Hành động kịch: Xung đột kịch được cụ thể
cô đặc các mâu thuẫn hóa bằng hành động kịch. Theo Aristote: “Hành
bên trong, phơi bày động là đặc trưng của vở kịch”. Nếu xung đột
BI KỊCH những xung đột sâu sắc được coi là điều kiện cần thiết làm nảy sinh tác
của thực tại dưới dạng phẩm thì hành động lại là yếu tố duy trì sự vận
bão hòa và căng thẳng hành của tác phẩm. Hành động kịch là sự tổ
đến cực hạn, mang ý chức các tình tiết, sự kiện, biến cố trong cốt
nghĩa tượng trưng nghê truyện theo một trình tự logic, chặt chẽ, chủ yếu
thuật.” theo quy luật nhân quả. Hành động được miêu
tả căng thẳng, gấp gáp, hết hành động này đến
hành động khác, ngay cả khi thực hiện những
hành động suy tư, ngẫm nghĩ cũng diễn ra rất
nhanh. Hành động kịch cần được hiểu trong
tính thống nhất toàn vẹn của nó. Trong quá
trình đó nhân vật bộc lộ đặc điểm, tính cách của
mình.
- Nhân vật kịch: Thế giới nhân vật khá đa dạng,
bao gồm nhiều tầng lớp, con người khác nhau
trong xã hội.Bị chi phối bởi đề tài và quan điểm
sáng tác, nhân vật kịch cũng mang dấu ấn của
con người lịch sử. Họ được đặt trong những bối

41
cảnh không, thời gian văn hóa khác nhau trên
chặng đường tiến triển của lịch sử, nên đòi hỏi
nhà viết kịch phải có sự am hiểu tường tận về
phong tục, trang phục, ngôn ngữ và những nét
văn hóa đặc thù của từng giai đoạn để không
phá vỡ xúc cảm thẩm mĩ của độc giả.
- Cốt truyện: Đây là một trong những yếu tố
quan trọng tạo nên bi kịch. Theo Aristotlte cốt
truyện xoay quanh một hành động tròn vẹn:
đầu – giữa – cuối. Hay nói cách khác bộ phận cấu
thành duy nhất của cốt truyện kịch là hành động
được triển khai qua một hệ thống sự kiện diễn
ra theo trật tự thời gian. Sự tập trung cao độ của
cốt truyện kịch là đặc điểm kết cấu của kịch bản
văn học. Thành phần của cốt truyện thường
được chia làm 3 phần: Đột biến (thay đổi các sự
kiện theo chiều ngược lại) – nhận biết (đi từ chỗ
không biết đến biết) – đau khổ (hành động gây
chết chóc hoặc đau đớn). Do đó, một vở kịch
thường được chia thành ba hoặc năm hồi tương
ứng với ba giai đoạn vận động rất mau lẹ của
hành động kịch: thắt nút (trước đó thường có
phần trình bày) – đỉnh điểm – mở nút (có thể có
thêm phần vĩ thanh).
- Lời thoại (ngôn ngữ kịch): Đó là lời các nhân
vật được truyền đạt bởi những diễn viên đóng
vai nhân vật ấy. Lời của các nhân vật gọi là thoại
bao gồm 3 dạng: đối thoại, độc thoại và bàng
thoại.
+ Đối thoại: là lời các nhân vật nói với nhau
+ Độc thoại: là lời nhân vật nói với chính mình
+ Bàng thoại: là lời nhân vật nói riêng với khán
giả

42
Trong kịch, lời thoại là một hành động đầy kịch
tính. Đồng thời, đó vừa là hành động vừa là
phương tiện biểu hiện nên tính cách nhân vật.

LỚP 10
ĐỊNH NGHĨA/KHÁI MỘT SỐ TÁC
THỂ LOẠI PHÂN LOẠI (NẾU CÓ) ĐẶC ĐIỂM (BÁM SÁT YÊU CẦU CẦN ĐẠT) ĐẶC SẮC RIÊNG
NIỆM PHẨM TIÊU BIỂU

Theo “Từ điển văn học Theo “Từ điển văn học Nhận biết và phân tích được một số yếu tố - Motif: Theo “Giáo trình dẫn luận - “Thần trụ trời”
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu (bộ mới)”, Đỗ Đức của thần thoại như: thi pháp học”, Trần Đình Sử, tr. - “Lạc Long Quân -
(chủ biên), tr. 1646: Hiểu (chủ biên), - Không gian: Theo “Giáo trình dẫn luận thi 123. Thần thoại còn chứa đựng Âu Cơ”
“Tập hợp những chuyện tr.1647” Thần thoại pháp học”, Trần Đình Sử, tr. 82”, Thần thoại như một số motif mang nội dung tô - “Thánh Gióng”
kể dân gian về các vị Việt Nam gồm có các mẫu cổ về không gian và có nhiều mô hình khác tem, tôn giáo, kì ảo: Nhân quả báo
thần, các nhân vật anh nhóm sau: nhau như mô hình ba giới: Trời - Đất - Nước (âm ứng, Tiên xuống phàm, Sự sinh nở
hùng, các nhân vật sáng 1. Nhóm thần thoại suy ty) với thần linh, người, ma quỷ làm cơ sở cho kì lạ...
tạo văn hóa, phản ánh nguyên luận gồm nhiều câu chuyện. Không gian thần thoại có thể
quan niệm của người những chuyện kể về mang một số tính chất như sau:
thời cổ về nguồn gốc của nhân cách hóa và giải + Tính nguyên sơ hoang dã của nơi xuất phát
thế giới và của đời sống thích nguồn gốc của vũ đầu tiên của các sự kiện. VD: đất trời chưa phân,
con người.” trụ, của các quá trình trời sụp phía đông nam…
THẦN diễn ra trong giới tự + Yếu tố đối lập giữa yếu tố linh khiết (đẹp, hạnh
THOẠI nhiên và cuộc sống phúc) và yếu tố bẩn thỉu (xấu xa, khổ nạn).
muôn loài (các truyện + Tính hư ảo của không gian, trong phàm có
Thần trụ trời, Nữ thần linh, đối lập linh với phàm, với không gian hằng
mặt trăng, Nữ thần ngày.
mặt trời, các truyện - Thời gian: Theo “Giáo trình dẫn luận thi pháp
Thần mưa, Thần gió, học”, Trần Đình Sử, tr.67. Trong Thần thoại
Thần biển, Sơn Tinh - không có thời gian thuần túy nằm ngoài hoặc
Thủy Tinh, các truyện xuyên qua sự vật một cách trừ tượng. Thời gian
nguồn gốc của muôn thần thoại gắn chặt với các sự vật. Nó có tính
loài…). chất tuần hoàn một cách vĩnh viễn như sự vĩnh
2. Nhóm thần thoại viễn của các thần. Thời gian Thần thoại là thời
lịch sử gồm những gian của vũ trụ khép kín cho nên nó cũng có tính
truyện kể về nguồn

43
gốc dân tộc (các truyện khép kín, không có liên hệ trực tiếp với một thời
Lạc Long Quân và Âu gian lịch sử nào.
Cơ, Quả bầu tiên..) về - Cốt truyện: Theo “Từ điển văn học (bộ mới)”,
sự nghiệp dựng nước Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), tr.1648. Thần thoại
và giữ nước trong buổi không phải là những tác phẩm có cốt truyện
bình minh của lịch sử hoàn chỉnh và ổn định mà thường là những mẩu
dân tộc (các truyện chuyện hoặc tình tiết mà người kể hoặc người
Thần Tản Viên, Ông biên soạn có thể tùy ý sắp xếp theo những hệ
Gióng, An Dương thống ít nhiều khác nhau. Càng về sau kết cấu
Vương…); thuộc nhóm của Thần thoại rất phức tạp về chủ đề và về các
này có thể kể cả những tầng lịch sử - văn hóa. VD: truyện Sơn Tinh -
truyện về các nhân vật Thủy Tinh vừa phản ánh hiện tượng lũ lụt, vừa
sáng tạo văn hóa (các gắn với các sự kiện lịch sử thời Hùng Vương;
truyện Nữ Thần nghề truyện Ông Gióng kể về chiến công của người
mộc…). anh hùng bảo vệ bộ lạc, lại có khá nhiều mẫu để
thần thoại suy nguyên...
- Nhân vật: Theo “Giáo trình dẫn luận thi pháp
học”, Trần Đình Sử, tr.47. Đặc điểm đáng chú ý
nhất của con người Thần thoại thể hiện ở chỗ là
những người đầu tiên, vị tổ tiên thứ nhất của tộc
người và nhân loại, người đẻ ra loài người,
người sáng tạo ra thế giới, người tạo ra đất trời,
ngày đêm và muôn vật. Có thể chia con người
Thần thoại vào các nhóm như sau:
+ Con người thần thoại thường mang chức năng
của một vài hiện tượng tự nhiên. VD: Thần Dớt
- chúa tể thế giới, Ôkêanox - Thần biển…
+ Con người thần thoại có sự biến hóa qua lại
giữa con người và tự nhiên do chưa tách khỏi tự
nhiên. VD: Long Quân có thể biến thành chàng
trai và cũng có thể hóa thành rồng.
+ Con người thần thoại còn có dạng lưỡng thể
nửa vật, nửa người. VD: Nữ Oa có đầu người
mình rắn.

44
+ Con người thần thoại dạng người hóa vật, vật
hóa người. VD: Hòn vọng phu.

Theo “Lí luận văn học”, Theo “Từ điển văn học Phân tích và đánh giá được một số yếu tố của -Truyện thơ Nôm có hai chủ đề - “Truyện Kiều”
Trần Đình Sử, tr.383: (bộ mới)”, Đỗ Đức truyện thơ như: chính: (Nguyễn Du)
“Truyện thơ là thể loại Hiểu (chủ biên), - Cốt truyện: Truyện thơ Nôm có nhiều nguồn + Chủ đề giải phóng tình yêu đôi - “Lục Vân Tiên”
tự sự bằng thơ. Người tr.1847, truyện thơ gốc cốt truyện khác nhau: lứa: Đây là chủ để nổi bật trong (Nguyễn Đình
phương tây gọi là Nôm có thể chia ra hai + Một số tác phẩm sử dụng cốt truyện dân gian các truyện thơ Nôm bác học Sơ Chiểu)
“poème”- thường dịch là loại: (lấy từ cổ tích, thần tích, Phật thoại,…) vốn lưu kính tăn trang, Truyện Kiểu,…
trường ca. Người trung + Truyện Nôm bình hành trong dân gian như: Tấm Cám, Thạch + Chủ đề đấu tranh cho công lí xã
Quốc gọi là “tự sự thi” dân: Phần lớn là Sanh, Quan Ầm Thị Kính, Tống Trân – Cúc Hoa, hội: Đây là chủ đề nổi bật trong
hoặc “trường thiên tự sự khuyết danh. Thể hiện Trương Chi,… các truyện thơ Nôm bình dân
thi… Trong đó đáng chú rõ quan niệm đạo đức + Một số tác phẩm lấy cốt truyện trong văn học như: Phạm Tải – Ngọc Hoa, Tống
ý nhất ở Việt Nam là bình dân: vợ chồng viết Trung Quốc (tiểu thuyết chương hồi, Trân – Cúc Hoa, Thoại Khanh –
truyện thơ nôm” chung thủy, con cái truyện truyền kì, ca bản), như: Song Tinh – Bất Châu Tuấn,… (ở một số truyện
Theo “Từ điển văn học yêu thương cha mẹ… Dụ, Hoa tiên, Truyện Kiều, Nhị độ mai, Tì bù quốc thơ Nôm bác học, chủ đề đấu
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu VD: Phạm Tải Ngọc âm tân truyện,… tranh cho công lí xã hội cũng
(chủ biên), tr.1847: Hoa. + Một số tác phẩm lấy cốt truyện từ chính cuộc được đề cập như Truyện Kiều,
TRUYỆN
“truyện Nôm là một thể + Truyện Nôm bác học: đời tác giả và thực tiễn đời sống (có thông qua Truyện Lục Vân Tiên,…)
THƠ DÂN
loại văn học viết dưới Phần lớn có tên tác giả hư cấu, sáng tạo) như: Sơ kính tân trang, Truyện - Kết cấu: Truyện thơ Nôm
GIAN
hình thức văn vần, có cốt chỉ một số ít là khuyết Lục Vân Tiên, Vợ ba Cai Vàng, Chàng Lía,... thường kết cấu theo mô hình: Gặp
truyện văn học cổ Việt danh. Nó ở trình độ Dù cốt truyện xuất phát từ nguồn nào thì các gỡ (Hội ngộ) – Tai biến (Lưu lạc) –
Nam, phát triển mạnh uyên bác, tu dưỡng truyện thơ Nôm vẫn ít nhiều phản ánh các vấn Đoàn tụ (Đoàn viên).
mẽ nhất ở giai đoạn nửa nghệ thuật. VD: đề của thực tại xã hội và con người đương thời - Ngôn ngữ: Truyện thơ Nôm
cuối TK XVIII và TK XIX.” Truyện Kiều. cũng như phản ánh tâm tư, nguyện vọng của tác luôn có sự kết hợp của hai loại
giả. ngôn ngữ: ngôn ngữ bình dân và
- Nhân vật: ngôn ngữ bác học. Ngôn ngữ bình
+ Nhân vật của truyện thơ Nôm thường được dân là lời ăn tiếng nói hằng ngày,
chia thành hai tuyến rõ ràng: nhân vật chính ngôn ngữ đời sống (khẩu ngữ,
diện (đại diện cho cái tốt, cái tiến bộ) và nhân thành ngữ, tục ngữ, phương
vật phản diện (đại diện cho cái xấu, cái ác, cái ngữ,…). Ngôn ngữ bác học là ngôn
bảo thủ). Ở những truyện thơ Nôm xuất sắc ngữ được trau chuốt, dùng phổ
(chẳng hạn Truyện Kiều), lại có những nhân vật biến trong nền văn học viết trung
lưỡng diện, khó xác quyết là chính diện hay đại, thiên về ước lệ tượng trưng,
phản diện (như Thúc Sinh trong Truyện Kiều). sử dụng nhiều từ Hán Việt, điển

45
Có những truyện thơ Nôm lại không có nhân vật tích, điển cố,văn thi liệu Hán học,
phản diện do không đặt ra vấn để đấu tranh giai nhiều thủ pháp tu từ phức tạp.
cấp hoặc đấu tranh tư tưởng (Hoa tiên, Mai đình
mộng kí). Cũng có những nhân vật chỉ có ý nghĩa
chức năng, không cần xếp vào loại nào (chẳng
hạn nhân vật nàng hầu, nhân vật người dẫn
đường, thầy bói,…).
+ Nhân vật truyện thơ Nôm cũng thường được
xây dựng theo khuôn mẫu, các motif như: chàng
trai nghèo, học giỏi (sau thành đạt), chung tình;
cô gái (nhà giàu) nết na, đảm đang, hiếu thảo;…
Tuy nhiên, cũng đã có một vài nhân vật truyện
thơ Nôm được xây dựng đa chiều, sinh động
hơn (có tính cách cá thể, có đời sống tâm lí
phong phú,…), điển hình là nhân vật Thuý Kiều
trong Truyện Kiều.
+ Ngoại hình các nhân vật cũng được chú ý miêu
tả, nhưng nhìn chung vẫn theo lối ước lệ, tượng
trưng. Ở những truyện thơ Nôm thành công
nhất, ngoại hình nhân vật đã có những nét cá
thể hoá, biểu thị tính cách, số phận.
+ Các nhân vật cũng được khắc hoạ thông qua
ngôn ngữ đối thoại. Một số nhân vật (ở truyện
thơ Nôm bác học) đã được khắc hoạ đời sống
tâm lí thông qua việc tả cảnh ngụ tình hoặc miêu
tả trực tiếp tâm trạng, tâm lí (ngôn ngữ độc
thoại).
Theo “Lí luận văn học”, Truyện ngắn trung Nhận biết và phân tích được một số yếu tố - “Chí Phèo”, “Đời
Trần Đình Sử, tr. 397: đại: là một khái niệm của truyện như: thừa” (Nam Cao)
“Truyện ngắn là hình tương đối, của khoa - Nhân vật: Theo “Lí luận văn học”, Trần Đình - “Hai đứa trẻ”
TRUYỆN thức ngắn của tự sự.” nghiên cứu văn học Sử, tr. 398. Khác với tiểu thuyết nhân vật trong (Thạch Lam)
NGẮN Theo “Từ điển văn học hiện đại áp dụng cho truyện ngắn thường là một mảng nhỏ của thế - “Chữ người tử tù”
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu thực tế văn học thời giới. Nhân vật trong truyện ngắn thường là hiện (Nguyễn Tuân)
(chủ biên), tr. 1846: trung đại. Thời trung thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức - “Một người Hà
“truyện ngắn là một thể đại chưa hề biết đến xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người. Mặt Nội” (Nguyễn Khải)

46
loại tự sự cỡ nhỏ, khái niệm này. Thay vì khác, do đó truyện ngắn lại có thể mở rộng trên - “Mẫn và tôi hoặc
thường được viết bằng dùng một khái niệm có diện nắm bắt các kiểu loại nhân vật đa dạng của trước giờ nổ súng”
văn xuôi, đề cập hầu hết tính chất khái quát, cuộc sống, chẳng hạn như chức nghiệp, xuất (Phan Tứ)
các phương diện của đời người xưa có tên gọi thân, gia hệ, bạn bè...những kiểu loại mà trong - “Mùa lá rụng trong
sống con người và xã riêng cho mỗi cuốn tiểu thuyết thường hiện ra thấp thoáng trong vườn” (Ma Văn
hội. Nét nổi bật của sách (chí, lục, phả, bút, các nhân vật phụ. Kháng)
truyện ngắn là sự giới tùy bút, kí, kí sự, - Câu chuyện: Theo “Từ điển văn học (bộ mới)”, - “Người trong
hạn về dung lượng; tác thuyết…). Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), tr.1847”. Cốt truyện bao”(A. Chekhov)
phẩm truyện ngắn thích Truyện ngắn hiện đại của truyện ngắn thường tự giới hạn về thời
hợp với việc tiếp nhận gian, không gian; nó có chức năng nhận ra một
độc giả đọc nhó liền một điều gì sâu sắc về cuộc đời, về con người. Kết
mạch không nghỉ.” cấu truyện ngắn thường không gồm nhiều tầng
nhiều tuyến mà được dựng theo kiểu tương
phản và liên tưởng.
- Điểm nhìn (người kể ngôi thứ 3 và ngôi thứ
1): Theo “Giáo trình dẫn luận thi pháp học”
Trần Đình Sử, tr. 127. Mọi trần thuật đều xuất
phát từ cái tôi hiểu biết sự việc, đều là ngôi thứ
nhất và chỉ khác nhau ở mức độ ẩn hiện. Ngôi
thứ nhất là hình thức tác giả lộ diện (xưng tôi).
Ngôi thứ ba là hình thức tác giả ẩn mình, VD: câu
trong đầu Chí Phèo thực chất là: “(Tôi thấy) bao
giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi”. Nhưng
nhà văn đã bỏ chữ “tôi thấy” đi để hóa thân vào
một người kể chuyện toàn tri biết trước và biết
hết mọi việc.
- Lời người kể chuyện: Theo giáo trình “dẫn
luận thi pháp học”, Trần Đình Sử, tr. 129. Chức
năng của người trần thuật tuy không được tự do
xong nó vẫn có thể can thiệp vào việc kể chuyện,
kể nhanh, chậm, phân tích, miêu tả, mách bảo,
chỉ điểm cho người đọc hoặc biểu thị cảm thán,
cảm xúc tạo nên phong cách trần thuật của văn
bản. Lời trần thuật có hai loại là đáng tin cậy và
không đáng tin cậy. Lời trần thuật nhiều khi

