Professional Documents
Culture Documents
XDNNQP rút gọn
XDNNQP rút gọn
- Người khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân
dân VN, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo”.
Qua đó ta thấy, một NNPQ phải luôn bảo đảm những điều kiện thiết yếu cho
một nền dân chủ và Nhà nước thực sự của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện của nhà nước pháp quyền.
Không có NNPQ thì không có dân chủ vì NNPQ xác lập những cơ chế, thiết
chế nhằm thực hiện các quyết định dân chủ thông qua luật thể hiện ý chí và
lợi ích của Nhân dân.
Sự ra đời của NNPQ gắn liền với quá trình dân chủ hóa mọi mặt của đời
sống xã hội. Trong nhà nước pháp quyền, các vấn đề liên quan đến bầu cử,
ứng cử, kiểm tra và giám sát của nhân dân đối với các hoạt động của nhà
nước được pháp luật quy định. Từ đó, có thể đi đến khẳng định: “hạt nhân
của lý luận NNPQ là vấn đề dân chủ” và “CP có một mục đích là: hết lòng
hết sức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân”.
3. Phân chia quyền lực nhà nước thành lập pháp, hành pháp, tư pháp;
- Một trong những tiêu chí cơ bản để hình thành nên NNPQ có sự khác biệt
về chất so với các hình thức nhà nước khác đó là phải có sự phân định chức
năng quyền hạn của ba cơ quan nhà nước là lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Một mặt đảm bảo rằng, các cơ quan này hoạt động độc lập, đúng chức năng
quyền hạn của mình, nhưng mặt khác phải đảm bảo sự kiểm soát lẫn nhau,
ràng buộc lẫn nhau và hoạt động nhịp nhàng giữa các cơ quan quyền lực này
trong thực tiễn hoạt động. Trên thực tế, quyền lực nhà nước với tư cách là
biểu hiện ý chí chung của các thành viên cộng đồng, nhưng việc thực hiện
nó lại thông qua cá nhân hay nhóm người của giai cấp nắm quyền thống trị
xã hội.
- Khi quyền lực công được giao cho cá nhân hay nhóm người thì xu hướng
lạm dụng, tha hóa quyền lực là điều khó tránh khỏi. Vì vậy, việc phân định
các cơ quan quyền lực trong NNPQ chính là một trong những phương thức
để đảm bảo quyền lực ủy nhiệm từ nhân dân không bị lạm dụng. Từ đây, có
thể khẳng định rằng, nguyên tắc phân quyền là một trong những đặc trưng
“không thể thiếu” của nhà nước pháp quyền.
4. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ, thực thi quyền tự do, dân chủ của mỗi người
và mọi người
- Con người là giá trị cao quý nhất và là mục tiêu cao nhất trong nhà nước
pháp quyền. Vì vậy việc thừa nhận, tôn trọng và đảm bảo các quyền con
người trên thực tế phải là nội dung của một hệ thống pháp luật tiến bộ, nhân
văn. Trong NNPQ chân chính, có thể coi quyền con người là một tiêu chí
điển hình và quan trọng nhất để đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà
nước. Do đó, các quyền cơ bản và thiêng liêng của con người với tư cách
công dân phải được đảm bảo bằng pháp luật. Công dân có quyền kiểm tra và
giám sát hoạt động của nhà nước, thậm chí thay đổi nhà nước, khi nó xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Từ thực tiễn đổi mới hơn 30 năm qua từ năm 1986 đến nay ta đã
nhận thức và phát triển lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam thông qua những vấn đề sau:
+ Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam luôn luôn xác định và quán triệt nguyên tắc nhân dân là chủ thể
của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân; phải thực hiện dân chủ với nhân dân, phát huy tính sáng tạo của
nhân dân; Nhà nước đặt dưới sự giám sát của nhân dân.
+ Đề cao pháp luật kết hợp với coi trọng giáo dục, nâng cao đạo
đức xã hội là cơ sở quan trọng để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
phải có sự kết hợp các yếu tố dân tộc và thời đại, nội lực và ngoại
lực, lấy nội lực làm chủ yếu, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa của
nhân loại đã đạt được trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền.
