Professional Documents
Culture Documents
Tue Sy - Triet Hoc Ve Tanh Khong
Tue Sy - Triet Hoc Ve Tanh Khong
Tue Sy - Triet Hoc Ve Tanh Khong
Thư Viện Sá ch
www.thuviensach.net
Tuệ Sỹ
Triết họ c về tá nh Khô ng
(Sù nyavà da)
I.
Wenn am Sommertag der Falter sich auf die Blume niederlä sst und, die
Flü gel geschlossen, mit ihr Wiesenwind schwing… (Martin Heidegger,
Aus der Erfahrung des Denkens)
Có thể vay mượn những lời như vậy để khởi đầu cho sự chờ đợi tiếng
vọng đáp ứng của những gì đó đang ẩn mình trong bóng tối. Những lời
được vay mượn ấy không nhất thiết phải là đồng thanh với những cái sắp
đáp ứng. Sự tựu thành của những cái đáp ứng này sẽ không xuất hiện
trong những tiếng động náo nhiệt. Đây là sự tựu thành của một cơn mưa
như thác lũ, khi con bướm mùa hè đã chịu khép lại đôi cánh mỏng để
lắng nghe trong thầm lặng hơi thở của cỏ nội. Chờ đợi, kiên trì và dừng
lại trong sự bế tắc của một thời chỉ có ánh sáng vĩnh cửu của mặt trời.
Kiên trì và dừng lại để chờ đợi trong sự bế tăc là liều lĩnh ký thác mình
cho một cuộc chơi ngoạn mục của thiên diễn, là liều lĩnh đứng lại giữa
dòng thác đổ của vạn hữu. Đó là một thái độ bướng bỉnh, không chịu tiến
từng bước vững chắc như những đợt nhảy của con chim hồng: Nhảy bên
bờ nước, nhảy đến tảng đá, nhảy trên đất cạn, nhảy lên cành cây, nhảy lên
gò cao và cuối cùng bay trong thương khung để lông cánh làm đẹp cho
bầu trời [1] . Chờ đợi trong sự bế tắc là những bước thụt lùi của con chim
hồng, từ trên cành cây rơi trở xuống đất cạn. [2] Từ trên cành cây rơi trở
xuống đất cạn để chập chững như cưu mang một cái gì đó có vẻ ngược
ngạo; đó là sự tiến tới bằng những bước thụt lùi, bởi vì thuận theo sự bế
tắc. [3]
Mượn một kinh nghiệm tư tưởng để nói về một kinh nghiệm tư tưởng,
đó là một sự vay mượn nghịch lý ngang ngược: vay mượn đã là một điều
bất khả. Bất khả cho nên bế tắc. Bế tắc cho nên không thể tìm thấy một
lối trung chinh để vào tư tưởng. [4]
Như thế là đã khởi đầu bằng một sự bất chính. Đằng sau sự bất chính này
không có che dấu một ẩn nghĩa nào hết để biện minh cho nó. Nhưng,
Tánh không luận là gì? "Khi con bướm mùa hè dừng lại trên đóa hoa,
khép lại đôi cánh, và đong đưa theo cơn gió của cỏ nội hoa ngàn..."
II.
Từ khi Nàgàrjuna (Long Thọ) xuất hiện ở miền Nam Ấn Độ, đến nay 18
thế kỷ đã qua, và suốt một vòng cung ba phần tư của toàn bộ Á Châu,
Tánh không luận (Sunyavada) đã trở thành một thứ khí giới vô cùng sắc
bén được trang bị cho một nền triết lý chuyên môn phá hoại. Với những
kẻ chống đối nó, phá hoại là phá hoại. Nhưng những kẻ tán thưởng nó thì
nói phá hoại tức là thiết lập. Với cả hai, phá hoại là điều đáng sợ và nên
tránh. Chính thực, Nàgàrjuna đã cố ý binh vực cho một chân lý nào bằng
khí giới Tánh Không luận? Người ta đã từng nghĩ, chính Tánh Không
(Sunya) là chân lý đó. Bởi vì, người ta có thể tìm thấy, với bằng chứng vô
cùng xác thực của văn nghĩa, rằng chính Nàgàrjuna đã coi phương tiện
và cứu cánh là một. Nói cách khác, chính chân lý của Tánh Không tự bảo
vệ lấy nó, tự binh vực cho chính nó, không không một cái gì khác. Và như
vậy, với những học giả hiện đại chuyên môn về Tánh Không luận với
những đại biểu có thẩm quyền như T.R.V.Murti, Ed. Conze, J. May, và có thể
kể thêm những vị ở ngoài lãnh vực chuyên môn này nhưng được coi như
là có thẩm quyền như Stcherbatsky, J. Takakusu, vân vân, đều đồng thanh
công nhận Tánh Không luận là biện chứng pháp (dialectique). Những
người đi sau bám chặt vào danh từ này – Biện chứng pháp – để hiểu Tánh
Không luận, đó quả là một sự đồng thanh tương ứng. Như vậy là "Nghìn
tâm gởi bóng tùng quân [5] , tuyết sương che chở cho thân cát đằng".
Ed. Conse nói đến sự táo bạo của những hiền triết Đông phương là tư
tưởng bằng mâu thuẫn. Bởi vì, chính luận mâu thuẫn cho phép người ta
nói: phương tiện là cứu cánh, cứu cánh là phương tiện. Phá hủy trong
phương tiện, nhưng lại là thiết lập trong cứu cánh. Phá hủy và thiết lập
lại là một. Như thế, hình như mâu thuẫn đối chọi với đồng nhất. Đây là lý
lẽ mà người ta hay dựa vào đó để phân biệt tính cách dị biệt của tư
tưởng Đông phương. Người ta thường lý luận theo một tiêu thức điển
hình nhất như sau: với Tây phương = ce qui est est, ce qui n’est pas (của
Parménide), đó là tư tưởng trên nguyên tắc mâu thuẫn. Bởi vì, nguyên
tắc mâu thuẫn như thế là dung nạp tất cả mọi tương phản, tất cả mọi cái
không phải là nó, cho nên người ta nghĩ nếu công nhận rằng Đông
phương luôn luôn tư tưởng trên nguyên tắc này thì tư tưởng Đông
phương lúc nào cũng có thể dung nạp được tư tưởng Tây phương với tất
cả những dị biệt của chính nó. Và ngược lại, vì nguyên tắc đồng nhất
không dung nạp những tương phản. Nguyên tắc đồng nhất đưa đến chỗ
đòi hỏi sự nghiêm xác của khái niệm. Merleau Ponty nói: "Có cái gì đó
không thể thay thế trong tư tưởng Tây phương: (…), sự nghiêm xác của
khái niệm…." [6] .
Hình như chúng ta vừa đưa ra một tràng, ngắn, những lý luận có vẻ rất là
mạch lạc. Nếu nói cho chí lý, thì kiểu lý luận này là điều tối kỵ của các nhà
Tánh Không luận, kể từ Aryadeva, xuống Buddhapalila, qua Bhavaviveka,
cho đến Candrakirti (những truyền nhân của Nàgàrjuna). Nhưng nói vậy
cũng không được. Vì đó cũng chỉ là một cách nói áp dụng luật mâu thuẫn
một cách mạch lạc. Như vậy, chính mâu thuẫn đã phối trí thành một trật
tự mạch lạc để cho mâu thuẫn là mâu thuẫn. Tức là, mâu thuẫn chỉ được
thừa nhận như là mâu thuẫn thực sự khi người ta có thể tìm được mạch
lạc của nó trong một trật tự nào đó. Bởi vì, nếu không có sự mạch lạc
giữa những mâu thuẫn và không mâu thuẫn, làm thế nào là nhận biết đó
là mâu thuẫn?
Vậy thì tánh Không luận là gì? "Trong tư tưởng, mọi sự trở thành cô
liêu và lững thững".
III.
Những vay mượn đã không thể tránh và những thành kiến nặng như chì
cũng chưa thể từ bỏ được. "Những con cá lớn trong hồ nước nhỏ này, tất
cả chúng đều bị bao phủ trong tấm lưới nhỏ này, dầu chúng có nhảy vọt
lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ nơi đây" [7] Người học về Tánh Không
cũng như kẻ học bắt rắn bằng hai bàn tay không.
Nàgàrjuna là ai?