47
không nhất trí với khuynh hướng yêu ghét của
tác phẩm, tạo thành người trần thuật không
đáng tin cậy. VD: người trần thuật của Nam Cao,
Vũ Trọng Phụng… Còn ngược lại nếu lời trần
thuật nhất trí với nhân vật, với tác giả hàm ẩn
trong tác phẩm thì người trần là đáng tin cậy.
VD: người trần thuật trong Truyện Kiều.
- Lời nhân vật: Theo giáo trình “Dẫn luận thi
pháp học”, Trần Đình Sử, tr. 152- 154”, lời nhân
vật được chia thành hai loại:
+ Lời trực tiếp của nhân vật: là lời của nhân vật
trong tác phẩm văn học được thể hiện dưới
nhiều hình thức: Đối thoại che đậy nội tâm, đối
thoại bên ngoài song song với đối thoại bên
trong, Lời nói trong - ý định được công bố cùng
với lời nói ngoài, đối thoại rời rạc thể hiện trạng
thái nhân sinh, đối thoại mà không hiểu ý nghĩa
đối thoại.
+ Lời gián tiếp: là lời văn đảm đương chức năng
trần thuật (đã nói ở phần lời trần thuật), giới
thiệu, miêu tả, bình luận con người và sự kiện,
phân biệt với lời trực tiếp được đặt trong dấu
ngoặc kép hoặc sau gạch đầu dòng.
Theo “Từ điển văn học Theo “Từ điển văn học Nhận biết và phân tích được một số yếu tố - “Số đỏ (Vũ Trọng
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu (bộ mới)”, Đỗ Đức của tiểu thuyết như: Phụng)
(chủ biên), tr.1716: Hiểu (chủ biên), phân - Nhân vật: Theo “Lí luận văn học”, Trần Đình - “Tam quốc diễn
“Tiểu thuyết là thuật ngữ chia tiểu thuyết thành Sử, tr. 302. Nhân vật tiểu thuyết là nhân vật “con nghĩa” (La Quán
chỉ thể loại tác phẩm tự những loại sau: người nếm trải”, chịu đau khổ dằn vặt của đời. Trung)
TIỂU sự, trong đó có sự trần - Tiểu thuyết anh hùng Nó miêu tả nhân vật như một con người đang - “Trăm năm cô
THUYẾT thuật tập trung vào số ca: còn gọi là tiểu trưởng thành, biến đổi và do đời dạy bảo. đơn” (G. Marquez)
phận một cá nhân trong thuyết sử thi. Thuật - Câu chuyện: Câu chuyện của tiểu thuyết nó
quá trình hình thành và ngữ chỉ một loại hình bao chứa nhiều cái “thừa” so với chuyện ngắn,
phát triển của nó; sự của thể tự sự, là sự mà đó lại là cái chính yếu trong thành phần của
trần thuật ở đây được phát triển tổng hợp, tiểu thuyết: các suy tư của nhân vật về thế giới
khai triển trong không nâng cao và đổi mới về đời người, sự phân tích cặn kẽ các diễn biến

48
gian và thời gian nghệ của loại hình anh hùng về tình cảm, sự trình bày tường tận các tiền sử
thuật đến mức đủ để ca dân gian cổ điển và của nhân vật, mọi chi tiết về quan hệ giữa người
truyền đạt “cơ cấu” của loại hình tiểu thuyết. và người, về đồ vật và môi trường, và nói chung
nhân cách.” - Tiểu thuyết chí quái: về toàn bộ tồn tại của con người...
Theo “Lí luận văn học”, một thể loại văn xuôi - Điểm nhìn (người kể ngôi thứ 3 và ngôi thứ
Trần Đình Sử, tr. 387: tự sự trong văn học 1): Theo “Giáo trình dẫn luận thi pháp học”,
“tiểu thuyết là hình thức Trung Quốc, thường Trần Đình Sử, tr.127. Mọi trần thuật đều xuất
tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ ghi chép những phát từ cái tôi hiểu biết sự việc, đều là ngôi thứ
biến trong thời cận đại chuyện li kì quái đản, nhất và chỉ khác nhau ở mức độ ẩn hiện. Ngôi
và hiện đại.” xuất hiện và phát triển thứ nhất là hình thức tác giả lộ diện (xưng tôi).
vào thời Lục triều từ Ngôi thứ ba là hình thức tác giả ẩn mình, VD: câu
đầu TK III đến cuối TK trong đầu Chí Phèo thực chất là: “(Tôi thấy) bao
IV. giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi”. Nhưng
- Tiểu thuyết chương nhà văn đã bỏ chữ “tôi thấy” đi để hóa thân vào
hồi: chỉ một dạng thức một người kể chuyện toàn tri biết trước và biết
tiểu thuyết trường hết mọi việc.
thiên quan trọng trong - Lời người kể chuyện: Theo giáo trình “dẫn
văn học cổ điển Trung luận thi pháp học - tr. 129”, Chức năng của
Quốc và Việt Nam. Tiểu người trần thuật tuy không được tự do xong nó
thuyết viết theo dạng vẫn có thể can thiệp vào việc kể chuyện, kể
này phân chia tác nhanh, chậm, phân tích, miêu tả, mách bảo, chỉ
phẩm thành các hồi điểm cho người đọc hoặc biểu thị cảm thán, cảm
khác nhau, phát triển xúc tạo nên phong cách trần thuật của văn bản.
từ lối giảng sử thoại Lời trần thuật có hai loại là đáng tin cậy và
bản (kể chuyện lịch không đáng tin cậy. Lời trần thuật nhiều khi
sử) thời Tống - không nhất trí với khuynh hướng yêu ghét của
Nguyên. VD: Hoàng lê tác phẩm, tạo thành người trần thuật không
nhất thống chí. đáng tin cậy. VD: người trần thuật của Nam Cao,
- Tiểu thuyết lịch sử: Vũ Trọng Phụng… Còn ngược lại nếu lời trần
Chỉ loại hình tiểu thuật nhất trí với nhân vật, với tác giả hàm ẩn
thuyết hư cấu lấy đề tài trong tác phẩm thì người trần là đáng tin cậy.
lịch sử làm nội dung VD: người trần thuật trong Truyện Kiều.
chính. VD: Nam triều - Lời nhân vật: Theo giáo trình “Dẫn luận thi
công nghiệp chí, pháp học - tr. 152- 154”, lời nhân vật được chia
thành hai loại:

49
Hoàng lê nhất thống + Lời trực tiếp của nhân vật: là lời của nhân vật
chí… trong tác phẩm văn học được thể hiện dưới
- Tiểu thuyết mới: Một nhiều hình thức: Đối thoại che đậy nội tâm, đối
khuynh hướng văn học thoại bên ngoài song song với đối thoại bên
phát triển chủ yếu ở trong, Lời nói trong - ý định được công bố cùng
Pháp những năm 50, với lời nói ngoài, đối thoại rời rạc thể hiện trạng
60 của thế kỉ XX. Nó thái nhân sinh, đối thoại mà không hiểu ý nghĩa
bao gồm những nhà đối thoại.
văn liên kết với nhau + Lời gián tiếp: là lời văn đảm đương chức năng
bằng những lí thuyết trần thuật (đã nói ở phần lời trần thuật), giới
chung, những nguyên thiệu, miêu tả, bình luận con người và sự kiện,
tắc sáng tác chung. phân biệt với lời trực tiếp được đặt trong dấu
- Tiểu thuyết truyền kì: ngoặc kép hoặc sau gạch đầu dòng.
Một hình thức văn xuôi
tự sự cổ điển Trung
Quốc, vốn bắt nguồn từ
truyện kể dân gian, sau
được các nhà văn nâng
lên thành văn chương
bác học, sử dụng
những motif kì quái
hoang đường, lồng
trong một cốt truyện
có ý nghĩa trần thế
nhằm gợi hứng thú cho
người đọc.
Theo “Từ điển văn học Theo “Từ điển văn học Phân tích và đánh giá được giá trị thẩm mĩ - “Đây thôn Vĩ Dạ”
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu (bộ mới)”, Đỗ Đức của một số yếu tố trong thơ: (Hàn Mặc Tử)
(chủ biên),Tr. 1685: Hiểu (chủ biên), Tr. - Từ ngữ: Theo Lí luận văn học - tr. 365. Ngôn - “Bảo kính cảnh giới
“Thơ là hình thức sáng 1687” có thể phân loại ngữ thơ bão hòa cảm xúc - Lời thơ là lời đánh số 43” (Nguyễn
THƠ TRỮ
tác văn học phản ánh thơ trữ tình theo nhiều giá trực tiếp thể hiện quan hệ của chủ thể với Trãi)
TÌNH
cuộc sống với những cách: cuộc đời; Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính - Thế giới - “Bài ca ngất
cảm xúc chất chứa, cô - Dựa vào đối tượng đã nội tâm của nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý ngưởng” (Nguyễn
đọng, những tâm trạng tạo nên xúc cảm của nghĩa của từ ngữ, mà bằng cả âm thanh, nhịp Công Trứ)
dạt dào, những tư tưởng nhà thơ để phân loại: điệu của từ ngữ ấy.

50
mạnh mẽ, trong ngôn thơ trữ tình tâm tình, - Hình ảnh: Việc chọn lọc từ tạo nên hình ảnh - “Bên kia sông
ngữ hàm xúc, giàu hình thơ trữ tình phong thường được thấy rất nhiều trong các bài thơ. đuống” (Hoàng
ảnh, và nhất là có nhịp cảnh, thơ trữ tình thế Có những hình ảnh đẹp, mềm mại, hài hòa, thơ Cầm)
điệu.” sự, thơ trữ tình công mộng. Có những hình ảnh khắc khổ, vuông - “Chinh phụ ngâm”
dân… thành sắc cạnh, song cũng có những hình ảnh đồ (Đặng Trần Côn)
- Căn cứ vào hình thức sộ, đôi khi gớm ghiếc. Mỗi một hình ảnh đều - “Nhàn” (Nguyễn
tổ chức ngôn ngữ có nhằm tái tạo lại thị giác, cảm quan của người Bỉnh Khiêm)
thể chia ra thơ cách làm thơ lúc họ viết.
luật (Ngũ ngôn, thất - Vần: cách gieo vần của các thể thơ cách luật
ngôn, lục bát, song thất tuân theo quy tắc, còn các thể thơ tự do và văn
lục bát…)Thơ tự do và xuôi gieo vần không có quy tắc nhất định.
thơ văn xuôi. + Thể thơ Đường (thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn
- Căn cứ vào gieo vần tứ tuyệt, thất ngôn bát cú): Vần là những chữ có
có thể chia thơ có vần cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau,
và thơ không vần. được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một
- Cũng có người chia bài thơ Đường luật chuẩn, vần được dùng tại
theo thời đại: thơ Lý - cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được
Trần, thơ đời Lê... gọi là "vần với nhau". Nếu một bài thơ Đường
luật mà chữ cuối của một trong các câu này
không giống nhau về vần thì được gọi "thất
vần".
+ Lục bát: thể thơ này dùng cả vần lưng (yêu
vận) lẫn vần chân (cước vận). Tiếng thứ sáu của
câu lục hiệp vần với tiếng thứ sáu của câu bát
(vần lưng), tiếng thứ tám của câu bát này lại
hiệp vần với tiếng thứ sáu của câu lục tiếp theo
(vần chân).
+ Thể thơ 4,5 chữ có bốn cách gieo vần là gieo
vần liên tiếp, gieo vần ôm, gieo vần chéo, gieo
vần ba tiếng.
- Nhịp: cách ngắt nhịp trong một bài thơ khá đa
dạng. Ở lục bát thì Mỗi cặp lục bát có thể ngắt ra
thành đơn vị tiết tấu như ngắt thành nhịp 2,
nhịp 3, nhịp 4...tạo nên sự uyển chuyển diễn tả
linh hoạt tình cảm của con người. Ở các thể thơ

51
Đường thì thường ngắt nhịp 2/2/3 hoặc 4/3.
Cách ngắt nhịp của thơ tự do hay văn xuôi thì lại
càng đa dạng.
- Đối: các thể thơ ngũ ngôn, thất ngôn theo dạng
cổ thể bắt buộc phải có đối. Còn các thể thơ lục
bát và thơ hiện đại như tự do và thơ văn xuôi thì
không bắt buộc phải có đối. Thể thất ngôn tứ
tuyệt, ngũ ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú có hai
kiểu đối:
+ Đối âm (luật bằng trắc): Luật thơ Đường căn
cứ trên thanh bằng và thanh trắc, và dùng các
chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để xây
dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu
huyền hay không dấu; thanh trắc gồm các dấu:
sắc, hỏi, ngã, nặng. Có người chia thành sáu
thanh trắc trong đó dấu sắc và dấu nặng chia
thành mỗi tiếng có hai thanh trắc nhập và trắc
khứ. Nếu chữ thứ hai của câu đầu tiên dùng
thanh bằng thì gọi là bài có "luật bằng"; nếu chữ
thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc thì gọi là bài có
"luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ
6 phải giống nhau về thanh điệu, đồng thời chữ
thứ 4 phải khác hai chữ kia. Ví dụ, nếu chữ thứ
2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải dùng
thanh trắc, hay ngược lại. Nếu một câu thơ
Đường luật mà không theo quy định này thì
được gọi "thất luật".
+ Đối ý: Nguyên tắc cố định của một bài thơ
Đường luật là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải
"đối" nhau và hai câu 5, 6 cũng "đối" nhau. Đối
thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa
kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) bao gồm cả sự
tương đương trong cách dùng các từ ngữ. Đối
chữ: danh từ đối danh từ, động từ đối động từ.
Đối cảnh: trên đối dưới, cảnh động đối cảnh

52
tĩnh... Nếu một bài thơ Đường luật mà các câu 3,
4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau
thì bị gọi "thất đối".
- Chủ thể trữ tình: Trong tác phẩm thơ ta luôn
bắt gặp bóng dáng con người đang nhìn, ngắm,
đang rung động, suy tư về cuộc sống. Con người
ấy được gọi là chủ thể trữ tình. Nói cách khác,
chủ thể trữ tình là con người đang cảm xúc, suy
tư trong tác phẩm thơ. Nó khác với nhân vật trữ
tình trong tác phẩm thơ chỉ hiện diện, đối thoại
với độc giả bằng những sắc thái tình cảm, thái
độ tình cảm.
- Nhân vật trữ tình: Theo “Lí luận văn học - tr.
359” cho rằng nội dung tác phẩm trữ tình được
thể hiện gắn với hình tượng nhân vật trữ tình.
Đó là hình tượng người trực tiếp thổ lộ suy nghĩ.
Nó không có diện mạo, lời nói, hành động cụ thể
như tác phẩm tự sự. Những nhân vật trữ tình cụ
thể qua giọng điệu, cảm xúc, trong cách cảm,
cách nghĩ. Nhân vật trữ tình thường là hiện thân
của tác giả.
Theo “Từ điển văn học Chèo có bốn loại là: Nhận biết và phân tích được một số yếu tố - Cấu trúc kịch bản của tuồng: - “Kim nhan” (Chèo
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu chèo sân đình, chèo cải của văn bản chèo hoặc tuồng như: Mỗi kịch bản thường được chia ra dân gian)
(chủ biên), tr.246: “Chèo lương, chèo chái hê, - Đề tài: làm ba hồi. Hồi I nói chung là giao - “Nghêu, sò ốc, hến”
là một hình thức dân chèo hiện đại. + Chèo lấy đề tài chủ yếu về người nông dân đãi hoàn cảnh và nhân vật chủ (Tuồng dân gian
gian Việt Nam kể chuyện nhằm ca ngợi cuộc sống bình dị của họ. Nội yếu, nêu ra mâu thuẫn cơ bản của Việt Nam)
KỊCH BẢN bằng trò diễn.” dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ kịch. Hồi thứ II, xung đột nổ ra
CHÈO Theo “Từ điển văn học tích, truyện Nôm; được nâng lên một mức cao quyết liệt, phe đối lập đánh đổ
HOẶC (bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực phe chính diện và tạm thời chiếm
TUỒNG (chủ biên),tr. 1883: và tư tưởng sâu sắc. Trong chèo, cái thiện ưu thế; tình huống kịch ở hồi này
“Tuồng còn gọi là hát thường thắng cái ác, các sĩ tử tốt bụng, hiền rất phức tạp và rắc rối. Hồi III
bội. Một loại hình nghệ lành, luôn đỗ đạt, làm quan còn người vợ thì tiết xung đột lên cao trào, đấu tranh
thuật kịch hát của Việt nghĩa, cuối cùng sẽ được đoàn tụ với chồng. Các giữa hai phe đi đến quyết liệt cao
Nam có từ lâu đời.” tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện độ rồi giải quyết cuối cùng bằng
sự thắng lợi của phe chính nghĩa.