Nói cách khác, tính tất yếu của chủ trương xây dựng nhà nước pháp
quyền trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam xuất phát từ những yêu cầu
khách quan sau:
-Yêu cầu xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, đây là yêu cầu quan trọng nhất.
-Yêu cầu bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
-Yêu cầu bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
IV. Đặc trung của NNPQ XHCN:
1. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Đây là nguyên tắc cơ bản, được khẳng định trong chỉ đạo quá trình xây
dựng Nhà nước, được ghi nhận trong các Hiến pháp của Nhà nước ta và
được thể hiện cụ thể trong các quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương; của các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
- Ngay trong Hp 1946, Ct HCM đã khẳng định: “Tất cả quyền bính trong
nước là của toàn thể nhân dân VN, ko phân biệt nòi giống, gái trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo”.Để thực hiện nhiệm vụ này, theo CT HCM, tất
yếu phải thực thi dân chủ. Bởi, dân chủ chính là hiện thực hóa quyền con
người của cá nhân, cộng đồng ở mức cao nhất.
-Về quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, HCM xác định: “Nếu không có
nhân dân thì CP không đủ lực lượng. Nếu có CP thì nd không ai dẫn đường.
Vậy nên Cp với nhân dân phải trờ thành 1 khối”.
+Để có 1 nước VN độc lập, tự do là sự nỗ lực phá bỏ khỏi xiềng xích nô lệ,
giành lại chính quyền, mà lực lượng nòng cốt cho cuộc đấu tranh ấy lại là
nhân dân Việt Nam, và lãnh đạo cuộc đấu tranh ấy là ĐCS – đại diện, lãnh
đạo nhân dân cùng nhau giành lại chính quyền.
+ Vậy nên nn với nhân dân phải đoàn kết thành 1 khối mới tạo nên 1 nước
VN dân chủ. Nn phải phát huy vai trò, trách nhiệm của mình trong việc thực
thi quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân có quyền phê bình CP. Vì vậy,
Người viết rằng: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách
nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền là từ xã dến CP TW do dân cử ra, Đoàn thể từ TW đến xã do
dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
2. QLNN là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
- Quán triệt quan điểm quyền lực nhà nước thống nhất sẽ tác động trực
tiếp đến việc tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp của các cơ cấu thực
hiện quyền lực của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho bộ máy nhà nước vận
hành đồng bộ, thống nhất và hiệu quả. Thống nhất ở mục tiêu chung là phục
vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, của dân ộc.
Mặt khác, tăng cường việc phân công, phối hợp, kiểm soát rành mạch,
hợp lý, rõ rang, chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp chính là phương thức để đảm bảo tính thống nhất.
3. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động
theo Hiến pháp, pháp luật; bảo đảm tính tối cao của pháp luật.
Hệ thống pháp luật phải thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí của nhân dân,
phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và
pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến
pháp và pháp luật”. Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật là của tất cả
công dân, không loại trừ đối với bất cứ ai.
- Hiến pháp là kim chỉ nam để xây dựng nhà nước pháp quyền. Theo Người,
hợp hiến, hợp pháp vừa là điều kiện cần, vừa là điều kiện đủ để xây dựng
nhà nước pháp quyền. Năm 1919, trong bản “Yêu sách của nhân dân An
Nam”, Người đã yêu cầu thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý Đông
Dương, bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật.
Trong Bản yêu sách, Người có đặt vấn đề phải có hiến pháp ban hành, nêu
cao vai trò quản lý nhà nước bằng luật pháp theo tinh thần “Trăm đều phải
có thần linh pháp quyền”, phản ánh tư tưởng cốt lõi của Người về nhà nước
dân chủ mới – nhà nước tôn trọng PL, Quản lý XH bằng PL. Vì vậy HCM
nhấn mạnh, cần nhanh chóng tổ chức tổng tuyển cử và xây dựng hiến pháp
nhằm xác lập nền dân chủ và tổ chức 1 nhà nước kiểu mới hợp hiến, hợp
pháp. CT HCM đã đặt nền móng vững chắc trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền, đóng góp to lớn trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp ở nước ta.