Những thiên tài lớn đều xuất hiện trong cơn thịnh nộ. Héraclite trong
bình minh của Hy Lạp với cơn thịnh nộ như những ngọn lửa tàn bạo; ông
đã muốn tống cổ Homère ra khỏi những cuộc chơi chung bởi vì lời cầu
nguyện của Homère muốn cho mối bất hòa giữa các thần linh và loài
người hãy chấm dứt. Zarathoustra xuống núi, cùng với sự xuất hiện của
Siêu nhân, sau khi đã nổi cơn thịnh nộ với mặt trời. Những con sâu con
ngủ suốt cả một mùa đông để chờ đợi những tiếng sấm đầu tiên của tiết
kinh trập tháng Hai. Nhưng, "Một khi sinh ra, họ muốn sống để rồi chịu
đựng sự chết, hay để rồi đi tìm sự yên nghỉ. Và họ để lại những con cháu
cùng chia xẻ số phận như vậy" (Héraclite). Những con sâu con chỉ trở
mình trong giấc ngủ triền miên, còn phải đợi bao giờ cỏ cây nứt vỏ sau
tiếng sầm của tiết kinh trập rồi mới trỗi dậy "giải chi thời đại hỉ tai!" (quẻ
Lôi Thủy Giải, Kinh Dịch).
Nàgàrjuna xuất hiện như một con voi dữ trong truyền thống Phật học và
tư tưởng triết học Ấn Độ. Đương thời, đối với các nhà hiền triết Ấn Độ,
Nàgàrjuna được xếp vào hàng những tư tưởng gia Phật học lỗi lạc bậc
nhất. Nhưng ngay trong hàng ngũ này, Nàgàrjuna lại được kính trọng
như một tên phá hoại đáng sợ. Người sợ đầu tiên có lẽ chính cao đệ của
ông là Aryadeva. Ngay trong tên gọi đã có sự trái ngược. Cái tên
Nàgàrjuna ám chỉ cho một thứ rắn dữ. Bởi vì Naga có nghĩa là rắn dữ.
Nhưng Aryadeva lại hàm ý là một thiên thần thánh thiện. Hai thầy trò
này, một con khủng long và một vị thiên thần, phải chăng là hai nếp gấp
của tư tưởng: huyền chi hựu huyền? Nhiều huyền thoại đã được dựng lên
chứng tỏ rằng đã có nhiều phép lạ hiện ra để hạ bớt thái độ ngông cuồng
của Nàgàrjuna, khi ông quyết định bỏ cả núi cao, cả rừng rậm và cả đất
liền để xuống biển cư ngụ cùng loài rắn dữ. Như vậy người ta mới có đủ lý
do để xác nhận rằng ông quả là một tư tưởng gia Phật học chính thống –
bởi vì chính thống cũng hàm ý là ngoan ngoãn, khi ông chịu theo khuyến
cáo của vua rắn mà trả lại đất liền. Ông quả thực là một tư tưởng gia
Phật học chính thống, mặc dù lồi xử sự của ông đôi khi có vẻ ngược ngạo.
[8]
Từ lúc Nàgàrjuna trở lại đất liền, nhiều vấn đề trong truyền thống Phật
học và nền minh triết Ấn Độ được đặt lại: Tánh Không Luận là gì?
Dường như có một sự lửng lơ và bất khả nào đó; lửng lơ như chính đời
sống và bất khả như chính tư tưởng. Nàgàrjuna từ sương mù của bình
minh và nắng quái xuất hiện rồi biến mất trong sương mù của bình minh
và nắng quái.
IV.
Trong Đại tạng kinh Trung Hoa, được ấn hành dưới sự điều khiển của J.
Takakusu, một học giả Phật học người Nhật, có một tác phẩm mang tựa
đề là "Lão Tử hóa Hồ kinh", được xếp vào loại những tác phẩm ở bên
ngoài Phật học (Ngoại giáo bộ) [10] . Tác phẩm đứt đoạn này nói Lão Tử
cưỡi trâu bỏ xứ Trung Hoa đi về phía Tây bắc và giáo hóa cho những
giống dân man di ở phương này. Môn đệ lớn nhất của ông là Thích Ca. Đó
là Kumarajiva. Cái tên này lại ám chỉ cho sự trường thọ của trẻ thơ. [11]
Có lẽ Nàgàrjuna hóa thân làm Lão Tử tại đất tàu để nói cho một phân
nửa Á Châu nghe lại cái diệu chỉ "huyền chi hựu huyền" trong câu hỏi
"Tánh Không luận là gì?".
Và như thế, trước câu hỏi:"Tánh Không luận là gì?" Những vay mượn đã
không dễ gì tránh khỏi và những thành kiến nặng như chì cũng chưa dễ
gì từ bỏ được.
"Cũng ví như một người đánh cá lớn trong hồ nước nhỏ này với một tấm
lưới sít sao. Người ấy nghĩ: Những con cá lớn trong hồ nước nhỏ này, tất
cả chúng đều bị hạn cuộc bao phủ trong tấm lưới này, dầu chúng có nhảy
vọt lên, chúng vẫn bị hạn cuộc bao phủ nơi đây".
Đó là những lời kết luận của kinh Brahamajàlasutta. Và kinh chấm dứt
như thế này:
(31.1.1970)
[1]Thứ tự củ a sá u hà o củ a quẻ Phong Sơn Tiệ m củ a Kinh Dịch; sơ lụ c,
hồ ng tiệ m vu can; lụ c nhị, hồ ng tiệ m vu bà n; cử u tam hồ ng tiệ m vu lụ c;
lụ c tứ , hồ ng tiệ m vu mộ c; cử u ngũ , hồ ng tiệ m vu lă ng; thượ ng cử u, hồ ng
tiệ m vu qui.
[2]Hà o cử u tam và o lụ c tứ củ a quẻ Phong Sơn Tiệ m đả o ngượ c thà nh
hà o lụ c tam và cử u tứ củ a Thiê n Địa Bĩ.
[3]Quẻ Thiê n Địa Bĩ: lụ c tam, bao tu; cử u tứ , hữ u mệ nh.
[4]“Bĩ chi phí nhâ n, bấ t lợ i quâ n tử trinh, đạ i vã ng tiể u lai, thiê n địa bấ t
giao nhi vạ n vậ t bấ t thô ng dã”. Lờ i tượ ng củ a quẻ Bĩ: Thờ i đạ i bế tắ c
khô ng phả i là thờ i củ a đạ o ngườ i, sự trinh chính củ a quâ n tử chẳ ng có
lợ i. Cá i lớ n đi, cá i nhỏ đế n, trờ i đấ t khô ng giao cả m, nê n vạ n vậ t khô ng
thô ng.
[5]Và đây cũ ng là mộ t đồ ng thanh tương ứ ng: “Đờ i vố n như thế . Ban đầ u
và o cuộ c số ng, chú ng ta già u, già u nhiề u, già u nữ a; trong bao nă m,
chú ng ta trồ ng cây tỉa hộ t, nhưng ngày thá ng trô i, nă m sầ u lạ i; thờ i gian
phá vỡ mấ t cô ng trình; cây rừ ng bị chặ t; bạ n hữ u từ ng ngườ i rơi rụ ng
mấ t. Bó ng tù ng quâ n nghìn tầ m xiê u đổ , cá i con ngườ i trơn trụ i sẽ cò n
nghe rõ trong hoang liê u mố i ngậ m ngù i xuâ n xanh xa mấ t. (Saint-
Exupery, Cõi Người Ta, Bù i Giá ng dịch).
[6]“IL y a quelque chose irremplacable dans la pensé e occidentale: (…),
la rigueur du concept,… “ (MP.Signes, Gallimard, p.174)
[7]Kinh Brahamajà -la-sut-ta. T.T. Minh Châ u dịch.
[8]Viế t theo Long Thọ Bồ Tá t truyệ n củ a Kumarajiva. DTK.2047 ; tậ p 50,
trang 184 và tiế p.
[9]Nà gà rjuna; Madhyamika-kàrika, VII. 34
[10]ĐTK. 2139; Tậ p 54, tr. 1266 và tiế p.
[11]Đồ ng Thọ , cũ ng mườ ng tượ ng như chữ Lã o Tử .
Kết luận
Trung luậ n viết: "Nếu khô ng y Tụ c đế, thì khô ng thể đạ t đượ c Châ n đế.
Nếu khô ng đạ t đượ c Châ n đế, thì khô ng thể hiểu đượ c Phậ t Phá p".