53
Nôm; ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ; lời thơ chủ Cũng có vở gồm bốn hồi. Trường
yếu là thơ dân gian. hợp ấy thì hồi thứ III phát triển
+ Tuồng: đi vào đề tài cung đình, nhưng không xung đột, gây nhiều tình huống
phải chỉ phản ánh những sự kiện trong cung khó khăn, hồi IV xung đột lên cao
đình mà là bao gồm cả những chuyện xảy ra và kết thúc.
trong quan hệ, - chủ yếu là quan hệ chính trị, - - Cấu trúc vở chèo: Chèo không
giữa các phe phái phong kiến nói chung. có cấu trúc cố định năm hồi một
- Tích truyện: kịch như trong sân khấu châu Âu
+ Chèo: Theo “Từ điển văn học (bộ mới)”, Đỗ mà các nghệ sĩ tham gia diễn chèo
Đức Hiểu (chủ biên), tr.247. tích trò của chèo thường ứng diễn. Do vậy, vở kịch
bao gồm cái đã có sẵn (tích) và cái sẽ sản sinh kéo dài hay cắt ngắn tuỳ thuộc
(ứng diễn trên sân khấu). Tính chất tập thể vả vào cảm hứng của người nghệ sĩ
truyền miệng thể hiện trong quá trình diễn hay đòi hỏi của khán giả.
xuất, tích trò có khả năng biến đổi linh hoạt và
đa dạng. Lối ứng diễn đã đưa đến chỗ hầu hết
các tích chèo cổ tuy khai thác cùng 1 tích truyện
nhưng khác nhau về văn ngôn và nghệ thuật
biểu diễn. Tính chất hài hước, trào phúng là đặc
điểm nổi bật. Do vậy có ý kiến “chèo” là do
“trào” đọc lệch ra.
+ Tuồng: Tuồng tích trong vở diễn của hát bộ
thường là các cổ tích, kịch bản phóng tác từ kinh
điển truyện cổ Trung Hoa như Tam Quốc Chí,
Vạn Hoa Lầu, Ngũ Hổ Bình Tây... Tuồng tích đã
sẵn trong sách nên người xem phần lớn đều biết
rành kịch tình và đến rạp chỉ xem kịch tính của
các nghệ sĩ và đạo diễn mà thôi.
- Nhân vật:
+ Tuồng: Mỗi loại nhân vật của tuồng lại có một
lối diễn khác nhau, chính diện thường ngay
thẳng, cương trực, đi đứng đàng hoàng, còn
phản diện thì gian xảo, láo liên, uốn éo. Nhất
nhất đều phân thành từng bộ riêng, không thể
diễn bộ "trung" cho vai "nịnh". Thậm chí lên
ngựa xuống ngựa còn phân biệt Bộ của trung

54
tướng khác bộ dạng nịnh thần. Mọi động tác đã
thành thông lệ hay ước lệ. Các tuyến nhân vật
của tuồng chủ yếu là: kép, tướng, đào, đào võ,
lão,... với mỗi loại nhân vật lại có cách hóa trang
riêng.
+ Chèo: Hệ thống nhân vật hề xét về mặt tính
chất có hai loại. Một là hề đi hầu (hề mồi, hề gậy,
hề nhất…) phần lớn là nhân vật tích cực. Hai là
những nhân vật hề tiêu cực trong xã hội (Thầy
đồ gàn, thầy bói…)
- Lời thoại:
+ Tuồng: Lời văn thì nhiều khi có vần và có đối.
Khi một vai lên sân khấu thì mở bằng một câu
xướng, còn gọi là câu bạch để tự giới thiệu mình.
Câu này dùng thể thơ bảy chữ. Khi kể chuyện thì
gọi là câu nói từ bốn đến bảy chữ, có đối, gieo
vần cước vận (chữ cuối cùng mỗi câu). Câu kết
thì gieo vần trắc. Khi muốn dứt ý thì hát câu văn,
dùng thể lục bát còn muốn nhấn mạnh ý cho
quyết liệt thì hát câu loạn, dùng thể phú hay lục
bát. Khi buồn thì hát câu than, cũng dùng lục bát
trong khi vui thì hát câu khách, thường là chữ
Nho dùng thể phú.
+ Chèo: Lời chèo thường được bẻ từ ca dao, tục
ngữ.
- Phương thức lưu truyền: chủ yếu chèo lưu
truyền trong dân gian do truyền miệng còn
tuồng vì viết về đề tài cung đình nên chủ yếu
được viết lại và có kịch bản lưu truyền.

LỚP 11
ĐỊNH NGHĨA/KHÁI MỘT SỐ TÁC
THỂ LOẠI PHÂN LOẠI (NẾU CÓ) ĐẶC ĐIỂM (BÁM SÁT YÊU CẦU CẦN ĐẠT) ĐẶC SẮC RIÊNG
NIỆM PHẨM TIÊU BIỂU

55
Theo “150 Thuật ngữ 1. Sử thi anh hùng Trong nghĩa hẹp, chuyên biệt và có cách hiểu - Iliad, Odyssey của
văn học”, Lại Nguyên Ân: dân gian tương đối phổ quát, sử thi trỏ một hoặc một Hy Lạp cổ đại,
Sử thi (thuật ngữ châu Sử thi anh hùng dân nhóm thể loại trong tự sự, đó là sử thi anh hùng, Mahabharata,
Âu: épos, épic) là khái gian nảy sinh trên cơ tức những thiên tự sự kể về quá khứ anh hùng, Ramayana của Ấn
niệm được tiếp nhận từ sở truyền thống các sử là bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời sống Độ cổ đại; dưới dạng
các nền học thuật chịu thi thần thoại kể về nhân dân và về những anh hùng, dũng sĩ, tiêu truyền miệng như
ảnh hưởng quan niệm những bậc thủy tổ - biểu cho một thế giới sử thi. Sử thi anh hùng tồn Sử thi Gilgamesh,
văn học và mỹ học thuộc những anh hùng văn tại dưới cả dạng truyền miệng và văn bản thành Dzangar,
truyền thống châu Âu hóa, về các tích truyện văn. Phần lớn những bản chép các thiên sử thi Alphamysh, Manas,
dưới hai phạm vi rộng và dũng sĩ; xa xưa hơn anh hùng tiêu biểu đều có ngọn nguồn dân gian Đăm Săn, Đẻ đất đẻ
hẹp: trong nghĩa rộng, nữa là các truyền và bản thân các đặc điểm của thể loại cũng hình nước.
thuật ngữ chỉ một thể thuyết lịch sử, các bài thành ở cấp độ dân gian.
loại tự sự, một trong ba tụng ca. Nảy sinh vào Cái đẹp đặc trưng của sử thi anh hùng được biểu
loại thể văn học phân thời đại tan rã của chế lộ trong tính hài hòa riêng của nó, vốn gắn với
biệt với kịch và trữ tình. độ công hữu nguyên các quan hệ xã hội chưa trưởng thành. Điều này
Ở phạm vi hẹp và chuyên thủy và phát triển được Các Mác nhấn mạnh khi ông liệt sử thi vào
biệt, sử thi trỏ một hoặc trong xã hội cổ đại, thời đại trước khi bắt đầu có sản xuất nghệ
SỬ THI một nhóm thể loại trong phong kiến, nơi còn thuật thực thụ, đồng thời cho rằng sử thi ở dạng
tự sự, đó là sử thi anh bảo lưu từng phần các cổ điển làm thành một thời đại trong lịch sử văn
hùng. quan hệ gia trưởng, sử hóa.
Theo Sách giáo khoa thi anh hùng ảnh Ở sử thi, tác giả chỉ can hệ đến thế giới mà các
Ngữ Văn lớp 10, tập 1: hưởng của các quan hệ quan hệ thân tộc ngay trong đời sống hiện thực
Sử thi là tác phẩm tự sự và quan niệm ấy, đã còn đóng vai trò trung gian, môi giới cho phạm
dân gian có quy mô lớn, miêu tả về quan hệ xã vi riêng tư và phạm vi chính trị; các lợi ích của
sử dụng ngôn ngữ có hội như quan hệ dòng các hành động khác nhau còn bện chặt vào
vần, nhịp, xây dựng máu, tông tộc với tất cả nhau, sự liên hệ giữa các cuộc đấu tranh toàn
những hình tượng nghệ các chuẩn mực luật lệ, dân và các hoạt động cá nhân còn mang tính
thuật hoành tráng, hào tập tục. trực tiếp, khác biệt với tiểu thuyết khi nhà văn
hùng để kể về một hoặc Ở dạng cổ xưa nhất của buộc phải viện cớ riêng cho sự tham dự của
nhiều biến cố lớn diễn ra sử thi, tính anh hùng nhân vật vào các xung đột chính trị.
trong đời sống cộng còn hiện diện trong vỏ
đồng của cư dân thời cổ bọc thần thoại hoang
đại. đường (các dũng sĩ
không chỉ có sức mạnh
chiến đấu mà còn có

56
năng lực siêu nhiên,
ma thuật, kẻ địch thì
luôn hiện diện dưới
dạng quái vật giả
tưởng). Những đề tài
chính được sử thi cổ
xưa miêu tả: chiến đấu
chống quái vật (cứu
người đẹp và dân
làng), người anh hùng
đi hỏi vợ, sự trả thù
của dòng họ.
2. Sử thi cổ điển
Các dạng cổ điển của
sử thi có nhân vật
thường là các dũng sĩ
kiêm thủ lĩnh và các
chiến binh đại diện
dân tộc ở tầm lịch sử;
các kẻ thù của họ
thường được đồng
nhất với bọn xâm lược,
những kẻ áp bức, ngoại
bang và dị giáo (như
người Turk, người
Tartar với sử thi
Slavơ). Thời gian sử thi
ở đây khác với sử thi
dân gian, không còn là
thời đại sáng chế các
thần thoại, mà là quá
khứ vinh quang trong
buổi bình minh của
lịch sử dân tộc. Được
ca ngợi trong các dạng

57
sử thi cổ điển là các
nhân vật và biến cố
lịch sử (hoặc ngụy lịch
sử), mặc dù bản thân
sự miêu tả các chất liệu
lịch sử bị phụ thuộc
vào sơ đồ cốt truyện
truyền thống, đôi khi
còn sử dụng cả mô
hình nghi lễ thần thoại.
Các nền sử thi thường
là các cuộc đấu tranh
của hai bộ lạc hoặc bộ
tộc, sắc tộc ít nhiều
tương ứng với sự thật
lịch sử (như cuộc chiến
Troia trong Iliad, việc
tranh đoạt Sampo
trong Kalevala). Quyền
lực được tập trung
trong các nhân vật
trung tâm có hành
động tích cực là các
ông vua của thế giới sử
thi (như Karl Đại Đế
trong bản Anh hùng ca
Roland), hay các dũng
sĩ. Các nhân vật nổi
loạn, cách mạng xung
đột với quyền lực
(Akhillos trong Iliad,
Đăm San trong khan
Êđê, Robin Hud trong
thiên ballade của Anh,
các nhân vật trong

58
Thủy hử ở Trung Hoa)
xuất hiện ít ỏi trong
giai đoạn tan rã hình
thức cổ điển của sử thi
anh hùng.
3. Sử thi anh hùng
Những anh hùng ca,
với tư cách là các tác
phẩm sử thi anh hùng
cỡ lớn, thể hiện sự
tương quan giữa yếu
tố cá nhân anh hùng và
yếu tố sử thi tập thể rõ
rệt, đủ để bộc lộ tính
tích cực cá nhân, đã trở
thành công cụ đắc lực
cho sự biểu hiện yếu tố
toàn dân, và dân tộc.
Trường ca sử thi "về
thực chất có liên quan
đến thời trung đại, khi
dân chúng tỉnh dậy từ
giấc ngủ nặng nề,
nhưng tinh thần thì đã
cứng cáp đến mức tạo
được thế giới riêng của
mình và tự cảm thấy
mình gắn bó máu thịt
với thế giới ấy... Khi
bản thân cái cá nhân
được giải phóng khỏi
khối vẹn toàn dân tộc
khởi thủy với trạng
thái chung, lối nghĩ lối
cảm chung, hoạt động

59
và số phận chung, thì
thay cho thơ ca sử thi
những cái sẽ phát triển
chín muồi hơn cả một
mặt là thơ và mặt khác
là kịch" (Hegel).
Theo “150 Thuật ngữ Truyện ngắn trung Nhận biết và phân tích được một số yếu tố Chi tiết và lời văn: những yếu tố - “Chí phèo” (Nam
văn học”, Lại Nguyên Ân đại: là một khái niệm của truyện ngắn như: quan trọng cho nghệ thuật viết Cao)
viết: tương đối, của khoa - Nhân vật: Truyện ngắn thường nhằm khắc truyện ngắn. - “Làng” (Kim Lân)
Thể tài tác phẩm tự sự nghiên cứu văn học họa một hiện tượng, phát hiện một đặc tính Lời kể và cách kể chuyện: - “Đôi mắt” (Nam
cỡ nhỏ, thường được hiện đại áp dụng cho trong quan hệ con người hay trong đời sống những điều được người viết Cao)
viết bằng văn xuôi, đề thực tế văn học thời tâm hồn con người. Truyện ngắn thường ít truyện ngắn đặc biệt chú ý khai
cập hầu hết các phương trung đại. Thời trung nhân vật, ít sự kiện phức tạp, chồng chéo. Nhân thác và xử lý, nhằm đạt hiệu quả
diện của đời sống con đại chưa hề biết đến vật truyện ngắn ít khi trở thành một thế giới mong muốn.
người và xã hội. Nét nổi khái niệm này. Thay vì hoàn chỉnh, một tính cách đầy đặn, thường khi
bật của truyện ngắn là sự dùng một khái niệm có là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội,
TRUYỆN giới hạn về dung lượng; tính chất khái quát, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con
NGẮN tác phẩm truyện ngắn người xưa có tên gọi người.
thích hợp với việc người riêng cho mỗi cuốn - Cốt truyện: thường tự giới hạn về thời gian,
tiếp nhận (độc giả) đọc sách (chí, lục, phả, bút, không gian; nó có chức năng nhận ra một điều
nó liền một mạch không tùy bút, kí, kí sự, gì sâu sắc về cuộc đời, về con người.
nghỉ. thuyết…). - Kết cấu truyện: ngắn thường không gồm
Truyện ngắn hiện đại nhiều tầng nhiều tuyến mà thường được dựng
theo kiểu tương phản hoặc liên tưởng.
- Người kể chuyện: ngôi thứ 3 (người kể
chuyện toàn tri) và người kể chuyện ngôi thứ
nhất (người kể chuyện hạn tri).
- Không gian, thời gian
Theo “150 Thuật ngữ Nhận biết và phân tích được một số yếu tố - Tính đa dạng về sắc độ thẩm - “Số đỏ” Vũ Trọng
văn học”, Lại Nguyên Ân của tiểu thuyết như: mỹ Phụng
TIỂU
viết: - Nhân vật: Theo “Lí luận văn học”, Trần Đình Tính đa dạng về màu sắc thẩm mỹ
THUYẾT
Tác phẩm tự sự, trong đó Sử, tr. 302. Nhân vật tiểu thuyết là nhân vật “con cũng là một đặc trưng tiêu biểu
HIỆN ĐẠI
sự trần thuật tập trung người nếm trải”, chịu đau khổ dằn vặt của đời. của thể loại. Các thể loại văn học
vào số phận một cá nhân khác thường chỉ tiếp nhận một

60
trong quá trình hình Nó miêu tả nhân vật như một con người đang sắc thái thẩm mỹ nào đó để tạo
thành và phát triển của trưởng thành, biến đổi và do đời dạy bảo. nên âm hưởng của toàn bộ tác
nó; sự trần thuật ở đây - Câu chuyện: Câu chuyện của tiểu thuyết nó phẩm, như bi kịch là cái cao cả,
được khai triển trong bao chứa nhiều cái “thừa” so với chuyện ngắn, hài kịch là cái thấp hèn, thơ là cái
không gian và thời gian mà đó lại là cái chính yếu trong thành phần của đẹp và cái lý tưởng. Ở tiểu thuyết
nghệ thuật đến mức đủ tiểu thuyết: các suy tư của nhân vật về thế giới không diễn ra quá trình chọn lựa
để truyền đạt “cơ cấu” về đời người, sự phân tích cặn kẽ các diễn biến màu sắc thẩm mỹ khi tiếp nhận
của nhân cách. về tình cảm, sự trình bày tường tận các tiền sử hiện thực mà nội dung của nó thể
của nhân vật, mọi chi tiết về quan hệ giữa người hiện sự pha trộn, chuyển hóa lẫn
và người, về nhau của các sắc độ thẩm mỹ khác
đồ vật và môi trường, và nói chung về toàn bộ nhau: cái cao cả bên cái thấp hèn,
tồn tại của con người... cái đẹp bên cái xấu, cái thiện lẫn
- Điểm nhìn (người kể ngôi thứ 3 và ngôi thứ cái ác, cái bi bên cạnh cái hài v.v.
1): - Bản chất tổng hợp
Theo “Giáo trình dẫn luận thi pháp học”, Trần Ở phương diện cuối cùng, tiểu
Đình Sử, tr.127. Mọi trần thuật đều xuất phát từ thuyết là một thể loại mang bản
cái tôi hiểu biết sự việc, đều là ngôi thứ nhất và chất tổng hợp. Nó có thể dung nạp
chỉ khác nhau ở mức độ ẩn hiện. Ngôi thứ nhất thông qua ngôn từ nghệ thuật
là hình thức tác giả lộ diện (xưng tôi). Ngôi thứ những phong cách nghệ thuật của
ba là hình thức tác giả ẩn mình. các thể loại văn học khác như thơ
- Lời người kể chuyện: Theo giáo trình “dẫn (những rung động tinh tế), kịch
luận thi pháp học - tr. 129”, Chức năng của (xung đột xã hội), kí (hiện thực
người trần thuật tuy không được tự do xong nó đời sống); các thủ pháp nghệ
vẫn có thể can thiệp vào việc kể chuyện, kể thuật của những loại hình ngoại
nhanh, chậm, phân tích, miêu tả, mách bảo, chỉ biên như hội họa (màu sắc), âm
điểm cho người đọc hoặc biểu thị cảm thán, cảm nhạc (thanh âm), điêu khắc (sự
xúc tạo nên phong cách trần thuật của văn bản. cân xứng, chi tiết), điện ảnh (khả
Lời trần thuật có hai loại là đáng tin cậy và năng liên kết các bức màn hiện
không đáng tin cậy. Lời trần thuật nhiều khi thực); và thậm chí cả các bộ môn
không nhất trí với khuynh hướng yêu ghét của khoa học khác như tâm lý học,
tác phẩm, tạo thành người trần thuật không phân tâm học, đạo đức học và các
đáng tin cậy. bộ môn khoa học tự nhiên, khoa
- Lời nhân vật: Theo giáo trình “Dẫn luận thi học viễn tưởng khác.
pháp học - tr. 152- 154”, lời nhân vật được chia
thành hai loại:

61
+ Lời trực tiếp của nhân vật: là lời của nhân vật
trong tác phẩm văn học được thể hiện dưới
nhiều hình thức: Đối thoại che đậy nội tâm, đối
thoại bên ngoài song song với đối thoại bên
trong, Lời nói trong - ý định được công bố cùng
với lời nói ngoài, đối thoại rời rạc thể hiện trạng
thái nhân sinh, đối thoại mà không hiểu ý nghĩa
đối thoại.
+ Lời gián tiếp: là lời văn đảm đương chức năng
trần thuật (đã nói ở phần lời trần thuật), giới
thiệu, miêu tả, bình luận con người và sự kiện,
phân biệt với lời trực tiếp được đặt trong dấu
ngoặc kép hoặc sau gạch đầu dòng.