- Hiến pháp là kim chỉ nam để xây dựng nhà nước pháp quyền. Theo Người,
hợp hiến, hợp pháp vừa là điều kiện cần, vừa là điều kiện đủ để xây dựng
nhà nước pháp quyền. Năm 1919, trong bản “Yêu sách của nhân dân An
Nam”, Người đã yêu cầu thực dân Pháp phải cải cách nền pháp lý Đông
Dương, bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các đạo luật.
Trong Bản yêu sách, Người có đặt vấn đề phải có hiến pháp ban hành, nêu
cao vai trò quản lý nhà nước bằng luật pháp theo tinh thần “Trăm đều phải
có thần linh pháp quyền”, phản ánh tư tưởng cốt lõi của Người về nhà nước
dân chủ mới – nhà nước tôn trọng PL, Quản lý XH bằng PL.
=>Vì vậy, 3/9/1945, trong phiên họp Hội đồng Chính phủ, HCM nhấn
mạnh, cần nhanh chóng tổ chức tổng tuyển cử và xây dựng hiến pháp nhằm
xác lập nền dân chủ và tổ chức 1 nhà nước kiểu mới hợp hiến, hợp pháp.
HCM đã đặt nền móng vững chắc trong việc xây dựng nhà nước pháp
quyền, đóng góp to lớn trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp ở nước ta.
6. Phương hướng và nhiệm vụ XD NNQP XHCN VN: 1,2,3
1. Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
- Bảo đảm quyền bầu cử, ứng cử, bãi miễn của nhân dân
- Bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của nhân dân
- Bảo đảm quyền giám sát, kiểm tra hoạt động của bộ máy Nhà nước,
cán bộ, công chức nhà nước
- Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo
- Bảo đảm các tổ chức xã hội hoạt động đúng vai trò, chức năng
2. Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực
hiện pháp luật
Đây là yêu cầu khách quan, cấp bách của sự nghiệp xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
- Bảo đảm nguyên tắc khách quan, dân chủ, pháp chế, khoa học, phù
hợp pháp luật quốc tế .
- Năm 2020 xây dựng được hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh,
chất lượng cao, ổn định tương đối.
- Đổi mới quy trình, chất lượng xây dựng pháp luật; nâng cao chất lượng
hoạt động lập pháp của Quốc hội.
- Đẩy mạnh phổ biến tuyên truyền, giáo dục pháp luật; mở rộng dịch vụ
và tư vấn pháp lý.
3. Đẩy mạnh cải cách bộ máy nhà nước
* Đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội.
- Hoàn thiện cơ chế bầu cử để lựa chọn được các đại biểu xứng đáng.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc thực hiện các chức năng của
Quốc hội.
- Phát huy vai trò, ý chí, trách nhiệm, bản lĩnh của đại biểu Quốc hội.
- Kiện toàn các cơ quan của Quốc hội.
- Tăng cường mối quan hệ giữa Quốc hội với nhân dân, với thực tiễn.
- Đảm bảo các điều kiện vật chất, điều kiện làm việc cho Quốc hội, đại
biểu Quốc hội.
* Đẩy mạnh cải cách nền hành chính Nhà nước
- Cải cách thể chế hành chính.
- Cải cách tổ chức, hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước ở Trung
ương và chính quyền địa phương.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hành chính.
- Đổi mới tài chính công, dịch vụ công.
* Đẩy mạnh cải cách tư pháp
- Hoàn thiện pháp luật hình sự, dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự,
thủ tục tố tụng tư pháp.
- Xác định rõ chức năng, thẩm quyền, bộ máy các cơ quan tư pháp
- Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
- Hoàn thiện chế định bổ trợ tư pháp
- Hoàn thiện cơ chế giám sát của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân
- Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp
- Đầu tư cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp
- Đổi mới cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp.
VI. Quan điểm xây dựng NNPQ XHCN hiện nay:
Thứ nhất, phải dựa trên quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh;
Thứ hai, phải giữ vững bản chất giai cấp, tính dân tộc của Nhà nước XHCN;
Thứ ba, bảo đảm các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước;
Thứ tư, thận trọng, từng bước, chuẩn bị các điều kiện cần thiết, có cách làm, hình thức, bước đi
phù hợp; vừa tổng kết thực tiễn vừa khái quát lý luận;
Thứ năm, kế thừa những kinh nghiệm trong lịch sử; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài.