Trong phạ m vi luậ n lý, Tụ c đế ở đây chính là ngô n ngữ . Giá trị củ a ngô n
ngữ khô ng ở chỗ thà nh cô ng củ a nó , mà là ở chỗ thấ t bạ i củ a nó trong
diễn đạ t Tuyệt đố i. Chính do sự thấ t bạ i này mà ngô n ngữ tự a thà nh
đượ c Trung Đạ o. Triết lý vô ngô n củ a Trung quá n khô ng thể hiểu mộ t
cá ch hờ i hợ t là muố n đi về Tuyệt đố i, phả i loạ i bỏ triệt để củ a mọ i hình
ợ yệ p ạ ệ ọ
thứ c củ a ngô n ngữ .
Nhà luậ n lý họ c, khi đi tìm sự thà nh cô ng củ a ngô n ngữ , để tạ o nên sự
tương giữ a tiến trình củ a biểu tượ ng và tiến trình củ a Thự c Tạ i Tuyệt
Đố i, tứ c là đã đồ ng nhấ t danh và sự . Sự đồ ng nhấ t này khô ng thể vượ t
tính chấ t trù ng phứ c như ta đã thấy. Đây chính là thá i độ duy thự c ngây
thơ, quá tin tưở ng và o kinh nghiệm hiển nhiên.
Phâ n biệt danh và sự , trên cá i sai biệt và khô ng sai biệt, đó là lố i và o
Triết lý củ a Trung quá n. Bở i vì thự c tạ i chỉ có hiện hữ u qua giả danh, do
đó . Nà gà rjuna thườ ng nó i cá c phá p như mộ ng, như huyễn. Mộ t đoạ n
trong Tiểu phẩm Bát nhã, Phẩ m II: "Thích đề hoà n nhâ n", cho ta thấy ý
nghĩa giả danh, ý nghĩa nó i cá c phá p như mộ ng như huyễn này.
"Lú c bấy giờ . Cá c vị thiên tử suy nghĩ như vầy: "Nhữ ng ai là ngườ i có thể
tuỳ thuậ n nghe nhữ ng Tu Bồ đề nó i?" Tu bồ đề biết rõ ý nghĩa củ a cá c vị
thiên tử , nó i vớ i họ rằ ng: "Ngườ i huyễn có thể tuỳ thuậ n nghe nhữ ng
điều tô i nó i sự nghe cũ ng khô ng, và sự chứ ng cũ ng khô ng". Cá c vị thiên
tử suy nghĩ như thế này: "Nếu ngườ i nghe mà như huyễn thì chú ng sanh
cũ ng như huyễn. Tu đà hoà n quả cho đến Bích chi Phậ t đạ o cũ ng như
huyễn". Tu Bồ đề biết rõ nhữ ng ý nghĩ này củ a cá c vị thiên tử , nó i vớ i họ
rằ ng: "Tô i nó i chú ng sanh như huyễn như mộ ng: Tư đà hà m quả , A na
hà m quả , A la há n quả , Bích chi Phậ t đạ o cũ ng như huyễn như mộ ng".
Cá c vị thiên tử nó i: "Thưa ngà i Tu Bồ đề, phả i chă ng ngà i nó i Phậ t phá p
cũ ng như huyễn như mộ ng; tô i nó i Niết bà n cũ ng như huyễn như
mộ ng". Cá c vị thiên tử nó i: "Đạ i đứ c Tu Bồ đề, phả i chă ng ngà i nó i Niết
bà n cũ ng như huyễn như mộ ng?" Tu Bồ đề nó i: "Này cá c thiên tử , giả tỉ
có phá p nà o cao hơn Niết bà n tô i cũ ng nó i là như huyễn như mộ ng. Cá c
vị thiên tử , huyễn mộ ng và Niết bà n khô ng hai khô ng khá c".
Và chú ng ta tạ m kết thú c đoạ n kinh này bằ ng tá n ngữ củ a thá nh đế hoà n
nhâ n: "Trí tuệ củ a trưở ng lã o tu Bồ đề thậ t là sâ u xa, ngà i thuyết thậ t
nghĩa mà khô ng hoạ i giả danh".
Như vậy, chú ng ta dù có gọ i là triết lý Trung quá n là duy giã duy danh,
duy vô hay duy thự c, duy nghiệm, nhữ ng điều này thậ t khô ng can hệ gì
đến nó cả . Triết lý đó khô ng có lậ p trườ ng gì cả . Nếu ta thấy cá i đó là
thự c hữ u, cứ đưa nó và o diễn đạ t củ a ngô n ngữ , ta sẽ thấy nó phi hữ u.
Nếu ta thấy cá i là phi hữ u, cứ đưa nó và o diễn đạ t củ a ngô n ngữ , tự khắ c
nó là thự c hữ u. Về điểm này, Trung quá n có vẻ là mộ t thứ triết lý nguỵ
biện. Nhưng cá i danh khô ng phả i là cá i thự c, triết lý ấy khô ng đi tìm sự
thà nh cô ng cuả ngô n ngữ , mà là đi tìm sự thấ t bạ i củ a nó , thì bấ t cứ mộ t
danh từ nà o vẫ n khô ng thể định nghĩa đượ c bả n chấ t củ a nó .
Chương II
Vấn đề luận chứng và phủ định đối với tiền đề Không của Trung
quán
Đố i vớ i mộ t nhà Trung quá n, Tuyệt đố i thể vượ t ra ngoà i mọ i định
nghĩa, như thế, ô ng vẫ n khô ng trá nh khỏ i việc nêu lên mộ t tiền đề. Từ
chố i định, tứ c phủ định. Mặ t trá i phủ định vẫ n là khẳ ng định. Như thế
khi từ chố i mọ i định nghĩa, tấ t nhiên phả i thà nh lậ p mộ t tiền đề và tiền
đề đó là : "Tấ t cả cá c phá p đều khô ng". Bấ t cứ là hiểu Khô ng tính đó theo
kiểu nà o. Nó vẫ n là mộ t tên gọ i đượ c gá n cho Tuyệt đố i thể, nếu Trung
quá n khô ng đi đến phủ định tuyệt đố i. Nếu phủ định cá i Khô ng tính đó ,
Tuyệt đố i thể vẫ n đượ c đặ t mộ t tên gọ i khá c là Khô ng Khô ng. Phủ định
mộ t lầ n nữ a về Khô ng Khô ng vẫ n là mộ t định nghĩa khá c về tuyệt đố i
thể. Có thể đây là mộ t lố i chơi chữ , nhưng bấ t cứ mộ t tiền đề nà o mà
Trung quá n lậ p ra, hay nó i chung là mọ i hình thứ c luậ n lý, đều phả i
trá nh lỗ i "vô cù ng" này. Tuyệt đố i thể có phả i là vậy hay khô ng phả i vậy
là chuyện khá c, nhưng mộ t tiền đề gọ i là phủ định triệt để, tứ c đằ ng sau
phủ định lú c nà o cũ ng ngầ m chứ a khẳ ng định, thì tiền đề đó bấ t thà nh.
Bấ t thà nh này khô ng thể đổ thừ a cho thấ t bạ i củ a ngô n ngữ . Thấ t bạ i
củ a ngô n ngữ , theo quan điểm củ a Trung quá n, là ở hình toà n vẹn nhấ t
củ a nó , mà vớ i hình thứ c này, nó vẫ n khô ng diễn tả nổ i Tuyệt đố i thể.
Mộ t luậ n chứ ng bấ t thà nh, khô ng thể là m sá ng tỏ sự thấ t bạ i củ a ngô n
ngữ trong cố gắ ng mô tả Tuyệt đố i thể. Tiền đề Trung quá n là phủ định,
nó chỉ có giá trị khi phủ định đó đi đến triệt để. Như thế, luậ n chứ ng mà
Trung quá n đưa ra để thà nh lậ p tiền đề Tá nh Khô ng là như thế nà o và
là m sao tiền đề đó có thể phủ định triệt để? Ở đây chú ng ta xét qua về
vai trò củ a luậ n chứ ng và ý nghĩa phủ định đố i vớ i tiền đề: "Nhấ t thiết
phá p Khô ng" củ a Trung quá n.