Theo “Từ điển văn học Theo SGK “Ngữ văn 11 Nhận biết và bước đầu nhận xét được nét - Âm Núi đôi (Vũ Cao),
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu tập 1”, Phan Trọng độc đáo của bài thơ thể hiện qua: - Vần Quê hương (Giang
(chủ biên), Tr.1685: Luận (chủ biên), - Ngôn từ - Điệu Nam), …
“Thơ là hình thức sáng tr.134, ta có thể phân + Thơ trữ tình theo “Lí luận văn học”, Trần Đình - Luật
tác văn học phản ánh loại thơ theo hai cách: Sử, tr. 365: Ngôn ngữ thơ bão hòa cảm xúc - Lời
cuộc sống với những - Phân loại theo nội thơ là lời đánh giá trực tiếp thể hiện quan hệ của
cảm xúc chất chứa, cô dung biểu hiện: chủ thể với cuộc đời; Ngôn ngữ thơ giàu nhạc
đọng, những tâm trạng + Thơ trữ tình (đi sâu tính - Thế giới nội tâm của nhà thơ không chỉ
dạt dào, những tư tưởng vào tâm tư, tình cảm, biểu hiện bằng ý nghĩa của từ ngữ, mà bằng cả
mạnh mẽ, trong ngôn những chiêm nghiệm âm thanh, nhịp điệu của từ ngữ ấy.
THƠ ngữ hàm xúc, giàu hình của con người về cuộc + Thơ tự sự: Dùng ngôn ngữ thơ mang yếu tố
ảnh, và nhất là có nhịp đời, như bài “Tự tình” kể, tả về một câu chuyện theo một mạch chuyện.
điệu.” của Hồ Xuân Hương). VD: Bài thơ “Lượm” kể và tả về Lượm bằng lời
Theo sách giáo khoa + Thơ tự sự (cảm nghĩ của người chú. Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ
“Ngữ văn lớp 11 tập 1”, vận động theo mạch kể của hai chú cháu ở thành phố Huế trong “ngày
Phan Trọng Luận (chủ chuyện như bài “Hầu Huế đổ máu”, sự hy sinh anh dũng của Lượm khi
biên), tr.133 định nghĩa: trời” của Tản Đà). làm nhiệm vụ và hình ảnh sống mãi của Lượm.
“Thơ là một thể loại văn + Thơ trào phúng (phủ + Thơ trào phúng: Dùng ngôn từ ví von, nói
học có phạm vi phổ biến nhận những điều xấu bóng gió để châm biếm đả kích những thói hư
rộng và sâu. Thơ tác bằng lối viết đùa cợt, tật xấu trái với lương tri xã hội. VD: Thơ trào
động đến người đọc mỉa mai, khôi hài, như phúng Trần Tế Xương.

62
bằng sự nhận thức cuộc bài: vịnh khoa thi - Biện pháp tu từ:
sống, những liên tưởng, hương của Tú xương). + So sánh, đối chiếu 2 hay nhiều sự vật, sự việc
tưởng tượng phong phú, - Phân loại theo cách tổ mà giữa chúng có những nét tương đồng để làm
nhưng cái cốt lõi của thơ chức bài thơ: tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời thơ.
là thơ trữ tình.” + Thơ cách luật (Viết + Nhân hóa đồ vật, sự vật, con vật, cây cối trong
theo luật đã định thơ khiến cho chúng trở nên sinh động, gần gũi,
trước, như thơ đường có hồn hơn.
luật, lục bát, song thất + Hoán dụ, ẩn dụ, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
lục bát…). nhằm sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt
+Thơ tự do (không trong thơ.
theo luật). + Nói quá, phóng đại, thậm xưng, cường điệu
+ Thơ văn xuôi (câu thường được sử dụng trong thơ trào phúng
thơ gần như câu văn nhằm gây ấn tượng mạnh, tăng sức biểu cảm.
xuôi nhưng vẫn có + Nói giảm, nói tránh tạo cảm giác tế nhị uyển
nhịp điệu). chuyển cho lời thơ.
+ Điệp từ, điệp ngữ tạo liên tưởng cảm xúc, nhịp
điệu trầm bổng cho câu thơ.
+ Chơi chữ làm câu thơ trở nên dí dỏm, hài
hước.
+ Tương phản làm tăng hiệu quả diễn đạt cho
câu thơ.
-Cấu tứ:
Cấu tứ là sự kết hợp giữa hình tượng và ý nghĩa
sao cho sự thể nghiệm về hình tượng càng nhiều
thì càng khơi sâu thêm nhiều ý nghĩa. Nói cách
khác, cấu tứ là cách hài hòa ý tưởng vào cảm xúc
và hình ảnh, sáng tạo một cái tứ độc đáo làm bài
thơ linh động hẳn lên, trở nên có hồn.
-Hình thức bài thơ
Theo “Từ điển Văn học Theo Nguyễn Lộc Nhận biết và phân tích được một số yếu tố: - Kết cấu: Truyện thơ Nôm - “Lục Vân Tiên”
(bộ mới)”, Nguyễn Lộc trong “Từ điển Văn học - Cốt truyện: Truyện thơ Nôm có nhiều nguồn thường kết cấu theo mô hình: Gặp (Nguyễn Đình
TRUYỆN viết truyện thơ Nôm “là (bộ mới)” phân loại gốc cốt truyện khác nhau: gỡ (Hội ngộ) – Tai biến (Lưu lạc) Chiểu)
THƠ NÔM một thể loại văn học viết như sau: + Một số tác phẩm sử dụng cốt truyện dân gian – Đoàn tụ (Đoàn viên, kết hợp với - “Truyện Kiều”
dưới hình thức văn vần, - Căn cứ vào thể thơ (lấy từ cổ tích, thần tích, Phật thoại,…) vốn lưu kết thúc có hậu và phần ngoại (Nguyễn Du)
có cốt truyện trong văn dùng để sáng tác, hành trong dân gian như: Tấm Cám, Thạch truyện – xem bảng dưới).Tuỳ vào

63
học cổ Việt Nam, phát người ta chia truyện Sanh, Quan Ầm Thị Kính, Tống Trân – Cúc Hoa, chủ đề của tác phẩm mà phần nào - “Hoa tiên” (Nguyễn
triển mạnh mẽ nhất ở thơ Nôm thành 2 loại: Trương Chi,… sẽ được nhấn mạnh. Huy Tự)
giai đoạn nửa cuối thế kỉ + Truyện thơ Nôm + Một số tác phẩm lấy cốt truyện trong văn học - Yếu tố thần kì: Để xây dựng câu - Phạm Công - Cúc
XVIII và thế kỉ XIX. Cho Đường luật: Là loại viết Trung Quốc (tiểu thuyết chương hồi, chuyện theo mô hình “kết thúc có Hoa
đến nay chưa thể biết truyện thơ gồm nhiều truyện truyền kì, ca bản), như: Song Tinh – Bất hậu”, mô hình: gặp gỡ – tai biến – - Phạm Tải - Ngọc
truyện Nôm ra đời vào bài thơ thất ngôn bát Dụ, Hoa tiên, Truyện Kiều, Nhị độ mai, Tì bù đoàn tụ quen thuộc vẫn thường Hoa
lúc nào và hình thái đầu cú viết theo luật thơ quốc âm tân truyện,… xuất hiện các truyện thơ Nôm, - Bích Câu kì ngộ
tiên như thế nào. Đường kết lại với + Một số tác phẩm lấy cốt truyện từ chính cuộc đặc biệt là truyện thơ Nôm bình - Tống Trân - Cúc
Theo TS. Nguyễn Thị nhau, không có tính đời tác giả và thực tiễn đời sống (có thông qua dân, yếu tố thần kỳ được sử dụng Hoa
Giang, trong “Thể loại cách liên tục nên khó hư cấu, sáng tạo) như: Sơ kính tân trang, như là một “hình tượng” đặc - Song Tinh
truyện Nôm và sự phát theo dõi, mặc dù tình Truyện Lục Vân Tiên, Vợ ba Cai Vàng, Chàng trưng của thể loại văn học này.
triển của thể loại văn học tiết và cốt truyện rất Lía,... Chính vì thế Kiều Thu Hoạch
trung đại Việt Nam, đơn giản. Loại truyện Dù cốt truyện xuất phát từ nguồn nào thì các trong giáo trình “Truyện Nôm –
truyện Nôm cũng đã tồn này không còn tên tác truyện thơ Nôm vẫn ít nhiều phản ánh các vấn nguồn gốc và bản chất thể loại” đã
tại những cách gọi khác giả. Thời điểm ra đời đề của thực tại xã hội và con người đương thời khẳng định: “Yếu tố thần kỳ
nhau như: diễn ca, vào khoảng các thế kỉ cũng như phản ánh tâm tư, nguyện vọng của tác chẳng những chỉ là một biện pháp
truyện thơ (có truyện XVI, XVII. Từ thế kỉ giả. nghệ thuật quan trọng để thực
thơ chữ Hán, truyện thơ XVIII trở đi, loại truyện Nói về cốt truyện của truyện Nôm bình dân, nhà hiện mô hình cấu trúc gặp gỡ – tai
chữ Nôm, truyện thơ các thơ Đường luật không văn Nguyễn Lộc trong Văn học Việt Nam (nửa biến – đoàn tụ mà còn là một đặc
dân tộc thiểu số), tiểu còn thấy xuất hiện. cuối thế kỉ XVIII - hết thế kỉ XIX) đã nhận xét trưng thi pháp không thể thiếu
thuyết diễn ca…Tuy + Truyện thơ Nôm lục rằng, “những tình tiết, những sự kiện không có của thể loại truyện này”
nhiên, khái niệm Truyện bát: Có lẽ loại truyện ý nghĩa khách quan chân thực của nó, mà chỉ có - Hình tượng đồ vật: Bên cạnh
Nôm vẫn là tên gọi được thơ này ra đời vào tác dụng soi sáng hay tô đậm cho đặc điểm của hình tượng về con người (nhân
biết đến nhiều nhất, phù trước thế kỉ XVIII. Bởi tính cách nhân vật”, “chi tiết nhiều khi được vật), truyện thơ Nôm còn có
hợp nhất. Vì không có vì ở các thế kỉ XVI, XVII cường điệu đến mức hoang đường [...] Và chính những hình tượng đồ vật cũng có
truyện văn xuôi Nôm trong nền văn học của vì vậy mà trong cốt truyện của truyện Nôm bình giá trị thẫm mĩ độc đáo. Những đồ
nên gọi tắt là Truyện ta đã xuất hiện nhiều dân, nhà thơ thường sử dụng rất nhiều yếu tố vật như cây đàn thần, gốc đa,
Nôm. Truyện Nôm là loại tác phẩm dài, tuy chưa ngẫu nhiên, phi thường, nhiều yếu tố có tính chiếc áo, cây trâm... được xem
hình tự sự bằng chữ phải truyện thơ, chất thần linh.” hình tượng tiêu biểu trong truyện
Nôm, viết bằng thể thơ nhưng được viết bằng - Nhân vật: Nhân vật của truyện thơ Nôm thơ Nôm, góp phần vào việc xây
lục bát. thể thơ lục bát. Phải thường được chia thành hai tuyến rõ ràng: dựng cốt truyện theo ý đồ của tác
đến thế kỉ XVIII và nhân vật chính diện (đại diện cho cái tốt, cái giả. Hình tượng đồ vật cũng là
nhất là nửa đầu thế kỉ đẹp, cái tiến bộ) và nhân vật phản diện (đại hình tượng văn học góp phần làm
XIX, truyện thơ lục bát diện cho cái xấu, cái ác, cái bảo thủ). Ở những cho truyện thơ Nôm có thêm nét
mới phát triển rầm rộ truyện thơ Nôm xuất sắc, như “Truyện Kiều”, lại

64
và trở thành thể tài có những nhân vật lưỡng diện, khó xác định mới, độc đáo sống mãi trong lòng
chủ đạo của văn học rõ ràng là chính diện hay phản diện như Thúc người đọc
giai đoạn này. Sinh trong “Truyện Kiều”. Có những truyện thơ
- Căn cứ vào đối tượng Nôm lại không có nhân vật phản diện do không
sáng tác, người ta chia đặt ra vấn để đấu tranh giai cấp hoặc đấu tranh
truyện thơ Nôm ra tư tưởng như Hoa tiên, Mai đình mộng kí. Cũng
thành 2 loại: có những nhân vật chỉ có ý nghĩa chức năng,
+ Truyện thơ Nôm không cần xếp vào loại nào, chẳng hạn nhân vật
bình dân: Đó là những nàng hầu, nhân vật người dẫn đường, thầy
truyện được viết lại bói,… do thường là nhân vật phụ hoặc chỉ có rất
trên cơ sở truyện cổ ít tác động đến hoàn cảnh hay lời nói, ứng xử
tích hay diễn ca truyện hay cuộc đời của nhân vật.
cổ tích. Tất cả đều + Nhân vật truyện thơ Nôm cũng thường được
khuyết danh tác giả. xây dựng theo khuôn mẫu, các motif như: chàng
Căn cứ vào trình độ trai nghèo nhưng hiếu học và học giỏi (sau
học vấn, trình độ tu thành đạt), chung tình; cô gái (nhà giàu) nết na,
dưỡng nghệ thuật, đảm đang, hiếu thảo;… Tuy nhiên, cũng đã có
cũng như căn cứ vào một vài nhân vật truyện thơ Nôm được xây
cách nhìn nhận những dựng đa chiều, sinh động hơn (có tính cách cá
vấn đề nhân sinh và xã thể, có đời sống tâm lí phong phú,…), điển hình
hội được thể hiện là nhân vật Thuý Kiều trong “Truyện Kiều” của
trong tác phẩm, chắc Nguyễn Du.
chắn tác giả của loại + Ngoại hình các nhân vật cũng được chú ý miêu
truyện này không phải tả, nhưng nhìn chung vẫn theo lối ước lệ, tượng
thuộc tầng lớp trên, trưng theo từng nhân vật và địa vị của họ trong
mà thuộc tầng lớp xã hội. Ở những truyện thơ Nôm thành công
dưới, rất có thể là nhất, ngoại hình nhân vật đã có những nét cá
những Nho sĩ bình dân thể hoá, biểu thị tính cách, số phận.
như các ông đồ ngồi + Các nhân vật cũng được khắc hoạ thống qua
dạy học rải rác trong ngôn ngữ đối thoại trong suốt câu chuyện. Một
các thôn xóm của ta số nhân vật ở truyện thơ Nôm bác học đã được
ngày xưa. Loại truyện khắc hoạ đời sống tâm lí thông qua việc tả cảnh
thơ này thể hiện rất rõ ngụ tình hoặc miêu tả trực tiếp tâm trạng, tâm
những quan niệm đạo lí (ngôn ngữ độc thoại của nhân vật và thường
đức của người bình

65
dân: vợ chồng phải bộc lộ tính cách, phong cách, lối suy nghĩ, mối
chung thủy với nhau, quan tâm của nhân vật,...)
con cái phải thương + Do chủ yếu lấy chuyện xưa, tích cũ làm đối
yêu bố mẹ, bạn bè, anh tượng miêu tả chính trong suốt câu chuyện nên
em sống với nhau có truyện thơ Nôm mang vào mình một số đặc
nghĩa có tình, và đấu trưng của truyện cổ tích hoặc truyện kể dân
tranh đến cùng để gian trong cách xây dựng nhân vật, miêu tả thời
chống lại những thế gian, không gian… Hầu hết các truyện Nôm, đặc
lực đen tối để tiêu diệt biệt là truyện Nôm bình dân đều miêu tả nhân
nó, làm cho mọi gia vật để nhằm khắc họa ý đồ mà cốt truyện đã xây
đình được hạnh phúc, dựng nên chứ không phải đi sâu khắc họa tính
xã hội được tốt đẹp. cách nhân vật đó. Ngoại hình con người trong
Kết thúc những tác thể loại truyện này cũng ít khi được miêu tả và
phẩm này thường là nếu có chỉ miêu tả sơ sài công thức cốt chỉ để
những người tốt, cuộc người nghe nhận ra đó là loại người xấu, hay tốt
đời dù gặp nhiều tai mà thôi. Ví như nhân vật Cám trong truyện
ương chướng họa, cuối “Tấm Cám”, Cúc Hoa trong “Phạm Công – Cúc
cùng đều vượt qua Hoa”, cô gái trong “Mộng Hiền truyện”,… đều là
được tất cả. Họ chiến kiểu nhân vật như thế. Ngay cả nàng Kiều
thắng và lên làm vua. Nguyệt Nga của cụ Đồ Chiểu cũng không được
Đó cũng chính là sự thể chú trọng miêu tả ở dung mạo bề ngoài mà lại
hiện nguyện vọng công đặc biệt lưu ý vẻ đẹp tiết hạnh đáng quý nổi bật.
bằng của quần chúng Như vậy, nhìn chung ở “truyện Nôm xu hướng
ngày trước trong phiếm chỉ hóa vẫn là đặc trưng khá phổ biến, và
khuôn khổ xã hội nhân vật trong truyện Nôm thực chất vẫn còn ở
phong kiến. Về dạng loại hình nhiều hơn cá tính” (Kiều Thu
phương diện nghệ Hoạch, “Truyện Nôm – nguồn gốc và bản chất
thuật, loại truyện này thể loại” (Giáo trình Khoa Ngữ văn ĐH Tổng hợp
thường mộc mạc, ít TP.HCM, 1994)
trau chuốt. Ngôn ngữ + Nhân vật truyện thơ Nôm bác học thường là
thường nôm na, gần một hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ. Đặc
với ngôn ngữ dân gian, điểm ngoại hình nhân vật cũng có liên quan đến
nhất là thể loại vè. Điều sự phát triển của cốt truyện và thường có
đáng chú ý là trong loại những dấu hiệu để nhận biết như: tên gọi, về
truyện thơ Nôm bình tiểu sử, nghề nghiệp.... Những dấu hiệu đó được