-Trong đó quan điểm thứ nhất, thứ tư và quan điểm thứ năm là quan điểm cần chú tâm nhiều
nhất bởi vì nó sẽ là nền móng cho việc trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay.
1. Phải dựa trên quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh:
Xuất phát từ bản chất cách mạng và khoa học của chủ nhĩa Mác –lênin,
nay từ những năm 20 của tk XX, HCM khẳng định: “Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lenin”
Vậy nên, Đảng ta cần khẳng định rõ những giá trị bền vững của chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời cũng phải xác định,
làm rõ những luận điểm mới cần được phát triển, nhận thức lại hay bổ sung
thêm vào đường lối đổi mới. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận,
cung cấp những luận cứ khoa học, những dự báo cho quá trình phát triển đất
nước, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tìm kiếm những bước đi phù hợp
với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Vận dụng sáng tạo những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam. Đặc biệt là,
trong quá trình bổ sung, phát triển đường lối đổi mới phải có tư duy phê
phán và sáng tạo, dám đổi mới vượt qua những rào cản của tư duy lối mòn,
cũ kỹ, cản trở sự phát triển của lý luận và thực tiễn.
Rõ ràng, đổi mới tư duy và lý luận là nhu cầu cấp thiết, nhưng phải trên cơ
sở những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Như C. Mác, Ph. Ăng-
ghen đã chỉ rõ, cần tránh hai thái cực: hoặc đổi mới nhưng không kiên định
lập trường, đổi mới vô nguyên tắc hoặc biến học thuyết của các ông trở
thành giáo điều, tín điều nhất thành bất biến, coi đó chỉ là những chân lý có
sẵn.
Thực tiễn xác nhận, chỉ có xuất phát từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, tăng cường thực hành dân chủ, kịp thời và thường xuyên tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng mới là con đường duy nhất đúng để
phát triển và bảo vệ đường lối đổi mới, tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng
không ngừng tiến lên.
4. Thận trọng, từng bước, chuẩn bị các điều kiện cần thiết, có cách làm,
hình thức, bước đi phù hợp; vừa tổng kết thực tiễn vừa khái quát lý
luận;
Trong sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của đồng chí Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đề cập đến thành quả phát triển lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đó chính là kết quả của việc
tổng kết thực tiễn, kế thừa tinh hoa văn hóa dân tộc, tiếp thu kinh nghiệm
của các Đảng Cộng sản cũng như phong trào công nhân quốc tế của toàn
Đảng.
-Từ tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam, nhất là hơn 35 năm đổi
mới mà Đảng ta đã nhận thức sâu sắc rằng “Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã
hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực
lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất
nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại
càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài
với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có
sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới”. Vì vậy “quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến
đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”. Do đó,
không thể chủ quan, nóng vội được.
5. Kế thừa những kinh nghiệm trong lịch sử; tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm nước ngoài.
-Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là tài sản tinh thần quý báu
của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Trong 36 năm tiến hành công cuộc đổi
mới, Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm nghiên cứu, kế thừa, vận dụng
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật để lãnh đạo, chỉ
đạo thực tiễn xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
-Kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, những năm qua, theo tinh thần
“không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, Đảng ta đã lãnh đạo cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí một cách triệt để và có hiệu quả ngày càng cao hơn.
-Ngoài ra, ta còn kế thừa tư tưởng, nghệ thuật, phong cách ngoại giao Hồ
Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã không ngừng đổi
mới, phát triển tư duy về đối ngoại, ngoại giao, phục vụ tốt nhất lợi ích quốc
gia - dân tộc. Sự đổi mới tư duy lý luận giúp chúng ta nhìn nhận, đánh giá
đúng các quy luật phát triển, các xu thế lớn trong sự vận động của thế giới,
định vị Việt Nam trên trường quốc tế; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
sâu rộng, hiệu quả; tăng cường đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; giữ vững môi trường hoà bình, ổn
định và tranh thủ các điều kiện bên ngoài thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.