I. Về luận chứng
Trong mộ t luậ n chứ ng, có hai yếu tố quan trọ ng, đó là ngô n ngữ và luậ n
cứ . Ở tiền đề khô ng, vai trò củ a ngô n ngữ là phủ định. Tá c dụ ng củ a nó
là từ chố i mộ t hiện hữ u bấ t thự c. Khi từ chố i mộ t hiện hữ u bấ t thự c như
thế, tự nó , ngô n ngữ đạ i diện cho mộ t thự c hữ u nà o đó . Tỉ dụ , khi mộ t
khá ch bạ o hà nh bị lạ c lố i, thì tiếng kêu gọ i chỉ đườ ng phả i biểu lộ ở
trong nó mộ t hiện hữ u thự c hữ u mà khá ch bị nhầ m lẫ n. Như thế phủ
định chỉ là mộ t cá ch nó i khá c củ a khẳ ng đinh. Khi từ chố i rằ ng khô ng
phả i cá i này, tấ t muố n nó i là chính cá i khá c chứ khô ng phả i cá i này.
Ngô n ngữ trong mộ t mệnh đề luậ n chứ ng nếu khô ng chứ ng tỏ cho mộ t
thự c hữ u tính nà o cả , nó sẽ khô ng thể trình bày cho thấy nhậ n thứ c sai
lầ m là phả i phâ n biệt hai yếu tố sai và đú ng. Nếu yếu tố đú ng khô ng có ,
thì khô ng yếu tố nà o đượ c chứ ng tỏ là sai. Nếu khô ng chứ ng tỏ đượ c
mộ t sai lầ m nà o thì tiền đề Khô ng củ a Trung quá n sẽ khô ng có giá trị.
Sự thà nh lậ p củ a nó , sẽ là mộ t trò chơi chữ vô ích. Thêm nữ a, mộ t luậ n
chứ ng đượ c dự ng phả i đượ c chứ ng minh lý do củ a nó : lý do này tấ t phả i
dự a và o nhữ ng sự thự c hiển nhiên. Nhưng tiền đề củ a Trung quá n phủ
nhậ n mọ i sự thự c hiển nhiên. Mộ t tiền đề như thế, khô ng có lý do thà nh
lậ p, nghĩa là , nó cũ ng chỉ là mộ t trò chơi vô ích mà thô i.
Như vậy tiền về Trung quá n đã tự mâ u thuẫ n. Mộ t tiền đề phả i mang đủ
tính chấ t phổ quá t. Nhưng thừ a nhậ n phổ quá t tính củ a tiền đề Khô ng,
thì luậ n chứ ng bấ t thà nh. Ngượ c lạ i, nếu Trung quá n, để cho luậ n chứ ng
có giá trị, thừ a nhậ n thự c hữ u tính củ a ngô n ngữ và mộ t số luậ n cứ , như
vậy phổ quá t tính củ a tiền đề sẽ biến mấ t; bở i vì, tiền đề nó i "Nhấ t thiết
phá p Khô ng" nhưng trong đó ngầ m thừ a nhậ n mộ t số đó .
Nhữ ng mâ u thuẩ n trong thiết định tiền đề này, ở tậ p
Vigrahavyàvarttanì, Nà gà rjuna tự đưa ra sá u mâ u thuẩ n tấ t cả :
1. Thừa nhận hiệu quả của tiền đề tức phủ nhận phổ quát tính
của tiền đề: "Nếu nhà Trung quá n đưa ra mộ t tiền đề, nó i
rằ ng "Nhấ t thiết phá p Khô ng" thì ngô n ngữ củ a luậ n chứ ng
cũ ng phả i đượ c bao hà m trong cá i "nhấ t thiết" đó . Nếu thế,
luậ n chứ ng bấ t thự c, nó khô ng gây mộ t tá c dụ ng nà o vớ i
hiện hữ u đượ c nhậ n thứ c rằ ng kinh nghiệm hiển nhiên.
Nghĩa là nó khô ng có giá trị phủ định.
2. Thừa nhận phổ quát tính tức phủ nhận hiệu quả của tiền đề:
Và ngượ c lạ i, nếu thừ a nhậ n tiền đề thích đá ng thì luậ n
chứ ng cũ ng bấ t lự c, vì khô ng có hiệu quả phủ định.
3. Thừa nhận tiền đề, luận chứng sẽ thiếu luận cứ: Luậ n chứ ng
đượ c thà nh lậ p tấ t phả i dự a và o nhữ ng chứ ng cứ hiển nhiên.
Tiền đề nó i " Nhấ t thiết phá p Khô ng" như vậy, khô ng có
chứ ng cứ hiển nhiên nà o cả , lấy gì chứ ng minh là tiền đề
đú ng hay sai?
4. Luận chứng thiếu luận cứ, luận chứng bất thành, vì khô ng thể
chứ ng tỏ đú ng hay sai, nên luậ n chứ ng khô ng có giá trị.
5. Nếu thừa nhận luận cứ bất thực, mọi bất thực đều có tác
dụng: Thừ a nhậ n luậ n cứ bấ t thự c, tứ c thừ a nhậ n cả phổ
quá t tính và hiệu quả củ a tiền đề. Thừ a nhậ n này nó i: Nhấ t
thiết phá p khô ng, ngô n ngữ cũ ng khô ng, luậ n cứ cũ ng
khô ng. Khô ng tứ c khô ng hiện hữ u bấ t thự c. Nếu nó có tá c
dụ ng phủ định thì mọ i cá i bấ t thự c khá c đều có tá c dụ ng,
như lử a trong tranh có thể đố t cháy.
6. Nếu không thừa nhận luận cứ bất thực, tức phủ nhận phổ
quát tính của tiền đề: mộ t tiền đề mà khô ng chứ a đự ng nổ i
phổ quá t tính, nó khô ng có giá trị. Nghĩa là , tự mâ u thuẫ n.
Vấ n đề đượ c nêu lên ở trên đây có tầ m quang trọ ng đố i vớ i sự hiểu
biết về thuyết Tá nh Khô ng củ a Nà gà rjuna. Nà gà rjuna khô ng từ chố i
rằ ng đặ c tính củ a Khô ng là chứ ng tỏ mọ i hiện hữ u đều bấ t thự c, như
huyễn, như mộ ng.
Nhữ ng mâ u thuẫ n đưa ra cho tiền đề Trung quá n bắ t nguồ n từ nhậ n
thứ c về Khô ng. Theo nhậ n thứ c này, Khô ng là Khô ng hẳ n, và Có là Có
hẳ n. Sự thể là mộ t tự thể, nghĩa là có yếu tính quyết định khiến cho nó là
nó . Yếu tính ấy hoặ c Có hoặ c Khô ng.
Ở đây, chú ng ta cầ n tìm hiểu thêm về định thứ c duyên khở i. Khô ng tính
là mộ t phá t biểu về đặ c tính duyên khở i. Thừ a nhậ n định thứ c duyên
khở i tứ c thừ a nhậ n sự thể có sinh diệt. Và cũ ng chính do duyên khở i mà
sự thể đó bấ t sinh bấ t diệt, nghĩa là Khô ng. Như Trung luậ n viết: Vì
Khô ng cho nên Có . Khô ng phả i vì có cá i Khô ng cho nên có cá i Có , theo
tính chấ t đố i đã i củ a hiện hữ u. Nhưng bả n chấ t củ a hiện hữ u là Khô ng.
Ta á p dụ ng định thứ c ấy và o mệnh đề luậ n chứ ng như sau:
Mộ t mệnh đề luậ n chứ ng chứ a đự ng ba yếu tố ngô n ngữ : chủ thể tá c
độ ng, sự thể tá c độ ng, và cá i bị tá c độ ng. Ba yếu tố này, nếu chú ng là
nhữ ng tự thể dự biệt, là m thế nà o chú ng cù ng kết hợ p để phá t biểu mộ t
ý niệm? Tự thể dị biệt, nghĩa là mộ t sự vậ t có yếu tính quyết định riêng
biệt củ a chính nó ; yếu tính này cho thấy sự sai biệt củ a tự thể này đố i
vớ i tự thể khá c. Khi nó i đến yếu tính quyết định, Trung luậ n gọ i đó là
"Tự tính Khô ng", có nghĩa là "Vô tự Tính". Phả i chă ng do tự thể dị biệt
mà ngô n ngữ mớ i phá t biểu đượ c ý niệm, nghĩa là trỏ và o mộ t sự thể
hay sự kiện nà o đó , như phá t biểu trong mệnh đề về " Nhấ t thiết phá p
Khô ng"?