66
dân không thấy rõ nét trình bày ngay từ đầu và ảnh hưởng đến sự phát
tư tưởng định mệnh triển về sau của cốt truyện. Cách miêu tả vẻ đẹp
như trong truyện thơ Thúy Vân, Thúy Kiều khác nhau trong Truyện
Nôm bác học. Kiều dường như cũng dự báo về số phận của
+ Truyện thơ Nôm bác mỗi người sau này:
học: Phần lớn có tên “Vân xem trang trọng khác vời
tác giả, chỉ một số ít là Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
khuyết danh. Nói Hoa cười ngọc thốt đoan trang
chung tác giả của Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
truyện Nôm bác học Kiều càng sắc sảo mặn mà
thuộc tầng lớp Nho sĩ, So bề tài sắc lại là phần hơn
có trình độ học vấn Làn thu thủy, nét xuân sơn
uyên bác, có quá trình Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
tu dưỡng nghệ thuật. + Hoạt động của nhân vật truyện thơ Nôm Việt
Hầu hết những tác Nam cũng được miêu tả theo nguyên tắc ước lệ.
phẩm này được viết Nhìn chung, nhân vật truyện thơ Nôm vẫn chưa
dựa theo những tác thoát khỏi những khuôn mẫu của nhân vật
phẩm cổ của Trung truyện cổ tích và vị thế mang đầy đủ đặc trưng
Quốc, nhưng được của nhân vật truyện cổ tích. Chúng ta hãy xem
sáng tạo lại một cách xét các nhân vật trong Thoại Khanh – Châu
độc đáo trên cơ sở thể Tuấn, Phạm Công – Cúc Hoa… đều như được
nghiệm của tác giả. Cá đúc ra từ một khuôn. Một số nhân vật nam như
biệt có tác phẩm do Lý Công, Phạm Công, Châu Tuấn đều mồ côi từ
nhà thơ hư cấu, sáng nhỏ, đều là những học trò nghèo phải đi ăn mày
tác. Nội dung của hoặc dắt mẹ đi ăn mày như vẫn nuôi chí học
truyện Nôm bác học thành tài và cuối cùng đều thi đỗ Trạng Nguyên.
phong phú, đa dạng, Trong tình yêu họ đặc biệt thủy chung son sắt.
các tác giả thường viết Mặc dù thành đạt bị vua ép gã công chúa đều
về những mối tình của tìm cách chối từ cho dù bị đày ra viễn xứ, xa vợ
những giai nhân tài tử, con hàng chục năm trời vẫn không nguôi nhớ
yêu nhau một cách tự thương. Còn hầu hết các nhân vật nữ thường
do vượt ra ngoài xinh đẹp tuyệt vời, một lòng hiếu thảo với mẹ
khuôn khổ lễ giáo chồng, đảm đang nuôi chồng ăn học và lúc gặp
phong kiến. Ngòi bút hoạn nạn khó khăn xa chồng họ vẫn luôn giữ
của tác giả tỏ ra rất say tròn danh tiết, kiên trinh đợi chờ. Đó là nét

67
sưa khi theo dõi những phẩm chất chung của nhân vật truyện thơ Nôm
mối tình ấy. Nhưng Việt Nam. Vì vậy theo nhận xét của Kiều Thu
cũng có người không Hoạch trong “Truyện Nôm – nguồn gốc và bản
dám say sưa đến cùng, chất thể loại”: “Thế giới nhân vật truyện thơ
mà sau những trang Nôm có tính chất lí tưởng hóa nhiều hơn là hiện
mô tả tình yêu rất hấp thực”. Những nhân vật tốt, tích cực không bao
dẫn, họ dần dần tìm giờ chịu thất bại trước những thế lực phản động
cách điều hòa mâu có quyền uy mãnh mẽ trong xã hội để cuối cùng
thuẫn giữa tình yêu và đi đến kết thúc tốt đẹp. Ngay cả những truyện
lễ giáo phong kiến. Nôm bác học như truyện Kiều, Lục Vân Tiên –
Ngoài ra cũng có Kiều Nguyệt Nga… cũng xây dựng nhân vật
những tác phẩm không nhằm đi tới tình huống kết thúc có hậu này. Và
phải chỉ nói đến tình để thực hiện điều này tác giả truyện thơ Nôm
yêu mà còn đặt những đôi khi phải nhờ đến sự hỗ trợ của các yếu tố
vấn đề khác có ý nghĩa thần kỳ. Mặt khác, nhân vật truyện thơ Nôm
nhân sinh và xã hội bình dân thường không thông qua việc miêu tả
rộng lớn hơn. Về ngoại hình hay phân tích nội tâm mà chủ yếu
phương diện nghệ được thể hiện thông qua hành động. Ngôn ngữ
thuật, truyện Nôm bác đối thoại được dùng để biểu hiện cảm nghĩ của
học không có cái nôm nhân vật. Đây là nguyên tắc về nghệ thuật có
na, mộc mạc của tính chất cơ bản trong việc xây dựng nhân vật
truyện Nôm bình dân, truyện.
mà thường rất điêu - Người kể chuyện: Truyện thơ Nôm bình dân
luyện. Ngôn ngữ tuy có sinh ra là để kể chuyện, do vậy ngôn ngữ tác
lồng nhiều từ Hán - phẩm là ngôn ngữ kể chuyện và tất yếu người
Việt, nhiều điển cố, kể chuyện cũng đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
nhưng đặt trong văn Cách nói khoa trương, phóng đại, cách nói ước
cảnh của chúng vẫn lệ tượng trưng của nghệ thuật kể chuyện dân
lưu loát. Ở một số tác gian là một đặc trưng trong phong cách kể
phẩm ảnh hưởng của chuyện của các tác giả truyện thơ Nôm. Đặc biệt,
ca dao, dân ca rất đậm. ở câu mở đầu và kết thúc truyện Nôm tính công
Các nhà viết truyện thức, ước lệ thể hiện khá rõ. Ở nhiều truyện
Nôm bác học không Nôm khác nhau, chẳng biết nội dung truyện thế
phải chỉ kể lại câu nào nhưng nhất thiết người kể vẫn phải mở đầu
chuyện, mà thường rất

68
chú trọng miêu tả hoặc kết thúc bằng những lời ca tụng tốt đẹp,
những tình huống, hay bằng những lời lẽ có tính chất chúc mừng:
cảnh ngộ, tâm trạng Mừng nay vừa thuận nước an,
của nhân bật, do đó Lê dân lạc nghiệp bốn phương yên hòa
câu chuyện thường Oai linh vỗ bụng âu ca,
sinh động và hấp dẫn. Chúc cho vạn thọ nhà nhà bình an
Theo Đại học Xã hội và (Phạm Công – Cúc Hoa)
Nhân văn thành phố Thậm chí ở “Truyện Kiều” mặc dù nội dung
Hồ Chí Minh, các tác phản ánh sự thối nát, bất công của xã hội phong
phẩm truyện thơ Nôm kiến đã khinh rẻ phụ nữ và những người tài hoa
có thể được phân chia bị vùi dập dưới sự chi phối của quyền lực nhưng
như sau: vẫn được mở đầu bằng câu thơ công thức:
- Truyện thơ Nôm tài Rằng năm Gia Tĩnh đời Minh, Bốn phương
tử giai nhân vay mượn phẳng lặng hai kinh vững vàng
Trung Quốc (Kiều Thu Đây là một đặc điểm rất dễ nhận dạng ở loại
Hoạch (2007). Truyện hình truyện thơ Nôm nhưng cũng cần hiểu thêm
Nôm – lịch sử hình rằng đó là những bình phẩm, bình luận mang
thành và thi pháp thể triết lý nhân sinh của người kể chuyện – của tác
loại. Nxb. Giáo dục. tr. giả. Đó là kiểu tư duy nhân dân mà đâu đó chúng
322–326, 57) ta vẫn thường hay gặp ở những câu thành ngữ,
- Truyện thơ Nôm tài túc ngữ trong kho tàng văn học dân gian.
tử giai nhân do văn Mặc khác, người kể chuyện trong truyện thơ
nhân Việt Nam tự sáng Nôm, đặc biệt là truyện thơ Nôm bình dân hay
tác (Nguyễn Văn Hoài có lối kể dân dã, mộc mạc. Đó là nét đẹp chân
(tháng 9 năm 2011). chất gần gũi, bình dị nhưng không kém phần
“Từ văn học thông tục duyên dáng vốn có của người nông dân Việt
Trung Quốc nghĩ về Nam. Điều này cũng lý giải vì sao truyện thơ
truyện thơ Nôm Việt Nôm mặc dù qua kiểm soát gắt gao của triều
Nam”, Kỉ yếu Hội thảo đình phong kiến nhưng vẫn lưu truyền và sống
khoa học quốc tế Việt mãi với thời gian, vẫn được nhân dân yêu thích,
Nam và Trung Quốc: truyền tụng.
những quan hệ văn - Độc thoại nội tâm:
hóa, văn học trong lịch - Bút pháp miêu tả ngôn ngữ:
sử. Trường ĐH KHXH + Tuỳ theo tài năng của tác giả cũng như trình
và NV – ĐH Quốc gia độ phát triển văn học của các vùng miền nơi sản

69
TP. Hồ Chí Minh và ĐH sinh tác phẩm mà ngôn ngữ truyện thơ Nôm
Sư phạm Hồ Nam- hoặc còn thô sơ, mộc mạc hay đã đạt đến mức
Trung Quốc. tr. 386– độ tinh tế, hoàn thiện.
397.) + Truyện thơ Nôm luôn có sự kết hợp của hai
- Truyện thơ Nôm loại ngôn ngữ: ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ
truyền kì (Kiều Thu bác học. Ngôn ngữ bình dân là lời ăn tiếng nói
Hoạch (2007). Truyện hằng ngày, ngôn ngữ đời sống (khẩu ngữ, thành
Nôm – lịch sử hình ngữ, tục ngữ, phương ngữ,…) mộc mạc, ít được
thành và thi pháp thể chải chuốt cũng như sử dụng các biện pháp tu
loại. Nxb. Giáo dục. tr. từ và thường có yếu tố "vừa thanh vừa tục".
322–326, 57) Ngôn ngữ bác học là ngôn ngữ được trau chuốt,
- Truyện thơ Nôm dùng phổ biến trong nền văn học viết trung đại,
truyền thuyết (Lê Trí thiên về ước lệ tượng trưng, sử dụng nhiều từ
Viễn - Phan Côn - Đặng Hán Việt, điển tích, điển cố, văn thi liệu Hán học,
Thanh Lê - Phạm Văn nhiều thủ pháp tu từ khá phức tạp nên dành cho
Luận - Lê Hoài Nam, tầng lớp tri thức thượng lưu trong xã hội. Mỗi
Lịch sử văn học Việt loại ngôn ngữ có ưu thế riêng: ngôn ngữ bình
Nam, tập III, Nxb. Giáo dân thì cụ thể, chi tiết, cá thể hoá; ngôn ngữ bác
dục, Hà Nội, 1965, tr. học thì trang trọng, tao nhã, thâm thuý và có
214.) tính bác học cao. Tuỳ từng tác phẩm của từng
- Truyện thơ cổ tích tác giả mà tỉ lệ hai loại ngôn ngữ này có khác
(Nguyễn Văn Hoài nhau và sự kết hợp, bổ trợ cho nhau cũng khác
(tháng 9 năm 2011). nhau. Những truyện thơ Nôm thành công là
“Từ văn học thông tục những tác phẩm sử dụng hài hoà, kết hợp nhuần
Trung Quốc nghĩ về nhuyễn và tận dụng được ưu thế của cả hai loại
truyện thơ Nôm Việt ngôn ngữ trên.
Nam”, Kỉ yếu Hội thảo
khoa học quốc tế Việt
Nam và Trung Quốc:
những quan hệ văn
hóa, văn học trong lịch
sử. Trường ĐH KHXH
và NV – ĐH Quốc gia
TP. Hồ Chí Minh và ĐH
Sư phạm Hồ Nam-

70
Trung Quốc. tr. 386–
397.)
- Truyện thơ Nôm ngụ
ngôn (Nguyễn Văn
Hoài, “Cách hiểu khái
niệm “tiểu thuyết tài
tử giai nhân” của học
giới Trung Quốc”, Tạp
chí Đại học Sài Gòn, số
chuyên đề Bình luận
văn học, niên giám
2012, tr. 254 - 267.)
- Truyện thơ Nôm sử
tích (Tô Kiến Tân,
Trung Quốc tài tử giai
nhân tiểu thuyết diễn
biến sử, Bắc Kinh, Xã
hội khoa học văn hiến
xuất bản xã, 2006, tr.
14-17, 16.)
- Truyện thơ Nôm tôn
giáo (Nhậm Minh Hoa,
Tài tử giai nhân tiểu
thuyết nghiên cứu,
Trung Quốc văn liên
xuất bản xã, 2002, tr.
4)
Theo “Lí luận văn học” Nhận biết và phân tích được một số yếu tố: - “Một người Hà
do Hà Minh Đức (chủ - Hư cấu: một hình thức kể chuyện, trong bất kỳ Nội” (Nguyễn
biên) đã cho rằng truyện phương tiện nào, bao gồm người, sự kiện hoặc Khải)
kí thuộc loại kí tự sự. địa điểm là những từ tưởng tượng khác, không - “Nếp nhà”
TRUYỆN KÍ
Loại kí tự sự này có thể dựa trên lịch sử hoặc thực tế. (Nguyễn Khải)
viết trực tiếp về hiện tại - Phi hư cấu: thể hiện và tôn trọng các sự kiện
hoặc viết về quá khứ lịch sử, sự vật,... trong thực tế. Người tạo ra nội
trên cơ sở nắm vững dung phi hư cấu cần đảm bảo được độ chính xác

71
tính xác thực lịch sử như của các sự kiện, con người, hay thông tin mình
hồi kí, kí sự. Trong loại kí trình bày.
tự sự, có khi hệ thống sự → Sự giao thoa của 2 yếu tố này trong truyện kí
kiện kết thành một cốt sẽ tạo nên sự hấp dẫn, bớt khô khan cho câu
truyện ngắn hoặc truyện chuyện và giúp độc giả có những cái nhìn khác
vừa thì thường sẽ được nhau về truyện.
xem là truyện kí.
Ngoài ra còn có người
cho rằng truyện ký là
một thể loại ngược lại
với ký sự, thường tập
trung cốt truyện vào việc
trần thuật một nhân vật:
những danh nhân về
khoa học và nghệ thuật,
những anh hùng trên
mặt trận chiến đấu và
sản xuất, chính khách,
nhà hoạt động cách
mạng.
Theo “Từ điển văn học Nhận biết và phân tích được: Theo “Tạp chí Khoa học 2007:8 - “Người lái đò sông
(bộ mới)”, Đỗ Đức Hiểu - Chất tự sự: Những chi tiết và con người cụ thể 6-15”, Trần Văn Minh (khoa Sư Đà” (Nguyễn Tuân)
(chủ biên), Tr.1888: được ghi chép, trần thuật trong tác phẩm là thật phạm, Trường đại học Cần Thơ), - “Đường chúng ta
“Tùy bút là một thể loại nhưng thường chỉ là cái cớ, là tiền đề để bộc lộ Tr.14: đi” (Nguyễn Trung
văn xuôi phát sinh từ thể cảm xúc, suy tư và nhận thức, đánh giá của tác “1. Là một thể loại trung gian, Thành)
loại kí, gần với bút kí giả về con người và cuộc sống. mang khá đầy đủ những phẩm - “Dòng kinh quê
nhưng cách viết tự do và - Chất trữ tình: Bên cạnh nhật kí tùy bút là chất của cả hai loại: tự sự và trữ hương” (Nguyễn
TÙY BÚT tùy hứng nhiều hơn. Nhà những thể kí mà chất trữ tình chiếm một phân tình Thi)
văn dựa vào sự lôi cuốn lượng quan trọng. Nhà văn thường kết hợp, xen 2. Lời văn rất uyển chuyển, linh
của cảm hứng, có thể nói kẽ việc miêu tả đối tượng khách quan với việc hoạt, hài hòa giữa chất thơ và trần
từ sự việc này qua sự bộc lộ cảm xúc chủ quan. Đối tượng khách quan thuật
việc khác, từ liên tưởng trong tùy bút cũng yêu cầu được tái hiện xác 3. Nội dung phong phú, đa dạng,
này sang liên tưởng thực nếu đó là những sự kiện và con người có bao quát được nhiều lĩnh vực đời
kia,... để bộc lộ những địa chỉ chính xác và cụ thể. Sự kiện khách quan sống; đặc biệt có ưu thế trong việc
cảm xúc, những tâm trong tùy bút thường không được trình bày liên tôn vinh các giá trị văn hóa

72
tình, phát biểu những tục do sự phát biểu xen kẽ của những cảm xúc 4. Dung hợp được hầu hết các
suy nghĩ, những nhận chủ quan của người viết, hoặc vì những sự kiện dạng thức cảm hứng, tình điệu
xét về con người và cuộc đó được khai thác từ nhiều địa điểm và thời thẩm mỹ
đời.” gian khác nhau để phục vụ cho dòng suy tưởng 5. Tùy bút không có cốt truyện,
của tác giả. dung lượng thường ở mức trung
bình, đủ để diễn tả cảm xúc, suy
tư, liên tưởng được gợi lên từ
những sự việc, những trạng
huống tản mạn”
- Cái tôi: Điểm tựa của tùy bút là
cái tôi của tác giả. Tác dụng gợi
cảm của tùy bút thuộc vào đặc
điểm của đối tượng miêu tả
nhưng những nhận xét, bình giá,
bàn luận và liên tưởng của tác giả
lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Chính điều đó sẽ tạo nên chất
riêng cho tùy bút của mỗi người
nghệ sĩ. Người viết phải có bản
lĩnh riêng với cách cảm nghĩ sâu
sắc, độc đáo về cuộc đời. Mỗi tác
giả tùy bút phải đem lại một điều
gì mới mẻ với mọi người trong
cách phát hiện, đề cập, lý giải vấn
đề.
Ví dụ: Tùy bút của Nguyễn Tuân
là phong cách kí độc đáo. Những
suy tưởng cầu kỳ, thái độ khinh
bạc với cuộc sống, những phát
hiện độc đáo trong so sánh và liên
tưởng, cộng với một bút pháp sắc
sảo đã đem lại cho Nguyễn Tuân
thời kỳ trước Cách mạng một
dáng dấp riêng biệt.

73
- Ngôn ngữ: Ngôn từ trong tùy
bút thường giàu hình ảnh và chất
thơ.
- “Từ điển tiếng Việt” của Nhận biết được: chất trữ tình, cái tôi, ngôn - Về hình thức, tản văn có dung - “Theo dòng suy
Hoàng Phê (chủ biên) đã ngữ của tản văn. lượng ngắn gọn, hàm súc cảm” (Lỗ Tấn)
định nghĩa tản văn: 1. - Chất trữ tình: Theo “Lí luận văn học 2”, Phan - Về nội dung, tản văn có phạm vi - “Giao thừa, “Sông,
Văn xuôi. 2. Loại văn Văn Tiến, tr.146: “Người viết tản văn thường thể hiện khá phong phú và đa biển” người mênh
gồm các thể kí và các thể lựa chọn vài ba nét từ chất liệu đời sống, nương dạng. mông”, “Yêu người
văn khác, ngoài truyện, vào đó để bày tỏ thế giới nội tâm, những suy - Đây là một thể loại cơ động, linh trước núi:,…
thơ và kịch” cảm của mình về thế giới”. Tản văn là những áng hoạt trong việc phản ánh hiện (Nguyễn ngọc Tư)
- “Từ điển Hán Việt” của văn giày chất trữ tình, cũng có thể thiên về thực ở cái thể trực tiếp nhất, ở - “Tản mạn trước
Đào Duy Anh định nghĩa chính luận nhưng đặc tính quan trọng của nó là những nét sinh động và tươi mới đèn” (Đỗ Chu)
tản văn: Tản văn, văn luôn công khai, bộc lộ quan điểm, thái độ nhất nhất - “Con trai phố cổ”
cuôi không có vần. định của người viết. - Tản văn có mối quan hệ gần gũi (Nguyễn Việt Hà)
- Theo “Lí luận văn học - Khi tự sự, tản văn không đòi hỏi phải xây với một số thể loại khác như: kí, - “Ngày mới nhẹ
2”, Phan Văn Tiến, dựng cốt truyện phức tạp, xây dựng nhân vật phóng sự, tùy bút, tiểu phẩm. nhàng” (Dạ Ngân)
tr.146: “Tản văn là một hoàn chỉnh, vì tản văn thường thể hiện đời sống - Tính vấn đề - “Nhàn đàm”
thể loại văn xuôi ngắn theo cách chấm phá. - Tính cảm xúc (Hoàng Phủ Ngọc
gọn, hàm súc, có thể xếp - Tính đa dạng Tường)
TẢN VĂN
vào thể kí. Nó không đòi - Kết cấu rất tự do: Theo “Lí luận - “Tháng giêng,
hỏi phải có một cốt văn học 2”, Phan Văn Tiến, tr.146: tháng giêng, một
truyện đầy đủ hay phải “Kết cấu tác phẩm tản văn không vòng dao quắm” (Y
sáng tạo những nhân vật lệ thuộc vào sự sắp đặt sự kiện, Phương)
hoàn chỉnh.” nhân vật mà dựa trên mối tương
- Theo “Từ điển thuật liên giữa các hình ảnh, chi tiết.
ngữ văn học”, Nxb GD, H, Quan hệ giữa chúng là quan hệ
2004, tr.293: Tản văn là liên tưởng; quan hệ này thống
loại văn xuôi ngắn gọn, nhất những điều tưởng như rời
hàm súc, có thể trữ tình, rạc, tản mạn, ngẫu hứng trong
tự sự, nghị luận, miêu tả một trường nghĩa.”
phong cảnh, khắc hoạ - Cái tôi: Đặc trưng quan trọng
nhân vật. Lối thể hiện nhất của tản văn là thể hiện đậm
đời sống của tản văn nét dấu ấn cá nhân của người cầm
mang tính chất chấm bút. Đọc những áng tản văn bao
phá không nhất thiết đòi giờ ta cũng bắt gặp một cách cảm,

74
hỏi có cốt truyện phức cách nghĩ rất riêng. Chính vì thế,
tạp, nhân vật hoàn chỉnh tản văn thường có cấu tứ rất độc
nhưng có cấu tứ độc đáo, đáo.
có giọng điệu, cốt cách cá - Ngôn ngữ: Tự do, phóng khoáng,
nhân. Điều cốt yếu là tản không câu nệ vào câu chữ, kết
văn tái hiện được nét cấu. Ngôn từ được chọn lọc đôi
chính của các hiện tượng khi bóng bẩy, đôi lúc tự nhiên
giàu ý nghĩa xã hội, bộc nhưng vẫn rất hàm súc.
lộ trực tiếp tình cảm, ý
nghĩ mang đậm bản sắc
cá tính tác giả… Tản văn
là loại văn tự do, dài
ngắn tuỳ ý, cách thể hiện
đa dạng, đặc biệt là thể
hiện nổi bật chính kiến
và cá tính tác giả
- Theo “Từ điển thuật
ngữ văn học”, Lê Bá Hán,
Trần Đình Sử (chủ biên,
tr. 246 – 247, mục tản
văn viết: nghĩa đen là
văn xuôi nhưng hiện nay
tản văn được dùng để
chỉ một phạm vi xác
định, không hoàn toàn
khớp với thuật ngữ văn
xuôi. Nếu văn xuôi trong
nghĩa rộng chỉ loại văn
đối lập với văn vần, và
trong nghĩa hẹp chỉ các
tác phẩm văn phân biệt
với kịch, thơ, bao gồm
một phạm vi rộng từ tiểu
thuyết, truyện vừa,
truyện ngắn, kí, tiểu

75
thuyết, truyện vừa,
truyện ngắn, tiểu phẩm,
chính luận thì tản văn
chỉ phạm vi văn xuôi hẹp
hơn, không bao gồm cái
loại truyện hư cấu như
tiểu thuyết, truyện ngắn.
Nó là một loại hình văn
học ngang với thơ, kịch,
tiểu thuyết. Nhưng mặt
khác tản văn lại có nội
hàm rộng hơn khái niệm
kí, vì nội dung chứa cả
những truyện ngụ ngôn
hư cấu lẫn các thể văn
xuôi khác như thư, hịch,
cáo,… Tản văn là loại văn
xuôi ngắn gọn, hàm súc,
có thể trữ tình, tự sự,
nghị luận, miêu tả phong
cách, khắc họa nhân vật,
lối thể hiện đời sống của
tản văn mang tính chất
chấm phá, không nhất
thiết đòi hỏi có cốt
truyện phức tạp, nhân
vật hoàn chỉnh. Điều cốt
yếu là tái hiện được nét
chính của các hiện tượng
giàu ý nghĩa xã hội, bộc
lộ trực tiếp tình cảm, ý
nghĩa của tác giả.
Theo “Từ điển văn học Nhận biết và phân tích được một số yếu tố - “Hamlet” (W.
BI KỊCH (bộ mới)”, Đỗ Đức Hiếu, của bi kịch: Shakespeare)
Tr.132: “Bi kịch là một

76
thể loại kịch dựa vào - Xung đột kịch: Theo cách định nghĩa của các - “Romeo and Juliet”
xung đột bi đát của các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học: “Kịch (W. Shakespeare)
nhân vật anh hùng, có dược xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch - “Vua Lear” (W.
kết thúc bi thảm, tác sử, xã hội hoặc những xung đột muôn thuở Shakespeare)
phẩm đầy chất thống mang tính toàn nhân loại (như giữa thiện và ác, - “Hồn trương ba da
thiết. Bi kịch là thể của cao cả và thấp hèn, ước mơ và hiện thực…) hàng thịt” (Lưu
loại hình chính kịch, đối những xung đột ấy được thể hiện bằng một cốt Quang Vũ)
lập với thể hài kịch. Bi truyện có cấu trúc chặt chẽ qua hành động của - “Yêu Ly” (Vũ Như
kịch là một thể loại các nhân vật và theo những quy tắc nhất định Tô)
nghiêm ngặt đến khắc của nghệ thuật kịch. Trong kịch thường chứa - “Vĩnh biệt Cửu
nghiệt; nó miêu tả thực đựng nhiều kịch tính, tức là những sự căng Trùng Đài” (Nguyễn
tại theo lối nhấn mạnh, thẳng do tình huống tạo ra đối với nhân vật”. Huy Tưởng)
cô đặc các mâu thuẫn - Hành động kịch: Xung đột kịch được cụ thể
bên trong, phơi bày hóa bằng hành động kịch. Theo Aristote: “Hành
những xung đột sâu sắc động là đặc trưng của vở kịch”. Nếu xung đột
của thực tại dưới dạng được coi là điều kiện cần thiết làm nảy sinh tác
bão hòa và căng thẳng phẩm thì hành động lại là yếu tố duy trì sự vận
đến cực hạn, mang ý hành của tác phẩm. Hành động kịch là sự tổ
nghĩa tượng trưng nghê chức các tình tiết, sự kiện, biến cố trong cốt
thuật.” truyện theo một trình tự logic, chặt chẽ, chủ yếu
Theo “Lí luận văn học theo quy luật nhân quả. Hành động được miêu
(tập 2)”, Trần Đình Sử tả căng thẳng, gấp gáp, hết hành động này đến
(chủ biên) định nghĩa: Bi hành động khác, ngay cả khi thực hiện những
kịch là một thể của kịch, hành động suy tư, ngẫm nghĩ cũng diễn ra rất
đối lập với hài kịch. nhanh. Hành động kịch cần được hiểu trong
Nhân vật của bi kịch bao tính thống nhất toàn vẹn của nó. Trong quá
giờ cũng là những con trình đó nhân vật bộc lộ đặc điểm, tính cách của
người lương thiện, dũng mình.
cảm, anh hùng, cao - Nhân vật kịch: Thế giới nhân vật khá đa dạng,
thượng, đấu tranh vì bao gồm nhiều tầng lớp, con người khác nhau
mục đích, vì lí tưởng cao trong xã hội.Bị chi phối bởi đề tài và quan điểm
quý, nhưng điều kiện sáng tác, nhân vật kịch cũng mang dấu ấn của
khách quan chưa cho con người lịch sử. Họ được đặt trong những bối
phép thực hiện. Theo cảnh không, thời gian văn hóa khác nhau trên
Ăngghen, “xung đột bi chặng đường tiến triển của lịch sử, nên đòi hỏi

77
kịch nằ ở giửa yêu sách nhà viết kịch phải có sự am hiểu tường tận về
tất yếu về mặt lịch sử và phong tục, trang phục, ngôn ngữ và những nét
tình trạng không tài nào văn hóa đặc thù của từng giai đoạn để không
thực hiện được điều đó phá vỡ xúc cảm thẩm mĩ của độc giả.
trong thực tiễn”. Có thể - Cốt truyện: Đây là một trong những yếu tố
nói một cách khái quát, I quan trọng tạo nên bi kịch. Theo Aristotlte cốt
kịch phản ánh những truyện xoay quanh một hành động tròn vẹn:
xung đột gay gắt, quyết đầu – giữa – cuối. Hay nói cách khác bộ phận cấu
liệt, thường kết thúc thành duy nhất của cốt truyện kịch là hành động
bằng sự thảm bại hoặc được triển khai qua một hệ thống sự kiện diễn
cái chết của nhân vật. ra theo trật tự thời gian. Sự tập trung cao độ của
cốt truyện kịch là đặc điểm kết cấu của kịch bản
văn học. Thành phần của cốt truyện thường
được chia làm 3 phần: Đột biến (thay đổi các sự
kiện theo chiều ngược lại) – nhận biết (đi từ chỗ
không biết đến biết) – đau khổ (hành động gây
chết chóc hoặc đau đớn). Do đó, một vở kịch
thường được chia thành ba hoặc năm hồi tương
ứng với ba giai đoạn vận động rất mau lẹ của
hành động kịch: thắt nút (trước đó thường có
phần trình bày) – đỉnh điểm – mở nút (có thể có
thêm phần vĩ thanh).
- Lời thoại (ngôn ngữ kịch): Đó là lời các nhân
vật được truyền đạt bởi những diễn viên đóng
vai nhân vật ấy. Lời của các nhân vật gọi là thoại
bao gồm 3 dạng: đối thoại, độc thoại và bàng
thoại.
+ Đối thoại: là lời các nhân vật nói với nhau
+ Độc thoại: là lời nhân vật nói với chính mình
+ Bàng thoại: là lời nhân vật nói riêng với khán
giả
Trong kịch, lời thoại là một hành động đầy kịch
tính. Đồng thời, đó vừa là hành động vừa là
phương tiện biểu hiện nên tính cách nhân vật.

78
- Hiệu ứng thanh lọc: Tuy kết thúc bằng sự
thảm bại, hay cái chết của nhân vật, nhưng
những vở bi kịch nói trên lại làm nổi bật sự
chiến thắng của con người và ước vọng của con
người đời đời bất tử. Con người trong bi kịch
chết đi là để phục sinh, để sống lại. Bi kịch chân
chính không bao giờ làm mất niềm tin vào sự vĩ
đại của con người. Cho nên, bi kịch gợi dậy
trong tâm hồn độc giả và khán giả một tình cảm
phức tạp, có nhiều đối nghịch, nhưng vô cùng
mãnh liệt. Chứng kiến hành động và kết cục của
nhân vật bi kịch, khán giả và độc giả vừa sợ hãi,
kinh hoàng, vừa thương cảm, xót xa trước cái
chết hoặc sự thảm bại, tâm hồn họ bỗng thấy
thanh cao trong sáng. Mĩ học cổ đại gọi đó là sự
"thanh lọc" tâm hồn mà bi kịch mang đến cho
con người. Tóm lại, bi kịch là thể loại sử dụng
triệt để sức mạnh của kịch nhằm phản ánh cái
bi như một trạng thái nhân thế để mang lại một
ý nghĩa xã hội lớn lao.

LỚP 12
ĐẶC ĐIỂM (BÁM SÁT YÊU MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU
THỂ LOẠI ĐỊNH NGHĨA/KHÁI NIỆM PHÂN LOẠI (NẾU CÓ) ĐẶC SẮC RIÊNG
CẦU CẦN ĐẠT) BIỂU
Truyện truyền kì là một loại Nhận biết và phân tích được Về một số đặc điểm khác Truyện cây gạo (Mộc miên
hình tự sự bằng văn xuôi, một số yếu tố của truyện của truyện truyền kì, theo thụ truyện) của Nguyễn
thuộc văn học viết. Theo “Thi truyền kì như: đề tài, nhân Thi pháp văn học trung đại Dữ;...
TRUYỆN pháp văn học trung đại Việt vật, ngôn ngữ, thủ pháp Việt Nam (Trần Đình Sử,
TRUYỀN Nam” (Trần Đình Sử, Nxb. Đại nghệ thuật,…; đánh giá vai Nxb. Đại học Quốc gia Hà
KỲ học Quốc gia Hà Nội, tr. 293), trò của yếu tố kì ảo trong Nội (tr. 295- 296), viết
thì truyện truyền kì Trung truyện truyền kì, liên hệ với (lược ghi): Truyện có cốt
Quốc thường có bố cục gồm ba vai trò của yếu tố này trong truyện hoàn chỉnh như
phần: a) Mở đầu: giới thiệu truyện cổ dân gian những tác phẩm nghệ

79
nhân vật (tên họ, quê quán, - Đề tài: thuật, có thắt nút, phát
tính tình phẩm hạnh); b) Kể Tác phẩm gồm hai loại chính: triển và mở nút.
chuyện: kể các chuyện kì ngộ, Một là, truyện dân gian do sưu Truyện có thể kết thúc có
lạ lùng; c) Kết thúc: nêu lí do kể tầm, ghi chép, chỉnh lí; hai là, hậu hay không.
chuyện. Các tác giả Việt Nam truyện lịch sử dân tộc và truyện Truyện chú trọng vào việc
theo truyền thống truyền kì lịch sử tôn giáo (bao gồm cả các hơn là chú trọng vào người,
Trung Quốc, nhưng lại có một truyện về lễ nghi, tín ngưỡng, lấy việc mà biểu hiện người,
quá trình hình thành và phát phong tục tập quán…). Tiêu răn người.
triển gắn liền với nền văn hóa biểu cho loại thứ nhất có Lĩnh Truyện thường có lời bình
và văn học dân tộc, đặc biệt là Nam chích quái lục của Trần (hay lời bàn) để bình luận về
với văn học dân gian và văn Thế Pháp. Loại thứ hai lại chia mặt đạo đức, nghệ thuật.
xuôi lịch sử. làm hai nhóm. Nhóm một là
những tác phẩm phản ánh trực
tiếp lịch sử dân tộc như Ngoại
sử kí của Đỗ Thiện, phần Ngoại
kỉ trong sách Đại Việt sử kí của
Lê Văn Hưu…; nhóm hai là các
tác phẩm gắn với lịch sử tôn
giáo (lễ nghi, tập tục, tín
ngưỡng…) gồm: Báo cực truyện
(khuyết danh), Việt điện u linh
tập của Lí Tế Xuyên, Thiền uyển
tập anh ngữ lục (khuyết danh),
Tổ gia thực lục (khuyết
danh),… Nếu xếp tác phẩm
mang yếu tố truyền kì ở thế kỉ
X-XIV theo thời gian, ta sẽ có:
Báo cực truyện thế kỉ XI, Ngoại
sử kí thế kỉ XII, Ngoại kỉ thế kỉ
XIII, Việt điện u linh tập nửa
đầu thế kỉ XIV, Ngữ lục giữa thế
kỉ XIV, Tổ gia thực lục nửa sau
thế kỉ XIV, Lĩnh Nam chích quái
lục cuối thế kỉ XIV… Mặc dù
chưa thoát khỏi văn học dân

80
gian và văn học chức năng,
truyền kì thế kỉ X-XIV giữ vị trí
quan trọng: đặt nền móng về
nội dung cũng như phương
thức tư duy nghệ thuật cho
dòng truyền kì sau này.
- Nhân vật:
Do truyền thống truyện dân
gian và yêu cầu của lịch sử,
truyền kì thế kỉ X-XIV chủ yếu
tập trung vào việc khẳng định
nước Việt là một quốc gia độc
lập, có lịch sử lâu đời từ thời các
vua Hùng, An Dương Vương,…;
có lãnh thổ, có quyền và có
tương lai trường tồn. Đất nước
Việt đâu đâu cũng có anh tài.
Nhân kiệt, địa linh, hạo khí núi
sông là những nhân tố đảm bảo
cho tương lai dân tộc, là điểm
tựa tinh thần cho người Việt
vượt qua những cơn hiểm
nghèo. Một đất nước như vậy
sẽ không thế lực nào có thể
xâm phạm được. Với nội dung
ấy, nhân vật trong truyện phần
lớn là những anh hùng Việt
Nam thời xa xưa được truyền
thuyết hoá, thần thánh hoá,
mang tầm vóc sử thi.
thế kỉ XV –XVII chủ yếu là thế
kỉ của truyền kì. Với đặc điểm
dùng hình thức kì ảo làm
phương thức chuyển tải nội
dung, truyền kì có sức hấp dẫn