Tự thể dị biệt, nếu khô ng đượ c nhậ n thứ c qua định thứ c duyên khở i,
ự ị ệ g ợ ậ q ị y
nghĩa là tá nh Khô ng, thì khô ng phả i là tự thể dị biệt. Dị biệt là do đố i
đã i, do so sá nh tự thể này vớ i tự thể khá c. Tự nó khô ng phả i là đồ ng hay
dị. Thêm nữ a, phâ n biệt sự sai biệt tấ t dự a và o tính cá ch biểu thị. Như
vậy, tự nó dị tính khô ng phả i tự hữ u, bả n chấ t củ a nó là Khô ng. Kết hợ p
củ a mộ t mệnh đề tấ t khô ng thể thoá t ly tá nh Khô ng.
Bả n chấ t củ a ngô n ngữ là Khô ng. Nó là hiện hữ u phụ thuộ c rấ t nhiều
điều kiện. Dù có nó dị biệt vớ i sự thể mà nó chỉ tên, nhưng sự có mặ t
củ a nó là do sự có mặ t củ a sự thể ấy. Và riêng nó , ngô n ngữ mà thoá t ly
khỏ i tá nh Khô ng nó khô ng hiện hữ u và như thế, khô ng thể chỉ tên cho
mộ t sự thể nà o cả . Về sự thể cũ ng thế. Có cá i này là vì có cá i kia.
Bả n chấ t củ a hiện hữ u là Khô ng, phả i chă ng Khô ng là yếu tính quy định
củ a hiện hữ u? Nếu thừ a nhậ n điều này, Tá nh Khô ng khô ng phủ định
triệt để nổ i, nó vẫ n bao hà m mộ t khẳ ng định. Như thế tiền đề "Nhấ t
thiết phá p Khô ng" vẫ n mâ u thuẫ n tự nó . Ít ra nữ a tiền đề ấy khi sử dụ ng
định thứ c duyên khở i để phủ định tấ t cả , như vậy, phả i chă ng có thừ a
nhậ n có duyên khở i? Tiền đề vẫ n tự mâ u thuẫ n.
Để phủ dịnh mộ t sự thể. Trung quá n nó i, tự thể đó :
1. Không hiện khởi từ chính nó. Hiện khở i có nghĩa từ cá i chưa
có xuấ t hiện thà nh có . Tự nó sinh ra tấ t chứ a đự ng hai yếu
tố ; là chủ thể sinh và cá i đượ c sinh. Mộ t thể chứ a đự ng hai
yếu tố như vậy, khô ng thể tự hữ u, nghĩa là khô ng có tự thể.
Trong hai yếu tố sai biệt là nă ng và sở , mộ t yếu tố là nhâ n và
mộ t yếu tố là quả , hai yếu tố cũ ng là hai tự thể. Nếu sự thể
sinh ra từ chính nó , tấ t khô ng thể có hai tự thể như vậy.
Khô ng thừ a nhậ n điều này thì khô ng có tá c dụ ng hiện khở i.
Tá c dụ ng là tương giao giữ a nă ng và sở .
2. Không hiện khởi từ một cái khác. Nó là mộ t cụ thể, và cá i
khá c cũ ng là mộ t tự thể. Mỗ i tự thể có yếu tính quyết định
củ a chính nó . Như vậy, khi thừ a nhậ n có hai tự thể dị biệt, tấ t
khô ng thể nó i tự thể này sinh ra tự thể khá c.
3. Không khởi lên từ cả hai: cả hai tứ c là sự phố i hợ p củ a hai tự
thể: nó và cá i khá c nó . Nhưng nếu đã thừ a nhậ n có hai tự thể
dị biệt, hai tự thể này khô ng thể phố i hợ p đượ c. Nếu phố i
hợ p, cả hai sẽ đá nh mấ t yếu tính quyết định củ a chính nó .
4. Không khởi lên không do nhân nào cả. Mộ t hiện hữ u là mộ t
kết quả . Hiện hữ u đó khô ng thể khô ng có nhâ n củ a nó .
Trong bố n trườ ng hợ p trên, nếu thừ a nhậ n sự thể có yếu tính quyết
định củ a nó thì khô ng thể thừ a nhậ n nó là hiện hữ u. Thừ a nhậ n hiện
hữ u củ a nó , tấ t nhiên khô ng thể thừ a nhậ n yếu tính quyết định củ a nó
như vậy, do vô tính nên duyên sinh.
Duyên đó là như thế nà o? Nhữ ng sự thể đượ c gọ i là duyên, khi chú ng là
y g ự ợ g ọ y g
điều kiện để mộ t sự thể hiện hữ u. Nếu khô ng có sự thể hiện hữ u này,
nhữ ng sự thể kia khô ng thể gọ i là duyên. Như thế, duyên cũ ng khô ng
phả i là nhữ ng tự thể tự hữ u. Do đó duyên cũ ng vô tính. Nghĩa là duyên
sinh cũ ng vô tính.
Sự thể, vì khô ng có tự tính quyết định, nên hiện khở i do nhâ n duyên. Sự
thể hiện khở i do nhâ n duyên, tứ c khô ng có tự tính quyết định. Đó là ý
nghĩa vô tính duyên sinh và duyên sinh vô tính. Vô tính duyên sinh, nên
duyên sinh là Giả danh. Duyên sinh vô tính, do đó , Duyên sinh là khô ng.
Đó là ý nghĩa Trung đạ o củ a định thứ c duyên khở i.
Tên gọ i củ a mộ t sự thể có yếu tính quyết định củ a nó , nó khô ng thể biểu
tượ ng cho mộ t sự thể nà o cả . Nhữ ng sự thể gọ i là hiển nhiên cũ ng thế,
nếu chú ng có yếu tính quyết định, chú ng khô ng thể là luậ n cứ để chứ ng
minh cho mộ t phá t biểu nà o cả .
Vớ i nhậ n thứ c về tá nh Khô ng như thế- tá nh Khô ng nghĩa là vô tá nh- ta
thấy tiền đề Trung quá n khô ng phả i bấ t thà nh như vấ n đề đượ c nêu lên
ở trên.
Ở đây, chú ng ta thử á p dụ ng định thứ c duyên khở i để nhậ n thứ c về Niết
bà n. Nhậ n thứ c này sẽ cho ta thấy rõ ba mặ t tính: Khô ng, Giả danh và
Trung đạ o củ a duyên khở i:
Mở đầ u chương "Quá n Niết bà n" Trung luậ n phẩ m XXV, đặ t câ u hỏ i như
sau:
"Nếu nhấ t thiết phá p Khô ng, tấ t khô ng có sinh diệt. Nếu thế, đoạ n cá i gì
và diệt cá i gì mà gọ i là Niết bà n?" Nà gà rjuna tự trả lờ i lạ i bằ ng cá ch như
sau: "Nếu cá c phá p khô ng phả i là Khô ng, tấ t khô ng có sanh diệt. Nếu thế
đoạ n cá i gì và diệt cá i gì mà gọ i là Niết bà n?" Chỉ có định thứ c duyên
khở i, tứ c Tá nh Khô ng, mớ i có thể phá t biểu mộ t ý niệm về Niết bà n mà
khô ng đó ng khung Niết bà n và o mộ t định nghĩa nà o cả , như Trung luậ n
tiếp: "Khô ng có chứ ng đắ c cũ ng khô ng đi đến, khô ng đoạ n cũ ng khô ng
thườ ng, khô ng sanh cũ ng khô ng duyệt. Đó là Niết bà n".
Cả ba tụ ng ngô n trên đây có thể cho ta mộ t hình ả nh khá đầy đủ về diễn
tiến củ a ngô n ngữ khi vươn lên tuyệt đố i. Sự hoà n toà n củ a nó , như tiền
đề về Khô ng củ a Trung quá n đã đượ c nó i xong, khô ng phả i nó i là thà nh
cô ng mà là thấ t bạ i. Bở i vì, khi mộ t phá t biểu củ a nó đã đượ c thiết lậ p
vữ ng chã i, nó vẫ n khô ng vương tớ i tuyệt đố i nổ i. Tuyệt đố i có thể lử ng
lơ trên đầ u nó . Điều này chính là đặ t thù Trung đạ o củ a ngô n ngữ như
ta thấy tụ ng ngô n cuố i đượ c trích dẫ n trên đây.
II. Về phủ định
Tá nh khô ng là mộ t hình thứ c phủ định, mà ý nghĩa củ a nó mà như ta đã
thấy qua ở trên. nhưng phủ định có ý nghĩa rấ t đặ t biệt. Khô ng nhữ ng
nó chỉ liên quan đến ngô n ngữ dù ng để phủ định, mà cò n liên quan đến
đố i tượ ng phủ định. Đố i tượ ng đó là sự thể hiển nhiên. Bở i vì, ngô n ngữ
biểu tượ ng cho thự c tạ i nhưng chính nó khô ng phả i là thự c tạ i, do đó
tiền đề Trung quá n dù có hợ p lý trong sự thiết lậ p nhưng chưa hẳ n vì
thế mà nó có giá trị phủ định thậ t sự đố i vớ i sự thể hiển nhiên.