81
mạnh mẽ mọi lứa tuổi, mọi thời
đại. Người đọc được cùng các
nhân vật phiêu diêu vào thế
giới ảo huyền ở cả bốn cõi
không gian vừa phi quảng tính,
vừa vô định hướng và hành
trình trong thời gian phi tuyến
tính với độ đàn hồi ảo hoá có
thể “co” tám thập kỉ vào một
năm hoặc, đang từ hiện tại
“nhảy” về quá khứ của kiếp
trước và “bước” sang tươi lai
của kiếp sau. Trong thế giới
truyền kì, người đọc được tiếp
xúc với các nhân vật chỉ xuất
hiện trong tưởng tượng như
Nam Tào, Bắc Đẩu, thánh thần,
tiên phật, ma vương quỷ dữ, bộ
tướng Dạ Xoa, tinh các loài vật
(động vật và thực vật) hiện hữu
thành người, biến huyễn khôn
lường và được tiếp xúc với cả
những kiếp người trầm luân
khổ hải đang sống quanh ta. Đó
là thế giới vừa ảo vừa thực, có
cái thấp hèn và cái cao thượng,
có ma và thánh, quỷ và tiên…,
đồng thời có cả những cảnh
sinh hoạt thường ngày như ái
ân tình dục, ghen tuông đố kị,
lọc lừa dối trá…
- Thủ pháp nghệ thuật:
Các motif dân gian như, “thụ
thai thần kì”: có thai do ướm
vết chân (Đổng Thiên vương),

82
bước qua người (Man
nương), mặt trời rơi vào bụng
(Huyền Quang), hoa sen mọc
từ bụng (Lê Hoàn), do thần
quan hệ (Hà Ô Lôi)…; “ra đời
thần kì”: đẻ ra trứng, đẻ ra bọc
(họ Hồng Bàng, Hà Ô Lôi…),
lúc ra đời có ảnh sáng lạ, có
hương thơm ngào ngạt (các
thiền sư trong Tổ gia thực lục,
Ngữ lục…); “xuống thuỷ phủ”
(họ Hồng Bàng, Ngư tinh…);
“lên trời” (Đổng Thiên
vương); “diệt yêu quái” (Ngư
tinh, Hồ tinh, Mộc tinh…);
“người xấu có giọng hát ngọt
ngào làm mê đắm các cô nàng
xinh đẹp” (Hà Ô Lôi), “duyên
kì ngộ” (Đầm Nhất Dạ…);
“chết kì lạ” (hoá đá, hoá cây,
thành thần, hoặc ngồi kiết
già…) v.v… là cơ sở cho sự ra
đời loại hình truyền kì đích
thực ở giai đoạn tiếp theo.
Theo “Lí luận văn học”, Trần Truyện ngắn trung đại: là Phân tích và đánh giá được Người đàn bà trên chuyến
Đình Sử, tr. 397”: “Truyện ngắn một khái niệm tương đối, sự phù hợp của người kể tàu tốc hành (Nguyễn
là hình thức ngắn của tự sự.” của khoa nghiên cứu văn chuyện, điểm nhìn trong việc Minh Châu); Chùa đàn
Theo “Từ điển văn học (bộ mới)”, học hiện đại áp dụng cho thể hiện chủ đề của văn bản.. (Nguyễn Tuan); Hồ
Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), tr. thực tế văn học thời trung Điểm nhìn nghệ thuật (the (Kawabata Jasunari);
TRUYỆN
1846”: “truyện ngắn là một thể đại. Thời trung đại chưa hề point of view) là vấn đề cơ bản, Nhân gian thất cách (Dazai
NGẮN
loại tự sự cỡ nhỏ, thường được biết đến khái niệm này. then chốt của kết cấu. Điểm Osamu);...
viết bằng văn xuôi, đề cập hầu Thay vì dùng một khái niệm nhìn là vị trí, chỗ đứng để xem
hết các phương diện của đời có tính chất khái quát, xét, miêu tả, bình giá sự vật,
sống con người và xã hội. Nét nổi người xưa có tên gọi riêng hiện tượng trong tác phẩm.
bật của truyện ngắn là sự giới cho mỗi cuốn sách (chí, lục, Trong tác phẩm tự sự, tương
83
hạn về dung lượng; tác phẩm phả, bút, tùy bút, kí, kí sự, quan giữa nhà văn và chủ đề
truyện ngắn thích hợp với việc thuyết…). trần thuật hay giữa điểm nhìn
tiếp nhận độc giả đọc nhó liền Truyện ngắn hiện đại của người trần thuật với những
một mạch không nghỉ.” gì anh ta kể là điều đặc biệt
quan trọng.
Điểm nhìn là một khái niệm đã
được đề cập khá sớm, đặc biệt
ở Anh và Mĩ. Theo M.H.
Abrahams (Từ điển thuật ngữ
văn học - A Glossary of
Literature terms), điểm nhìn
chỉ ra “những cách thức mà
một câu chuyện được kể đến -
một hay nhiều phương thức
được thiết lập bởi tác giả bằng
ý nghĩa mà độc giả được giới
thiệu với những cá tính, đối
thoại, những hành động, sự sắp
đặt và những sự kiện mà trần
thuật cấu thành trong một tác
phẩm hư cấu [44;165].
Pospelov khẳng định vai trò
quan trọng của điểm nhìn trần
thuật trong tác phẩm tự sự:
“Trong tác phẩm tự sự, điều
quan trọng là tương quan giữa
các nhân vật với chủ thể trần
thuật, hay, nói cách khác, điểm
nhìn của người trần thuật đối
với những gì mà anh ta miêu
tả” [43; 90].
Bakhtin khi bàn về tiểu thuyết
Doxtoiepxki đã xem điểm nhìn
như là “cái lập trường mà xuất
phát từ đó câu chuyện được kể,

84
hình tượng được miêu tả hay
sự việc được thông báo” (Thi
pháp tiểu thuyết)
Còn Trần Đình Sử trong cuốn
“Giáo trình dẫn luận thi pháp
học” (NXB Giáo dục -1998) cho
rằng “Điểm nhìn văn bản là
phương thức phát ngôn trình
bày, miêu tả phù hợp với cách
nhìn, cách cảm thụ thế giới của
tác giả. Khái niệm điểm nhìn
mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi
nhận thức, đánh giá, cảm thụ
của chủ thể đối với thế giới.
Theo “Từ điển thuật ngữ văn
học”, Tr.247: “Khoảng cách, góc
độ của lời kể đối với cốt truyện
tạo thành cái nhìn”
Theo soạn giả Hà Văn Lưỡng có
đăng trên “Tạp chí sông
Hương”: “Ở các tập truyện
ngắn, điểm nhìn trần thuật
không cố định một nhân vật mà
luôn thay đổi từ ngôi thứ nhất
sang ngôi thứ ba, đôi khi xen kẽ
lẫn điểm nhìn của nhân vật và
tác giả. Trong một số truyện,
ranh giới các điểm nhìn dường
như bị xóa mờ, khó phân biệt
đâu là lời kể của ai. Lời kể trực
tiếp đan xen lời gián tiếp thông
qua những câu, những chuyện
nhà văn để trong dấu ngoặc
kép xóa nhòa ranh giới giữa các
vai kể khiến chúng nhập vào

85
nhau với dòng cảm xúc nội tâm
nhân vật”
Theo “Lý luận văn học” do thầy Theo “Lý luận văn học” Nhận biết và phân tích được Cách kể chuyện: Truyện có Ngã tư và những cột đèn
Trần Đình Sử chủ biên, Tr.387 do thầy Trần Đình Sử chủ một số yếu tố của tiểu thuyết thể được kể theo trình tự (Trần Dần); Cha con nghĩa
– 394: “Tiểu thuyết là thể loại biên, Tr.394: “Tiểu (hiện đại, hậu hiện đại) như: thời gian tuyến tính hoặc có nặng (Hồ Biểu Chánh);
văn học có khả năng tổng hợp thuyết hiện đại có thể ngôn ngữ, diễn biến tâm lí, thể bị đảo lộn thời gian (kể Trăm năm cô đơn
nhiều nhất các khả năng nghệ “tạm” chia: tiểu thuyết sử hành động của nhân vật,... về hiện tại trước rồi mới (G.Marquez); Tội ác và
thuật của nhiều các loại văn thi - tâm lý, tiểu thuyết - Ngôn ngữ: quay lại kể về quá khứ), hình phạt (F.M.
học khác.” […] “Vì tiểu thuyết kịch, tiểu thuyết tâm lý - Theo “Lí luận văn học, tập theo sự phát triển của tâm lí Dostoyevsky);…
tái hiện và thay đổi hiện thực trữ tình, tiểu thuyết thế 2”,Trần Đình Sử, Tr.298: “chất nhân vật.
nên nó “luôn luôn vận sự - trữ tình, tiểu thuyết văn xuôi tức là một sự tái hiện Nhân vật: Nhân vật được
động”[...] Tiểu thuyết cận đại sử thi -trữ tình, tiểu cuộc sống những chi tiết giống xây dựng là con người phức
(hay hiện đại) đặc biệt chú ý thuyết huyền thoai, tiểu như thật không thi vị hóa, lãng tạp, đa dạng trong suy nghĩ,
tới việc khai thác thế giới bên thuyết trí tuê, tiểu thuyết mạn hóa, lí tưởng hóa chính cảm xúc, cái xấu và cái ác
trong của nhân vật: tâm trạng, chính luận, tiểu thuyết tư điểm này tạo ra ngộ nhận sự ra luôn tồn tại cùng với cái tốt,
cảm xúc, sự biến đổi tinh vi liệu,...” đời của tiểu thuyết đồng nhất cái lương thiện buộc con
trong nhận thức của con của chủ nghĩa hiện thực miêu tả người phải đấu tranh với nó.
TIỂU người. Điều này cũng làm nên cuộc sống như một thực tại Ngôi kể: Ngôi kể trong
THUYẾT đặc sắc của tiểu thuyết hiện cùng thời gian sinh thành tiểu truyện đa dạng: ngôi thứ ba,
HIỆN ĐẠI đại: con người được nhìn nhận thuyết có khả năng miêu tả cuộc ngôi thứ nhất hoặc kết hợp
trong cái nhìn đa diện, nhiều sống một thực tại cùng thời gian nhiều ngôi kể trong cùng
chiều, trong cuộc đấu tranh với sinh thành tiểu thuyết có khả một tác phẩm
chính mình để hoàn thiện bản năng miêu tả cuộc sống một Kết cấu: Truyện được kết
thân.” cách chi tiết như thật” cấu theo lối chương, đoạn.
Theo “Lí luận văn học 2”, Phan Theo “Lí luận văn học”, Lê Lưu Ngoài ra còn một số yếu tố
Văn Tiến, Tr.115: “Tiểu thuyết Oanh, Tr.169 : “Tiểu thuyết có thể chú ý tới: dung
là hình thức tự sự cỡ lớn khác miêu tả cuộc sống với mọi bồn lượng và quy mô tự sự, cốt
với truyện ngắn, nó có một tốc bề, ngổn ngang của cuộc đời, truyện, kết cấu, không
độ phát triển mạnh nhất là vào bao gồm cái cao cả lẫn cái tầm gian-thời gian, giọng điệu
thời kì cận đại và hiện đại, thường, nghiêm túc và buồn tự sự,...
được nhiều nhà văn khai thác cười, bi hài lẫn lộn. Nói cách
và tiếp nhận. Truyện ngắn bị khác, đó là chất văn xuôi của
giới hạn về số lượng trang, cuộc đời. Chất văn xuôi thể hiện
riêng tiểu thuyết thì nó không rất rõ trong tiểu thuyết của
bó buộc số trang viết. Chính vì Bandắc, Stăngđan, Phlôbe,
86
vậy, các nhà văn đã vận dụng Tônxtôi, Tsêkhốp, Nam Cao,
điều này để bày tỏ cảm xúc, suy Ngô Tất Tố. Chính chất văn xuôi
nghĩ của mình. Bên cạnh đó, nó đã mở ra một vùng tiếp tục tối
còn thể hiện rõ những phong đa với thời hiện tại đang sinh
tục tập quán, tính cách con thành, làm cho tiểu thuyết
người, số phận con người, không bị giới hạn nào trong nội
miêu tả bức tranh xã hội sống dung phản ánh”
động, một nếp sống sinh hoạt - Giống như các hình thái tự sự
đa dạng.” khác như truyện ngắn, truyện
Theo Phương Lựu: “Tiểu vừa, tiểu thuyết lấy nghệ thuật
thuyết là hình thức tự sự cỡ kể chuyện làm giọng điệu chính
lớn đặc biệt phổ biến trong của tác phẩm. Thông thường ở
thời cận đại và hiện đại. Với tác phẩm xuất hiện người kể
những giới hạn rộng rãi trong chuyện như một nhân vật trung
hình thức trần thuật, tiểu gian có nhiệm vụ miêu tả và kể
thuyết có thể chứa đựng lịch lại đầu đuôi diễn biến của
sử của nhiều cuộc đời, những chuyện. Tuy sự tồn tại của yếu
bức tranh phong tục của xã hội tố này là ước lệ nghệ thuật của
miêu tả cụ thể các điều kiện nhiều thể loại thuộc tự sự, nghệ
sinh hoạt giai cấp tái hiện lại thuật kể chuyện của tiểu thuyết
nhiều tính cách đa dạng” vẫn cho thấy sự đa dạng đặc biệt
về phong cách: có thể thông qua
nhân vật trung gian, có thể là
nhân vật xưng "tôi", cũng có thể
là một nhân vật khác trong tác
phẩm, tạo nên các tác phẩm có
một điểm nhìn trần thuật. Hiện
nay, một trong những xu hướng
tìm tòi đổi mới tiểu thuyết là
việc tăng thêm các điểm nhìn ở
tác phẩm, khi vai trò của nhân
vật trung gian hoặc nhân vật
xưng "tôi" được "san sẻ" cho
nhiều nhân vật trong cùng một
tác phẩm.

87
Diễn biến tâm lí, hành động
của nhân vật:
Theo “Lí luận văn học”, Phan
Văn Tiến, Tr.118 và “Lí luận văn
học”, Trần Đình Sử, Tr.299:
“Nhân vật trong tiểu thuyết là
con người nếm trải. Con người
ấy đã từng trải qua những buồn,
vui, cay đắng. Đây là đặc điểm
rất riêng mà không có một thể
loại nào có được: “Nhân vật tiểu
thuyết khác với nhân vật sử thi,
nhân vật truyện trung đại là ở
nhân vật tiểu thuyết là con
người nếm trải trong khi các
nhân vật kia thường là nhân vật
hành động, nhân vật đạo đức”.
Các nhân vật trong tiểu thuyết
phải trải qua nhiều vấn đề trong
cuộc sống. Các nhân vật có khi bị
lên án hoặc biểu dương. Thông
qua nhân vật, ta thấy được cuộc
sống của họ luôn gặp nhiều biến
cố xảy ra như thử thách họ. Con
người trong tiểu thuyết được
xây dựng ở nhiều khía cạnh để
thể hiện rõ được cuộc sống của
họ như thiện – ác, tốt – xấu,
khoan dung – hẹp hòi, ... các khía
cạnh này làm nổi bật con người
trong tiểu thuyết. Trong tiểu
thuyết con người luôn trải qua
những mâu thuẫn với cuộc sống
và chính bản thân mình. Các
nhân vật không chỉ nếm trải

88
những hoàn cảnh cuộc sống mà
còn phải nếm trải những cảm
xúc của chính mình. Ví dụ, Bính
(Bỉ vỏ – Nguyên Hồng), Lý (Mùa
lá rụng trong vườn – Ma Văn
Kháng), Giang Minh Sài (Thời xa
vắng – Lê Lựu), ... đều là những
con người “nếm trải” và tư duy,
gặp nhiều oan nghiệt của số
phận. Nhân vật phải chịu rất
nhiều những trải nghiệm trong
cuộc đời với bao nhiêu thăng
trầm, biến đổi, những đau khổ
dằn vặt, nghĩ suy. Bởi lẽ, nhân
vật trong tiểu thuyết luôn chịu
tác động của hoàn cảnh. M.
Bakhtin nhận xét: “Con người
trong tiểu thuyết khác với sử thi
là thường không đồng nhất với
chính nó. Một người có địa vị
cao nhưng lại xử sự rất xấu và
ngược lại. Nghĩa là nhân cách
con người tiểu thuyết phức tạp
hơn nhiều so với những lược đồ
đơn giản về vị thế, giới tính, giai
cấp ... của chính họ. Vì vậy, mặt
tâm lí của nhân vật luôn là trung
tâm nhấn mạnh của tiểu thuyết.
Điều này, sử thi cổ đại và truyện
trung đại chưa chú ý nhiều.
Phương pháp phân tích tâm lí là
đặc trưng của tiểu thuyết. Có
người nói, tiểu thuyết khai phá
cuộc sống bên trong con người,

89
là cuộc thăm dò cuộc sống con
người là lí do đó”
Theo “Lí luận văn học”, Phan
Văn Tiến, Tr.120 và theo “Tìm
hiểu tác phẩm văn học”, Lê
Tiến Dũng, Tr.174: “Với cách
kể của tiểu thuyết, giọng điệu
kể luôn luôn thay đổi, mỗi
nhân vật có giọng điệu riêng,
nhịp điệu riêng. Ví dụ, tiểu
thuyết Mảnh đất tình yêu, nhà
văn Nguyễn Minh Châu đã hòa
vào từng nhân vật và thế giới
riêng, kể bằng ngôn ngữ và
tiết tấu của nó: “Cũng bằng lời
kể của ông tôi thì cách đây vài
trăm năm, cả dải cát dài dằng
dặc ven biển của khúc giữa
miền Trung này chỉ là những
miếng đất để cho những con
sông lang thang tìm lối ra biển
– lời ông tôi – nếu không thì
chúng đã trở thành những
người đàn bà “bà cô” khó tính
nết vì suốt đời không kiếm
được chồng. Trên dải cát
hoang vắng lơ thơ vài khóm
nhà dân chài, đi đến rũ cẳng
suốt ngày không gặp một
bóng người, một bóng nhà,
không nghe một tiếng gà chó,
chỉ thấy mọc độc một giống
cây lá cứng có khía và quả của
nó không bao giờ chín, gọi là
quả mật sát”. Nhà văn Xô Viết

90
Antônốp cho rằng: “Trao ngòi
bút cho nhân vật tự viết lấy
giọng điệu riêng của nó”. Sự
xóa bỏ khoảng cách giữa
người trần thuật và nhân vật
trần thuật cho phép người
trần thuật có thể có thái độ
thân mật thậm chí “suồng sã”
đối với nhân vật của mình. Từ
đó có cái nhìn toàn diện hơn,
dân chủ hơn về nhân vật và
các hiện tượng miêu tả.”
Theo soạn giả Lê Lưu Oanh – Nhận biết và phân tích Ngã tư tháng Chạp (Lưu
Phạm Đăng Dư (2008) trong được một số yếu tố của thơ Quang Vũ); Tự hát (Xuân
“Lý luận văn học” [tr.176]: trữ tình hiện đại như: ngôn Quỳnh); Sóng (Xuân
“Thơ Trữ tình là loại hình đi ngữ, hình tượng, biểu Quỳnh); Tôi yêu em
vào phương diện tình cảm, vào tượng, yếu tố tượng trưng, (Puskin); Khoảng trời, hố
thế giới bên trong tâm hồn con siêu thực trong thơ, ... bom (Lâm Thị Mỹ Dạ);...
người, phản ánh đời sống bằng - Ngôn ngữ:
cách bộc lộ trực tiếp ý thức của Thơ trữ tình theo “Lí luận văn
con người, nghĩa là con người học”, Trần Đình Sử, tr. 365:
tự cảm thấy mình qua những Ngôn ngữ thơ bão hòa cảm
THƠ
ấn tượng, ý nghĩ, cảm xúc chủ xúc - Lời thơ là lời đánh giá
TRỮ
quan của mình đối với thế giới trực tiếp thể hiện quan hệ của
TÌNH
và nhân sinh” [...] “Thơ trữ tình chủ thể với cuộc đời; Ngôn
HIỆN ĐẠI
hiện đại không quá đặt nặng ngữ thơ giàu nhạc tính - Thế
vào vấn về hình thức như thể giới nội tâm của nhà thơ
cổ thi.” không chỉ biểu hiện bằng ý
nghĩa của từ ngữ, mà bằng cả
âm thanh, nhịp điệu của từ
ngữ ấy.
- Hình tượng, biểu tượng:
Tác phẩm trữ tình gắn liền với
hình tượng nhân vật trữ tình
(có người gọi là chủ thể trữ
91
tình). Cần phân biệt rõ 2 khái
niệm: nhân vật trữ tình và
nhân vật trong tác phẩm trữ
tình. Nhân vật trong tác phẩm
trữ tình là đối tượng để nhà
thơ gửi gắm tâm sự, cảm xúc,
suy nghĩ …của mình, là nguyên
nhân trực tiếp khêu gợi nguồn
cảm hứng cho tác giả. Nhân vật
trữ tình không phải là đối
tượng để nhà thơ miêu tả mà
chính là những cảm xúc, ý nghĩ,
tình cảm, tâm trạng, suy tư…về
lẽ sống và con người được thể
hiện trong tác phẩm.
Từ ca dao đến những tác
phẩm thơ ca hiện đại, người
đọc cảm nhận trước hết là thế
giới nội tâm, là thái độ xúc
cảm và tâm trạng của nhân
vật trữ tình đối với con người,
cuộc đời và thiên nhiên. Nhà
thơ có thể không cần phải
miêu tả kỹ về con người và
những nguyên nhân cụ thể
dẫn tới những tình cảm đó.
Ðiều này chứng tỏ sự biểu
hiện trực tiếp thế giới chủ
quan của tác giả là đặc điểm
tiêu biểu, đầu tiên của tác
phẩm trữ tình.
Mặc dù thể hiện thế giới chủ
quan của con người, tác phẩm
trữ tình vẫn coi trọng việc miêu
tả các sự vật, hiện tượng trong

92
đời sống khách quan bằng các
chi tiết chân thật, sinh động.
Những chi tiết chân thật, sinh
động trong đời sống dễ khêu
gợi những tình cảm sâu sắc,
mới mẻ. Có điều những chi tiết
trong tác phẩm trữ tình bao giữ
cũng hết sức cô đọng, súc tích.
Tác phẩm trữ tình cũng phản
ánh thế giới khách quan nhưng
chức năng chủ yếu của nó là
nhằm biểu hiện những cảm
xúc, tâm trạng, suy nghĩ …của
con người
Theo “Từ điển văn học bộ Do nội dung, tính chất, Nhận biết và phân tích Ông Jourdain mặc lễ phục
mới”, Đỗ Đức Hiểu (chủ biên), cung bậc của tiếng cười, được một số yếu tố của hài (Moliere);...
Tr. 566: “Hài kịch là một thể hài kịch chia thành nhiều kịch như:
loại kịch trong đó có các tính tiểu loại khác nhau như - Xung đột kịch: Theo “Lí luận
cách, các tình huống và hành hài kịch tính cách, hài văn học”, Trần Đình Sử, tr.
động được trình bày dưới hình kịch tình huống, hài kịch 402: Xung đột kịch có thể có
thức cười cợt hoặc thấm đậm sinh hoạt, hài kịch trào nhiều phạm vi và cấp độ: xung
chất hài.” phúng,... đột trong nội tâm, xung đột
Theo “Từ điển thuật ngữ văn giữa tính cách và hoàn
học” của Soạn giả Lai Nguyên Ân, cảnh...Nhưng tập trung nhất là
HÀI KỊCH Tr.136: “Hài kịch là một thể loại những tính cách mang những
kịch, trong đó các tính cách, cách quan niệm và địa diện cho
tình huống và cách hành động những lực lượng khác nhau
được trình bày dưới hình thức trong cuộc sống.
cười cợt hoặc thấm đẫm chất - Hành động kịch: Xung đột
hài.” kịch được cụ thể hóa bằng
hành động kịch. Theo
Aristote: “Hành động là đặc
trưng của vở kịch”. Nếu xung
đột được coi là điều kiện cần
thiết làm nảy sinh tác phẩm
93
thì hành động lại là yếu tố duy
trì sự vận hành của tác phẩm.
Hành động kịch là sự tổ chức
các tình tiết, sự kiện, biến cố
trong cốt truyện theo một
trình tự logic, chặt chẽ, chủ
yếu theo quy luật nhân quả.
Hành động được miêu tả căng
thẳng, gấp gáp, hết hành động
này đến hành động khác, ngay
cả khi thực hiện những hành
động suy tư, ngẫm nghĩ cũng
diễn ra rất nhanh. Hành động
kịch cần được hiểu trong tính
thống nhất toàn vẹn của nó.
Trong quá trình đó nhân vật
bộc lộ đặc điểm, tính cách của
mình.
- Nhân vật kịch: Nhân vật
của hài kịch thường không có
sự tương xứng giữa thực chất
bên trong với danh nghĩa bên
ngoài của mình nên đã trở
thành lố bịch. Các tính cách
trong hài kịch thường được
mô tả một cách đậm nét, cận
cảnh và ở trạng thái tĩnh, nhất
là những nét gây cười. Phạm
vi phản ánh của hài kịch hết
sức rộng lớn: từ những vấn đề
chính trị – xã hội đến những
thói xấu trong sinh hoạt hằng
ngày. Trong hài kịch cũng có
thể mô tả nỗi đau khổ của con
người, song chỉ có thể cho

94
phép ở mức độ nhất định sao
cho nỗi đau không lấn át cái
cười để từ đó hài kịch chuyển
thành chính kịch.
- Lời thoại: Đó là lời các nhân
vật được truyền đạt bởi những
diễn viên đóng vai nhân vật ấy.
Lời của các nhân vật gọi là
thoại bao gồm 3 dạng: đối
thoại, độc thoại và bàng thoại.
+ Đối thoại: là lời các nhân vật
nói với nhau
+ Độc thoại: là lời nhân vật nói
với chính mình
+ Bàng thoại: là lời nhân vật nói
riêng với khán giả
Trong kịch, lời thoại là một
hành động đầy kịch tính. Đồng
thời, đó vừa là hành động vừa
là phương tiện biểu hiện nên
tính cách nhân vật.
- Thủ pháp trào phúng.
Theo “Lí luận văn học 2”, Phan -Nhận biết và phân tích -Cách thức sử dụng ngôn Phóng sự “Cơm thầy cơm
Văn Tiến, Tr.141: “Phóng sự là được một số yếu tố của ngữ: Đảm bảo yêu cầu của cô” Vũ Trọng Phụng
loại kí ghi chép kịp thời một phóng sự như: ngôn ngữ báo chí, vươn tới Phóng sự “Kỹ nghệ lấy Tây”
vấn đề có ý nghĩa thời sự với Tính phi hư cấu, tính thời tính biểu đạt của nghệ thuật Vũ Trọng Phụng
một địa phương hay toàn xã sự, tính xác thực: Theo “Lí văn chương.Với sự cộng hợp
hội. Phóng sự được sáng tác luận văn học 2”, Phan Văn này, phóng sự có khả năng
PHÓNG
nhằm đáp ứng nhu cầu nhận Tiến, Tr.141-142: “Phóng sự biểu đạt con người và cuộc
SỰ
thức của công chúng về một rất xác thực trong việc ghi sống một cách chân thực,
vấn đề, một hiện tượng xã hội chép, phản ánh sự việc và chi sinh động: Vừa gợi hình ảnh,
nào đó.” tiết đời sống đang diễn ra hay liên tưởng và đạt đến sự
“Phóng sự là thể loại khai thác vừa kết thúc nhưng có khuynh chuẩn xác không thay thế
sự kiện một cách toàn vẹn hướng rõ rệt trong việc nêu được.
trong quá trình phát sinh, phát bật thực chất và xu thế vận
95
triển của nó, đem lại cho người động, phát triển của vấn đề. Để
đọc cái nhìn toàn cảnh về sự trình bày một cách trung thực,
kiện. Phóng sự nằm ở miền khách quan diễn biến của câu
giao thoa giữa báo chí và văn chuyện, sự việc, đồng thời nêu
học.” bật một kết luận, đề xuất
những vấn đề xã hội nhất định,
người viết phóng sự thường
sử dụng những biện pháp
nghiệp vụ báo chí như điều
tra, phỏng vấn ghi chép tại
chỗ, các phương tiện ghi âm,
ghi hình, …”
Một số thủ pháp nghệ thuật
như: miêu tả, trần thuật; sự
kết hợp chi tiết, sự kiện hiện
thực với trải nghiệm, thái độ
và đánh giá của người viết,...
:
-Theo “Lí luận văn học 2”,
Phan Văn Tiến, Tr.142: “Sự
phân biệt phóng sự báo chí
hay phóng sự văn học tùy
thuộc ở mức độ sử dụng một
số phương tiện biểu đạt của
văn học như các biện pháp tu
từ, ngôn ngữ giàu hình ảnh,
hướng vào thế giới nội tâm
của nhân vật, ... Trong phóng
sự Cơm thầy cơm cô, Vũ Trọng
Phụng lại dõi theo cuộc hành
hương của những đoàn nông
dân rách rưới, lam lũ, bị xua
đuổi khỏi làng quê bởi đủ thứ
tai hoạ: nạn bão lụt, hạn hán,
nạn sưu cao thuế nặng, nạn

96
quan lại cường hào, nạn đình
đám xôi thịt, ... chẳng quản
mưa nắng, đói khát, đến bước
về thành phố – vùng ánh sáng
rực rỡ đêm đêm vẫn hiện lên ở
phía chân trời – mong tìm
được công ăn việc làm và
miếng cơm manh áo ở chốn
“thiên đường” ấy; để rồi tự
biến mình thành món: “hàng
tươi sống” rẻ mạt, phải nằm
ngồi trên những cống rãnh,
rác rưởi sặc mùi cá thối, mùi
phân, nước tiểu, đờm dãi, mùi
bùn và rêu lưu niên. Thành
phố vẫy gọi họ đến với nó chỉ
để “chết đói một lấn thứ hai
sau khi bỏ cửa bỏ nhà. Nó đã
làm cho bọn trẻ đực vào Hoả
Lò với một bọn trẻ cái làm
nghề mãi dâm”. Phóng sự nổi
bật bằng những sự thật xác
thực, dồi dào và nóng hổi. Nội
dung chủ yếu của phóng sự lại
thiên về vấn đề người
viết muốn đề xuất và giải
quyết.”
-Sử dụng biện pháp tu từ trong
trình bày phóng sự giúp tác
phẩm mang nét đẹp của văn
học vừa tăng tính nội hàm của
tác phẩm.Nghệ thuật sử dụng
chất liệu văn học: Sử dụng ca
dao, tục ngữ, thành ngữ trong
diễn đạt làm cho thông tin

97
mềm mại.Chỉ được hư cấu ở
những miền không xác định
(biểu cảm nhân vật, cảnh sắc
thiên nhiên,…).
-Hư cấu trong phóng sự không
phải là thêm thắt tưởng tượng
vô căn cứ, mà trong phóng sự,
trường tư duy của người viết
phái gắn liền với hiện
thực.Cũng như tả và bình, chất
văn trong phóng sự cũng phải
có chừng mực, không được
lạm dụng văn chương để múa
bút trong phóng sự.
- Theo Huỳnh Dũng Nhân, chất
văn nên nếm vào phóng sự
cũng giống như muối nêm vào
canh, cái mặn của văn học sẽ
tạo nên vị ngọt của phóng sự
nhưng cũng có thể làm hỏng
nồi canh nếu nêm quá tay.
Theo “Từ điển văn học”, bộ Nhận biết và phân tích Nhật ký Đặng Thùy Trâm
mới, nhiều tác giả cùng soạn, được một số yếu tố của (Đặng Thùy Trâm); Nhật
Tr.245: “Nhật ký là loại văn ghi nhật kí như: tính phi hư ký người điên (Lỗ Tấn);...
chép sinh hoạt thường ngày. cấu và một số thủ pháp
Trong văn học, nhật ký là hình nghệ thuật như: miêu tả,
thức trần thuật từ ngôi thứ trần thuật; sự kết hợp chi
nhất số ít, dưới dạng những ghi tiết, sự kiện hiện thực với
NHẬT KÝ
chép hằng ngày có đánh số trải nghiệm, thái độ và đánh
ngày tháng. Nhật ký đích thực giá của người viết,...
là một thể tài ngoài văn học, là Theo “Từ điển văn học”, bộ
loại văn ghi chép của cá nhân mới, nhiều tác giả cùng soạn
trong đời sống hằng ngày; nó [tr.245]:
thường rất chân thành và công “Bản chất của nhật ký khi được
nhiên trong phát ngôn (lời viết ra chỉ cho bản thân người
98
ghi); bao giờ nó cũng chỉ ghi lại ghi chứ không tính đến việc
những gì đã xảy ra, những gì đã được công chúng tiếp nhận
nếm trải, thể nghiệm; nó (khác với nhật ký như một hình
không có hồi cố. [...] Nhật ký thức văn học), vì thế mà nhật
thường nói đến những sự kiện ký trở nên đặc biệt xác thực”,
đời tư (không tính đến những hay còn gọi là tính phi hư cấu.
nhật ký công tác có tính khoa “Nhật ký là thể tài độc thoại
học hay sự vụ chuyên biệt), nhưng lời độc thoại của tác giả
đồng thời còn nói lên những ý nhật ký có thể mang tính đối
kiến nhận xét về cuộc đời, thoại bên trong, do phải tính
thường được rút ra từ những đến ý kiến của người khác về
suy nghĩ về cuộc sống của bản cuộc đời và về bản thân mình.”
thân người ghi.”
Theo “Từ điển văn học”, bộ mới, Theo soạn giả Nguyễn Nhận biết và phân tích được Nửa đêm sực tỉnh (Lưu
nhiều tác giả cùng soạn thì: “Hồi Ngọc Thiện thì hồi ký có một số yếu tố của hồi kí như: Trọng Lư); Những năm
ký là một thuật ngữ văn học chỉ thể chia thành ba loại: hồi tính phi hư cấu và một số tháng ấy (Vũ Ngọc Phan”;...
một thể loại nằm trong thể ký. ký - chân dung; hồi ký - tự thủ pháp nghệ thuật như:
Tác phẩm hồi ký là một thiên truyện; hồi ký hỗn hợp. miêu tả, trần thuật; sự kết
trần thuật từ ngôi tác giả (“tôi” hợp chi tiết, sự kiện hiện
tác giả, chứ không phải “tôi” hư thực với trải nghiệm, thái
cấu trong một số tiểu thuyết, độ và đánh giá của người
truyện ngắn) kể về những sự viết,...
kiện có thực xảy ra trong quá Tính phi hư cấu:
khứ mà tác giả tham dự hoặc - Theo “Lí luận văn học
HỒI KÝ
chứng kiến.” 2”, Phan Văn Tiến, Tr.143:
“Đặc điểm nổi bật của hồi kí
là ở chỗ chủ thể trần thuật
phải là người trong cuộc,
người đã sống, đã trải
nghiệm và là nhân vật chính.
Hồi kí có thể viềt về một giai
đoạn quan trọng của đời
người, hoặc viết về một giai
đoạn lịch sử quan trọng của
dân tộc như Nhớ lại và suy
99
nghĩ của Giucốp, Những năm
tháng không thể nào quên
của Võ Nguyên Giáp. Nhưng
hồi kí cũng có thể là những
chuyện đời tư, cá nhân,
thường là của những người
có phần nào nổi tiếng. Trong
hồi kí, tính xác thực cũng là
một tiêu chuẩn quan trọng.”
- Đứng về mặt thể loại, hồi
ký văn học là một thể tài văn
xuôi lịch sử - nghệ thuật chứa
đựng những hình tượng ghi
chép sự thật trong đó có
những yếu tố thuộc về lịch sử
đã hiện diện và tồn tại được
tái hiện một cách chọn lọc
dưới cái nhìn của cái tôi tác
giả, giúp cho người đọc tiếp
cận được với cái thật của đời
sống xã hội, hoạt động văn
chương và đội ngũ nhà văn
một thời đã qua, trong đó
người viết như là một nhân
chứng sống động, đáng tin
cậy.
- Từ sự trải nghiệm và những
bài học rút ra qua những câu
chuyện của quá khứ văn
chương của một người, của
một thời, người đọc hôm nay
sẽ có thêm những căn cứ và cơ
sở dữ liệu để có được một cái
nhìn thỏa đáng, thể tất nhân
tình, nhận diện về sự vận

100
hành của một chỉnh thể văn
học, bao gồm: Đời sống xã hội
- Nhà văn - Tác phẩm - Người
đọc.
Trần thuật; sự kết hợp chi
tiết, sự kiện hiện thực với
trải nghiệm, thái độ và
đánh giá của người viết:
Theo “Lí luận văn học 2”,
Phan Văn Tiến, Tr.143: “chủ
thể trần thuật phải là người
trong cuộc, kể lại những sự
việc trong quá khứ. Hồi kí có
thể nặng về người hay việc,
có thể theo dạng cấu trúc –
cốt truyện hoặc dạng kết cấu
– liên tưởng. Ghi lại những sự
việc đã xảy ra qua hồi tưởng.
Đó có thể là câu chuyện mà
người viết đã tham gia,
chứng kiến hoặc được nghệ
thuật lại một cách tường tận
và gắn liền với kỉ niệm của
người viết hoặc kể. Hồi kí đòi
hỏi phải tôn trọng tính chân
thực của câu chuyện và có sự
khái quát cao.”

101

You might also like