Vấ n đề này như đã đượ c chính Long Thọ nêu lên trong tậ p
Vigrahavyàvartanì vớ i tụ ng ngô n như sau: "Nếu phá p khô ng có tự thể,
ngô n ngữ sẽ khô ng có đố i tượ ng để phủ định. Nếu khô ng có hiện hữ u
như là đố i tượ ng mà ngô n ngữ có thể phủ định đượ c thì vô ngô n phủ
định đượ c vậyn" Tụ ng ngô n này muố n nó i rằ ng, tiền đề "Nhấ t thiết phá p
Khô ng" mộ t tiền đề như thế khô ng nhằ m phủ định mộ t điều gì cả , vì tấ t
cả đều khô ng nên khô ng có đố i tượ ng để phủ định. Phủ định như thế
chẳ ng khá c nà o nó i: lử a khô ng lạ nh; nướ c khô ng cứ ng. Nhữ ng mệnh đề
này dù là đú ng, nhưng chú ng khô ng can dự gì đến sự thự c hiển nhiên
cả . Nghĩa là , tiền đề Trung quá n dù có đượ c thiết lậ p đú ng, cũ ng bằ ng
thừ a.
Thêm nữ a, mộ t phủ định phả i đủ cả sá u đặ c tính: trướ c hết hà nh độ ng
sai lầ m, đố i tượ ng bị nhậ n lầ m và chủ thể nhậ n lầ m; và thứ đến là hà nh
độ ng phủ định, đố i tượ ng bị phủ định và chủ thể phủ định. Nhà Trung
quá n nó i rằ ng vì chú ng sinh mê lầ m nên ô ng thứ c tỉnh họ . Nhưng tiền
đề nó i "Nhấ t thiết phá p Khô ng", tấ t nhiên hà nh độ ng phủ định Khô ng,
đố i tượ ng bị phủ định cũ ng Khô ng và chủ thể phủ định cũ ng Khô ng,
nhữ ng vọ ng chấ p kia khô ng bị phủ định gì cả .
Chủ điểm củ a vấ n đề trên là ý nghĩa tương quan giữ a chủ thể và đố i
tượ ng, đó là tương quan tá c dụ ng. Đá ng lý vấ n đề này khô ng cầ n thiết
phả i đặ t ra đây. Như trên ta thấy, vớ i tá nh thuyết Khô ng, hai sự thể tự
hữ u và dị biệt khô ng thể cù ng phố i hợ p đượ c, bở i vì, mộ t sự thể có yếu
tính quyết định củ a nó và như vậy khô ng mộ t sự thể nà o có thể bị đá nh
mấ t yếu tính củ a chính nó để đượ c đưa xuố ng hà ng thứ yếu. Thêm nữ a,
mộ t sự thể, nếu vượ t ra ngoà i tá nh khô ng, tấ t khô ng hiện hữ u. Khô ng
hiện thì khô ng tá c dụ ng. Trong thiết lậ p mệnh đề, điểm chú trọ ng là sự
kết hợ p củ a ngô n ngữ . Trong ý nghĩa củ a tiền đề, là ý nghĩa phủ định;
điểm chú trọ ng là tương quan tá c dụ ng. Dù Trung quá n có nó i do tá nh
Khô ng nên sự thể hiện hữ u. Nhưng ở tương quan tá c dụ ng, chủ thể và
đố i tượ ng phả i là hai tự thể thự c hữ u, chú ng mớ i khở i lên tá c dụ ng, như
trai và gá i, phả i là hai dị biệt lậ p mớ i có thể đi đến vớ i nhau. Hiện hữ u,
giả tỉ do tá nh Khô ng, nhưng phả i thừ a nhậ n tự thể củ a nó trong tá c
dụ ng. nếu mộ t sự thể này khô ng có yếu tính quyết định củ a nó , là m sao
ụ g ộ ự y g y q y ị
phâ n biệt vớ i mộ t sự thể khá c: Và nếu sự phâ n biệt này khô ng có , là m
sao ta phâ n biệt đượ c chủ thể và đố i tượ ng trong tương quan tá c dụ ng?
Đó chính là điều mà chú ng ta sẽ xem xét đến sau đây.
Tương quan này, trướ c hết, chú ng ta xét về khía cạ nh đố i đã i. Mộ t sự thể
khi hiện hữ u như là đố i tượ ng củ a chủ thể phủ định, bấy giờ nó mớ i
đượ c gọ i là sự thể bị phủ định. Và ngượ c lạ i, mộ t chủ thể khi đứ ng trướ c
mộ t đố i tượ ng bị phủ định, bấy giờ nó mớ i đượ c gọ i là chủ thể phủ định.
Tương quan đố i đã i này có thể đượ c xét đến bằ ng nguyên lý nhấ t dị,
nghĩa là có hai trườ ng hợ p, hoặ c chủ thể và đố i tượ ng là nhấ t thể, hoặ c
cả hai là dị thể. Đặ t vấ n đề như vậy, phả i chă ng đã ngầ m thừ a nhậ n là
chủ và khá ch thự c hữ u, như Thanh Mụ c tự nêu lên trong lờ i giả i thích
và tương quan lử a và củ i trong chương X củ a Trung luậ n – bở i vì, nhưng
lô ng rù a sừ ng thỏ , khô ng hiện thự c nên khô ng thể bị phá huỷ? Cứ như
sự thấy bằ ng xương bằ ng thịt củ a thế gian, trướ c hết phả i có sự thể thự c
hữ u, sau đó mớ i có thể tư duy. Tỉ dụ , như có kim khí, sau đó mớ i có sự
thiêu đố t và trui luyện. Cũ ng thế, nếu khô ng thừ a nhậ n có chủ thể và đố i
tượ ng và vấ n đề nhấ t thể và dị thể củ a chú ng đượ c đặ t ra để là m gì? Và
Thanh Mụ c giả i thích, vấ n đề đượ c đặ t ra là că n cứ và o tậ p hoá n suy tư
củ a thế tụ c. Đặ t chủ thể và đố i tượ ng và o nguyên lý nhấ t dị, khô ng phả i
là thừ a nhậ n chú ng. Như muố n phá hủ y về cá i có và khô ng, tấ t cả nó i
đến chú ng. Nếu khô ng gọ i tên chú ng, là m thế nà o để nó i? Gọ i tên mộ t sự
thể, khô ng phả i là điều kiện tiêu quyết là thừ a nhậ n hiện thự c củ a nó để
gọ i tên. Nó i về mộ t sự thể là nó i qua tên gọ i củ a nó . Khi tìm thấy đượ c
nhữ ng mâ u thuẫ n trong tên gọ i, bây giờ mớ i chứ ng thự c đượ c rằ ng sự
thể ấy khô ng hiện thự c đú ng như tên gọ i đượ c dù ng để quy định phẩ m
tính củ a nó . Hiện thự c khô ng là m đố i tượ ng co tư duy, mà tư duy chính
là tư duy về tên gọ i củ a nó . Hiện thự c khô ng là tấ t cả . Khi gọ i hiện thự c
đó là lử a, khi gọ i hiện thự c đó là củ i, lử a hay củ i chỉ là giả danh. Đặ t
tương quan củ a nhữ ng hiện thự c này và o nguyên tắ c nhấ t dị, thì gọ i nó
là lử a cũ ng khô ng đú ng và gọ i nó là củ i cũ ng khô ng đú ng. Cũ ng thế, chủ
thể và đố i tượ ng chỉ là giả danh, khô ng thể có sự thể hiện hữ u như là
chủ thể hay đố i tượ ng. Hiện thự c phi tương quan đố i đã i, phi mâ u
thuẫ n. Đó chính là Tuyệt đố i về vô ngô n.
Tạ i sao hiện thự c khô ng là gì cả , khô ng phả i lử a hay củ i, khô ng phả i là
chủ thể hay đố i tượ ng?
Nếu chủ thể và đố i tượ ng là mộ t, thì tá c giả và tá c nghiệp là mộ t. Nghĩa
là , như giả i thích củ a Thanh Mụ c, tá c giả tỉ dụ như thợ gố m. Tấ t nhiên,
mộ t ngườ i khô ng là gì cả . Nhưng khi ô ng sả n xuấ t đồ gố m, bấy giờ ô ng
đượ c gọ i là thợ gố m. Thợ gố m và đồ gố m đâ u có thể là mộ t sự thể đơn
nhấ t?
Và nếu chủ thể và đố i tượ ng, như lử a và củ i, nếu là hai dị thể biệt lậ p, thì
ợ g ị ệ ập
khô ng cầ n có củ i mà vẫ n có lử a. Như thế, lử a có thể hiện hữ u bấ t cứ lú c
nà o và bấ t cứ ở đâ u. Đó là mộ t thứ lử a khô ng có tá c dụ ng, nó khô ng đố t
cháy thứ gì cả . Ở đây, Ấ n Thuậ n, trong Trung quán luận giảng ký , phỏ ng
theo cá c tạ ng, phâ n tích có bố n lố i về tương quan dị thờ i này:
1. Thường, lử a lú c nà o cũ ng hiện hữ u,và hiện hữ u bấ t cứ ở
đâ u;
2. Vô nhân, và như thế, nó khô ng cầ n đến có củ i hay khô ng có
củ i;
3. Vô duyên, nó cũ ng khô ng cầ n bấ t cứ mộ t điều kiện nà o cả ,
như ngườ i đố t lử a;
4. Vô tác dụng, nó khô ng đố t cháy bấ t cứ mộ t thứ gì cả .
Trườ ng hợ p trên đây gọ i là tương quan dị thờ i, nghĩa là lử a củ i hiện
hữ u trong hai thờ i hạ n khá c nhau. Trườ ng hợ p khá c, là tương quan
đồ ng thờ i; nghĩa là khi đố t cháy củ i, bấy giờ mớ i có hiện hữ u. Nếu thế,
lử a và củ i khô ng có yếu tính quyết định. Lử a khi có khi khô ng. Củ i cũ ng
thế. Bở i vì, mộ t thanh gỗ , khi mớ i đố t cháy mớ i gọ i nó là củ i. Trướ c khi
chưa bị đố t cháy, nó có thể là cá i này hay là cá i khá c, nghĩa là có nhữ ng
khả hữ u khô ng phả i là củ i, khô ng nhấ t thiết nó sẽ là củ i. Chưa bị đố t
cháy, nó khô ng phả i là củ i; nếu nó có yếu tính quyết định, nó khô ng trở
thà nh củ i để bị đố t cháy. Mộ t hiện thự c như thế, khô ng phả i là củ i hay gì
cả . Củ i là mộ t giả danh. Và như thế, lử a cũ ng là mộ t hiện hữ u giả danh.
Đằ ng khá c, lử a và củ i là hai dị thể biệt lậ p, tấ t nhiên chú ng khô ng thể
phố i hợ p vớ i nhau tạ o thà nh sự đố t cháy. Nghĩa là lử a khô ng đi đến củ i
để đố t cháy củ i. Khô ng có sự đố t cháy củ a lử a tấ t cũ ng khô ng có sự tắ t
phụ t củ a lử a. Mộ t thứ lử a như vậy là vĩnh cử u, khô ng thể khi có , khi
khô ng. Lử a và củ i là hai vị thể biệt lậ p, nhưng lử a có thể đi đến vớ i củ i,
như ngườ i con trai đi đến vớ i ngườ i con gá i, thế có đượ c khô ng? Tỉ dụ
này bấ t thà nh. Trai và gá i, có thể giả định là hai dị thể biệt lậ p, nhưng
chú ng khô ng giố ng như lử a vớ i củ i, bở i gì khô ng có củ i thì khô ng có
hiện hữ u củ a lử a.
Tương quan giữ a hai dị thể biệt lậ p, dù tương quan dị thờ i hay đồ ng
thờ i, như thế đã là bấ t thà nh. Nhưng có thể có tương quan khá c, khô ng
phả i như là hai dị thể biệt lậ p, mà là tương quan đố i đã i. Lử a và củ i,
chú ng khô ng biệt lậ p, nhưng tự thể này hiện hữ u do tự thể kia. Trườ ng
hợ p này có ý nghĩa như thế nà o?
Nếu nó i, do có củ i mà có lử a, và ngượ c lạ i, do có lử a mà có củ i, thì cá i
nà o có trướ c và cá i nà o có sau? Nếu do có củ i mà có lử a, tấ t củ i có trướ c.
Nếu do có lử a mà có củ i, tấ t lử a có trướ c. Nhưng lử a do củ i mà có , thì
củ i cũ ng do lử a mà có , do đó , khô ng thể nó i cá i này có trướ c cá i kia. Nó i
cá ch khá c, giả tỉ rằ ng củ i có trướ c lử a, nhưng chưa bị đố t cháy, sự thể ấy
khô ng thể gọ i là củ i; nghĩa là , trong giả tỉ này, ta đã mặ c nhiên thừ a
nhậ n có lử a rồ i. Đã có , sau đó là do đố i đã i mà có nữ a, điều này mắ c phả i
ậ y p
lỗ i trù ng phứ c. Trá i lạ i, trong giả tỉ ấy, ta khô ng mặ c nhiên thừ a nhậ n
rằ ng sự thể khô ng cầ n đượ c đố t cháy, khô ng cầ n đến lử a,
mà vẫ n hiện hữ u.
Trườ ng hợ p trên đượ c mệnh danh là tự thể đã đượ c tụ thà nh rồ i mớ i
đố i đã i. Nó phạ m phả i hai lỗ i như ta đã thấy, trù ng phứ c và mâ u thuẫ n.
Trá i lạ i, ta nó i tụ thể đã tự u thà nh tấ t khô ng cầ n tương quan đố i đã i;
điều này đã đà nh là như vậy; nhưng ta có thể nó i khá c đi đượ c khô ng?
Nghĩa là ta nó i ngượ c lạ i rằ ng do đố i đã i tự thể mà đượ c tụ thà nh. Nếu
thế sự thể đố i đã i khô ng có đố i tượ ng để đố i đã i vớ i tự thể kia mà tự u
thà nh, thì ngượ c lạ i, tự thể kia cũ ng do đố i đã i vớ i tự thể này mà tự u
thà nh. Điều này hiển nhiên và đã mặ c nhậ n rằ ng trong hai sự thể, mộ t
sự thể chưa tự u thà nh tự thể. Nếu khô ng mặ t nhậ n như thế thì là m thế
nà o để có đố i tượ ng đố i đã i? Đó là mộ t mâ u thuẫ n.
Dị thể biệt lậ p bấ t thà nh. Tự thể do đố i đã i tự u thà nh cũ ng bấ t thà nh.
Như thế, chủ thể khô ng có yếu tính quyết định, đố i tượ ng cũ ng khô ng có
yếu tính quyết định. Tên gọ i củ a mộ t sự thể là y cứ và o yếu tính củ a nó
mà gọ i. Nay, yếu tính quyết định củ a nó khô ng có , ta phả i gọ i nó là cá i
gì? Hiển nhiên nó là hiện hữ u giả danh.
Ý nghĩa về hiện thự c giả danh đã cho ta thấy ý nghĩa phủ định củ a tiền
đề "Nhấ t thiết phá p Khô ng". Để ý nghĩa này sá ng toả thêm, ở đây, chú ng
ta có thể cứ u xét qua tá c dụ ng củ a hiện thự c. Tương quan chủ khá ch
trong tiền đề phủ định củ a Trung quá n như trên, dù chủ và khá ch có là
phi hữ u hay là giả danh đi nữ a, nhưng ta khô ng thể từ chố i đượ c tá c
dụ ng hiện thự c củ a nó , ấy là kết quả mà tá c dụ ng ấy mang đến. Nó i cá ch
khá c, dù có hay khô ng có tá c giả và tá c nghiệp, có hay khô ng có vì ta
khô ng thể gọ i đượ c đích danh chú ng là gì, nhưng ta khô ng thể từ chố i
hiệu quả . Tiền đề khô ng, nếu thừ a nhậ n phổ quá t tính củ a nó , khô ng
nhữ ng từ chố i hiện thự c củ a chủ khá ch, mà từ chố i luô n cả hiện thự c
củ a kết quả . Như thế, tiền đề có đi ngượ c vớ i nhậ n thứ c hiển nhiên, cụ
thể là hiệu quả mà ta có thể tiếp nhậ n hay khô ng? Nếu khô ng từ chố i
đượ c hiệu quả hiện thự c, từ đó ta suy luậ n rằ ng khô ng thể từ chố i đượ c
tá c dụ ng, và khô ng từ chố i đượ c tá c dụ ng, lạ i khô ng từ chố i đượ c hiện
thự c củ a chủ và khá ch. Tiền đề củ a Trung quá n, như vậy là tự mâ u
thuẫ n, và do đó nó bấ t thà nh.
Vấ n đề đượ c đặ t ra như thế, để giả i quyết, ta có thể cứ u xét tính cá ch
hiện hữ u củ a kết quả . Vớ i thuyết tá nh Khô ng, vớ i tiêu đề mà ta đã thấy ở
trên, là mộ t kết quả khô ng thể hiện hữ u ở chính nó , bở i từ mộ t cá i khá c
hay từ cả hai, hay khô ng từ mộ t nguyên nhâ n nà o cả . Qua bố n trườ ng
hợ p này, mộ t kết quả , như thế là khô ng thể xá c định tính cá ch hiện thự c
củ a nó , tấ t nhiên nó là phi hữ u bấ t thự c. Hiện thự c củ a chủ khá ch cũ ng
là giả danh mà ta đã thấy, và ở đây hiệu quả cũ ng chỉ là mộ t hiện thự c
g y y ệ q g ộ ệ ự
giả danh. Nhưng ta hãy thử giả tỉ có hiện thự c thự c hữ u củ a chủ khá ch,
và hiệu quả , điều gì sẽ xảy ra? Đó là tá c dụ ng đượ c tồ n tạ i như thế nà o
để có thể từ tương giao củ a chủ khá ch, dẫ n đến kết quả ? Chủ và khá ch
dù là hiện tượ ng nộ i tâ m, hay là hiện tượ ng ngoạ i giớ i, chú ng đều là
nhữ ng hiện tượ ng vô thườ ng, sá t na biến diệt liên lỉ. Dù có thừ a nhậ n
thự c hữ u tính củ a chú ng trong sá t na vị lai và quá khứ , nhưng tá c dụ ng
củ a chú ng trong sá t na này chỉ có thể là tiềm thế chứ khô ng thể là hoạ t
thế. Tá c dụ ng hoạ t thế chỉ có , khi mà chủ và khá ch đều hiện hữ u. Sá t na
vị lai, chú ng chưa hiện hữ u, chú ng khô ng có tá c dụ ng hoạ t thế. Sá t na
quá khứ , chú ng đã biến mấ t, nên cũ ng khô ng có tá c dụ ng hoạ t thế. Chỉ
có tá c dụ ng hoạ t thế mớ i có cô ng nă ng dẫ n xuấ t kết quả . Như vậy khi
chủ và khá ch hiện hữ u trong sá t na hiện tạ i để khở i lên tá c dụ ng hoạ t
thế, sá t na sau đó chú ng biến mấ t, tá c dụ ng này chú ng sẽ tồ n tạ i như thế
nà o để đưa đến sự cả m quả ? Nếu tá c dụ ng này cũ ng biến mấ t theo chủ
và khá ch, cả m quả sẽ xuấ t hiện mà khô ng do liên hệ nhâ n quả nà o cả .
Mộ t hiện hữ u vô nhâ n, hoặ c là nó bấ t thự c hoặ c là thườ ng tạ i. Nó mà
thườ ng tạ i, thì tương quan tá c dụ ng chủ khá ch khô ng cầ n thiết. Trá i lạ i
nếu tá c dụ ng ấy kéo dà i cho đến khi có kết quả , như vậy nó là mộ t hiện
hữ u thườ ng tạ i, bở i vì mộ t hiện hữ u khi khở i lên mà khô ng biến mấ t
ngay, nó sẽ hiện hữ u bấ t diệt, khô ng bao giờ chấ m dứ t. Hiện tượ ng vô
thườ ng khô ng phả i là độ t biến. Nó nố i liền nhiều điểm li ti củ a sá t na
biến diệt liên lỉ. Cả hai trườ ng hợ p ta cũ ng khô ng thể quy định đượ c tá c
dụ ng là hữ u hay phi hữ u, tấ t nhiên nó cũ ng là hiện thự c giả danh.
Coi hiện thự c là giả danh, có nghĩa là phủ định tấ t cả nhữ ng yếu tính
quyết định củ a nó . Nhữ ng điều mà Phậ t giá o gọ i là vọ ng chấ p, mê lầ m,
vớ i thuyết tá nh Khô ng, chú ng chỉ là nhữ ng hiện tượ ng như huyễn, như
mộ ng. Nhậ n thứ c mà ta gọ i là "bằ ng xương bằ ng thịt" đượ c đi theo vớ i
mộ t tên gọ i nà o đó ; khô ng có tên gọ i đố i tượ ng khô ng là gì cả . Đố i tượ ng
đượ c đặ t tên, khô ng phả i là đố i tượ ng trự c quá n củ a châ n trí. Như thế
đố i tượ ng củ a tri giá c khô ng gì khá c hơn là giả tượ ng. Bả n chấ t củ a trí
thứ c đượ c cấ u tạ o đã đượ c bằ ng nhiều giả tượ ng như thế. Chỉ khi nhữ ng
giả tượ ng này bị hủ y diệt, bả n chấ t củ a tri thứ c mớ i trở thà nh châ n trí.
Lú c ấy, sự thể hiện mớ i xuấ t hiện như đố i tượ ng hiện quá n.
Như vậy đặ c tính củ a phủ định là là m biến mấ t hiện thự c đi. Hiện thự c
là hiện thự c, nó như vậy là như vậy, có Phậ t hay khô ng có Phậ t xuấ t thế,
nó vẫ n vậy; nó khô ng cầ n thiết phả i là mộ t đố i tượ ng nà o đó , nó khô ng
cầ n thiết phả i là mộ t đố i tượ ng nà o đó cho tri thứ c mớ i là hiện thự c.
Nhậ n rõ mố i quan hệ giữ a hiện thự c và giả danh, ngườ i ta mớ i thấy ý
nghĩa phủ định củ a thuyết tá nh Khô ng đượ c sá ng tỏ như thế nà o.
Trong tậ p Vigrahavyàvartanì, Long Thụ nó i, ngô n ngữ chỉ phá t biểu về
tính cá ch hiện hữ u củ a sự vậ t. Do đó khô ng phả i khi nó i rằ ng cá i đó có ,
mà bả n chấ t hiện thự c củ a nó vố n Khô ng, tự nhiên trở thà nh Có . Và
ệ ự g ự
ngượ c lạ i, cũ ng khô ng phả i khi nó i rằ ng cá i đó Khô ng, mà giả tỉ là bả n
chấ t hiện thự c vố n Có , tự nhiên trở thà nh Khô ng. Long Thụ tỉ dụ rằ ng,
như trong mộ t că n phò ng kín, có thiên thầ n hay khô ng, điều ấy chưa
biết; nhưng ở ngoà i că n phò ng kín ấy, nếu có ngườ i nó i rằ ng trong ấy có
thiên thầ n, khô ng phả i vì thế mà bỗ ng nhiên trong đó , tỉ giả là khô ng có ,
tự nhiên thiên thầ n xuấ t hiện; hay ngượ c lạ i. Nếu có cuộ c tranh luậ n ở
bên ngoà i xảy ra, dù bên trong có hay khô ng có thiên thầ n, cuộ c tranh
luậ n ấy vẫ n vô cù ng vô tậ n. Kẻ trí trong đá m đó là ngườ i im lặ ng. Dườ ng
có "thấy rõ" là trong đó , trong că n phò ng kín ấy, có hay khô ng có thiên
thầ n, thì khi mà mọ i ngườ i, kể cả ô ng, đều đứ ng ở bên ngoà i, ô ng khô ng
có lý do nà o để chứ ng thự c cho sự "thấy rõ" củ a ô ng, hơn là đem bả n
thâ n, bả n tính, uy thế, v.v. củ a mình để khiến cho ngườ i khá c tin theo,
hay bắ t buộ c họ phả i tin theo.
Vớ i thuyết tá nh Khô ng, vì ta khô ng thể đặ t tên cho hiện thự c, do đó ta
khô ng thể phê phá n về phẩ m tính hiện hữ u củ a nó , là như thế này hay
như thế nọ . Như thế, bả n chấ t hiện hữ u củ a thự c là Khô ng, "vô tự tính",
nghĩa là khô ng có yếu tính quyết định. Đó là chủ nghĩa phủ định trong
tiền đề Khô ng củ a Trung quá n.
Thư Viện Sá ch
www.thuviensach.net